Tải bản đầy đủ (.pdf) (147 trang)

Tìm hiểu di tích đình tri chỉ (thôn tri chỉ, xã tri trung, huyện phú xuyên, thành phố hà nội)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.21 MB, 147 trang )

1

TRƯỜNG ĐẠI HỌC VĂN HÓA HÀ NỘI

KHOA DI SẢN VĂN HĨA

BẠCH THỊ DUNG

TÌM HIỂU DI TÍCH ĐÌNH LÀNG TRI CHỈ
(XÃ TRI TRUNG, HUYỆN PHÚ XUYÊN, THÀNH PHỐ HÀ NỘI)

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
NGÀNH BẢO TÀNG HỌC

HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. NGUYỄN SĨ TOẢN

HÀ NỘI - 2014


2

MỤC LỤC
Trang
MỤC LỤC

1

LỜI CẢM ƠN

3


DANH MỤC BẢNG CHỮ VIẾT TẮT

4

MỞ ĐẦU

5

Chương 1. LÀNG TRI CHỈ VÀ DI TÍCH ĐÌNH LÀNG TRI

10

CHỈ
1.1. TỔNG QUAN VỀ LÀNG TRI CHỈ

10

1.1.1. Vị trí địa lý và đặc điểm tự nhiên

10

1.1.2. Lịch sử hình thành, quá trình tồn tại và phát triển làng Tri Chỉ

12

1.1.3. Đặc điểm cư dân

14

1.1.4. Đặc điểm kinh tế


15

1.1.5. Đặc điểm về văn hóa - xã hội.

18

1.2. LỊCH SỬ HÌNH THÀNH, Q TRÌNH TỒN TẠI CỦA DI TÍCH

31

ĐÌNH LÀNG TRI CHỈ VÀ NHÂN VẬT ĐƯỢC PHỤNG THỜ

1.2.1. Lịch sử hình thành, q trình tồn tại phát triển của di tích đình

31

làng Tri Chỉ
1.2.2. Nhân vật được phụng thờ trong đình làng Tri Chỉ

33

1.2.3. Đình làng Tri Chỉ trong hệ thống các di tích đình làng cuối thế

35

kỷ XVII - nửa đầu thế kỷ XVIII
Chương 2. GIÁ TRỊ KIẾN TRÚC, NGHỆ THUẬT VÀ LỄ HỘI

38


DI TÍCH ĐÌNH LÀNG TRI CHỈ
2.1. GIÁ TRỊ KIẾN TRÚC, NGHỆ THUẬT

38

2.1.1. Giá trị kiến trúc
2.1.2. Giá trị trang trí nghệ thuật trên kiến trúc

54

2.1.3. Các di vật tiêu biểu

63


3

2.2. GIÁ TRỊ LỄ HỘI

69

2.2.1. Thời gian và lịch lễ hội

71

2.2.2. Quy mô, không gian của lễ hội

72


2.2.3. Công việc chuẩn bị cho lễ hội

72

2.2.4. Diễn trình lễ hội

76

2.2.5. Các trò chơi dân gian trong lễ hội

79

Chương 3. BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ DI TÍCH

82

ĐÌNH LÀNG TRI CHỈ TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
3.1. THỰC TRẠNG DI TÍCH VÀ LỄ HỘI

82

3.1.1. Thực trạng di tích

82

3.1.2. Thực trạng lễ hội

84

3.2. GIẢI PHÁP BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY


87

3.2.1. Giải pháp bảo tồn và phát huy giá trị di tích

87

3.2.2. Giải pháp bảo tồn và phát huy giá trị lễ hội

98

3.3. GIÁ TRỊ CỦA DI TÍCH VÀ VAI TRỊ LỄ HỘI TRONG ĐỜI

104

SỐNG CỘNG ĐỒNG CƯ DÂN TRI CHỈ

3.3.1. Giá trị của di tích đình làng

104

3.3.1. Vai trị của lễ hội đình làng

105

KẾT LUẬN

108

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


110

PHỤ LỤC

112


4

LỜI CẢM ƠN
Sau một thời gian nghiên cứu và làm việc, nhận được sự giúp đỡ, chỉ
bảo tận tình của các thầy cơ giáo trong khoa Di sản văn hóa, em đã hồn thiện
bài khóa luận này.
Lời đầu tiên, em xin gửi lời cảm ơn tới Ban chủ nhiệm khoa Di sản Văn
hóa và đặc biệtlà PGS.TS Nguyễn Sỹ Toản, người đã trực tiếp hướng dẫn
khoa học và chỉ bảo cho em những vấn đề trọng tâm của đề tài ngay từ khi
xác định tên đề tài, xây dựng đề cương tới lúc hồn thiện bài khố luận.
Qua đây, em xin chân thành cảm ơnsự giúp đỡ của chính quyền địa
phương, Ban quản lý di tích đình Tri Chỉ đã tạo điều kiện, giúp đỡ em trong
quá trình khảo sát, tiếp cận nghiên cứu di tích.
Xin chân thành cảm ơn gia đình, bạn bè đã động viên, giúp đỡ em hồn
thiện bài khóa luận này.
Bài khóa luận này chủ yếu là kết quả khảo sát thực tế tại cơ sở với sự
giúp đỡ của giảng viên hướng dẫn và các cộng tác viên tận tình giúp đỡ. Là
một sinh viên năm thứ tư, kiến thức còn hạn chế, thời gian nghiên cứu hạn
hẹp do vậy khố luậnkhó tránh khỏi những thiếu sót. Em kính mong nhận
được sự giúp đỡ, góp ý của các thầy cô giáo và bạn bè cho bài khố luận được
hồn chỉnh hơn.
Em xin trân trọng cảm ơn!

Hà Nội, ngày 31 tháng 5 năm 2014
Tác giả khóa luận

Bạch Thị Dung


5

DANH MỤC BẢNG CHỮ VIẾT TẮT

CHỮ VIẾT TẮT CHỮ VIẾT ĐẦY ĐỦ
(â.l): Âm lịch
BQL DT & DT: Ban quản lý Di tích và Danh thắng
CTQG: Chính trị Quốc gia
ĐH VHHN: Đại học Văn hóa Hà Nội
HTX: Hợp tác xã
Nxb: Nhà xuất bản
UBND: Ủy ban Nhân dân
VHTT: Văn hóa Thơng tin
VHTT & DL: Văn hóa Thể thao và Du lịch


