Tải bản đầy đủ (.pdf) (103 trang)

Tìm hiểu di tích đình xuân lôi xã hồng minh huyện hưng hà tỉnh thái bình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.28 MB, 103 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC VĂN HÓA HÀ NỘI
KHOA DI SẢN VĂN HĨA

TÌM HIỂU DI TÍCH ĐÌNH XN LƠI
XÃ HỒNG MINH, HUYỆN HƯNG HÀ, TỈNH THÁI BÌNH

KHĨA LUẬN TỐT NGHIỆP
NGÀNH BẢO TÀNG HỌC
Mã số: 52320305

Người hướng dẫn: TS. PHẠM THỊ THU HƯƠNG
Sinh viên thực hiện: VŨ THỊ PHƯƠNG

HÀ NỘI - 2013

 

1


LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình thực hiện đề tài của mình, em đã tham khảo các
nguồn tài liệu như: Giáo trình, tư liệu lịch sử, các bài viết chuyên khảo, các
tư liệu dân gian…Tuy nhiên phần lớn các nguồn tư liệu trong khóa luận này
là kết quả khảo sát thực tế tại cơ sở dưới sự hướng dẫn tận tình của giảng
viên hướng dẫn TS Phạm Thị Thu Hương và những cộng tác viên đã khơng
quản ngại khó khăn giúp đỡ cho việc nghiên cứu đề tài. Qua khóa luận này,
cho phép em gửi lời cảm ơn chân thành tới Ban chủ nhiệm khoa Di Sản Văn
Hóa – Trường Đại học Văn Hóa Hà Nội đã tạo điều kiện cho em thực hiện
đề tài. Đồng thời, cho em gửi lời cảm ơn tới ban quản lý di tích đình Xn
Lơi, Ủy ban nhân dân xã Hồng Minh, ban quản lý di tích tỉnh Thái Bình, các


cụ ca o niên trong làng Xn Lơi đã nhiệt tình giúp đỡ em thực hiện đề tài.
Mặc dù có nhiều nỗ lực cố gắng nhưng do nhận thức và kiến thức
chun mơn cịn hạn chế nên bài viết chắc chắn cũng không tránh khỏi
những khiếm khuyết nhất định. Kính mong sự góp ý của các thầy cô, các
nhà nghiên cứu và các bạn sinh viên để khóa luận của em được hồn thiện
hơn nữa.
Em xin trân trọng cảm ơn !

 

2


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ............................................................................................................. 4
Chương 1. ĐÌNH XN LƠI TRONG DIỄN TRÌNH LỊCH SỬ ................. 9
1.1. Tổng quan về vùng đất và con người nơi di tích đình Xn Lơi tồn tại ....... 9
1.1.1. Vị trí địa lý điều kiện tự nhiên và tên gọi .................................................. 9
1.1.2. Truyền thống văn hóa................................................................................. 14
1.2. Đình Xn Lơi trong diễn trình lịch sử ......................................................... 16
1.3. Lịch sử vị thần được thờ trong di tích ........................................................... 17
Chương 2. GIÁ TRỊ KIẾN TRÚC, NGHỆ THUẬT VÀ LỄ HỘI CỦA DI
TÍCH ĐÌNH XN LƠI ................................................................................... 25
2.1. Giá trị kiến trúc. ............................................................................................ 25
2.1.1. Không gian cảnh quan ................................................................................ 25
2.1.2. Bố cục mặt bằng ......................................................................................... 30
2.1.3. Kết cấu kiến trúc ........................................................................................ 31
2.1.4. Trang trí trên kiến trúc ............................................................................... 41
2.1.5. Một số di vật tiêu biểu ................................................................................ 45
2.2. Lễ hội đình Xn Lơi .................................................................................... 49

2.2.1. Khái qt về lễ hội ở Việt Nam ................................................................. 49
2.2.2. Lễ hội của đình Xuân Lôi .......................................................................... 52
Chương 3. BẢO TỒN, KHAI THÁC VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ CỦA DI
TÍCH ĐÌNH XN LƠI ................................................................................... 59
3.1. Thực trạng di tích .......................................................................................... 59
3.1.1. Thực trạng cảnh quan, khơng gian xung quanh di tích .............................. 59
3.1.2. Thực trạng kết cấu kiến trúc....................................................................... 60
3.1.3. Thực trạng di vật trong di tích.................................................................... 61
3.1.4. Thực trạng lễ hội ........................................................................................ 62
3.1.5. Ý thức của cộng đồng dân cư trong việc bảo vệ di tích ............................. 63

 

3


3.2. Vấn đề bảo tồn di tích ................................................................................... 64
3.3. Vấn đề tơn tạo di tích .................................................................................... 73
3.4. Khai thác phát huy giá trị của di tích đình Xn Lơi .................................... 74
KẾT LUẬN ......................................................................................................... 77
TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................. 79

 

4


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Những di tích lịch sử văn hố như đình, chùa, đền, miếu, lăng tẩm

khơng chỉ đơn thuần là những cơng trình kiến trúc phục vụ nhu cầu tín
ngưỡng, tơn giáo mà đây cịn là những tài sản vô cùng quý giá của dân tộc do
ơng cha ta để lại. Nó có sức thuyết phục lớn đối với mọi thế hệ vì trong đó
chứa đựng hơi thở và dấu ấn của mỗi thời kỳ lịch sử. Đặc biệt những di tích
lịch sử ấy cịn được coi như những bảo tàng sống về nghệ thuật kiến trúc, điêu
khắc, trang trí, những giá trị văn hố phi vật thể. Bảo vệ di tích lịch sử văn
hố khơng chỉ đơn thuần là việc giữ gìn những thành quả vật chất mà cha ông
ta để lại mà hơn thế nữa là phải biết tiếp tục kế thừa và phát huy những sáng
tạo những giá trị văn hoá mới phù hợp với xu huớng phát triển của hiện tại,
giữ gìn bảo tồn di tích đó cho thế hệ mai sau.
Tìm hiểu di tích lịch sử - văn hố là tìm về với cội nguồi của dân tộc để
từ đó kế thừa và phát huy góp phần làm đẹp thêm truyền thống văn hố ấy.
Những di tích sẽ trở nên có ý nghĩa hơn khi chúng ta đi sâu nghiên cứu, tìm
hiểu phân tích từng lớp văn hố chứa đựng trong nó để có hiểu biết về văn
hố dân tộc, từ đó giữu gìn và bảo tồn những tinh hoa văn hố , truyền thống,
đạo đức góp phần xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc
văn hố dân tộc. Từ những tìm tịi hiểu biết về di tích chúng ta có thể đưa ra
những giải pháp hợp lý nhằm kết hợp hài hoà giữa quá khứ , hiện tại và
hướng tới tương lai.
Trải qua bao biến cố thăng trầm của lịch sử, những di tích lịch - sử văn
hoá đã phần nào bị huỷ hoạ do bàn tay vơ tình hay hữu ý của con người, thêm
vào đó là sự khắc nghiệt của thiên nhiên khí hậu thời tiết nhiệt đới ẩm gió
mùa và đặc biệt trải qua hai cuộc chiến tranh trường kỳ của dân tộc đã tàn phá

