Tải bản đầy đủ (.pdf) (106 trang)

Tìm hiểu di tích đình ngọc chi (xã vĩnh ngọc huyện đông anh TP hà nội)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.69 MB, 106 trang )

Khoá luận tốt nghiệp

1

TRƯơNG ĐạI HọC VĂN HOá H NộI
KHOA BảO TNG
------***------

VƯƠNG THị LIÊN

TìM HIểU DI TíCH ĐìNH NGọC CHI
( XÃ VĩNH NGọC - HUYệN ĐÔNG ANH- TP H NộI)

KHOá LUậN TốT NGHIệP
NGNH BảO TNG

Ngời hớng dẫn: PGS.TS Nguyễn Văn Tiến

H NộI 2010

Khoá bảo tng 26

Vơng Thị Liên


Kho¸ ln tèt nghiƯp

2

Mơc lơc
LỜI MỞ ĐẦU .................................................................................................. 1


1. Lý do chọn đề tài ......................................................................................... 4
2. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu.......................................... 5
3. Mục đích nghiên cứu ................................................................................... 5
4. Phương pháp nghiên cứu............................................................................ 5
5. Bố cục khóa luận ......................................................................................... 6
CHƯƠNG 1...................................................................................................... 7
DIỄN TRÌNH LỊCH SỬ ĐÌNH LÀNG NGỌC CHI ................................... 7
1.1. Tổng quan về vùng đất nơi di tích tồn tại .......................................... 7
1.1.1. Vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên .................................................... 7
1.1.2. Đời sống dân cư .............................................................................. 8
1.1.3. Truyền thống văn hoá, cách mạng ................................................ 10
1.2. Đình làng Ngọc Chi trong diễn trình lịch sử ................................... 13
1.2.1. Vài nét về đình làng Việt Nam ...................................................... 13
1.2.2. Lịch sử hình thành và quá trình tồn tại của đình Ngọc Chi ......... 15
1.2.3. Lịch sử nhân vật được thờ trong đình Ngọc Chi .......................... 17
CHƯƠNG 2.................................................................................................... 23
GIÁ TRỊ KIẾN TRÚC - NGHỆ THUẬT VÀ LỄ HỘI ............................. 23
ĐÌNH NGỌC CHI ......................................................................................... 23
2.1. Giá trị kiến trúc .................................................................................. 23
2.1.1. Không gian cảnh quan .................................................................. 23
2.1.2. Bố cục mặt bằng tổng thể .............................................................. 25
2.1.3. Kết cấu kiến trúc ........................................................................... 26
2.2. Giá trị điêu khắc ................................................................................. 37
2.2.1. Điêu khắc thế kỉ XVII .................................................................... 37
2.2.2. Điêu khắc thế kỉ XIX ..................................................................... 39
2.3. Di vật trong di tích ............................................................................. 40
2.3.1. Di vật gỗ ........................................................................................ 40
2.3.2. Di vật gốm ..................................................................................... 46
2.3.3. Di vật đồng .................................................................................... 48
2.3.4. Di vật vải ...................................................................................... 50

2.3.5. Di vật giấy .................................................................................... 51
2.3.6. Di vật đá ....................................................................................... 51
2.4. Lễ hội đình Ngọc Chi ......................................................................... 52
2.4.1. Thời gian và khơng gian diễn ra lễ hội ......................................... 53
2.4.2. Lễ hội chính của đình Ngọc Chi ................................................... 54
2.4.3. Ý nghĩa lễ hội đình làng Ngọc Chi ................................................ 61
CHƯƠNG 3.................................................................................................... 63
VẤN ĐỀ BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ DI TÍCH ........................ 63
ĐÌNH NGỌC CHI ......................................................................................... 63

Khoá bảo tng 26

Vơng Thị Liên


Kho¸ ln tèt nghiƯp

3

3.1. Thực trạng di tích đình Ngọc Chi ..................................................... 63
3.1.1. Hiện trạng chung cuả một số di tích và nguyên nhân tác động ... 63
3.1.2. Thực trạng của di tích ................................................................... 64
3.2. Một số biện pháp bảo tồn, trùng tu di tích đình Ngọc Chi ............ 72
3.2.1. Một số vấn đề cần quan tâm ......................................................... 72
3.2.2. Các giải pháp bảo quản, bảo tồn, tơn tạo di tích đình Ngọc Chi . 74
3.3. Khai thác và phát huy giá trị di tích lịch sử đình Ngọc Chi .......... 84
KẾT LUẬN .................................................................................................... 87
1. Giá trị lịch sử ............................................................................................. 87
2. Giá trị kiến trúc của di tích ...................................................................... 87
3. Giá trị khoa học ......................................................................................... 87

4. Giá trị thẩm mỹ ......................................................................................... 88
TH MC THAM KHO........................................................................... 89

Khoá bảo tng 26

Vơng Thị Liên


Kho¸ ln tèt nghiƯp

4

LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Dân tộc Việt Nam có một nền Văn hiến rực rỡ, trải qua hàng nghìn năm
lịch sử dựng nước và giữ nước đã để lại cho thế hệ sau nhiều Di sản Văn hố
vơ cùng phong phú, tiêu biểu là những di tích lịch sử văn hố. Đây là niềm tự
hào của Văn hoá Việt Nam là nhân tố nhằm góp phần tạo nên vẻ đẹp, sức
mạnh của tinh thần dân tộc, là động lực giúp cho đất nước phát triển kinh tế xã hội.
Di tích lịch sử văn hố là biểu hiện đặc trưng và văn hố truyền thống
cịn tiềm ẩn ở mỗi làng quê Việt Nam. Ở đó biểu hiện những gì thuộc về
truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Bên cạnh đó mỗi di tích lịch sử, kiến trúc
cũng chứa đựng những tình cảm, tâm huyết của cha ông. Trải qua bao biến
đổi, thăng trầm của lịch sử cùng với những bước đi của dân tộc, di tích cũng
mang trong mình dấu ấn và hơi thở của thời gian. Do vậy mà di tích lịch sử là
một trong những nơi hội tụ bản sắc văn hoá của dân tộc, là nơi nuôi dưỡng
tâm hồn người Việt Nam qua các thế hệ. Tóm lại, di tích lịch sử văn hố là tài
sản vơ cùng q giá cuả mỗi quốc gia và thế giới.
Tuy nhiên, trải qua sự biến đổi, khắc nghiệt của thời gian cùng với
chiến tranh liên tiếp xảy ra ở Việt Nam và với sự thiếu hiểu biết của con

người là những nhân tố phá hoại di tích. Do đó, ngày nay chúng ta phải có
trách nhiệm bảo vệ và giữ gìn phát huy những di sản văn hố q báu ấy. Di
tích lịch sử văn hoá cũng là những minh chứng để phân biệt các quốc gia với
nhau, phân biệt nét văn hoá truyền thống của mỗi dân tộc, đồng thời cũng là
dịp tìm về cội nguồn văn hoá truyền thống của dân tộc.
Đặc biệt trong thời kì hiện nay, với xu hướng hội nhập hoá quốc tế,
thương mại hoá diễn ra ngày càng nhanh chóng thì việc giữ gìn bản sắc văn
hố truyền thống của dân tộc cần được quan tâm hơn lúc nào hết, chúng ta
cần biết bảo vệ phát huy giá trị những di sản văn hố mà cha ơng ta để li cho