6

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong khoản 3, điều 4 của Luật Di sản văn hóa năm 2001 nêu rõ: “Di
tích lịch sử văn hóa là cơng trình xây dựng địa điểm và các di vật, cổ vật, bảo
vật quốc gia thuộc cơng trình, địa điểm có giá trị lịch sử văn hóa, khoa
học”[22, tr.13].Là nơi ghi dấu những công sức, tài nghệ sáng tạo của cá nhân,

tập thể trong lịch sử. Nhiều di tích lịch sử văn hóa có giá trị đặc biệtkhơng chỉ
của một địa phương, một dân tộc mà còn là tài sản của cả nhân loại.Di tích
lịch sử được xem là những bằng chứng xác thực nhất, cụ thể nhất về lịch sử
và bản sắc văn hóa dân tộc.Trướcsự đổi mới của đất nước địi hỏi cần phải
giải quyết nhiệm vụ trọng đại cấp bách, trong đó có vấn đề “bảo tồn, gìn giữ
di tích lịch sử văn hóa”.
Đình làng là một trong những loại di tích lịch sử văn hóa thuộc loại
hình kiến trúc tơn giáo, tín ngưỡng. Đó là ngơi nhà chung của cư dân mỗi làng
xã người Việt, là một trung tâm tín ngưỡng, hoạt động văn hố, nhiều giá trị
đặc sắc ẩn chứa ở bên trong mà chúng ta cần đi sâu vào tìm hiểu và nghiên
cứu. Từ đó góp phần bảo tồn, gìn giữ và phát huy nét đẹp văn hóa trong đời
sống tâm linh của con người.
Theo kết quả điều tra hệ thống di tích lịch sử văn hóa của huyện Phú
Xuyên cho biết: Đình làng Tri Chỉ, xã Tri Trung, huyện Phú Xuyên là một
trong các di tích có niên đại sớm nhất trong huyện. Di tích có niên đại xây
dựng thời Lê Trung Hưng thế kỷ XVII - XVIII, được gìn giữ khá nguyên vẹn
giá trị nghệ thuật. Đình Tri Chỉ với gần 400 năm tồn tại, sự cổ kính của ngơi
đình đã mang trên mình những giá trị lịch sử, văn hóa, nghệ thuật… Di tích
có sự liên kết chặt chẽ giữa các bộ phận kiến trúc, trang trí cùng với cảnh
quan thiên nhiên đã tơn thêm vẻ đẹp cho một cơng trình ở một vùng đất vốn
có một số sự kiện lịch sử tiêu biểu. Điều đó, đã bồi đắp cho di tích trở thành


7

một trong những di sản vật thể tiêu biểu của huyện Phú Xuyên và cũng là
niềm tự hào của người dân Tri Chỉ.
Đình làng Tri Chỉ là một cơng trình kiến trúc tín ngưỡng tiêu biểu,
được xây dựng ở vị trí đẹp, nơi có cư dân sinh sống đơng đúc đã sản sinh ra
các giá trị văn hóa tiêu biểu của địa phương.Đình Tri Chỉ cịn chứa đựng

những giá trị văn hóa vật thể và phi vật thể.Ngơi đình có kiến trúc nghệ thuật
đặc sắc, cùng vớicác mảng chạm khắc, hệ thống di vật, cổ vật có giá trị tiêu
biểu mang dấu ấn của thế kỷ XVII - XVIII.
Với giá trị đó mà đình làng Tri Chỉlà đối tượng được nhiềungười quan
tâm nghiên cứu ở nhiều phương diện khác nhau.Để làm rõ các giá trị tiêu biểu
này, đồng thời góp phần bảo tồn và phát huy giá trị của hệ thống di sản văn
hóa của huyện Phú Xuyên, thành phố Hà Nội, nêntác giả khóa luận đã quyết
định chọn đề tài “Tìm hiểu di tíchĐình Tri Chỉ (Thơn Tri Chỉ, xã Tri Trung,
huyện Phú Xuyên, Thành phố Hà Nội” làm bài tốt nghiệp Đại học, ngành
Bảo tàng, khóa học 2010 - 2014.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu
Những tập hợp và thống kê bước đầu về các cơng trình nghiên cứu của
những tác giả đi trước viết về giá trị di tích đình làng Tri Chỉ cho biết như
sau:
- Cuốn “Di tích Hà Tây” [12. tr.390 - 391] do Sở Văn hóa - Thơng tin
Hà Tây (cũ) chủ biên, trong cuốn sách đã viết về hệ thống di tích huyện Phú
Xuyên từ trang 390 đến trang 391, trong đó cuốn sách có dành 02 trang để
giới thiệu khái quát về di tích đình làng Tri Chỉ về các mặt: Niên đại, nhân vật
phụng thờ, đặc điểm kiến trúc, những nét tiêu biểu về lễ hội. Xác định rằng:
Đây là một trong những di tích độc đáo của tỉnh Hà Tây (cũ).
Với giá trị to lớn về nhiều mặt, đình làng Tri Chỉ đã mang trong mình
những thơng điệp mà các thế hệ cha ông của cộng đồng cư dân nơi đây muốn
trao truyền cho đời sau. Đó là những sản phẩm vật chất và tinh thần được đúc


8

kết và tồn tại trong không gian làng xã để các thế hệ con cháu ở làng Tri Chỉ
kế thừa và phát huy.
- Cuốn “Hồ sơ khoa học di tích đình làng Tri Chỉ” [18, tr.8] do Ban

quản lý Di tích và danh thắng tỉnh Hà Tây thực hiện. Trong hồ sơ khoa học đã
giới thiệu về giá trị của ngơi đình như: Đặc trưng kiến trúc; di vật và xác định
niên đại. Ngày 21 tháng 12 năm 1985, Bộ Văn hóa Thơng tin đã xếp hạng
đình Tri Chỉ là Di tích lịch sử văn hóa cấp Quốc Gia.
- Cuốn “Thống kê lễ hội Việt Nam” [25, tr.396], tập 1 do Bộ VH, TT &
DL - Cục Văn hóa Thơng tin cơ sở xuất bản năm 2008, khi thống kê danh
mục các lễ hội của huyện Phú Xuyên có mục thống kê về lễ hội đình làng Tri
Chỉ tại trang 396 với các thông tin ngắn gọn như: Tên lễ hội; loại lễ hội; thời
gian tổ chức; địa điểm tổ chức; nhân vật phụng thờ; lễ vật dâng cúng; trò chơi
trò diễn; cấp xếp hạng.
- Cuốn “Lịch sử Đảng bộ xã Tri Trung từ năm 1945 đến năm 2000”
[14, tr.12]. Do huyện ủy Phú Xuyên Ban chấp hành Đảng bộ xã Tri Trung
xuất bản năm 2004. Tại trang 12 có viết về niên đại khởi dựng của di tích
đình Tri Chỉ được xây dựng từ thời Hậu Lê, và được Bộ Văn hóa và Thơng
tin đã xếp hạng đình Tri Chỉ là Di tích lịch sử văn hóa cấp Quốc Gia năm
1985, và năm 1990 tổ chức đón bằng văn hóa.
Nhìn chung, cho đến nay tuy đình làng Tri Chỉ đã được các tác giả đi
trước đề cập đến trong những cơng trình nghiên cứu nhưng trên nhiều phương
diện khác nhau. Vì vậy, việc lựa chọn nghiên cứu sâu hơn, tồn diện hơn về
giá trị di tích đình làng Tri Chỉ là vấn đề cấp thiết đặt ra, nhằm góp phần bảo
tồn và phát huy di sản văn hóa của địa phương trong thời đại mới.
3. Đối tượng và phạmvi nghiên cứu
3.1.Đối tượng nghiên cứu:Đối tượng nghiên cứu chính củakhóa luậnlà
giá trị kiến trúc, nghệ thuật và lễ hội của ngơi đình Tri Chỉ (thơn Tri Chỉ, xã
Tri Trung, Huyện Phú Xuyên, TP. Hà Nội).