 

5


nặng nề khiến cho nhiều di tích đổ nát và xuống cấp nghiêm trọng hoặc đã bị

phủ một lớp rêu phong vì sự lãng quên của con người.
Trong những năm gần đây, hoà chung với xu thế phát triển của đất
nước, các di tích lịch sử văn hố đã nhận được sự chú ý quan tâm đặc biệt hơn
của xã hội, có nhiều di tích được phục hồi, tơn tạo và phát huy được giá trị
của mình. Những lễ hội của di tích được bảo lưu và ngày càng trở nên có ý
nghĩa thiết thực hơn trong đời sống cộng đồng. Phải thừa nhận rằng chính
những di tích lịch sử văn hố đang đóng góp một phần vào sự phát triển và
hoàn thiện con người, đưa con người tới một cuộc sống tốt đẹp hơn. Một
trong những vấn đề cấp bách trong sự nghiệp xây dựng nền văn hoá ở nước ta
hiện nay là công tác bảo tồn, trùng tu, và khai thác những giá trị văn hố cịn
ẩn chứa trong mỗi di tích lịch sử - văn hố. Mỗi chúng ta phải có ý thức bảo
vệ, gìn giữ viên ngọc quý giá mà cha ông ta đã để lại cho thế hệ hiện tại và
tương lai, kế thừa những tinh hoa văn hoá của dân tộc phù hợp với chủ trương
đường lối của Đảng và Nhà nước về xây dựng một nền văn hoá tiên tiến đậm
đà bản sắc dân tộc.
Thái Bình là một trong những vùng đất giầu truyền thống Cách mạng,
nơi sản sinh ra những con người hiền tài cho đất nước như: Lê Quý Đôn,
Nguyễn Đức Cảnh…Bên cạnh đó, Thái Bình cịn là một trong những cái nôi
của làn điệu dân ca ngọt ngào với câu chèo tinh tế, dung dị, với những lễ hội
dân gian phong phú. Trong truyền thống, nét điển hình của văn hố làng Thái
Bình là một vùng văn hố dân gian phong phú, với những lễ hội nhiều về số
lượng, đa dạng về loại hình. Bên cạnh những lễ hội truyền thống đặc sắc là
những di tích lịch sử văn hố tiêu biểu của Thái Bình như : chùa Keo, chùa
Chành, đền Tiên La, đền Đồng Bằng, các đền thờ lăng mộ nơi phát tích của
nhà Trần tại huyện Hưng Hà. Dù khơng tiêu biểu như những di tích vừa kể
trên song đình Xn Lơi xã Hồng Minh huyện Hưng Hà cũng là một di tích
đáng được đề cập bởi dù là một cơng trình kiến trúc mang đậm phong cách

 


6


kiến trúc nghệ thuật thời Nguyễn nhưng đây là ngôi đình có quy mơ lớn, thức
kiến trúc cổ truyền và khung kiến trúc được làm hoàn toàn từ gỗ lim. Bên
cạnh đó đình Xn Lơi cịn là một cơng trình chạm khắc hết sức tinh xảo, các
đề tài chạm khắc tứ linh, tứ quý có phong cách dân gian phong phú, sinh động
thể hiện được sự khéo léo của những người thợ trong làng. Nơi đây vẫn còn
lưu giữ những giá trị văn hoá vật thể và phi vật thể rất có giá trị minh chứng
cho bề dày lịch sử văn hố của mảnh đất và con người Xn Lơi - Hồng
Minh.
Việc tìm hiểu những di tích kiến trúc nghệ thuật dân gian của người
Việt , cụ thể ở đây là di tích đình Xn Lơi thực sự là một điều rất hữu ích và
thiết thực bởi thơng qua đó ta có thể phần nào tiếp cận được ý nghĩa, vai trị
của ngơi đình trong đời sống sinh hoạt văn hố cộng đồng dân cư từ xa xưa.
Đồng thời thơng qua đó cũng giúp chúng ta nhận thấy sự sáng tạo tài tình của
các nghệ nhân dân gian khi họ sáng tạo ra những cơng trình kiến trúc cổ
truyền.
Trải qua thời gian, cùng với sự tác động của thiên nhiên và một phần
do sự thiếu hiểu biết, ý thức của con người, ngơi đình đã bị xuống cấp và
đang từng ngày từng giờ phải đối mặt với nguy cơ bị xâm hại. Mỗi cơng trình
kiến trúc dù lớn hay nhỏ đều ẩn chứa những giá trị của lịch sử, tuy nhiên nếu
chúng bị hư hỏng hay mất đi thì coi như mất đi một phần của quá khứ. Đây
chính là minh chứng sống động cho mỗi bước đi của lịch sử dân tộc và cũng
là những di sản quý báu mà cha ông ta để lại. Bởi vậy việc bảo tồn, trùng tu
những cơng trình kiến trúc mà cụ thể ở đây là ngơi đình Xn Lơi thực sự là
vấn đề cấp thiết và vô cùng quan trọng không chỉ đặt ra với những cơ quan có
thẩm quyền mà cịn là trách nhiệm, nghĩa vụ của mỗi công dân.
Nhận thức được ý nghĩa và tầm quan trọng của vấn đề này, là sinh viên
năm thứ tư ngành Bảo tàng học với niềm say mê nghề nghiệp, cùng kiến thức

đã được học tập trong suốt 4 năm trên ghế nhà trường và quá trình thực tế tại

 

7


một số di tích, cùng với nguyện vọng của bản thân, tơi thiết nghĩ mình cần
phải có trách nhiệm đối với cơng cuộc giữ gìn và bảo tồn các giá trị của di
sản văn hố. Với sự khuyến khích chỉ bảo của các thầy cơ trong khoa Di sản
Văn hố và giảng viên T.S Phạm Thị Thu Hương, tôi mạnh dạn chọn đề tài “
tìm hiểu di tích đình Xn Lơi xã Hồng Minh huyện Hưng Hà tỉnh Thái
Bình” làm bài khoá luận tốt nghiệp, phần nào giúp hiểu thêm một di tích văn
hố trên q hương Thái Bình.
2. Mục đích nghiên cứu
Tìm hiểu những giá trị về lịch sử, văn hố, kiến trúc, nghệ thuật của di
tích đình Xn Lôi, trên cơ sở khảo sát thực tế, bước đầu đề xuất một số giải
pháp mong muốn góp phần bảo tồn, phát huy giá trị của di tích trong quá trình
đơ thị hố, hiện đại hố.
Tập hợp nhưng tư liệu nhằm cung cấp thêm thông tin cho việc nghiên
cứu về di tích lịch sử - văn hố của Thái Bình nói riêng và của cả nước nói
chung, góp phần vào việc bảo tồn và phát huy giá trị của các di tích lịch sử văn hố.
3. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của khóa luận là di tích, di vật và lễ hội của đình
Xn Lơi thuộc xã Hồng Minh huyện Hưng Hà tỉnh Thái Bình.
4. Phạm vi nghiên cứu
-Về thời gian: Nghiên cứu di tích đình Xn Lơi gắn liền với quá trình
hình thành và phát triển của làng cho tới nay.
-Về khơng gian: Nghiên cứu di tích đình Xn Lơi trong khơng gian
lịch sử văn hố chung của làng Xn Lơi nói riêng và của huyện Hưng Hà nói

chung.
5. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp luận của Chủ nghĩa Mác- Lênin: Duy vật biện chứng và
duy vật lịch sử.