Khoá bảo tng 26

Vơng Thị Liên


Kho¸ ln tèt nghiƯp

5

thế hệ sau. Do vậy việc lưu giữ quá khứ tốt đẹp là một trong những cách làm
cho cuộc sống hiện tại và tương lai có ý nghĩa hơn. Đó là con đường hướng
tới tương lai nhưng không quên những giá trị truyền thống, đây cũng là một
trong những đường lối, chính sách của đảng và nhà nước ta đề ra nhằm xây
dựng một nền văn hoá tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc.
Nhận thức được tầm quan trọng về vấn đề này, tôi đã mạnh dạn chọn
đề tài: “ Tìm hiểu di tích Đình Ngọc Chi” làm bài khố luận tốt nghiệp với
mong muốn góp một phần nhỏ vào cơng cuộc bảo vệ di tích lịch sử văn hoá
của dân tộc.
2. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu là đình Ngọc Chi, thơn Ngọc Chi, xã Vĩnh

Ngọc, huyện Đơng Anh, thành phố Hà Nội.
- Phạm vi nghiên cứu: Nghiên cứu khái qt tồn cảnh di tích đình
Ngọc Chi trong khơng gian, thời gian, lịch sử văn hố, xã hội của vùng đất
nơi di tích tồn tại
3. Mục đích nghiên cứu
- Tìm hiểu vùng đất, con người nơi di tích tồn tại làm cơ sở cho việc
nghiên cứu di tích.
- Tìm hiểu quá trình hình thành, tồn tại của di tích đình Ngọc Chi từ khi
khởi dựng cho tới nay.
- Tập trung nghiên cứu đánh giá di tích và di vật cùng lễ hội của đình
Ngọc Chi, làm cơ sở định hướng cho công tác bảo tồn.
- Trên cơ sở khảo sát thực tế, đưa ra một số giải pháp nhằm góp phần
hồn thiện và phát huy tốt nhất giá trị di tích với khả năng của bản thân.
4. Phương pháp nghiên cứu
Để làm khố luận này tơi đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau:
- Phương pháp điền dã
- Phương pháp thống kê, phân tích, tổng hợp tư liu

Khoá bảo tng 26

Vơng Thị Liên


Kho¸ ln tèt nghiƯp

6

- Phương pháp liên ngành sử học, dân tộc học, văn hố học.
5. Bố cục khóa luận
Ngồi phần mở đầu, kết luận, thư mục tham khảo, phụ lục, bài viết của

tôi gồm 3 chương cụ thể sau:
Chương 1: Diễn trình lịch sử đình làng Ngọc Chi
Chương 2: Giá trị kiến trúc - Nghệ thuật và lễ hội đình Ngọc Chi
Chương 3: Vấn đề bảo tồn và phát huy giá trị di tích đình Ngọc Chi
Đây là cơng trình nghiên cứu khoa học của tơi nhằm trả bài tốt nghiệp
khoá 26 khoa Bảo Tàng, trường Đại học Văn hố Hà Nội. Trong q trình
thực hiện đề tài, tơi đã gặp khơng ít những khó khăn về tư liệu viết, trình độ
bản thân cịn hạn chế.....do vậy bài viết sẽ khơng tránh khỏi những thiếu sót,
kính mong các thầy cơ, bạn bè đóng góp ý kiến để người viết hồn thiện luận
văn của mình.
Qua đây, tơi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc tới các thầy cô giáo trong khoa
bảo tồn - bảo tàng, các cô chú trong ban quản lý di tích đình Ngọc Chi và đặc
biệt thầy Nguyễn Văn Tiến đã trực tiếp hướng dẫn tôi trong suốt thời gian làm
khố luận tốt nghiệp để tơi có th hon thnh khoỏ lun ca mỡnh.

Khoá bảo tng 26

Vơng Thị Liên


Kho¸ ln tèt nghiƯp

7

CHƯƠNG 1
DIỄN TRÌNH LỊCH SỬ ĐÌNH LÀNG NGỌC CHI
1.1. Tổng quan về vùng đất nơi di tích tồn tại
1.1.1. Vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên
Đình Ngọc Chi ngày nay nằm ở thơn Ngọc Chi, xã Vĩnh Ngọc, huyện
Đông Anh, thành phố Hà Nội. Xã Vĩnh Ngọc là một trong 24 xã thuộc huyện

Đông Anh, trước cách mạng tháng 8 -1945 xã Vĩnh Ngọc có tên là Xã Chiêm
Trạch, sau cách mạng tháng 8-1945 xã Chiêm Trạch đổi tên là xã Tân Trạch,
năm 1956 đổi thành xã Tân Tiến, vào năm 1961 đổi thành xã Vĩnh Ngọc. Nay
xã Vĩnh Ngọc có bốn thơn gồm: Ngọc Chi, Phương Trạch, Vĩnh Thanh và
Ngọc Giang.
Xã Vĩnh Ngọc phía Bắc giáp với xã Tiên Dương, phía Nam giáp với
Sơng Hồng, phía Tây giáp với xã Hải Bối và phía đông giáp với xã Tàm Xá.
Trên địa bàn xã hiện cịn dấu tích con sơng Thiếp, sơng Hồng cả 2 con sơng
này gắn liền với truyền tích Loa Thành và sự tích của Nồi Hầu thời kì Âu Lạc.
Để tới thăm di tích, khách tham quan có thể đi bằng nhiều con đường
khác nhau. Nếu lấy mốc từ trung tâm thủ đơ Hà Nội - Hồ Gươm ta có thể đi
theo 2 đường, một là qua cầu Chương Dương, qua thị trấn Gia Lâm, đi tiếp
qua cầu Đuống theo đường quốc lộ 3 đến ngã ba đường rẽ về cầu Thăng Long
đi tiếp 1km là tới. Hai là từ Hồ Gươm theo đường đi Cầu Giấy - Mai Dịch đến
ngã ba đường Phạm Văn Đồng qua cầu Thăng Long rẽ về phía đi về thị trấn
Đơng Anh cách đầu cầu Thăng Long khoảng 4km là tới di tích.
Vĩnh Ngọc có địa hình bằng phẳng, cao ráo nên cảnh ngập lụt ít xảy ra.
Do kế hoạch phát triển kinh tế đất nước cùng vời nhu cầu đi lại của người dân
sang thủ đô Hà Nội là lớn do vậy mà cầu Nhật Tân đang được triển khai xây
dựng ở xã Vĩnh Ngọc, có vành đai 5 chạy qua rồi lên thẳng sân bay Nội Bài,
tạo điều kiện giảm tải tắc nghẽn cu Thng Long m rng thờm nhiu hot