9

3.2. Phạm vinghiên cứu

3.2.1. Phạm vi không gian nghiên cứu: Nghiên cứu khơng gian văn
hóa của làng Tri Chỉ, xã Tri Trung, huyện Phú Xuyên - Nơi tồn tại của ngơi
đình làng.
3.2.2. Phạm vi thời gian nghiên cứu:
- Đối với các giá trị văn hoá vật thể, nghiên cứu lịch sử hình thành, quá
tình tồn tại cùng các giá trị kiến trúc, nghệ thuật của đình làng Tri Chỉ được
khởi dựng cho tới nay.
- Đối với các giá trị văn hoá phi vật thể, nghiên cứu các phong tục tập
quán, lễ hội đình làng Tri Chỉ.
4. Mục đích nhiệm vụ nghiên cứu
4.1. Mục đích nghiên cứu
-Nghiên cứu về giá trị kiến trúc,nghệ thuậtvà lễ hội của di tích đình
làng Tri Chỉ (Thôn Tri Chỉ, xã Tri Trung, huyện Phú Xuyên, thành phố Hà
Nội).
- Đề xuất giải pháp bảo tồn và phát huy giá trị của di tích và lễ hội đình
làng Tri Chỉ
4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu tổng quan về vùng đất, con người xã Tri Trung, từ đó làm
cơ sở nghiên cứu di tích đình Tri Chỉ.
- Căn cứ vào các tài liệu biên chép để xác định niên đại xây dựng và
những lần trùng tu, sửa chữa của ngơi đình.
- Nghiên cứu về nhân vật được phụng thờ trong đi tích đình làng Tri
Chỉ.
- Nghiên cứu giá trị kiến trúc, điêu khắc, di vật, cổ vật, lễ hội của đình
làng Tri Chỉ.
- Nghiên cứu thực trạng di tích và lễ hội. Trên cơ sở đó đưa ra giải pháp
bảo tồn và phát huy giá trị di tích đình Tri Chỉtrong giai đoạn hiện nay.


10


- Đánh giá vai trị của di tích và lễ hội trong đời sống văn hóa cộng
đồng cư dân nơi di tích tồn tại.
5. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp luận: Dựa trên quan điểm lịch sử cụ thể và biện chứng
của Chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh để nghiên cứu đối
tượng của khóa luận.
-Phương pháp nghiên cứu liên ngành : Lịch sử, bảo tàng học, dân tộc
học, mỹ thuật học, văn hóa dân gian, xã hội học...
- Ngồi ra, cịn sử dụng một số phương pháp: Thống kê, so sánh, phân
tích, tổng hợp…
- Phương pháp khảo sát điền dã tại di tích và sử dụng các kỹ năng:Quan
sát, mô tả, đo, vẽ, chụp ảnh, phỏng vấn trao đổi thơng tin...
6. Bố cục của khóa luận
- Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, Phụ lục.
Khóa luận được chia thành 03 chương:
Chương 1: Làng Tri Chỉ và di tích đình làng Tri Chỉ (28 trang)
Chương 2: Giá trị kiến trúc, nghệ thuật và lễ hộidi tích đình làng Tri
Chỉ (44 trang)
Chương 3: Bảo tồn và phát huy giá trị di tích đình làng Tri Chỉ trong
giai đoạn hiện nay (26 trang)


11

Chương 1
LÀNG TRI CHỈ VÀ DI TÍCH ĐÌNH LÀNG TRI CHỈ
1.1. TỔNG QUAN VỀ LÀNG TRI CHỈ
1.1.1. Vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên
1.1.1.1. Vị trí địa lý

Nằm ở ven bờ sông Nhuệ, cách trung tâm Hà Nội khoảng 35km về
hướng Tây - Nam, có một làng Việt cổ mà cho đến nay người ta vẫn quen gọi
là làng Chể (làng Tri Chỉ). Một làng quê thuộc vùng chiêm trũng của xã Tri
Trung, huyện Phú Xuyên, tỉnh Hà Tây (cũ), nay thuộc thành phố Hà Nội.
Với địa thế nằm dọc theo bờ sông Nhuệ, chiều dài khoảng 1 km, làng Tri
Chỉ có thế đất rất đặc biệt theo kiểu chữ Nhi (而) và chia thành hai làng (làng
Thượng và làng Hạ) với diện tích 470 mẫu (đất canh tác 420 mẫu, đất thổ cư
50 mẫu), dân số 1.822 nhân khẩu (459 hộ gia đình), đời sống chính của người
dân nơi đây là sản xuất nông nghiệp.
Làng Tri Chỉ phía Đơng giáp sơng Nhuệ; Phía Tây giáp xã Phú Túc;
phía Bắc giáp làng Tân Độ thuộc xã Hồng Minh; Phía Nam giáp làng Trung
Lập (làng Sộp) Thuộc xã Tri Trung, huyện Phú Xuyên, Thành phố Hà Nội.
Cách đây hàng trăm năm, nơi đây còn là vùng đầm lầy, hoang vu với
những bãi bồi ven sông.Trải qua bao đời khai phá ông cha ta biến những cánh
đồng hoang vắng thành những cánh đồng bằng phẳng với hai vụ lúa, hoa màu
của một vùng quê trù phú.
1.1.1.2.Điều kiện tự nhiên
* Đất đai, địa hình
Cư trú trên một vùng đồng chiêm trũng hầu như quanh năm ngập nước,
sự giao lưu tới các vùng xung quanh của dân làng Tri Chỉ chủ yếu phải dùng
bằng thuyền, bằng mảng, nghề nông là căn bản cho mọi gia đình. Điều kiện tự
nhiên làng Tri Chỉ có nhiều thuận lợi cho sản xuất nơng nghiệp, chủ yếu là


12

trồng lúa nước. Ngồi ra vùng đất này cịn trồng các loại rau màu và phát triển
trang trại chăn nuôi gia súc. Từ đó tạo ra nguồn lương thực thực phẩm cung
cấp, phục vụ đời sống hàng ngày của nhân dân.
Hiện nay đất canh tác của làng gồm 420 mẫu Bắc Bộ phân bổ trên các

xứ đồng: Cán Tàn, Cây Chanh, Mụ (Cây Gáo), Cây Đa, Cây Đề, Đồng Sung,
Sân Trà, Lầy, Xép, Gốc, Sậy, Dâu, Đường Cà, Ba Đỗi, Bói, ác Bạc, Ngang,
Cầu, Nẩy Trung, Nẩy Dài, Đồ ấm... Năm 1937, làng Tri Chỉ có một xứ đồng
Nhội khoảng 40 mẫu, do khơi dịng sơng Nhuệ nên đã nắn lại đoạn sông cho
thẳng từ làng Gọc(xã Phượng Dực) đến Ba Lương (thuộc xã Đại Xuyên), do
đó xứ đồng Nhội đã thuộc về làng Văn Trai thuộc xã Văn Hoàng, hiện nay
làng Văn Trai gọi là xứ đồng Chể. Tên gọi kẻ Chể, cho chúng ta biết đây là
vùng đất cổ, được khai phá từ rất sớm với những nhóm người nhỏ lẻvới các
dòng họ khác nhau lớn dần thành trang, ấp, chịm, xóm dần dần cư dân phát
triển và lập thành làng như hiện nay.
* Sơng ngịi
Trước những năm 30 của thế kỷ XX, sự giao giao lưu của người dân
Tri Chỉ chủ yếu phải dựa vào thuyền mảng mà dịng sơng Nhuệ là huyết mạch
giao thơng trọng yếu. Thượng nguồn dịng sơng Nhuệ bắt nguồn từ vùng Liên
Mạc nhận nước của sông Hồng rồi chảy xuôi qua các huyện phía Bắc tỉnh
xuống địa phận huyện Phú Xuyên. Khi dịng sơng chảy tới làng Tân Độ,
Trung Lập và vịng xuống Gạo Hồ, Tri Chỉ rồi chảy qua cửa đình Văn Trai lại
vịng về chùa Bến (Trung Lập) và xi về Thanh Xun, Nội Cói và đổ xuống
Cống Thần. Dịng sông Nhuệ đã bao bọc xung quanh tới ba bề của địa bàn Tri
Chỉ. Dựa vào những khu đất cao bên bờ sông Nhuệ, nhân dân Tri Chỉ đã
thành lập làng, xóm.Điều kiện tự nhiên của làng có nhiều thuận lợi cho sản
xuất nông nghiệp, chủ yếu là trồng lúa nước. Bên cạnh đó, địa hình này cịn
phát triển nghề chài lưới ven sông, nghề làm gốm, sành giúp đời sống kinh tế
của người dân nơi đây ổn định và phát triển.