 

8


- Phương pháp nghiên cứu: khảo sát thực tế, so sánh, thống kê, phân
tích, phỏng vấn…
6. Bố cục bài khố luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phần phụ lục, bố
cục bài viết gồm 3 chương, cụ thể như sau:
Chương I. Đình Xn Lơi trong diễn trình lịch sử
Chương II. Giá trị kiến trúc, nghệ thuật và lễ hội của đình Xn Lơi
Chương III. Vấn đề bảo vệ, khai thác và phát huy giá trị di tích đình
Xn Lơi

 

9


Chương 1
ĐÌNH XN LƠI TRONG DIỄN TRÌNH LỊCH SỬ
1.1.Tổng quan về vùng đất và con người nơi di tích đình Xn Lơi tồn tại
1.1.1.Vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên và tên gọi
Đình Xn Lơi thuộc thơn Xn Lơi xã Hồng Minh huyện Hưng Hà

tỉnh Thái Bình. Xã Hồng Minh nằm ở phía nam huyện Hưng Hà, có diện tích
8,189 km2 , dân số 9305 người, phía bắc giáp Minh Hồ và xã Độc Lập, phía
nam giáp sơng Trà Lý, phía đơng giáp xã Chí Hồ, phía tây giáp xã Độc lập
và sơng Hồng.
Làng Xn Lơi xưa có tên là làng Nhội, là một trong những làng cổ
thuộc vùng đất Hưng Hà. Thời kỳ đầu công nguyên, vùng đất Hồng Minh
thuộc phía nam quận Giao Chỉ, đời Hán thuộc quận Vũ Bình, đời Đường
thuộc đất Châu Diên, đầu đời Ngơ Vương Quyền là đất Châu Đằng, Châu
Khối, đời Trần là lộ Long Hưng, thế kỷ thứ XV thuộc phủ Tân Hưng trấn
Sơn Nam.
Từ thời Lê đến thế kỷ thứ XIX, làng Xuân Lôi và một số làng khác
thuộc xã Thâm Động, tổng Thượng Hộ, huyện Thư Trì, phủ Kiến Xương.
Năm 1890 tỉnh Thái Bình được thành lập, tổng Thượng Hộ được cắt
chuyển về huyện Duyên Hà, khi này Xuân Lôi thuộc xã Thâm Động, tổng
Thượng Hộ huyện Duyên Hà.
Mảnh đất Hồng Minh được hình thành từ rất sớm, khoảng 2700-3000
năm cách ngày nay. Vùng đất này chịu ảnh hưởng trực tiếp và chịu tác động
mạnh mẽ bởi dòng chảy của sông Hồng và sông Trà Lý, đặc biệt là do sự uốn
khúc của sông Trà Lý đã tạo cho Hồng Minh một lượng phù sa lớn trong nội
đồng và nhất là vùng đất bãi ven sơng rất phì nhiêu màu mỡ, thuận lợi cho
phát triển nông nghiệp trồng lúa nước và hoa màu.

 

10


Do nằm ở ven sông giao thông đường thủy rất thuận tiện, đất đai phì
nhiêu màu mỡ nên vùng đất Hồng Minh đã sớm thu hút dân cư từ nhiều nơi
đến sinh sống làm nghề đánh cá và trồng lúa nước. Vào khoảng thế kỷ VII-VI

TCN đã có lớp cư dân từ vùng núi Ba Vì, Tam Đảo, Sơn Tây, Phú Thọ đã di
cư xuống vùng đồng bằng sông Hồng. Ngồi ra cịn có cư dân từ Thanh Hố,
Nghệ An, Nam Định đến vùng đồng bằng này, nhiều cư dân đã tìm đến các
vùng ven sơng, gị đống cao ở Hồng Minh để sinh sống.
Nhờ có vị trí thuận lợi, đất đai màu mỡ nên cư dân đến đây ngày càng
đơng đúc, các làng xóm khơng ngừng được củng cố cả về dân số và địa bàn
định cư sản xuất. Ở đây đã hình thành các làng xã cổ như Kẻ Nhội, Kẻ Giai,
Kẻ Chài ( 1 đơn vị hành chính thời Hùng Vương), sau đó được biến âm thành
các làng Cổ Lễ, Cổ Trai. Ngồi ra cịn có các tên Nôm như: Nhội (Xuân Lôi),
Nấm ( Đồng Lâm), Nang ( An Nang), Nỏ ( Tân Mỹ). Theo các nhà nghiên
cứu sử học thì những làng có tên Nơm và tên chữ Hán Việt là những làng Việt
Cổ, những làng này đã được hình thành và phát triển khoảng 2500 năm cách
ngày nay.
Hồng Minh là một vùng đất cổ, cùng với quá trình hình thành làng xã,
tên các làng ở xã Hồng Minh cũng có nhiều thay đổi theo từng thời kỳ. Ở thời
kỳ đầu công nguyên, Hồng Minh thuộc vùng phía nam của huyện Chu Diên,
quận Giao Chỉ. Đến thế kỷ thứ VI, Hồng Minh thuộc về trang Vĩnh Duyên,
sau đến thời Trần, đất Hồng Minh nằm ở phía Bắc huyện Bổng Điền thuộc
phủ Thiên Trường, sang đến thời Lê thuộc huyện Thư Trì phủ Kiến Xương1.
Bước sang thời Nguyễn, đất Hồng Minh gồm các xã Phú Nha, Thâm
Động, Tịnh Xuyên, trang Tịnh Xuyên phường Thượng Hộ thuộc tổng Thượng
Hộ huyện Thư Trì, phủ Kiến Xương, thơn Cổ Trai thuộc xã Thọ Duyên , tổng
Duyên Hà, phủ Tiên Hưng.