Khoá bảo tng 26

Vơng Thị Liên


Kho¸ ln tèt nghiƯp

8


động kinh doanh mới giữa các vùng miền với nhau, góp phần phát triển đời
sống kinh tế của nhân dân.
Xã Vĩnh Ngọc có 4 thơn, 15 xóm chiều dài 4km, rộng 3km, tổng diện
tích là 12km2, trong đó có khoảng 6 km2 là đất canh tác. Với địa hình bằng
phẳng, giáp với Sơng Hồng, đất đai màu mỡ có tuyến đường giao thơng thuận
lợi nối liền với thủ đô bằng hệ thống cầu Nhật Tân hiện đang được khởi cơng
xây dựng giúp cho mảnh đất này có nhịp sống sôi động về kinh tế.
Với đất đai màu mỡ, khí hậu ơn hồ, sơng ngịi nhiều thu hút dân cư ở
mọi nơi về đây sinh cơ lập nghiệp, khai hoang phục hoá làm nên những đồng
ruộng xanh tươi, thơn xóm đơng vui, náo nhiệt.
1.1.2. Đời sống dân cư
Thơn Ngọc Chi thuộc xã Vĩnh Ngọc là một làng cổ với nghề nơng
nghiệp trồng lúa nước đã có từ lâu. Trước và sau Cách mạng tháng 8 - 1945
người dân nơi đây chỉ có trơng chờ vào nghề nơng là chủ yếu. Đặc biệt sau
Cách mạng tháng 8-1945 đời sống nhân dân xã Vĩnh Ngọc gặp rất nhiều khó
khăn, nguyên nhân là do chiến tranh chống Nhật và chống Pháp (cả nước lúc
này có khoảng 2 triệu người chết đói) mất mùa, đói kém...mọi người trong cả
nước phải dồn sức, lương thực cho chiến tranh nên cuộc sống của người dân
cũng thiếu thốn nhiều. Do nằm gần Sông Hồng trước đây thường xảy ra vỡ đê
nên hay bị mất mùa đồng thời với chế độ canh tác lạc hậu, năng suất lao động
không cao khiến cho cuộc sống của người dân gặp nhiều vất vả, long đong.
Hiện nay do việc chuyển đổi cơ cấu kinh tế, người dân xã Vĩnh Ngọc
sinh sống chủ yếu bằng nghề trồng hoa màu, lương thực, chăn nuôi, đi buôn
đồ sắt, trồng đào, quất...Với hơn 90% số hộ gia đình chăn ni, đi bn đồ
sắt, đời sống con người ở đây được thay đổi, khấm khá hơn so với trước. Do
nằm ở phía ngoại thành cách Hà Nội 10km, là cơ sở cho việc buôn bán bằng
chính những sản phẩm chăn ni từ gia súc, gia cm, buụn bỏn st to ra

Khoá bảo tng 26


Vơng Thị Liên


Kho¸ ln tèt nghiƯp

9

khơng ít những việc làm cho người dân, khiến cho tỉ lệ thất nghiệp, đói nghèo
của người dân trong xã giảm hẳn so với trước.
Trong làng hiện nay vẫn còn một số hộ lưu giữ được nghề thủ công
truyền thống như nghề mộc, nghề rèn, nấu rượu...tuy vậy những nghề này
khơng phải là nghề chính của người dân mà nó chỉ dừng lại ở mức độ nghề
phụ, làm thêm lúc nhàn rỗi, hoặc tăng thêm thu nhập cho gia đình.
Do cơ chế đơ thị hố ngày càng tăng, bộ mặt của làng quê Việt Nam
ngày càng thay đổi. Cũng theo xu thế đó trong 10 năm trở lại đây, một loạt hệ
thống khu công nghiệp nằm ở phía Bắc Thăng Long đã và đang tiếp tục được
mở rộng xây dựng. Đây là một trong những khu công nghiệp lớn nhất ở Phía
Bắc, tập trung hơn 50 cơng ty của nước ngồi điển hình là nước Nhật, Hàn
Quốc. Các công ty này chủ yếu sản xuất, lắp ráp các linh kịên điện tử, ôtô, xe
máy, máy ảnh...tạo ra khơng ít việc làm cho người lao động ở Vĩnh Ngọc nói
riêng và lao động ở các tỉnh trong cả nước nói chung, giải quyết tình trạng
thất nghiệp, nâng cao khả năng thu nhập của người dân. Nhiều gia đình trong
xã Vĩnh Ngọc đã thoát khỏi hộ nghèo, mua sắm được các trang thiết bị cần
thiết trong gia đình như tivi, tủ lạnh, máy giặt, máy vi tính, cải thiện đời sống
con người nơi đây một cách đáng kể.
Hệ thống nhà ở đã ngày càng được nâng cấp, xây mới hơn bằng những
ngơi nhà tầng, khép kín bên trong có những trang bị hiện đại thay thế những
ngơi nhà ngói ba gian chật chội hay bị hỏng vào những mùa mưa...
Về Ngọc Chi - Vĩnh Ngọc hôm nay, tuy tốc độ đơ thị hố ngày càng

diễn ra nhanh chóng nhưng vẫn cịn cổng làng, giếng nước, sân đình gắn bó
sâu đậm với chất nông nghiệp của con người Việt Nam. Đến nay đời sống của
nhân dân Ngọc Chi đã khấm khá hơn, với tỉ lệ hơn 50% số hộ gia đình khá
giả, 47% số hộ có kinh tế ổn định chỉ cịn 3% số hộ gia đình cịn khó khăn.
Do nằm gần nhà máy nước nên 80% người dân ở đây có điều kiện dùng nước
sạch trong sinh hoạt hàng ngày, đảm bảo sức khỏe. Trình độ dân chí được

Kho¸ bảo tng 26

Vơng Thị Liên


Kho¸ ln tèt nghiƯp

10

nâng cao, với 99% học sinh tốt nghiệp trung học, phổ thông, nhiều em cũng
học cao đẳng và đại học. Cơng tác y tế, chăm sóc sức khoẻ ban đầu cho nhân
dân được quan tâm đảm bảo cơ sở vật chất và yêu cầu khám chữa bệnh của
người dân được nâng cao...Đó là những điều kiện, sự thuận lợi cho cuộc sống
và con người nơi đây ngày càng được đảm bảo và phát triển trong xu thế kinh
tế hiện nay.
1.1.3. Truyền thống văn hoá, cách mạng
Ngọc Chi là một trong bốn thôn của xã Vĩnh Ngọc được hình thành từ
rất sớm. Trải qua thời gian, sự thăng trầm của lịch sử Vĩnh Ngọc vẫn còn lưu
lại những dấu tích mà cha ơng ta đã để lại đó là những ngơi đình, đền, miếu
là nơi thờ phụng những vị thần, vị thánh những anh hùng dân tộc có công với
đất nước. Cứ mỗi dịp tết đến xuân về, người người thường tới những nơi này
làm lễ với mục đích cầu xin thần linh che chở, bảo vệ gia đình mình một năm
mới bình an, hạnh phúc...Trước Cách mạng tháng tám năm 1945 phong tục

tập quán của nhân dân thơn Ngọc Chi cũng được hình thành từ trong lao động
sản xuất giống như hầu hết các làng quê ở đồng bằng châu thổ Sông Hồng. Ở
Ngọc Chi hiện nay có 13 dịng họ lớn như Lý, Trần, Lê, Nguyễn, Đặng...do
vậy việc thờ cúng tổ tiên, gia tộc trong dòng họ được thực hiện một cách chu
đáo, cẩn thận. Qua mỗi lần giổ tổ cũng là cơ hội giúp cho người trong họ gắn
bó, đồn kết với nhau, lưu giữ phong tục thờ cúng của dòng họ, trao đổi, giúp
đỡ cùng nhau sống tốt và có ích cho xã hội.
Được hình thành từ rất lâu, giống như nhiều vùng quê Việt Nam khác
Vĩnh Ngọc còn lưu giữ được nhiều di tích lịch sử, văn hố nổi tiếng đã được
xếp hạng như Đình Ngọc Chi, miếu Vĩnh Thanh đều thờ vợ chồng Nội Hầu
cùng hai con đã có cơng với đất nước. Ngồi ra cịn có các di tích như ngơi
Đình xóm dưới thơn Phương Trạch, ngơi chùa đầu làng Ngọc Giang trước đây
là cơ sở tiền khởi nghĩa. Thông qua các di tích này, người dân được tự do sinh
hoạt tín ngưỡng tơn giáo của mình, được cầu khấn, xin thn linh phự h cho

Khoá bảo tng 26

Vơng Thị Liên


Kho¸ ln tèt nghiƯp

11

gia đình mình mọi việc được tốt lành. Bên cạnh đó chính quyền xã Vĩnh Ngọc
hồn tồn tơn trọng sự tự do tín ngưỡng này của người dân, tuy nhiên không
được ở mức thái quá gây ra những hành động tiêu cực cho xã hội, để phát huy
và giữ gìn bản sắc truyền thống văn hố của dân tộc. Vì vậy chính quyền xã
cũng đã tạo mọi điều kiện giúp đỡ nhân dân cử người trông nom, bảo quản,
trùng tu, tơn tạo những cơng trình di tích ở trong xã.