13

* Khí hậu
Nhìn chung, đây là vùng đất phù sa cổ, với địa hình hồn tồn là đồng

bằng, khí hậu nhiệt đới gió mùa, tính bất thường của thời tiết theo chu kỳ
năm, trong một mùa hoặc giao mùa. Nhiệt độ của khu vực này giao động từ
150C đến 380C.Mùa Đơng gió Đơng Bắc lạnh, khơ hanh hoặc ẩm ướt.Mùa hè
có gió nồm Nam với tính chất nóng ẩm.Cường độ của sự biến đổi khí hậu khá
lớn.Mùa mưa, bão bị ngập, phá hủy cây cối mùa màng, còn nắng hạn làm ảnh
hưởng tới mùa màng.Có thể nói, đặc trưng về thời tiết và khí hậu đã ảnh
hưởng trực tiếp đến đời sống sản xuất và sinh hoạt văn hóa của cộng đồng cư
dân nơng nghiệp nơi đây.
1.1.2. Lịch sử hình thành, quá trình tồn tạivà phát triển làng Tri Chỉ
1.1.2.1. Lịch sử hình thành làng Tri Chỉ.
Theo sách “Văn hóa dân gian làng Tri Chỉ” do Vũ Quang Liễn, Vũ
Quang Dũng, Đinh Hồng Hải (2003), cho biết thông tin như sau:
Hai xã Tri Chỉ và Trung Lập thuộc Tổng Hòa Mỹ, huyện Phú
Xuyên, phủ Thường Tín, Trấn Sơn Nam thượng. Thực dân Pháp
xâm lược nước ta đã phân lại địa giới hành chính: Bỏ cấp phủ và
trấn, lập cấp tỉnh giữ nguyên đơn vị tổng, xã.Hai xã Tri Chỉ và
Trung Lập của huyện Phú Xuyên thuộc tỉnh Hà Đông. Cách
mạng tháng Tám năm 1945 thành công, trong cuộc bầu cử Hội
đồng nhân dân xã tháng 4-1946, hai xã Tri Chỉ và Trung Lập
được hợp nhất lấy tên là xã Tri Trung. Tháng 11-1948 xã Tri
Trung cùng với 5 thôn: Lưu Thượng, Tư Sản, Lưu Đơng, Lưu Xá
và Hồng Xá hợp thành một xã mới: Xã Ái Quốc. Tháng 6-1956
cấp trên quyết định tách xã Ái Quốc. Xã Tri Trung được tái lập,
có hai thơn Tri Chỉ và Trung Lập thuộc tỉnh Hà Đông [21, tr.7].
Qua khảo sát một số tộc phả ở Tri Chỉ và một vài di chỉ cho biết nhân
dân xã Tri Trung đã xây dựng quê hương dựa vào những khu đất cao bên


14


bờdịng sơng Nhuệ, qua việc đào đắp các cơng trình thủy lợi người ta tìm thấy
những lưỡi rìu đồng ở ao Phục Viên, trống đồng ở làng Trung Lập, tiền xu
mang chữ "Hưng triều thơng bảo", bia đá đề dịng chữ "Mã Viện chi thê" ở
Nghè (nhiều người trong làng cho biết đã nhìn thấy, nay đã bị thất lạc). Đặc
biệt là những chứng tích về quán Đài Thần và ngơi đình, khu chợ của làng
đơng vui tấp nập. Đồng thời, dựa vào các sách “Tên làng xã Việt Nam thế kỉ
XIX”, cộng với tư liệu địa phương cho biết: Vào đời Lê Thái Tơng, niên hiệu
Thiệu Bình (1434 -1439), Tri Chỉ là một xã của tổng Hoà Mỹ, huyện Phú
Xun, phủ Thường Tín, Trấn Sơn Nam, có nghĩa là từ thời điểm đó, chúng ta
mới biết được một "địa chỉ" cụ thể về Tri Chỉ trong hệ thống làng xã Việt
Nam cổ truyền.
1.2.1.2. Quá trình hình thành và phát triển của làng Tri Chỉ
Lập nên làng mới, nhân dân Tri Chỉ và Trung Lập đã chọn cánh đồng
Xép Nhọn là nơi canh tác, đặt cột mốc giữa hai làng làm nơi giáp danh cư
dân, mà người xưa gọi là đường Đá Mốc. Dân làng lập thơn và xây dựng
đình, chùa, miếu để thờ những người có cơng gây dựng cơ nghiệp cho cộng
đồng cư dân nơi đây.
Qua các nguồn tư liệu viết về địa phương cho biết: Làng Tri Chỉ có một
số thay đổi về địa danh, hành chính như: Đầu thế kỷ XIX thuộc trấn Sơn Nam
Thượng. Trước năm 1888 thuộc tỉnh Hà Nội, trước năm 1945 là xã Tri Chỉ
thuộc tổng Tri Chỉ, huyện Phú Xuyên, tỉnh Hà Đơng gồm các xóm ngõ (khu
dân cư): Ngõ Sọi, ngõ Làng, ngõ Chỗ (làng Thượng), ngõ Hổi, ngõ Cõi, ngõ
Ngói, ngõ Đơng (làng Hạ), sau này, các xóm của làng đổi thành: Thanh Trị,
Thanh Khê, Thanh Tân, Thanh Lịch, Chính Tâm và Đơng Phú. Mỗi xóm có
một trưởng xóm do trong xóm bầu ra theo từng năm, ở vị trí đầu các xóm có
một mảnh đất khoảng 70m2 để xây miếu thờ Thổ cơng xóm (nay đã biến
thành khu dân cư).
Năm 1946, chính quyền huyện xác nhập hai xã Tri Chỉ và Trung Lập
của tổng Tri Chỉ thành lập xã Tri Trung gồm hai làng: Trung Lập và Tri Chỉ