1

 

Dẫn theo. Tên làng xã Thái Bình qua các đời. Nxb Hội văn học nghệ thuật Thái Bình 1993


11


Trước Cách mạng tháng Tám năm 1945, phạm vi địa giới, tên làng xã
của vùng đất Hồng Minh có sự thay đổi lớn, các xã Thượng Hộ ( Cổ Lễ), Phú
Nha, Thâm Động ( Xuân Lôi), Đồng Lâm, An Nang ( Phủ Nỗ), Tịnh Xuyên,
Tịnh Thuỷ thuộc tổng Thượng Hộ và thôn Đồng Đào, xã Vị Sĩ thuộc tổng Vị
Sĩ, huyện Hưng Hà1.
Tháng 3 năm 1946, Hội đồng nhân dân Tỉnh Thái Bình ra quyết định
bỏ tổng, đổi phủ thành huyện. Lúc này địa danh hành chính của xã Hồng
Minh gồm: Thâm Động, Phú Nha thuộc xã Phú Động, Cổ Trai thuộc xã
Thanh Trai, Tịnh Xuyên, Tịnh Thuỷ thuộc xã Kháng Xuyên, Đồng Đào thuộc
xã An Lại, Thọ Phúc thuộc xã Thọ Bùi, Cổ Lễ, Minh Thành, Cổ Rồng thuộc
xã Thượng Hộ.
Thời kỳ 1945-1955, Xuân Lôi thuộc xã Hồng Phong huyện Duyên Hà.
Ngày 17/6/1969 Hội đồng chính phủ ra quyết định số 93/ CP điều chỉnh địa
giới các huyện thuộc tỉnh Thái Bình, huyện Hưng Nhân sát nhập với huyện
Duyên Hà thành huyện Hưng Hà. Ngày 13/2/1972 trên cơ sở sát nhập xã
Minh Hồng và xã Hồng Phong lấy tên là xã Hồng Minh. Kể từ năm 1977 đến
nay, làng Xuân Lôi thuộc xã Hồng Minh huyện Hưng Hà tỉnh Thái Bình.
Năm 2003 theo quyết định của Uỷ ban Nhân dân Tỉnh Hồng Minh cịn
11 thơn: Thọ Phú, Tân Mỹ, Đồng Lâm, Phú Nha, Xuân Lôi, Cổ Trai, Minh
Xuyên, Minh Thành, Tịnh Xuyên, Tịnh Thuỷ, Đồng Đào. Làng Xuân Lôi trở
thành thôn Xuân Lôi, xã Hồng Minh huyện Hưng Hà tỉnh Thái Bình. Thơn
Xn Lơi có diện tích tự nhiên 69,12ha, dân số 1042 nhân khẩu. Làng Xn
Lơi nói riêng và xã Thâm Động xưa kia nay thuộc Hồng Minh nói chung là
mội miền đất ngã ba sơng Hồng và sơng Trà Lý, từ xã xưa đã có cư dân người
Việt cổ sinh sống và lập làng nơi đây. Theo các nhà nghiên cứu lịch sử và
cuốn “Địa danh Thái Bình xưa và nay” : “ Động” là nơi ở của con người cổ
trong hang động miền núi, sau thành danh từ chỉ 1 đơn vị cư trú: khi xuống

1

 

Dẫn theo Tên làng xã Thái Bình qua các đời. Nxb Hội văn học nghệ thuật Thái Bình 1993

12


đồng bằng “ động” là một đơn vị hành chính nhỏ, là loại hình đơn vị hành
chính “ tối cổ”1. Xn Lơi nói riêng và Thâm Động đã có sự phát triển kinh
tế, văn hoá, xã hội từ xa xưa. Ngay trên bờ sơng Trà Lý cịn có một bến cổ,
gọi là bến Hợm, tương truyền đây là bến tập trung quân lương của Lý Bôn
trong cuộc chiến chống quân xâm lược nhà Lương, và là bến “cảng” của ngã
ba sông Hồng - sông Trà Lý, nơi hội tụ thông thương Nam - Bắc, Đông - Tây
trong suốt thời kỳ lịch sử phong kiến.
Thời Lý Trần, vùng đất này là cứ địa của cuộc kháng chiến Lý Bí ( Lý
Nam Đế) và triều Lý, đến thời Trần, vùng đất Long Hưng, Ngự Thiên là miền
quê phát nghiệp của Vương triều Trần, nên vùng đất này có đền thờ ba vua
Tiền Lý có miếu Long Hưng, cung Lỗ Giang và đền thờ các vua Trần ở xã
Thâm Động.
Vị trí địa lý làng Xn Lơi: Phía Đơng giáp làng Tịnh Xun, phía bắc
giáp sơng Giai, phía Tây giáp làng làng Đồng Lâm, phía nam giáp sơng Trà.
Làng được bao quanh bởi 3 con sơng: sơng Trà, sơng Giai, sơng ba Tư Vịi.
Sơng Trà Lý là con sông lớn chảy qua làng, sông Giai là con sông dẫn nước
vào nội đồng (tương truyền được đào từ thời Tiền Lý, khi Lý Bôn dựng cờ
khởi nghĩa đã cho đào con sông này để chuyên chở qn lương). Sơng Ba Tư
Vịi được đào năm 1977 để dẫn nước tưới tiêu nội đồng.
Làng Xn Lơi có rất nhiều gò đống như: đống con Mèo, đống Gò…
và các càn như: càn Mả dài, càn Mả tiện, càn Lẫm, càn Cổ ngựa. Đó là những

gị đất cao ở bốn phái xung quanh làng, các gò cao rộng này được làm nơi an
táng những người quá cố của dân làng. ( thổ ngữ địa phương gọi là Càn)
Chạy dọc theo làng là con đường Đỗi Hà, trên con đường này có một
mốc đá được các cụ chơn từ thời cổ để phân chia ranh giới giữa làng Nhội với
làng khác.

1

 

Dẫn theo Địa danh Thái Bình xưa và nay. Nguyễn Thanh ( ch.b)

13


Nghề nghiệp chủ yếu của người dân Xuân Lôi là nghề trồng trọt, có
trồng lúa nước và trồng cây hoa màu. Ruộng canh tác của làng ở độ cao thấp
không giống nhau nên được chia làm ba cánh, trũng nhất là cánh đằng trước
(trước nữa được chia làm năm đỗi, từ trên cao xuống đỗi nhất, đỗi nhì, đỗi
tam, đỗi tứ, đỗi ngũ), tiếp đến là cánh đằng sau và cao nhất là cánh đồng
Thanh Đồng. Đất đai của làng chủ yếu là do sông Hồng và sông Trà bồi đắp.
Tổng diện tích đất canh tác của làng là 532.488m2 .
Vùng đất Xn Lơi do thuận lợi về vị trí địa lý và đất đai màu mỡ nên
ngay từ rất sớm đã có cư dân đến cư trú, hình thành nên làng Nhội với một
nền văn hoá làng xã lâu đời. Theo truyền ngơn thì từ thời cổ đã có một số
dịng họ chính từ miền núi trung du phía Bắc xi dịng sơng Hồng mà xuống
như: Phạm, Đồn, Lê, Trần, Nguyễn. Sau đó có thêm một số dịng họ khác
đến sinh sống. Hiện nay trong làng có hơn 20 dịng họ như họ Nguyễn, họ
Phạm, họ Trần, họ Đồn, họ Hoàng, họ Lê, họ Phan, họ Đào, họ Vũ, họ Bùi.
Trong những họ này đã có một số người đỗ đạt cao và làm quan lớn trong

triều đình phong kiến như cụ: Trần Ngọc Lâm ( từng giữ chức Hàn lâm thư
viện tại triều Nguyễn) , cụ Hoàng Thời Lượng ( đỗ cử nhân vào thời
Nguyễn)…. Ngồi ra cịn có một số vị khác làm quan tri huyện và một số vị
đỗ tú tài.
Hồng Minh là xã có hệ thống giao thông thuỷ bộ thuận tiện cho việc đi
lại giao lưu thương mại với các vùng khác trong tỉnh và tỉnh bạn, chính vì vậy
ở đây có nhiều điều kiện để phát triển kinh tế xã hội. Là vùng đất “ cận sông”
dân cư sinh sống tập trung, buôn bán nhộn nhịp “ trên bến dưới thuyền” lại
nối liền giao lưu với tỉnh bạn nên Hồng Minh trở thành cầu nối trung chuyển
hàng hoá, thúc đẩy phát triển giao lưu kinh tế. Dân cư của làng Nhội còn nổi
tiếng với một số nghề thủ công như trồng dâu, nuôi tằm, dệt vải. Ngồi ra
Xn Lơi cịn là làng nghề mộc trạm khắc có tiếng tăm với một số nghệ nhân
tiêu biểu như: cụ Nguyễn Văn Táo, Nguyễn Văn Đảng. Đình Xn Lơi là một