Người dân xã Vĩnh Ngọc có truyền thống hiếu học cao, tuy đời sống
vật chất khó khăn nhưng đã có một số người học hành thành đạt đem niềm tự
hào tới vùng đất này. Như ở Vĩnh Thanh có cụ Nguyễn Cơng tự là Phúc
Trọng đậu tiến sĩ và được bổ nhiệm làm tri phủ Thừa Thiên, hiện nay dấu vết
cịn được ghi lại trên bức hồnh phi nhà thờ họ Nguyễn là “Văn cảnh thủ gia
truyền” nghĩa là nhà nông mà đời đời thành đạt. Hay ở Ngọc Chi có cụ Bùi
Cống thi đỗ đạt được bổ nhiệm làm án sát tỉnh Bắc Ninh, đình làng cịn ghi
bút tích của cụ ở câu đối:
“ Song mục Sơn Hà vô triệu uý
Thế tâm thiên địa hữu Dương Vương”
Ở làng Phương Trạch có gia đình tuy nghèo nhưng cả hai cha con học
hành thành đạt đổ thủ khoa. Bố là Hồng Cơng tự Phúc Lâm (nghề Lâm), con
là Hồng Công tự Sỹ Kỳ (nghề Kỳ) mà hiện nay nhà thờ họ hồng vẫn cịn
câu đối ghi:
“ Nhị đại khoa danh trưng thế đức
Bách Niên thi lễ thụ gia phong”
Nghĩa là:
“ Hai đời khoa bảng danh tơn tộc
Trăm năm gìn giữ lễ gia phong”
Do có truyền thống hiếu học từ ngày xưa nên nhân dân xã Vĩnh Ngọc
hiện nay vẫn phát huy tích cực truyền thống đó, việc học hành ln được
người dân quan tâm, chú ý vì vậy mà hiện nay số con em trong xã được đi học

Kho¸ bảo tng 26

Vơng Thị Liên


Kho¸ ln tèt nghiƯp


12

100% bậc tiểu học, trung học và phổ thông, số em đỗ đạt cao đẳng, đại học
cao, có 9 thạc sĩ, 3 tiến sĩ. Tinh thần học tập đó vẫn tiếp tục được các thế hệ
con em trong xã Vĩnh Ngọc tiếp tục phát huy.
Khơng chỉ có truyền thống, tinh thần hiếu học cao mà nhân dân xã
Vĩnh Ngọc cịn có tinh thần u nước nồng nàn, kiên cường bất khuất đấu
tranh chống giặc ngoại xâm. Dưới thời Mạc, ở Phủ Bắc Ninh (nay là xã Vĩnh
Ngọc) có 18 người tham gia vào việc dẹp bọn gian thần, giữ bình an cho đất
nước. Do cơng lao đó mà Mạc Kính Điển phong 18 người đó làm tước quận
công. Triều Mạc suy đồi, mục nát, 18 quận công đó đã đồng tâm chống lại các
chính sách khơng hợp lí do nhà Mạc đưa ra, kết quả là đã bị nhà Mạc truy bức
bắt phải đầu hàng, nhưng 18 người này thà chết chứ không chịu làm tôi tớ cho
kẻ hỗn quân vô đạo.
Theo cuốn Hoan Châu Ký cuối triều Lê (hậu Lê), đất nước phân chia
thành 2 miền. Đàng Trong do chúa Nguyễn đứng đầu, đàng Ngoài do chúa
Trịnh cầm quyền. Ở Bắc sơng Nhị có một đạo qn huyện Đơng Ngàn, có
trên chục người ở Trang Lọc (Mai Lâm), Chiêm Trạch tham gia khởi nghĩa
phò Lê diệt Trịnh giúp nước an dân.
Tinh thần đấu tranh chống giặc ngoại xâm còn được thể hiện ở hai cuộc
kháng chiến chống pháp và chống mỹ. Từ đầu năm 1942 - 1944 ATK (an toàn
khu) được lập ở khu vực Tây Nam của Đông Anh một trong những cơ sở cách
mạng đầu tiên ở làng Ngọc Giang, xã Vĩnh Ngọc. Từ đó ánh sáng cách mạng
của đảng cũng được chiếu dọi đến các làng xã tạo cơ sở cách mạng vững
vàng, là hạt nhân lòng cốt của phong trào quần chúng. Trong cao trào đánh
Pháp đuổi Nhật, dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Đông Dương (nay là
Đảng Cộng sản Việt Nam), xã Chiêm Trạch là một trong những cơ sở cách
mạng cất giấu tài liệu, bảo vệ cán bộ ca ng c an ton t nm 1942 n
1945.


Khoá bảo tng 26

Vơng Thị Liên


Kho¸ ln tèt nghiƯp

13

Tháng 8 năm 1945, Uỷ ban nhân cách mạng lâm thời xã Chiêm Trạch
(nay là Vĩnh Ngọc) do ông Lê Văn Đẩu làm chủ tịch xã đã lãnh đạo nhân dân
đứng lên chống Nhật, cướp chính quyền giải phóng nạn đói lúc bấy giờ.
Với tinh thần đấu tranh chống giặc ngoại xâm trong hai cuộc kháng
chiến chống Mỹ và chống Pháp, nhân dân xã Vĩnh Ngọc đã anh dũng, chiến
đấu kiên cường bất khuất chống giặc với những tấm gương điển hình tiêu biểu
như đồng chí Nguyễn Xuân Lành, Nguyễn Xuân Điều, Lê Văn Lật, Hoàng
Văn Khả, Nguyễn Hữu Đồi...đã chiến đấu dũng cảm vì quê hương đất nước,
góp phần vào cuộc sống tự do, hồ bình cho mọi người.
1.2. Đình làng Ngọc Chi trong diễn trình lịch sử
1.2.1. Vài nét về đình làng Việt Nam
Các di tích được xây dựng từ lâu trong quá khứ để tồn tại và phát triển
dựa vào đơi bàn tay trí óc của người dân lao động. Đặc biệt các di tích thuộc
về tín ngưỡng tơn giáo thì sự chăm chút trong xây dựng của nhân dân là điều
nhận thấy đầu tiên. Việc tơn thờ Thành hồng làng ở các làng xã trong xã hội
cũ là việc tối quan trọng, mà đặc biệt đó là việc của làng xã, chính vì vậy mà
từ những ngơi đình nhỏ, ít được mọi người chú trọng từ trước trải qua thời
gian đã được nhân dân tạo ra một hệ thống kiến trúc, trang trí phù hợp với
chức năng, đặc trưng của các hoạt động tín ngưỡng tơn giáo này.
Đình là ngơi nhà cơng cộng của cộng đồng làng xã Việt Nam. Đây là
nơi thực hiện các chức năng về hành chính tơn giáo và văn hố, bởi đó là nơi

họp bàn các việc làng, là nơi thờ thần có cơng với nhân dân, đất nước cũng là
nơi tổ chức kịch hát, chèo, hay hát đình. Các chức năng này khơng hề tách dời
nhau mà nó hồ quyện, gắn bó với nhau. Có thể coi đình là một tồ thị chính,
nhà văn hố và một nhà thờ của làng xã Việt Nam. Đầu tiên, “đình” theo chữ
Hán cổ là loại kiến trúc công cộng vừa có thể là nơi trú quân tạm thời đồng
thời cũng vừa là nơi nghỉ tạm của vua, quan. Lịch sử phát triển của đình làng
gắn với sự hưng vong của các quốc gia phong kiến từ lúc hưng thịnh tới lỳc