15

thuộc huyện Phú Xuyên, tỉnh Hà Đông. Từ ngày 21 tháng 4 năm 1965 đến
tháng 12 năm 1975 xã Tri Trung thuộc tỉnh Hà Tây. Từ ngày 27 tháng 12 năm
1975 đến tháng 8 năm 1991 xã này thuộc tỉnh Hà Sơn Bình.Từ ngày 12 tháng
8 năm 1991 đến nay xã Tri Trung thuộc tỉnh Hà Tây. Năm 1948, các xóm
(ngõ) cũ của làng Tri Chỉ cũng được thay đổi: Ngõ Sọi, ngõ Làng, ngõ Chỗ
đổi thành xóm Hồ Bình. Ngõ Cộc, ngõ Hổi (xóm Thanh Tân cũ) đổi thành
xóm Hạnh Phúc. Ngõ Ngói (Thanh Lịch cũ) thành xóm Dân Chủ. Ngõ Cõi
(Chính Tâm cũ) đổi thành xóm Tự Do.Ngõ Đơng (Đơng Phú) đổi thành xóm
Cộng Hồ.
Năm 1965, hai thơn Tri Chỉ và Trung Lập của xã Ái Quốc trước đây
được tái lập lại xã Tri Trung và địa danh xã này được ổn định cho đến ngày
nay. Hiện nay, làng Tri Chỉ chia thành ba đội sản xuất tương ứng với ba khu
dân cư: Đội sản xuất số 1 gồm xóm Hồ Bình (làng Thượng); Đội sản xuất số
2 gồm hai xóm cũ Hạnh Phúc và Dân Chủ; Đội sản xuất số 3 gồm hai xóm:
Tự Do và Cộng Hồ.
1.1.3. Đặc điểm cư dân
Làng Tri Chỉ, đất có bề dày lịch sử. Nhân dân trong làng cần cù, thông
minh và sáng tạo, kiên cường đấu tranh chống giặc ngoại xâm giành độc lập
và bảo vệ chủ quyền dân tộc.Trải qua nhiều chặng đường lịch sử thăng trầm,
với những biến cố của thiên nhiên, người dân Tri Chỉ đã được tơi luyện vượt
qua sự khó khăn để trưởng thành và tồn tại cùng xã hội.
Vào thời Trần, làng Tri Chỉ có 27 hộ, sống chủ yếu bằng nghề
chài lưới ven sơng Nhuệ, diện tích cấy lúa rất ít. Đến thời Hậu Lê
dân số dần dần phát triển. Ngoài nghề chài lưới cấy trồng còn
phát triển thêm nghề gốm sành, gạch ngói. Thời đó Tri Chỉ chủ
yếu làm đồ gia dụng (bát, chén...) cịn loại gạch là gạch bát loại
to (vng 30cm, dày 7cm) dùng để lát đình, chùa, nhà thờ, miếu

[21, tr.19].


16

Xưa kia, làng Tri Chỉ được chia thành hai làng (Thượng- Hạ) và chia
thành sáu giáp. Đây là thiết chế gồm thành viên của nhiều xóm ngõ, dịng họ
trong làng. Giáp cũng được coi là tổ chức của nam giới trong làng từ 16 tuổi
trở nên.
Theo như điều tra thực tế cho thấy: Hiện nay, ở vùng đất này có 27
dịng họ sinh sống trong đó có 14 dịng họ là có nhà thờ họ như: Nhà thờ họ
Vũ Luân, Nhà thờ họ Vũ Cơ, nhà thờ họ Nghiêm Đăng, nhà thờ họ Ngô Duy,
nhà thờ họ Trương, Họ Trần, họ Lương Hữu, họ Nguyễn Văn, họ Lê Đăng, họ
Vũ Quan, họ Vũ Xuân, họ Lê Đình, họ Lê Đình, họ Phạm Văn. Trong số 27
dịng họ có một số dòng họ được coi là đến định cư đầu tiên ở làng Tri Chỉ.
Dịng họ Ngơ định cư vào thời Trần Định Đế (1368).Dòng họ Lê Văn định cư
năm 1522, dòng họ Lương Hữu định cư năm 1780.
Theo thống kê điều tra dân số tháng 6 năm 2003 cho biết: Dân số của
làng Tri Chỉ là 1.822 nhân khẩu với 459 hộ gia đình. Dân cư sinh sống chủ
yếu ở làng là người kinh, mật độ phân bố dân cư đồng đều. Thu nhập bình
qn đầu người trong thơn thấp.
1.1.4. Đặc điểm kinh tế
Cũng như bao làng quê thuộc vùng châu thổ sơng Hồng.Nguời Tri Chỉ
đã bao đời gắn bó với đồng ruộng. Do điều kiện tự nhiên là vùng chiêm trũng
nên việc sản xuất nông nghiệp ở vùng này chủ yếu làm vào vụ chiêm. Ngày
nay, do làm tốt công tác thủy lợi, dân địa phương đã làm được hai vụ (chiêm
và mùa) ngồi ra cịn thâm canh tăng vụ, trồng các loại rau củ: Xu hào, khoai
tây, bắt cải, đỗ tương…Vụ chiêm thường cấy vào cuối tháng Chạp và đầu
tháng Giêng, vụ mùa thường cấy vào tháng Sáu âm lịch.
Năm 1956, Đảng bộ xã Tri Trung đã lấy làng Tri Chỉ làm thí điểm xây

dựng phong trào đổi công hợp tác xã, năm 1958 HTX (Hợp tác xã) nơng
nghiệp 34 ra đời gồm 34 hộ gia đình, từ đó có ba HTX nơng nghiệp nhỏ được
thành lập. Mỗi xã viên hợp tác xã, ngồi đóng góp ruộng đất, trâu, bị, cơng


17

cụ, các hộ cịn đóng thêm 34 cân thóc và 25 đồng để mua sắm thêm nông cụ
sản xuất.
Năm 1960, làng Tri Chỉ thành lập một HTX mang tên HTX nông
nghiệp Đồng Tâm. Trong ba năm (từ 1960 đến 1964), làng Tri Chỉ đã hồn
thành cơng tác cải tạo đồng ruộng, chia thành các ô thửa chiều dài không quá
200m, chiều rộng khơng q 100m, hồn chỉnh hệ thống tưới tiêu.
Năm 1986, chính sách khốn 10 ra đời đã tạo điều kiện cho các hộ
nông dân tham gia sản xuất mạnh mẽ và thu được nhiều kết quả. Năm 1993,
Tri Chỉ là thôn đi đầu trong tác giao ruộng ổn định lâu dài cho nông dân, và
đến năm 1997 thực hiện nhiệm vụ chính trị - kinh tế - xã hội của huyện ủy
Phú Xuyên, không để thửa ruộng lớn.
Năm 2003, thực hiện Nghị quyết TW 5 khóa IX về việc: Đẩy mạnh
cơng nghiệp hóa - hiện đại hóa nơng nghiệp nông thôn. Tri Chỉ bắt tay vào
công việc đồn điền chuyển thửa. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế, từ 5 - 6 ơ thửa
ruộng đất nay chỉ cịn 4 thửa ruộng, tạo điều kiện thuận lợi cho viêc cày cấy
và canh tác, năng suất lúa hiện nay đạt tới 10.5 tấn/1ha.
Theo báo cáo kỳ họp thứ 6 Hội Đồng Nhân dân xã khóa XX nhiệm kỳ
2011 - 2016 do ông Trần Trung Tuyến, Chủ Tịch UBND xã Tri Trung cung
cấp về tình hình kinh tế - văn hóa - xã hội năm 2012 cho biết cơ cấu kinh tế
của địa phương như sau: Nông nghiệp đạt 57%; TTCN đạt 34%; Thương mại
dịch vụ đạt 9%; Tăng trưởng kinh tế 11,2%
1.1.4.1. Kinh tế nông nghiệp
Trong những năm qua, nền kinh tế nông nghiệp của địa phương tuy gặp

phải một số những khó khăn, song cũng đạt được một số kết quả nhất định.
Trong báo cáo tổng kết tình hình kinh tế - văn hóa - xã hội năm 2012 - 2013
cho biết những thông tin như sau:
+ Vềtrồng trọt: Sản xuất hai vụ tổng 1.200 năng suất 10,3 tấn/ha/năm.
Sản lượng 2.220 tấn, tổ chức tốt 100 ha sản xuất lúa. HTX nông nghiệp Phú