 

14


trong những cơng trình do chính bàn tay những người con quê hương thực
hiện.
1.1.2. Truyền thống văn hoá
Hồng Minh là vùng đất có bề dày truyền thống văn hố, lịch sử. Nơi
đây đã sớm hình thành nên các làng xã của người Việt cổ với những nét đẹp
văn hố cịn lưu giữ đến ngày nay.
Hồng Minh trước đây là một vùng đất sình lầy, cư dân đến đây đã phải
cần cù bền bỉ khai hoang cải tạo đất đai, san lấp các vùng trũng, tận dụng các
gò đống cao ven sông để định cư lập nghiệp. Do đây là vùng đất ven sông nên
phát triển nghề đánh bắt cá và nghề trồng lúa nước tạo ra nguồn lương thực
dồi dào. Khi cuộc khởi nghĩa của Kim Sa, Mĩ Thi, Trình Mạc Cơng, Trình Thị

Chu và sau này là Lý Bơn nổ ra thì vùng đất này dất này là nơi cung cấp
lương thực chính cho nghĩa quân. Đến các thời kỳ tiếp theo được sự quan tâm
của Nhà nước phong kiến với các chính sách về phát triển nơng nghiệp và trị
thuỷ thì sản xuất nơng nghiệp ngày càng có nhiều điều kiện để phát triển.
Cùng với sản xuất nông nghiệp, các nghề thủ công truyền thống ở
Hồng Minh cũng phát triển như đan lát, mây tre, mộc, dệt vải, tơ lụa. Ở Tịnh
Xuyên, Xuân Lôi nghề dệt rất phát triển, mỗi làng có hàng chục khung dệt nổi
tiếng một thời.
Nghề mộc, chạm khắc gỗ cũng rất phát triển, các đình, chùa ở Hồng
Minh hầu hết đều do các hiệp thợ trong xã làm.
Mảnh đất Hồng Minh vốn có bề dày về truyền thống hiếu học, từng có
nhiều con em trong xã được ghi danh trên bảng vàng khoa cử Việt Nam như
cụ Đào Thế Vinh đỗ phó bảng, Bùi Tam Đồng, Bùi Huy Bình, Nguyễn
Thượng Tuần đỗ cử nhân…
Ngày nay phát huy truyền thống hiếu học của cha ông, con em Hồng
Minh càng phấn đấu hơn nữa để làm rạng danh cho quê hương (Hồng Minh

 

15


ln là xã được xếp vào danh sách xã có thành tích đỗ đạt cao của huyện
Hưng Hà).
Hồng Minh là một vùng đất có từ lâu đời nên cịn lưu giữ được rất
nhiều nét đẹp văn hoá truyền thống. Nét đẹp ấy được lưu truyền qua các di
tích lịch sử văn hóa. Ngay từ rất sớm người dân Hồng Minh đã lập nên các
đình, đền, chùa, miếu tơn thờ các vị Thành hồng làng và những anh hùng có
cơng với nước, giúp dân lập làng xã, khai phá đất đai
Hiện nay trên tồn xã có 7 ngơi đình đó là đình làng Thọ Phú, Đồng

Lâm, Xn Lơi, Cổ Trai, Tịnh Xun, Đồng Đào, Đình Nang. Trong đó cịn 5
ngơi đình được làm bằng gỗ lim rất đồ sộ với những mảng chạm khắc tinh
xảo thể hiện sự khéo léo của người thợ. Bên cạnh đó cịn có 6 ngơi chùa: chùa
Khánh Long, Hiến Nhân, chùa Nấm, chùa Cổ Trai, chùa Phúc Long, Chùa
Nhội và 3 ngôi đền: Đền Trần ( Thái Lăng- Đồng Lâm), đền Tịnh Thuỷ, đền
Cổ Trai cùng với 6 ngôi miếu: miếu Đông, miếu Tây, miếu Đức Ông, miếu
Bà, miếu Thánh hoá, miếu Thánh Cả.
Trong các di tích trên hiện có rất nhiều di tích có kiến trúc nghệ thuật
độc đáo mang đậm nét cổ xưa, các mảng chạm tinh xảo với đề tài tứ linh, tứ
quý và đề tài dân gian như cá, vịt tung tăng bơi lội.
Cùng với di sản văn hóa vật thể thì ở Hồng Minh cịn lưu giữ được di
sản văn hóa phi vật thể đó là những lễ hội truyền thống mang đậm nét q
hương như: hội đình làng Xn Lơi, Tịnh Xuyên, Cổ Trai, Thọ Phú, hội đền
Thanh Lãng. Các lễ hội này được tổ chức hằng năm và thường diễn ra vào
mùa xuân, mùa thu nhằm tôn vinh các bậc tiền nhân có cơng giúp dân, giúp
nước đánh giặc. Mỗi lễ hội đều có hoạt động tế lễ và các trị chơi dân gian
nhằm tái hiện hành trạng, cơng lao của các vị danh thần, Thành hồng làng.
Các trị chơi dân gian phong phú như: vật võ, đua thuyền, đánh đu, hát chèo,
chọi gà…

 