Khoá bảo tng 26

Vơng Thị Liên


Kho¸ ln tèt nghiƯp

14

suy tàn. Vào thời Trần, các kiến trúc xây dựng “đình trạm” tương đối rộng
khắp làm nơi nghỉ chân cho những người qua đường trú nắng, trú mưa...Cũng
có ý kiến cho rằng: Thời kì thái bình thịnh trị này, các Thái Thượng Hoàng và
vua Trần rất quan tâm tới cuộc sống của người dân, do đó các vua, quan
thường hay đi tuần du, vi hành về các địa phương và những lúc đi như vậy
thường mất 2 - 3 ngày nên đình trạm là nơi để đón tiếp nhà vua, cũng là nơi
nghỉ chân dần dần về sau đình làng kèm theo cả chức năng giải quyết cơng
việc hành chính. Những chữ “Thánh thọ vơ cương”, “Hồng đế vạn tuế”,
“Thánh cung vạn tuế” trên các hoành phi ở các ngơi đình có thể là thể hiện
nội dung nói trên, song cũng có thể biểu hiện chế độ quân chủ tập quyền qua
kiến trúc đình làng. Vào các triều đại sau, khi nho học phát triển, nho giáo trở
thành hệ tư tưởng lấn áp các hệ tư tưởng khác như Phật giáo...thì chức năng
đình từ ngơi nhà cơng cộng, đình làng biến đổi thành ngơi nhà đa năng, kèm

theo cả việc thờ phụng các vị thành hoàng làng. Các ngơi đình xuất hiện với
tư cách là cơng trình kiến trúc tơn giáo tín ngưỡng kết hợp với điêu khắc hồn
chỉnh của làng xã. Vì vậy mà kiểu kiến trúc đình làng phát triển ở nhiều làng
quê việt Nam với sự đóng góp to lớn của quần chúng và nhân dân thực sự trở
thành cơng trình đầu tư và sáng tạo tập thể, đó là của quần chúng nhân dân lao
động, họ sáng tạo và xây dựng những ngôi đình thể hiện tâm tư, suy nghĩ về
cuộc sống của chính họ. Do vậy mà kiểu kiến trúc đình làng vơ cùng phong
phú và độc đáo mang tính dân gian khác hẳn với những cơng trình dành cho
vua chúa như dinh thự, lăng tẩm...Các bức điêu khắc, trang trí do những bàn
tay nghệ nhân ở mỗi nơi làm ra có tính độc đáo, lạ mắt và mang đậm tính dân
gian. Quan trọng hơn cả nơi đó là nơi thờ những vị thần bảo trợ, che chở cho
tất cả người trong dân làng, vì vậy đây được xem là nơi tối linh v mi ngi
phi tụn th.

Khoá bảo tng 26

Vơng Thị Liªn


Kho¸ ln tèt nghiƯp

15

1.2.2. Lịch sử hình thành và q trình tồn tại của đình Ngọc Chi
Tìm hiểu sự hình thành và quá trình tồn tại của đình Ngọc Chi nói riêng
và các di tích lịch sử văn hố nói chung là sự trở về với quá khứ dân tộc. Bởi
các di tích là nơi chứa đựng và phản ánh mọi hoạt động xã hội đương thời từ
trong quá khứ tới hiện tại trải qua các giai đoạn lịch sử khác nhau như về mặt
kinh tế, chính trị, văn hố qua đó cho chúng ta biết được sự phát triển hoặc
suy vong của từng triều đại.

Cho tới nay, chưa có tài liệu nào khẳng định và nói tới niên đại khởi
dựng chính xác của đình Ngọc Chi. Nhưng dựa vào những chứng cứ mà tơi
khảo sát được thơng qua tồ đại định đã khẳng định rằng đình được xây dựng
vào cuối thế kỷ XVII đầu thế kỷ XVIII. Với phong cách kiến trúc, điêu khắc
mang đậm màu sắc thời Hậu Lê, trong đó có 12 đầu dư nằm trên các cột cái
với kiểu dáng rồng đao mác chảy ngược và dài thon phía sau, mắt và miệng
mở to, nhìn thẳng. Trên các bức cốn được trang trí ở gian bên tồ đại đình với
đề tài điêu khắc đẹp như hình người cưỡi rồng, người đánh cờ, hình người dắt
ngựa, đơi trai gái chèo thuyền...được tạc rất công phu và tỉ mỉ mà các đề tài
này lại phổ biến ở thế kỉ XVII, XVIII. Trong gian hậu cung còn lưu giữ được
ba ngai thờ đó là Nội Hầu cùng hai con có cơng trong cuộc chiến đấu chống
xâm lược Triệu Đà. Ngai thờ được trang trí 9 bậc, mỗi bậc là kiểu dáng riêng
có hình mặt hổ phù, hình rồng, lưỡng long chầu nguyệt những hoạ tiết trang
trí này mang phong cách thế kỉ 17 (ảnh 19, 20)
Đặc biệt, trong toà đại đình ở các cột gỗ chịu lực cịn có dấu vết các lỗ
mộng mà hiện nay vẫn còn nhận thấy được. Điều này chứng tỏ rằng trước kia
toà đại đình đã từng tồn tại lớp sàn gỗ mà do nhiều ngun nhân khác nhau,
nay lóp sàn gỗ này khơng cịn nữa. Theo giáo sư Hà Văn Tấn thì “Sàn đình là
một kết cấu vốn có của những ngơi đình cổ cịn bảo lưu lại ở đình làng thời
Mạc” (Đình Việt Nam, nhà xuất bản Tp.HCM năm 1998). Như vậy cn c

Khoá bảo tng 26

Vơng Thị Liên


Kho¸ ln tèt nghiƯp

16


vào dấu vết sàn đình đã nêu ở trên chúng tơi cho rằng đình Ngọc Chi phải
được khởi dựng vào thời Hậu Lê thế kỉ XVII đầu thế kỷ XVIII.
Sau này đình Ngọc Chi cịn được trùng tu lớn ở thế kỷ 19 và thế kỷ 20.
Dấu vết trùng tu ở thế kỉ 19 gồm: sửa mái tồ đại đình, làm cửa võng, sửa hậu
cung, sửa hai nhà giải vũ.
Toà tiền tế được xây dựng về sau, lúc đầu tồ nhà này khơng có tường
bao, đến thế kỷ 20 người ta đã trùng tu, tôn tạo và xây bao quanh toàn bộ
bằng hệ thống nguyên vật liệu mới như gạch, xi măng...ở ba phía và có trổ
cửa ra vào. Mục đích lúc này là để phục vụ cho cuộc chiến đấu chống pháp,
mỹ và là nơi tạm trú của các chiến sĩ cách mạng trong chiến tranh nên việc
xây dựng bao quanh toà tiền tế là hoàn tồn cần thiết. Hiện nay trên nóc
thượng lương của tồ tiền tế cịn ghi lại năm xây dựng tồ nhà này là năm
Khải Định thứ I (1916)
Đến giữa thế kỉ 20 người ta đã xây hai nhà giải vũ, tiếp theo xây thêm
một số gian nhà làm trường học cho các cháu mẫu giáo, học sinh tiểu học mà
hiện nay các ngôi nhà này vẫn là nơi trông coi trẻ mẫu giáo. Bịt tường toà hậu
cung làm kho, xây trụ làm cánh cổng sắt vào đình.
Tuy vậy, hiện tại cánh cổng sắt này cũng đã bị hư hỏng nặng do thời
gian và chiến tranh nên không thể tiếp tục sử dụng được nữa. Tới năm 1993
nhân dân xã vĩnh Ngọc đã cho xây mới nghi mơn đình, với ngun vật liệu là
vôi, gạch, đá, những mảng chạm, đề tài trang trí hồn tồn là của thời nay
nhằm tạo cho đình có lối ra vào chính, khang trang, đẹp mắt hơn so với nghi
mơn trước đó, đây cũng là năm đình đón nhận di tích lịch sử văn hố của Bộ
Văn hố - Thơng tin.
Trong suốt thời gian tồn tại, đình Ngọc Chi là một trung tâm văn hố,
hành chính, tín ngưỡng là nơi hội đồng kì mục họp bàn việc làng, việc nước là
nơi sinh hoạt văn hoá của người dân như múa, hát, quay phim, tổ chức các
buổi giao lưu văn hoá văn nghệ giữa các vùng miền với nhau...ng thi ú