18

Lập thực hiện triển khai mơ hình sản xuất lúa gieo mạ khay, cấy lúa bằng máy
với tổng diện tích 3,5 ha, kết quả lúa sinh trưởng và phát triển tốt.
+ Về Chăn ni: Duy trì phát triển tổng đàn gia súc gia cầm, đàn trâu
bị có 21 con, đàn lợn có 1.170 con, trong đó có lợn Nái 126 con tăng 120 con
so với năm 2011. Nuôi trồng thủy sản: Tồn xã có 34 trang trại ni trồng
thủy sản gia xúc gia cầm, kết hợp với cấy lúa trong năm 2012 - 2013 các trang
trại trong xã sản xuất kinh doanh có hiệu quả, nhiều trang trại có thu nhập trên
150 triệu đồng/ 1 ha trong năm.
1.1.4.2. Kinh tế tiểu thủ công nghiệp
Nhân dân Tri Chỉ đã sớm kết hợp được nền kinh tế tự cung tự cấp với
việc trao đổi hàng hóa với các vùng xung quanh nên phát triển một số nghề
thủ công như nghề đan (mây tre, cỏ tế), nghề may áo tơi lá, nghề mộc… Dưới
đây là một số nghề thủ cơng điển hình của địa phương:
+ Nghề đan: Có thể nói, hầu như gia đình nào trong thơn cũng biết đan
các mặt hàng như đồ dùng cần thiết cho gia đình, hay hàng xuất nhập khẩu ở
trong nước và nước ngoài bằng các loại nguyên liệu như: Cỏ tế, mây, tre…
Đây là nghềgiúp tăng thêm thu nhập cho gia đình. Trẻ em từ 8 tuổi trở lên
cũng đã biết đan các mặt hàng nhỏ dễ làm.Cho tới nay, nghề vẫn được duy trì
và phát triển các mặt hàng ngày càng phong phú đa dạng nên đời sống nhân
dân được cải thiện hơn.
+ Nghề may áo tơilá:

Từ xưa đã có câu thơ:
“Hỡi cơ thắt lưng bao xanh
Có về Tri Chỉ với anh thì về
Chợ Chể có cây Bồ Đề
Có sơng tắm mát có nghề may tơi”
Song song với nghề nông, nghề mây tre đan, người dân làng Tri Chỉ có
nghề làm áo tơi lá.Nghề này đã đóng vai trị cơ bản để đảm bảo đời sống cho


19

dân làng.Từ năm 1986 trở về trước, đã có những gia đình sống chủ yếu dựa
vào nghề này. Do truyền dạy kinh nghiệm từ đời này sang đời khác, nên
người dân nơi đây làm áo tơi quanh năm với tay nghề cao, sản phẩm được
chuyển về bán ở các chợ: chợ Bóng, chợ Tía, chợ Chng. Áo tơi cịn được
bán ở các tỉnh Nam Định, Ninh Bình, Thái Bình…
+ Nghề thợ mộc: Từ xã xưa nơi đây đã nổi tiếng với nghề thợ mộc, họ
chuyên đi làm đình, chùa và nhà ở. Trước những năm 1945 số người làm thợ
mộc chủ yếu là đàn ông chiếm tới 3/5 dân số của làng, nhưng từ năm 1990
đến nay, xu thế bê tơng hóa nên nghề thợ mộc bị giảm, người thợ chuyển dần
sang đóng đồ gia dụng như: Giường, tủ, bàn, ghế…
Từ trước đến nay, kinh tế làng Tri Chỉ dựa vào hai nguồn chủ yếu
là nghề nông nghiệp và nghề thủ cơng truyền thống. Đây có lẽ là đặc điểm
chung của nhiều xã trong huyện Phú Xuyên. Nhìn chung, giá trị sản xuất tiểu
thủ công nghiệp - xây dựng cơ bản là 26,143 tỷ đồng đạt 98% so với năm
2011.Đời sống người dân được nâng cao, nhiều hộ gia đình khơng những có
vốn làm ăn mà cịn có sự tích lũy để làm tiền đề cho những sự phát triển khác.
Nghề nghiệp ảnh hưởng trực tiếp đến văn hóa tinh thần, tác động đến tâm lý,
tình cảm, phong tục tập quán của làng, làm cho đặc trưng văn hóa làng nghề
càng đậm nét ở nơi đây.

1.1.5.Đặc điểm về văn hóa, xã hội
1.1.5.1. Phong tục tập quán.
+ Tục sinh con: Cũng giống như các làng xã xưa kia ở vùng đồng bằng
Bắc Bộ, tục sinh đẻ được dân làng rất quan tâm. Trước đây, sau khi cưới
trong thời gian một năm, các đôi vợ chồng trẻ mới sinh con. Trong thời gian
mang thai người phụ nữ phải có chế độ nghỉ ngơi và kiêng khem khá chặt chẽ
như: Tránh làm việc quá nhiều, quá sức, đi lại và ăn uống sao cho đủ chất
dinh dưỡng, ngồi ra cịn có chế độ “thai giáo” sao cho hợp lí để hướng cho
đứa trẻ thích nghi với hồn cảnh ra đình và xã hội trước khi nó chào đời.


20

Nơi đâyvốn là vùng chiêm trũng, người dân chủ yếu sống bằng nghề
lúa nước. Mà việc cấy lúa thì chủ yếu là người phụ nữ nên người dân nơi đây
có quan niệm rằng: “Ruộng sâu, trâu nái không bằng con gái đầu lòng”. Để
sau này lớn lên đỡ đần cha mẹ, nhưng trong tâm lý thì muốn có con trai để nối
dõi tơng đường.
Theo quan niệm xưa, nhà có sản phụ phải thực hiện một số điều kiêng
kỵ như: Ở cửa ra vào có treo một số cành lá, ở dưới gậm giường sản phụ có
đặt một chậu than củi đỏ hồng hoặc một củ dáy để cản gió và cản vía cho đứa
trẻ và người mẹ. Trong thời gian một tháng sau khi sinh, người mẹ không
được phép đi ra ngoài.Đứa bé sau khi chào đời từ 7 đến 9 ngày (bế trai thì 7
ngày, bé gái thì 9 ngày) gọi là đầy cữ, gia đình làm lễ cúng gia tiên, tạ ơn bà
mụ mong sao cho đứa bé được mạnh khỏe, hay ăn chóng lớn.Đến nay, những
tập tục này của người dân trong làng cũng đã bị mai một, duy nhất tục cúng
đầy cữ vẫn được người dân duy trì.
+ Tục hơn nhân: Người Tri Chỉ xưa kia quan niệm rằng việc cưới xin là
rất hệ trọng của đời người, nên phải qua đầy đủ các bước sau:
Làm mối: Sau một thời gian tìm hiểu đối tượng, gia đình bên nhà trai