16


Trong q trình phát triển dân, làng xã ngồi việc thể hiện những nét
đẹp văn hố cịn có truyền thống đấu tranh bảo vệ làng xã, bảo vệ quê hương.
Truyền thống ấy được duy trì trong suốt chiều dài lịch sử từ khi lập làng tới
nay. Điều đó được phát huy mạnh mẽ nhất trong hai cuộc kháng chiến chống
Pháp, chống Mỹ trường kỳ của dân tộc. Người dân nơi đây đã dũng cảm kiên

cường trong kháng chiến chống Pháp, không tiếc sức người, sức của chi viện
cho đồng bào miền Nam trong kháng chiến chống Mĩ. Sự đóng góp ấy của
nhân dân Xn Lơi nói riêng, Hồng Minh nói chung đã góp phần vào thắng
lợi của sự nghiệp chống giặc ngoại xâm, thống nhất đất nước của dân tộc.
Ngày nay, tiếp tục phát huy những truyền thống tốt đẹp của các thế hệ
đi trước, cùng với q trình cơng nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước, Đảng Bộ
và nhân dân Hồng Minh đang tích cực tham gia phong trào xây dựng nơng
thơn mới, từng bước hình thành nên bộ mặt nông thôn thời kỳ hiện đại. Các
hoạt động văn hoá, y tế, giáo dục đều được đầu tư và có những tiến bộ rõ rệt.
Khối đại đồn kết toàn dân ngày càng được củng cố, nâng cao đời sống của
nhân dân, từ đó sẽ có nhiều cơ hội để quan tâm, chú trọng tới việc bảo tồn và
tôn tạo những di tích lịch sử trên q hương mình, trong đó có di tích đình
Xn Lơi.
1.2. Đình Xn Lơi trong diễn trình lịch sử
Mỗi di tích ra đời dù sớm hay muộn đều phản ánh một cách chân thực
tư duy nghệ thuật cũng như tình hình phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội của
một thời kỳ nhất định, đặc biệt là vai trò sinh hoạt cộng đồng làng xã trong
đời sống của mỗi con người gắn với các hình thái tơn giáo, tín ngưỡng, do vậy
việc tìm hiểu niên đại khởi dựng của di tích là điều vơ cùng quan trọng và cần
thiết.
Căn cứ vào bia hậu còn lưu giữ tại đình với dịng chữ “Vĩnh Thịnh nhị
niên thất nguyệt cốc nhật” cho biết ngơi đình Xn Lơi cổ được xây dựng
năm 1706.

 

17


Bên cạnh đó, trên thượng lương của ngơi đình cổ ghi hàng chữ “ Bính

Tý niên tu tạo” tuy khơng ghi quốc hiệu nhưng trên bức đại tự của đình có ghi
“Duy Tân Bính Tý niên” ( 1906 ). Như vậy ngơi đình cổ đã được xây dựng từ
thời Lê, qua nhiều lần tu tạo, lần cuối là vào năm 1906, nay trở thành tồ dải
vũ của ngơi đình hiện tại.
Theo các bậc cao niên trong làng ngơi đình mới được xây dựng trong 3
năm: 1932 xây dựng toà cung và 1935 xây dựng toà đại bái. Trên thượng
lương của tịa đại bái có khắc số “1935”. Từ đây, ngơi đình cổ lại được
chuyển chức năng thành hai tồ dải vũ của ngơi đình hiện nay. Trải qua thời
gian, trước sự tác động của thiên nhiên và con người, ngôi đình đã được tu bổ
nhiều lần. Vào năm 1964-1995 dân làng tự nguyện quyên góp tu sửa: mái,
xây tường bao quanh khu di tích, xây cổng ra vào khu di tích. Năm 1996 chữa
dột xối đình, thay tàu gỗ lim. Năm 1999 lát lại nền đình và sân đình bằng
gạch Giếng Đáy. Năm 2008 xây bờ xung quanh hồ, xây nghi mơn, đảo ngói
hai tồ dải vũ, xây tường bao hai đầu hồi đình. Qua nhiều lần tu bổ ngơi đình
vẫn giữ nguyên được kiến trúc gỗ, các yếu tố gốc của di tích được giữ gìn
ngun vẹn góp phần bảo tồn di tích.
1.3. Lịch sử vị thần được thờ trong di tích
Trong phạm vi gia đình, người Việt thờ tổ tiên và vài vị thần như Táo
công, Thổ công, thần Tài...; ở phạm vi làng xã, người Việt thờ Thành hoàng.
Thành hoàng làng (Thành hoàng) là danh từ chung để chỉ vị thần được thờ
trong một làng xã Việt Nam. Giống như Táo cơng và Thổ cơng, Thành hồng
cai quản và quyết định họa phúc của một làng và thường được thờ ở đình
làng. Do vậy hầu hết ở mỗi làng quê hay phố nghề (nơi thị thành) đều lập đình
(hoặc đền, miếu) thờ vị Thành hồng của làng hay phường hội. Thành hồng
là người có cơng với dân, với nước, lập làng, dựng ấp hay sáng lập nên một
nghề (ông tổ nghề).

 

18



Tục thờ Thành hoàng ở nước ta là do ảnh hưởng từ văn hóa Trung Hoa
truyền sang từ thời Đường. Tuy nhiên theo Phan Kế Bính thì trước đó nhân
dân ta cũng đã có những tín ngưỡng dân gian rồi. Sau khi du nhập vào làng xã
Việt Nam đã nhanh chóng bám rễ vào trong tâm thức người nơng dân Việt,
trở nên hết sức đa dạng, thể hiện truyền thống “uống nước nhớ nguồn”. Tơn
thờ Thành hồng làng chính là một nhu cầu tâm lý, người dân thờ Thành
hoàng làng để phục vụ cho hiện thực cuộc sống, là chỗ dựa tinh thần không
thể thiếu được, là phương tiện, là động lực thúc đẩy sản xuất và ổn định cuộc
sống. Thành hoàng cũng được gọi là phúc thần, tức vị thần ban phúc cho dân
làng, thường mỗi làng thờ một Thành hồng, song cũng có khi một làng thờ
hai, ba hoặc hai ba làng thờ một vị. Thành hồng có thể là nam thần hay nữ
thần, tuỳ sự tích mỗi làng. Đó có thể là một vị thần như Phù Đổng Thiên
vương, thần núi như Tản Viên Sơn thần, thần có cơng với dân với nước như
Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo, Yết Kiêu, Dã Tượng... lại có khi là các yêu
thần, tà thần... với nhiều sự tích hết sức lạ lùng, nhiều khi có vẻ vơ lý.
Thành hồng có sức toả sáng vơ hình như một quyền uy siêu việt, khiến
cho làng quê trở thành một hệ thống chặt chẽ. Theo tục lệ xưa, các đời vua
thường phong các vị Thành hoàng thành ba bậc: Thượng đẳng thần, Trung
đẳng thần và Hạ đẳng thần, tuỳ theo sự tích và công trạng của các vị thần đối
với nước với dân, với làng xã. Các vị thần cũng được xét đưa từ thứ vị nọ lên
thứ vị kia, nếu trong thời gian cai quản các vị này đã phù hộ, giúp đỡ được
nhiều cho đời sống vật chất và tâm linh của dân chúng. Việc thăng phong các
vị thành hoàng căn cứ vào sớ tâu của làng xã về công trạng của các vị thần.
Sớ này phải nộp về triều đình trong một thời gian quy định. Mỗi lần thăng
phong triều đình đều gửi sắc vua ban rất linh đình và cất nó trong hịm sắc thờ
ở hậu cung của đình làng.
Cùng với việc thờ cúng tổ tiên thì tín ngưỡng thờ Thành hoàng làng
đem lại cho người dân ý thức hướng về cội nguồn, về quê cha đất tổ bằng


 