Khoá bảo tng 26


Vơng Thị Liên


Kho¸ ln tèt nghiƯp

17

cũng là nơi để mọi người thờ cúng Thành hoàng, nơi diễn ra các lễ hội (với
nghi thức, nghi lễ nhằm tưởng nhớ tới công lao to lớn của các vị thần), qua lễ
hội con người tưởng nhớ, tạ ơn và “đòi hỏi” đối với các vị thánh, thần đồng
thời cũng là nơi vui chơi, giải trí thu nạp năng lượng mới cho tất cả mọi tầng
lớp trong xã hội.
1.2.3. Lịch sử nhân vật được thờ trong đình Ngọc Chi
Đình Ngọc Chi là một ngơi đình bề thế, mang nhiều đặc trưng của kiến
trúc thời Lê Trung Hưng. Đình Ngọc Chi thờ các vị hồng thành thời Thục
An Dương Vương, có liên quan tới di tích Cổ Loa, đến truyền thuyết Mị Châu
- Trọng Thuỷ, càng làm phong phú thêm vùng đất ngoại thành của thủ đô Hà
Nội.
Theo bản thần tích đình Ngọc Chi soạn vào năm 1572 do quan hàn lâm
đông các đại học sĩ Nguyễn Bính soạn thì: Nội Hầu là con ơng Đào Hoằng và
bà Hoàng Thị Trung từ đất Tuyên Quang dời về trang Hương Canh thuộc phủ
Tam Đối, đạo Sơn Tây. Vợ chồng ơng Hoằng tuy nghèo, nhưng vốn là gia
đình tích thiện, giúp người. Một hơm bà Hồng Thị Trung nằm mơ thấy đỏ
đầy nhà, có con rồng vàng uốn mình bị tới gần, rồi biến thành đơi chim cơng.
Bà tỉnh dậy, biết là mình nằm mơ. Bà kể lại chuyện đó với chồng, ơng bà đều
thầm nghĩ có điềm lành đã đến với mình. Từ đó bà Hoằng có thai, đủ 100
ngày sinh được con trai, có khn mặt khơi ngơ, tuấn tú hơn những đứa trẻ
khác. Ơng bà đặt tên cho con mình là Hãn Cơng (Cơng là chữ đệm, nam là
công, nữ là thị).

Ngày tháng trôi qua, Hãn khơn lớn, tìm thầy theo học. Vốn thơng minh,
Hãn học biết rộng, thơng binh pháp, có sức khoẻ nổi tiếng một vùng, dân gian
thường gọi là “Đô”. Năm Hãn công 20 tuổi thì cả cha mẹ đều mất. Hãn Cơng
thờ phụng cha mẹ được 3 năm và được dân làng khen ngợi là người con có
hiếu. Năm Hãn Cơng 25 tuổi, vào thời điểm vua Thục hạ chiếu truyền trong
thần dân thiên hạ chọn người tài giỏi ra giúp nước. Trang Hng Canh ca

Khoá bảo tng 26

Vơng Thị Liên


Kho¸ ln tèt nghiƯp

18

Hãn Cơng ra ứng thi. Trúng tuyển vua Thục phong cho Hãn công chức Nội
Hầu. Thời gian ở kinh thành Cổ Loa, Nội Hầu tỏ ra là một tướng tài giỏi, giúp
vua Thục được nhiều việc lớn. Bởi vậy vua Thục rất tin tưởng Nội Hầu. Một
hôm Nội Hầu về trang Chiêm Trạch, gặp cô gái rất xinh đẹp tên là Ả Nương.
Nàng là con ông Nguyễn Khang và bà Vương Thị Chiêu người làng Ngọc
Chi. Chẳng may vợ chồng ông bà Khang - Chiêu qua đời, Ả Nương phải ở
với người cậu ruột. Từ khi hai người quen biết nhau, Nội Hầu yêu sắc đẹp, Ả
Nương say mê danh tiếng. Mối tình tương hợp, Nội Hầu và Ả Nương chọn
ngày lành tháng tốt tổ chức lễ thành hôn.
Thành vợ thành chồng rồi Nội Hầu lập cung riêng tại trang Chiêm
Trạch. Tuy ở quê vợ, nhưng Nội Hầu được dân làng yêu mến, quý trọng. Bởi
ở nơi quan trường mà về làng không hề kiêu ngạo, bổng lộc được hưởng Nội
Hầu đem chia hết cho người nghèo khổ, mảy may khơng làm việc gì hại cho
người khác. Việc làm phúc giúp người thì Nội Hầu khơng hề tiếc sức mình.

Một hơm Nội Hầu nằm mơ thấy, tại cung điện nguy nga có vị thần nói với
ơng rằng : Nhà ngươi có đầy phúc, trời đã biết đến. Trời cho hai gia đồng đầu
thai vào nhà ngươi làm con, sau này cũng sẽ giúp dân, giúp nước. Vừa nói dứt
lời, bỗng nghe thấy ba tiếng trống đồng rót vào tai, Nội Hầu tỉnh dậy biết là
mình nằm mơ. Nội Hầu đem chuyện đó kể lại với Ả Nương và họ đều mừng
là điềm lành. Từ đó Ả Nương có thai và sinh ra được hai người con, vẻ mặt
khơi ngơ, tuấn tú và giống nhau như đúc. Ơng bà đã đặt tên cho con mình là
Đống Cơng và Vực Công.
Ngày tháng trôi qua, Đống và Vực ngày càng khôn lớn, Nội Hầu đã cho
con theo học thầy Tĩnh Hiền là tiên sinh giỏi tại kinh thành Cổ Loa. Vốn là
người thông minh lại ham học, chẳng bao lâu Đống và Vực đã thuộc kinh
thiên vạn quyển, võ lược kiêm toàn, danh tiếng lừng lẫy. Đống và Vực là
người tài giỏi, được vua cha Thục trọng dụng và phong cho Đống là Vinh Lộc
đại phu, phong cho Vực là Ly vực đại phu. Cả ba cha con đồng triều. Nh vua

Khoá bảo tng 26

Vơng Thị Liên


Kho¸ ln tèt nghiƯp

19

u mến đã phong thực lập ấp cho Tam công ở trang Chiêm Trạch (gồm Vĩnh
Thanh và Ngọc Chi)
Trước hoạ xâm lăng của Triệu Đà, Tam công đều tình nguyện xin đi
đánh giặc. Nội Hầu xin vua Thục cho phép được tuyển một số trai tráng khoẻ
mạnh ở trang Chiêm Trạch làm thân binh (tức gia thần) gồm có:
- Họ Nguyễn chọn 6 người