thống nhất nhờ bà mốiđến nói với bên gia đình nhà gái, khi bên nhà gái ưng
thuận thì bà mối chính thức đặt vấn đề kết hơn cho đôi lứa.
Lễ dặm ngõ: Sau khi hai bên bàn bạc, chọn ngày lành tháng tốt, nhà trai
cử một đoàn khoảng 4 đến 5 người, trong họ tộc đến nhà gái chính thức đặt vấn
đề, lễ vật gồm 10 quả cau, 1 gói chè, 10 bao thuốc lá, 01 chai rượu (1/2 lít).
Lễ vấn danh: Cuối lễ dặm ngõ hai nhà thường hẹn với nhau làm lễ vấn
danh, đây là lễ hỏi tên tuổi của bố mẹ sinh ra cô gái để xem đức hạnh của cô
gái, tránh lấy người cùng họ. Sau đó, sẽ thống nhất chọn ngày giờ để nhà trai
sửa lễ.
Lễ ăn hỏi: Có trầu, cau, chè, thuốc…số lượng lớn rất nhiều lần so với
dặm ngõ. Ngày dạm ngõ nhà trai cử một đoàn người từ 7 đến 13 người, gồm


21

các cụ ông, cụ bà đến nhà gái làm lễ, thanh niên bê lễ, đỡ lễ thì nam phải chưa
vợ, gái chưa chồng. Lễ vật thách cưới gồm: 300-400 quả cau, tiền cọc. Trước
năm 1945, đối với gia đình giàu có tiền thách cưới là: 60 đồng Đơng Dương,
nhà khó khăn thì 20 đồng. Lễ gia tiên nhà gái thách lấy từ 3 đến 6 lễ.Ngồi ra,
chú rể cịn phải đến sêu nhà gái những thứ mới, thứ ngon theo mùa vào những
ngày lễ trọng, trước là thắp hương cúng gia tiên, sau là để cả nhà hưởng lộc
cụ thể như sau:
- Tết Nguyên Đán: Nhà trai phải mang trầu cau, rượu, bánh chưng 15
chiếc buộc lạt đỏ.
- Tết Đoan Ngọ: Trầu cau, rượu, một con ngỗng to, 5kg gạo nếp.
Ngồi sêu, tết cho gia đình, chàng rể cịn phải nộp “cheo” cho làng nơi
cơ gái sinh thành. Cheo có thể là tiền, là vật liệu xây dựng như: Gạch để lát
đường, gỗ làm cầu cống, lệ cheo càng to thì đám cưới càng có tiếng, cheo nhỏ
thì đám cưới bị chê trách.
“Có cưới mà chẳng có cheo

Dẫu rằng có giết mười heo cũng hoài”
Trai làng, gái làng lấy nhau cũng phải nộp cheo, nhưng có châm trước,
lễ nộp cheo phải sắm một lễ để lễ cửa đình và ra mắt các cụ tiên chỉ.Trong
hương ước làng Tri Chỉ khoản thứ 29 “Lễ nộp cheo và dẫn đồ cưới” điều thứ
88 quy định:
Ai có con gái 18 tuổi mà gả chồng, thì cheo nộp phải nộp 200
viên gạch, cheo ngoại 500 viên gạch để lát đường cái trong làng.
Nếu chưa dùng lát đến thì giao cho trưởng xóm nhận. Khi nộp
cheo, lý trưởng sẽ phát cho một tờ “phái cheo” để làm bằng
chứng và khi cần thiết thì có thể dùng tờ “phái cheo” này để giải
quyết việc hôn thú”. [21, tr.250]
Sau lễ cưới là lễ lại mặt: Sau khi thành thân một ngày, đôi vợ chồng trẻ
cùng bố mẹ chồng sắm một lễ xôi gà hay xôi thủ lợn đem sang nhà gái để làm


22

lễ gia tiên. Sau đó làm cỗ cả 2 bên gia đình thơng gia ăn uống vui vẻ. Đây là
một nghi lễ để hai gia đình có dịp ngồi nói chuyện và trao đổi với nhau những
vấn đề về cuộc sống, lễ giáo của hai gia đình, đồng thời cũng là lúc để gửi
gắm con cái hai bên cùng nhau dạy dỗ, vun đắp tình thân giữa hai gia đình.
+ Tang ma
Nhà có tang phải đến báo cáo với địa phương. Khi làm lễ nhập quan,
gia đình gia chủ phải chọn giờ nhờ thầy đến phạt mộc chẩn bị nhập quan.Sau
đó chọn giờ phát phục, trưởng họ phát quần áo tang và khăn tang cho họ hàng
thân thích phải chở vong. Tiếp theo là lễ phúng viếng tại nhà trước khi chơn
cất đại diện khu dân cư có bài phát biểu. Đến giờ đưa tang dân làng đưa tiễn
ra đồng và làm lễ hạ huyệt (tức là lễ chôn cất người quá cố).
Trong hương ước làng Tri Chỉ khoản thứ 30 “việc ma chay” điều thứ
89 có quy định:

Trong dân làng có ơng già, bà cả hoặc người nào bất hạnh chết đi
khơng phải là bệnh truyền nhiễm thì sau khi chôn cất người ấy
được ba ngày, tang chủ muốn dở ra cỗ bàn mời dân làng, anh em
trong họ, và phải nộp lệ dân sau này. [21, tr.250 - 251]
* Một số phong tục khác:
+ Lệ mua Nhiêu: Xưa kia, khi con trai trong làng đến tuổi trưởng thành
(16 tuổi) phải mua nhiêu mới được vào đình và được công nhận là một thành
viên của làng xã. Lễ dùng cho việc mua nhiêu gồm: Thịt, xôi để khao các
người giữ chức sắc trong làng.
+ Lệ mua Tư Văn: Trước năm 1945, người đi mua văn được phép tham
gia vào Hội Tư văn, những người có trình độ văn học hàng năm giúp làng
việc viết văn, tế văn chỉ.
+ Vào đinh: Trước đây theo qui định của làng, trừ những người câm
điếc, bệnh tật thần kinh… Từ 16 tuổi trở lên, những người con trai được kết
nạp vào hàng đinh trong làng được hưởng quyền lợi, ai không vào đinh gọi là