19


những biểu hiện sinh hoạt văn hoá truyền thống. Bảo tồn và phát huy những
di sản văn hoá là trách nhiệm của mỗi người và cũng là để góp phần xây dựng
nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc văn hố dân tộc
Đình Xn Lơi thờ 3 vị thành hồng là Trình Mạc Cơng, Chu Nương
Quang Dung và Thần Đầu Thiên Giáo Trương Lã Công Linh đạo Đại Vương
Bằng việc tìm hiểu thơng qua các bậc cao niên trong làng và một số tư
liệu được biết Trình Mạc Công và Chu Nương Quang Dung là hai nhân vật ở
thời kỳ đầu cơng ngun. Trình Mạc Cơng và Chu Nương Quang Dung là hai
anh em ruột, quê ở phủ Thuận An, đạo Kinh Bắc vì “ nợ nước thù nhà” đã về
Xuân Lôi triệu tập trai tráng, phất cao cờ khởi nghĩa phò giúp Hai Bà Trưng
đánh quân xâm lược Đông Hán bảo vệ giang sơn đất nước. Sau đó Trình Mạc
cơng và Chu Nương Quang Dung có công giúp dân dựng làng, ổn định đời
sống, xây dựng làng xã ngày càng phồn thịnh. Khi hai người mất, nhân dân
tưởng nhớ công ơn to lớn, lập miếu thờ tự, tơn các vị là Thành hồng làng.
Vị Thành hồng thứ ba được thờ tại đình Xn Lơi là Thần Đầu Thiên
Giáo Trương Lã Công Linh đạo Đại Vương, theo truyền thuyết, đến thế kỉ thứ
XI có một nhà nho người n Mơ, Ninh Bình đến Xn Lơi dạy học, nhà nho
có người con trai là Trương Tương Cơng, là người học giỏi, đỗ đạt, được nhà
lý trọng dụng làm quan trấn giữ cửa thần phù hải khẩu. Trương Tương Công
đã từng cầm quân chiến đấu và chiến thắng oanh liệt quân Chiêm Thành, giữ
yên bờ cõi giang sơn đất nước. sau này tuổi cao sức yếu, ông cáo quan về làng
dạy học, với công lao to lớn của ông với nước với dân, khi ông mất nhân dân
thờ phụng ơng như bậc Thành hồng làng.
Theo thần tích bản chữ Hán ( lưu trữ tại thư Viện Hán nôm) và thần

tích của Trình Mạc Cơng và Chu Nương Quang Dung được dịch như sau:
“ Xưa nước Việt ta khai dựng cơ nghiệp tại phương Nam, núi sơng ứng
với vị trí sao Dực, sao Chẩn, Nam Bắc phân chia, phần đã thuộc sao Đẩu, sao
Ngưu. Hùng triều mở vận, thánh tổ gánh vác cơ đồ, nước sông trong xanh,

 

20


sơn hà hưng thịnh. Đến vua Hiển Vương non xanh vạn dặm sáng lập thành
đô, cung điện vững nền linh thiêng nơi Nghĩa Linh hương hoả lưu truyền
chốn núi Hùng sơn. Cha truyền con nối các đời đều xưng là Hùng Vương. Đất
nước văn hiến, non sơng một giải. Đó chính là tổ của Bách Việt vậy. Đến thời
Duệ vương nhường ngôi cho Thục chúa. Thục chúa lên ngôi, định đô ở thành
Cổ Loa, hiệu là Thục An Dương Vương. An Dương Vương tại vị 55 năm thì
có người Bác quốc họ Triệu tên Đà đem 10 vạn hùng binh kéo sang. Chỉ một
trận đại chiến mà nhà Thục mất nước. từ đó nước Việt ta lệ thuộc vào nhà
Hán. Đến niên hiệu Quang Vũ thời Đông Hán, Tô Định làm Thái thú nước ta
tham tàn hại dân, chính sự bạo ngược khiến cho nhân dân trong nước cơ cực
lầm than, không nơi nương tựa. Thời bấy giờ ở xã Phấn Thư, huyện Chu
Diên, phủ Tam Đới, đạo Sơn Tây có người con gái của Trưng tướng quân, tức
là cháu ngoại Hùng Vương, cùng với em gái mình tên là Nhị Nương đều là
bậc nữ lưu hào kiệt, tài giỏi hơn người. Bởi Tô Định giết Thi Sách - chồng
Trưng Trắc, nên bà nổi giận bèn cùng em khởi nghĩa ở Hát giang. Bấy giờ các
nữ tướng anh hùng thao lược cịn chưa tuyển chọn được, hai bà tích trữ binh
lương, ngầm nuôi quân sỹ, xây dựng hùng binh chờ thời.
Lại nói, ở xã Dương Liệt huyện Tế Giang, phủ Thuận An đạo Kinh
Bắc, có nhà họ Trình h là Hùng. Ông lấy vợ người cùng làng, ho Chu hiệu
là Tố. Gia đình ơng vốn dịng dõi nho phong thi lễ, nhiều đời làm việc thiện,

công danh vinh hiển trong triều. Vợ chồng ơng bà đã ngồi 40 mà vẫn chưa
một lần sinh nở. Từ đó bà gia tâm làm phúc. Phàm các đền chùa linh thiêng
bà đều đến lễ và rất mực thành tâm công đức. Một bữa bà mơ thấy một con
rết từ trên trời giáng xuống phòng, bà bèn bắt con rết. Con rết liền biến thành
một người con trai và kêu lên một tiếng, phu nhân sực tỉnh. Từ đó bà mang
thai thường nghe thấy tiếng đọc thơ rằng:
Thiên tài đã định cho Trình gia,
Danh thơm vạn cổ, sách hải hà.

 

21


Tơ Định dẹp xong phị thánh chúa
Ngàn năm hưởng phúc đội ân ba.
Đến ngày mồng Mười tháng Giêng năm Giáp Thìn bỗng thấy hương
thơm phưng phức, khí lành bay ngát, bà sinh hạ một cậu con trai khôi ngô
tuấn tú, khí chất hiên ngang, vượt xa người thường. Tới năm Bính Ngọ, phu
nhân mộng thấy một bơng hoa đỏ, rồi vào ngày 10 tháng Tám sinh hạ một cô
con gái, mắt sáng đẹp tựa gương trong, sắc tươi như bông hoa mai điểm tuyết.
Khi mới 5 tuổi đã am hiểu thi luật. Cha mẹ vô cùng mừng rỡ, cho là hai lần
trời cho phúc. Ông bà đặt tên người con trai trưởng là Mạc công, con thứ là
Chu nương. Lúc 8 tuổi hai anh em bắt đầu theo học Liên Đường tiên sinh.
Học được 6 năm, văn chương đã am tỏ, võ nghệ thảy tinh thơng. Tiên sinh
thường nói:
Nhà này có phúc gì mà sao mới sinh được con trai, con gái giỏi giang
như vậy, sau này làm vẻ dòng dõi, tiếng thơm mn đời.
Lại nói về Chu nương. Bấy giờ mới 16 tuổi mà tài sắc đều vẹn toàn. Tơ
Định nghe tin liền chuẩn bị sính lễ đến nhà họ Trình xin cưới nàng làm vợ.