- Họ Hồng chọn 4 người
- Họ Dương chọn 4 người
- Họ Hà chọn 5 người
- Họ Bùi chọn 5 người
- Họ Đinh chọn 3 người
- Họ Đoàn chọn 3 người
- Họ Lý chọn 2 người
- Họ Trần chọn 2 người
- Họ Trương chọn 2 người
- Họ Đặng chọn 2 người
- Họ Đỗ chọn 2 người
- Họ Lê chọn 2 người
Sau khi chọn được 42 người trong 13 họ, Tam công về triều bái tạ và
xin Vua Thục An Dương Vương cho xuất binh đánh quân Triệu Đà. Vua
Thục đã trao cả hàng vạn tinh binh được trang bị cung, nỏ khoẻ, mũi tên
đồng, dưới sự chỉ huy của Tam công
Theo sử chép, vào năm 209 trước công nguyên Nhâm Ngạc Triều Đà
đem quân bao vây thành Cổ Loa, An Dương Vương dựa vào quân sĩ có mũi
tên đồng, có thành cao, hào sâu đã đánh đuổi được Triệu Đà xâm lược.
Lại vào năm 184 trước công nguyên, Triệu Đà lại đem quân thuỷ bộ
sang xâm lược nước Âu Lạc, không đợi giặc đến kinh thành Cổ Loa, An
Dương Vương đã phái tướng sĩ ỏnh ch vn cũn i trờn ng. Mt trong

Khoá bảo tng 26

Vơng Thị Liên


Kho¸ ln tèt nghiƯp


20

tướng giỏi của An Dương Vương là Nội Hầu, hàng vạn tướng sĩ của Âu Lạc
dưới sự chỉ huy của Tam Cơng tiến về phía Tiên Du nơi đóng quân của địch.
Quân sĩ của Âu Lạc được trang bị cung, nỏ tốt, mũi tên đồng sắc lại được tẩm
thuốc độc, trúng tên giặc nào, tên ấy chết ngay khoảnh khắc. Chỉ vài lần giao
chiến, quân Triệu Đà thua to nên đã phải buộc rút quân cố thủ. Triệu Đà nhận
biết ra điều là không thể dùng thuần tuý quân sự được do vậy đã nản việc
chiếm Loa Thành. Triệu Đà sai sứ đến kinh thành Cổ Loa xin cầu hoà An
Dương vương và được chấp nhận.
Từ sự kiện xin cầu hoà, Triệu Đà đã cho con trai mình là Trọng Thuỷ
tới Cổ Loa làm con tin. Bề ngồi y nói là thơng hiểu, bề trong y tìm kế để
thực hiện được ý đồ của vua cha. Trọng Thuỷ lại xin cầu hôn với con gái là
An Dương Vương là Mị Châu và xin ở rể nước Âu Lạc, những sự kiện đó
nhiều trung thần khẳng khái can ngăn việc An Dương Vương không nên gả
Mị Châu cho Trọng Thuỷ.
Tướng Nội Hầu, Đống, Vực cũng tâu với An Dương Vương: “Lịng
người khó dị biết, khơng nên nhẹ dạ cả tin. Triệu Đà mượn cớ cầu hơn cốt dị
xét nội tình nước ta, học cho được bí quyết chế tạo cung nỏ để chờ cơ hội
cướp nước ta thôi”
An Dương Vương không nghe lời can ngăn của các trung thần. Cuối
cùng tướng Nội Hầu vô cùng buồn bã, cáo bệnh không tới các buổi chầu. Hai
con ông là Đống, Vực cũng treo án từ quan lui về ở trang Chiêm Trạch nơi
quê vợ Nội Hầu, quê mẹ của Đống cơng và Vực cơng.
Từ đó triều đình Âu Lạc sa sút, tướng sĩ chán nản, Vua thì bảo thủ mất
cảnh giác, các trung thần bị nhà vua đối xử bạc bẽo, không ai can ngăn vua
làm điều sai trái. Nhân cơ hội đó, Trọng Thuỷ ở rể 3 năm trong kinh thành Cổ
Loa, lợi dụng lòng tin của vua cha và Mị Châu y đã biết được bí quyết chế tạo
tên, nỏ, biết được nội tình nước Âu Lạc. Vào một hơm nào đó, năm 180 trước
cơng ngun Trọng Thuỷ đã lừa Mị Châu về thăm Triệu Đà. Vào năm sau


Khoá bảo tng 26

Vơng Thị Liên


Kho¸ ln tèt nghiƯp

21

(179 trước cơng ngun) Triệu Đà lại cử con là Trọng Thuỷ đem quân sang
đánh chiếm thành Cổ Loa. Do chủ quan, khinh địch vì mình có nỏ thần nên
An Dương Vương đã bị quân Triệu Đà đánh bại, thất thế phải mang theo Mị
Châu bỏ kinh đô mà chạy. Cuối cùng cả hai cha con An Dương Vương đều tự
vẫn chết.
Chiếm được Loa Thành, Triệu Đà lên làm vua để ổn định lòng dân
nước Âu Lạc, Triệu Đà cho sứ tới Chiêm Trạch mời Tam công ra làm quan
với nhà Triệu. Nội Hầu chỉ vào mặt sứ mắng rằng “ Triệu Đà là sát phu, bất
nghĩa, vong ơn bội phần. Ta hận là chưa chém được đầu Triệu Đà để báo đền
nghĩa lớn, mặt mũi nào mà ta lại làm bề tôi cho quân xâm lược”.
Sứ về tâu lại với Triệu Đà, y đã đưa quân tới bao vây trang Chiêm
Trạch để bắt Tam công. Tam công đã cùng với các gia thần ở trang Chiêm
Trạch chống lại quân xâm lược Triệu Đà. Cuối cùng ba cha con Tam công
đều hy sinh anh dũng tại quê Chiêm Trạch. Nhớ cơng ơn của Tam cơng vì
nghĩa lớn đối với đất nước và thực ấp của Tam công để lại cho dân làng. Bởi
vậy dân làng Ngọc Chi đã lập đền thờ và suy tôn Tam công làm Thành hồng,
thờ ở các đình làng Ngọc Chi. Nhiều triều đại phong kiến sau đã phong sắc và
truy tặng mỹ tự cho Tam công.
Triều vua Lê Trang Tông gia phong mỹ tự cho Tam công:
a, Nội Hầu là: Linh Thông Phổ Hoá Minh Mẫn Đại Vương

b, Đống là: Phổ Trị An Dân Đại Vương
c, Vực là: Bảo Đại Đinh Công Đại Vương
Cùng với nhiều sắc phong thần tự của triều Lê, Nguyễn. Các triều vua
đều cho phép đình Ngọc Chi được thờ phụng thánh. Dân trong vùng có tục
cấm dùng các chữ huý: Hầu, Ả, Đống, Vực, cấm dùng sắc phục đỏ và vàng.
Lễ hội hàng năm được tổ chức vào ngày mồng 4 tháng giêng là ngày hoá của
Nội Hầu và Ả Nương, ngày mồng 6 tháng riêng là ngày hoá của Đống và
Vực. Hàng năm dân làng và chính quyền xã Vĩnh Ngọc đều tổ chức lễ hội

Khoá bảo tng 26

Vơng Thị Liên


Kho¸ ln tèt nghiƯp

22

tưởng nhớ tới cơng lao tới ba đức Tam công, đây cũng dịp để nhân dân bày tỏ
tấm lịng của mình tới các vị thành hồng làng.