23

trọc đinh làng sẽ loại trừ không bảo hộ, không chịu trách nhiệm khi có việc gì
xảy ra ở gia đình đó. Nếu để xảy ra nghiêm trọng làng sẽ phạt gia đình đó từ 4
đến 10 quan tiền, tùy theo mức độ nặng hay nhẹ.
+Tục bắt vạ: Theo tục lệ của làng được các cụ cao niên kể lại như sau:
Những trường hợp chửa hoang, cưới tảo hôn, lấy nhau cùng huyết thống,
trong ngày tế lễ chủ tế xướng nhầm, bồi tế đi nhầm, đánh trống sai nhịp, làng
đều bắt vạ từ 10 đến 15 quan tiền. Đồng thời, trong năm ấy khơng được ra
đình mà cịn cho mõ đi rao quanh làng trong 3 ngày vào các buổi sáng,
chiều.Đối với trộm cắp bắt đượcsẽ giam vào buồng tối, buộc một chân, ba
ngày sau làng mới sử.Những người trong làng phạm tội trộm cắp đến ngày 30
tết được trương tuần triệu ra đình và bị cùm chân cho ngồi ở lối có nhiều

người đi lại sắm tết.
+ Tục ngả vạ: Các cụ cao niên trong làng cho biết: Xưa kia, việc ngả
vạ trong các giáp do lềnh vạ đảm nhiệm, làng quy định: Nếu người nào đến
tuổi 55 ra vọng lão, vì hồn cảnh kinh tế khó khăn, khơng làm cỗ mời làng
được thì làng đến ngả vạ, gia đình đó cùng lềnh chạ làm một vài mâm gồm có
một đĩa nộm, khơng có thịt thì làm vài quả đu đủ, đĩa lạc hoặc đậu rang, rượu
muống đủ. Nếu cãi nhau, có câu chửi cả làng, cả họ phải ngả vạ một bữa ăn
vào lần khác.
+ Lễ khao chức tước: Những người đỗ đạt khi vinh quy bái tổ hay
trong quá trình làm việc được triều đình phong kiến thăng chức tước, đều phải
làm cỗ khao dân làng. Lễ khao vọng được tổ chức tại nhà chứ không ra đình
làng, cỗ khao gồm: rượu, thịt, xơi và một cỗ dành riêng cho mõ làng.
Trong hương ước làng Tri Chỉ khoản thứ 26 “việc khao vọng và khánh
hạ” điều thứ 85 có quy định:
Phàm những người ra làm chức việc chiếu theo tục lệ thì đều phải
làm rượu sửa lễ mời dân làng, thì dân mừng một đơi câu đối vải
đỏ và một đồng bạc để biếu vị thứ dự tế đình trung. Nhưng nay


24

dân thịnh những người ra làm chức việc đều phải nộp vào cơng
quỹ 15 quan, cịn việc đãi dân tùy tình hình. [20, tr.248 -249]
+ Lệ lên lão (khao thọ): Hàng năm vào ngày mồng 10 tháng Giêng âm
lịch, làng tổ chức lễ mừng tho. Lễ mừng thọ tính theo độ tuổi: lên 60 tuổi
nhập giới, 70 tuổi trở lên cứ 10 năm một lần tổ chức lễ mừng và khao thọ.
Các gia đình có người mừng thọ đều tổ chức ăn uống, song tùy theo điều kiện
của các gia đình trong làng.
1.1.5.2. Di tích lịch sử văn hóa
Để duy trì và phát huy những truyền thống tốt đẹp của quê hương đất

nước, nhân dân Tri Chỉ sớm xây dựng các cơng trình văn hóa, các di tích lịch
sử - văn hóa. Xưa kia làng Tri Chỉ có những cơng trình: Đình Tri Chỉ, đình
Vũ, đình Bùng, chùa Tri Chỉ, nhà thờ các dòng họ như nhà thờ họ tiêu biểu
như: Nhà thờ họ Ngô, chùa Trần Xá, Cửu Tỉnh (chín cái giếng cạn)…
+ Đình Tri Chỉ: Là một cơng trình kiến trúc có quy mơ lớn nhất của
làng, được xây dựng vào khoảng cuối thế kỷ XVII (đời Lê Thần Tơng). Với
bố cục mặt bằng kiến trúc hình chữ “Cơng”, đình làng Tri Chỉ nằm tập trung
trên một khu đất rộng, phía trước có hồ bán nguyệt, đằng xa có cánh đồng
rộng, hai bên tả hữu có cư dân sinh sống bao bọc xung quanh di tích của làng
(Về phần không gian cảnh quan, bố cục mặt bằng tổng thể, các đơn nguyên
cũng như trang trí trên kiến trúc…sẽ được tác giả xin trình bày một cách cụ
thể ở chương 2 của bản khóa luận này).
+ Đình Vũ: Cịn gọi là đình Vũ Y, theo như các cụ cao niên trong làng
kể, ngơi đình này được xây dựng vào niên hiệu Tự Đức thứ 31 (1878). Đình
thờ hai vị thánh sư: Nghiêm Thắng và Đặng An có cơng dạy nghề may áo tơi
lá. Đình có lối kiến trúc theo kiểu chữ “Đinh”, kiến trúc theo kiểu “Thượng
rường hạ kẻ”, hoa văn được trang trí chủ yếu trên các con rường, các bức cốn
với các đề tài tứ quý, long cuốn thủy... Hậu cung được làm sau và do một
người họ Vũ xây dựng. Sau khi ngơi đình bị phá hủy, người dân đã rước haivị


25

thánh sư và bài vị người họ Vũ này về đình Đại (Đình Tri Chỉ).Vào năm
1919, nhân dân đóng góp tiền xây dựng lại đình Vũ.
+ Đình Bùng: Nay chỉ cịn nền gạch cũ,đình đã bị phá trước năm 1945,
sau này chỉ còn lại một cây đa cổ thụ. Xưa kia vào những ngày hội làng
thường dựng đình Đụn và làm chỗ tổ chức các trò chơi như: Đấu vật, đấu gậy.
+ Chùa Tri Chỉ (là chùa giữa) tên chữ là Trung Đồng tự. Diện mạo kiến
trúc của ngôi chùa ngày nay là kết quả của lần xây dựng lại vào năm Canh Tý

(1900) và lần sửa chữa vào năm 1990.Đây là sự hợp nhất của hai ngôi chùa
khác trong làng là chùa Trần Xá và chùa Di Đà.
Chùa Trung Đồng được xây quay mặt về hướng Tây, với ý nghĩa là
nhìn về đất Phật. Chùa được xây dựng ở một nơi cao ráo, không xa dân cư.
Chùa Trung Đồng có bố cục mặt bằng hình chữ “Đinh”, gồm: Tiền
đường và Thượng điện. Ngồi chùa chính để thờ Phật trong khn viên chùa
cịn có một số cơng trình phụ trợ khác như: điện Mẫu, phòng Tăng và Tháp
mộ… Trước chùa là một sân rộng lát gạch bát kích thước 20 x 20cm. Giữa
sân là một bức bình phong dạng cuốn thư xây bằng gạch vữa.
Tiền đường là một ngôi nhà rộng gồm 7 gian, xây theo kiểu tường hồi
bít đốc tay ngai. Ngun liệu chính bên trong cơng trình là gỗ với các cột, xà,
kẻ chắc, khỏe. Những ván bưng tại vì nóc tiền đường và hậu cung đều được
chạm nổi các hình kỷ hà đan xenvăn hoa lá cách điệu. Riêng hai tấm ván giữa
là hình hổ phù. Kết cấu bộ vì theo kiểu“tiền kẻ hậu bẩy”. Trên tất cả các con
chồng hồnh đều trang trí bằng cách chạm lộng kênh bong những con thú
như: Nghê, rồng, hổ ở các tư thế khác nhau. Trên các ván gió xà thượng đều
chạm lộng những hoạt cảnh sinh động.
Hầu hết tượng phật của chùa đều làm tạc bằng gỗ mít sơn son thếp
vàng tương ứng với 5 cấp bệ thờ là 5 lớp tượng: Lớp thứ nhất là bộ Tam thế,
lớp thứ hai là tượng Di Đà tam tơn, chính giữa là tượng đức Phật A Di Đà,
bên phải là Đại Thế Chí, bên trái là Quan Thế Âm, lớp tượng thứ ba là đức


×