Trình cơng khơng đồng ý gả. Tô Định bừng bừng tức giận, đem quân đến bắt,
chém vợ chồng ông, rồi lấy sạch mọi của cải gia tư. Mạc cơng và Chu nương
thốt được, chạy đến thơn Xn Lơi xã Thâm Động, huyện Thư Trì, phủ Kiến
Xương nương tựa ở một ngôi chùa, đêm ngày siêng năng tụng kinh niệm phật,
đau đáu khơng qn chí báo thù. Một năm trời ngầm nuôi mối thù, chiêu nạp
những người phản kháng, anh hùng khắp nơi nhiều người theo về. Họ trình đã
chiêu mộ được hơn 500 người và các nam binh nữ tướng thôn Xuân Lôi cả
thảy 36 người dùng làm gia thần thân cận. Một đêm, Chu nương xem thiên
văn nhìn xa thấy Nữ tinh xán lán, bèn nói với anh trai rằng: “Nước Việt tất
sinh nữ thánh nhân chăng?”

 

22


Nói xong, sai người mổ trâu bị, làm lễ cáo tế với bách thần trời đất,
khao đãi quân sĩ, chiêu dụ anh hùng được hơn hai nghìn người, hội họp ở đồn
sở Xn Lơi, hai anh em nói với các tướng rằng:
Anh em ta có mối thù khơng đội trời chung với Tơ Định
Rồi hai anh em dẫn hai nghìn hùng binh kéo thẳng tới cửa sông Hát
huyện Đan Phượng phủ Quốc Oai ra mắt Hai Bà Trưng. Trưng thị thấy hai
anh em tướng mạo đường bệ, khí giới trang nghiêm, bèn bảo rằng: “hai anh
em tài sắc vẹn toàn, chắc trời muốn cho ta làm hoàng đế nên sinh ra bậc hiền
tài để phò tá ta đây.
Trưng thị liền lập đàn chay ở cửa sông Hát, làm lễ tế trời đất bách thần,
khấn rằng:
Bọn thiếp vốn phận nữ nhi, nghĩ tới nỗi thống khổ lầm than của nhân
dân nên dấy quân khởi nghĩa, tiêu từ giặc ác, nguyện khôi phục lại giang san
tổ tiên xưa, muôn nhờ vào sức trời đất bách thần ngầm phù trợ.

Tế xong Trưng thị phủ phục trước đàn tế, mơ màng thiếp đi. Bỗng thấy
một vị thần mình mặc hồng bào, giáp sắt giáng trước đàn tế, bảo Trưng thị
rằng:
“Ta là thần đương niên hành khiển Tống vương, tuần hành coi thiên hạ,
quyền coi sơng Hát này.
Nói xong ngài bay lên khơng trung đi mất. Trưg thị tỉnh dậy, biết trời
đã sai tướng giúp mình, nhất định sẽ có cảnh tượng thanh bình. Sáng hôm sau,
bà cùng các tướng làm lễ bái tạ. Việc xong chia quân làm hai đạo thuỷ, bộ tới
thẳng nơi quân Tô Định giao chiến. Quân Tô Định tan vỡ bỏ chạy tán loạn.
Thế rối Trưng thị đắp 65 thành, thu phục toàn bộ đất nước, tự lập Trưng Nữ
Vương, đóng đơ ở địa phận Cấm Khê. Bấy giờ Trưng Vương làm lễ lớn ăn
mừng, khao thưởng quân si, phong tặng các vị công thần tuỳ theo công trạng.
Trưng Vương gia phong cho Mạc cơng làm Thái Trình đơ họ Uyên Mặc
Đại tướng quân, phong Chu nương làm Bình Khẩu Quang Dung công chúa.

 

23


Hai anh em dâng tấu biểu xin Trưng Vương cho về thăm mộ song thân.
Trưng Vương đồng ý lại ban cho hai anh em 20 hốt vàng, gấm đoạn mấy chục
tấm. Hai anh em làm lễ bái tạ Trưng Vương xong rồi trở về quê quán bái tạ
gia tiên, rồi về thăm đồn sở Xuân Lôi xưa. Hai người lại làm lễ ăn mừng và
ban cho nhân dân 50 hốt vàng để làm cơng quỹ. Hai anh em nói rằng:
Anh em ta sau này trăm tuổi muốn được lập hai miếu bên ấp này để
được phụng thờ, mọi người hãy tn theo khơng được thay đổi.
Nghe nói vậy, nhân dân già trẻ tất thảy đều mừng vui.
Lại nói lúc bấy giờ, vua Trung Quốc - Hán Quang Đế phong Mã Viện
chức Phục Ba tướng quân, sai cùng bọn Lưu Thăng đem 30 vạn hùng binh,

3.000 kỵ mã chia làm 5 hướng, sang nước ta cướp bóc. Thư biên thuỳ báo gấp
một đêm tới 5 lần. Trưng Vương vô cùng lo lắng, bèn triệu Mạc công và Chu
Nương về triều, xuống chiếu diệt giặc. Hai anh em cùng 50 gia thần người
Xuân Lôi đem 12 vạn hùng binh quyết chiến suốt mấy năm, cả thảy tới 30
trận mà vẫn chưa phân được thắng bại. Trưng Vương lui về giữ đất Cấm Khê.
Quân Hán hùng hổ kéo đến bao vây. Thành Cấm Khê bị vây hãm. Trưng
Vương tự lượng sức biết không thể thoát bèn cùng chư tướng dựa lưng vào
thành tử chiến một trận, mọi người đều tử trận. Hơm đó là ngày mùng 10
tháng Tám. 50 người Xuân Lôi theo hai anh em đi diệt trừ quân giặc nhưng
chỉ còn sống sót 3 người trở về báo rằng hai vị đã hố. Dân trong thơn bèn
làm lễ thờ phụng, viết thần hiệu, rồi lập hai miếu ở bên cạnh ấp. Miếu nằm
trên gị đất hình con thổ ( hình vng) , hướng tây - nam, lưu truyền dấu tích
hương hoả mn đời.
Lại nói sau khi đã hố, thì thường có rất nhiều việc linh ứng. Vậy nên
được đế vương các đời phong tặng mỹ tự là Thượng đẳng phúc thần, mãi cịn
cùng đất nước, thờ cúng mn đời.
Gia phong Thái Trình đơ hộ, un mặc, trợ quốc, hùng tài, vĩ lược,
phong công, tá tịch đại vương.

 

24


Gia phong Quang Dung chu phương phí trinh thục, Từ hồ thanh khiết
cơng chúa.
Ngày mồng 10 tháng 3 năm Vĩnh Hựu (1738)
Hàn lâm viện Đông các đại học sĩ Nguyễn Bính kính soạn.
Thư lại bát phẩm Nguyễn Hiền kính chép.
Như vậy ta có thể thấy rõ cơng lao to lớn của ba vị Thành Hồng thờ tại

đình Xn Lơi, đây đều là những anh hùng của dân tộc, những có công lớn
trong việc giúp dân lập làng, lập ấp. Công lao ấy luôn luôn được dân làng ghi
nhớ và truyền cho các thế hệ sau.

 

25


×