Kho¸ bảo tng 26

Vơng Thị Liên


23

Kho¸ ln tèt nghiƯp


CHƯƠNG 2
GIÁ TRỊ KIẾN TRÚC - NGHỆ THUẬT VÀ LỄ HỘI
ĐÌNH NGỌC CHI
2.1. Giá trị kiến trúc
2.1.1. Không gian cảnh quan
Từ ngày xưa cho tới bây giờ, người dân Việt Nam ln dành những
tình cảm lớn lao, thân thương cho ngơi đình của mình. Tình cảm đó được họ
thể hiện trong việc bỏ tiền của ra xây dựng những ngơi đình làng mà khơng hề
câu lệ, đắn đo. Do vậy những ngơi đình làng cũng ln hiện diện ở hầu khắp
các tỉnh thành thuộc đồng bằng sông Hồng.
Việc xây dựng đình ln được người dân quan tâm chú ý và đặc biệt
việc chọn thế đất xây đình cũng cực kì quan trọng. Ngày trước nhiều người
quan niệm rằng đình là trung tâm của làng do vậy đình luôn phải được xây
dựng ở giữa làng. Tuy nhiên, sự thật khơng phải là như vậy mà việc xây dựng
đình phụ thuộc vào thế đất ra sao, theo hướng nào là tốt và quan niệm phong
thuỷ được du nhập từ tín ngưỡng Trung Quốc mới quyết định việc chọn
hướng xây đình, chẳng thế mà dân gian có câu:
“ Tt mắt là tại hướng đình
Cả làng toét mắt riêng mình em đâu”
Do vậy việc chọn thế đất, hướng đình phải rất cẩn thận, có vị trí đẹp
trong làng. Đình cũng khơng nhất thiết phải xây dựng trên gò đất cao nhưng
hai bên đình thường phải có thế đất cao để làm “Tay ngai”, mặt trước đình
phải có nước, mặt hồ, sơng hoặc ao...Những yếu tố này giúp cho đình có thế
đất hội tụ những khí thiêng, tụ linh, tụ phúc và hội tụ tất cả những điều tốt
đẹp, may mắn.
Đình Ngọc Chi được toạ lạc trên khu đất cao ráo, bằng phẳng rộng
khoảng 1000m2, có tường kín bao bọc. Phía trước cửa đình là một hồ rộng
lớn, tiếp đến nhìn thẳng lên là kho của xã Vĩnh Ngọc và nhà trẻ mu giỏo bờn

Khoá bảo tng 26


Vơng Thị Liên


Kho¸ ln tèt nghiƯp

24

cạnh mới được xây dựng năm 2005 gồm 3 tầng có cơ sở vật chất tốt, có
khoảng sân rộng 200m2 đặt nhiều trò chơi giúp cho các bé được vui chơi, đùa
nghịch cùng nhau. Hồ trước đình có hình chữ nhật với diện tích 800m2 , bốn
mặt hồ đều xây tường gạch bao quanh ngăn cách với con đường làng, nhà
mẫu giáo và nhà kho của xã. Hồ nước trước đình được coi là yếu tố tụ linh tụ
phúc, có từ ngày xưa và hiện nay cũng đang được uỷ ban nhân dân xã Vĩnh
Ngọc quản lý và khai thác nuôi cá, nhằm tăng thêm doanh thu về mặt chăn
ni của xã mình. Bên phải và bên trái đình là khu dân cư đơng đúc đang tập
trung sinh sống, với những ngôi nhà tầng bề thế và khang trang. Bên trái đình
giáp với đường làng một hướng chạy thẳng ra đê nơi có dân cư sinh sống giáp
ngay cạnh con sông Hồng, một hướng chạy vào trung tâm của huyện Đơng
Anh, con đường làng giáp với đình ấy cũng là nơi người dân họp chợ cóc
bn bán nhiều mặt hàng vừa phục vụ nhu cầu sinh hoạt người dân, đồng thời
chợ cóc này cũng nằm gần nhà trẻ mẫu giáo, trường cấp hai xã Vĩnh Ngọc
nên nhu cầu mua là lớn vì vậy chợ cũng được họp từ sáng cho tới chiều tối,
tạo ra sự sầm uất, đơng vui trong cuộc sống của người dân. Sau đình là một
sân bóng rộng khoảng 300m2 hình chữ nhật, sân bóng này đa chức năng có
thể đá bóng, chơi cầu lơng, bóng chuyền...và cũng là nơi người dân hoạt động
thể thao sau mỗi ngày làm việc vất vả, căng thẳng muốn được thư giãn nghỉ
ngơi. Mặt sân bóng bằng với mặt đường làng và không lát gạch mà bằng đất
phẳng giúp cho việc vận động, đánh bóng thoải mái hơn. Đình Ngọc Chi được
dựng theo hướng Tây Nam, giống như người xưa có câu: “Lấy vợ hiền hồ,

làm nhà hướng Nam”, đó là hướng của thần thánh của ước vọng, sinh sơi và
phát triển.
Cũng giống như các di tích khác, đình Ngọc Chi có nhiều cây cổ thụ
tạo ra nét riêng có của ngơi đình mình. Hiện nay ở đình có 2 cây cổ thụ lớn
được trồng sau nghi mơn, cây xồi nằm bên trái góc đình và cây đa cao lớn,
có niên đại khoảng 30 năm nằm giáp bên phi nh tr mu giỏo, cũn phớa

Khoá bảo tng 26

Vơng Thị Liên


Kho¸ ln tèt nghiƯp

25

trước nghi mơn là cây đa nhiều tuổi ngả tồn thân về phía hồ tạo ra cảm giác
rất nên thơ, trữ tình. Trước hai nhà tả, hữu vu và tiền tế là một loạt hệ thống
cây cảnh được nhân dân và du khách thập phương biếu tặng đình như cây
tùng, trúc, hoa lan, xi, vạn tuế...mỗi cây là mỗi dáng vẻ, thế đứng khác nhau
tô điểm sự sinh động, đẹp đẽ bằng những bông hoa, cành lá cho ngơi đình
làng vào các mùa khác nhau trong năm.
Dọc con đường làng được đổ bê tông chắc chắn, ta dễ dàng nhận thấy
đình làng Ngọc Chi nằm ở vị trí trung tâm, gần với uỷ ban nhân dân xã,
trường học mẫu giáo, cấp 1, cấp 2, trạm y tế xã thuận tiện cho du khách có
điều kiện tìm hiểu, thăm quan ngơi đình.
2.1.2. Bố cục mặt bằng tổng thể
Đình Ngọc Chi đã được Bộ Văn hố - Thơng tin (nay là Bộ Văn hoá
thể thao và du lịch) xếp hạng di tích lịch sử - văn hố năm 1993. Trải qua
nhiều thăng trầm của lịch sử, với nhiều nguyên nhân khác nhau đình Ngọc

Chi đã bị thu hẹp lại, nay chỉ cịn diện tích 1000m2 . Nhìn chung giới hạn di
tích đình Ngọc Chi xấp xỉ như những ngơi đình trung bình của người Việt ở
Bắc Bộ. Tuy vậy về cơ bản đình Ngọc Chi vẫn lưu giữ được nhiều hạng mục,
các đơn nguyên kiến trúc trong tổng thể cơng trình di tích thờ thần, thánh nói
chung.
Giống như bất kì một kiến trúc tơn giáo truyền thống nào, đình Ngọc
Chi cũng được xây dựng bằng những chất liệu bền vững như gạch, gỗ,
ngói...đình là một cơng trình tổng thể bao gồm nhiều các hạng mục cơng trình
khác nhau. Mà bố cục tổng thể là vị trí của các đơn nguyên kiến trúc trên
cùng một mặt bằng đó. Tuy nhiên khơng phải tất cả các hạng mục cơng trình
trong tổng thể di tích đều có niên đại giống nhau, có những hạng mục được
xây dựng trước, có những hạng mục xây dựng sau tuỳ thuộc vào điều kiện cụ
thể của lịch sử, để xác định nó thuộc niên đại nào. Cũng như các hạng mục
sau khơng phải có lối kiến trúc, điêu khắc phức tạp, cầu kì hơn các hạng mc

Khoá bảo tng 26

Vơng Thị Liên


×