Khóa luận tốt nghiệp
1
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VĂN HĨA HÀ NỘI
KHOA BẢO TÀNG
*********
NGUYỄN THỊ LỆ HẰNG
TÌM HIỂU DI TÍCH NHÀ THỜ DANH NHÂN
ĐẶNG TIẾN ĐÔNG
(LÀNG LƯƠNG XÁ – XÃ LAM ĐIỀN – HUYỆN CHƯƠNG MỸ - HÀ NỘI)
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
NGÀNH BẢO TÀNG HỌC
Người hướng dẫn: PGS – TS Nguyễn Quốc Hùng
HÀ NỘI -2011
Nguyễn Thị Lệ Hằng
Lớp: Bảo tàng 27B
2
Khóa luận tốt nghiệp
LỜI CẢM ƠN
Sau một thời gian nghiên cứu và làm việc nghiêm túc, được sự giúp
đỡ chỉ bảo tận tình của các thầy cơ giáo, tơi đã hồn thành được bài khóa
luận này.
Trước hết, tơi xin dành lời cảm ơn chân thành và sâu sắc nhất tới PGS.
TS Nguyễn Quốc Hùng, người đã trực tiếp hướng dẫn khoa học và chỉ bảo
cho tôi từ khi xác định đề tài, xây dựng đề cương tới lúc hoàn thiện bài khóa
luận. Tơi cũng chân thành cảm ơn các thầy, cơ giáo trong khoa Bảo tàng
Trường Đại học Văn hóa Hà Nội, các bạn bè đã động viên, khích lệ và giúp
đõ tơi hồn thiện khóa luận này.
Qua đây tơi cũng xin cảm ơn sự giúp đỡ của chính quyền xã Lam Điền,
các cụ trong ban quản lý di tích đã tạo điều kiện thuận lợi cho tơi trong q
trình khảo sát, tiếp cận di tích nhà thờ danh nhân Đặng Tiến Đông. Là một
sinh viên năm thứ tư, chưa được tiếp xúc nhiều với thực tế, kiến trức còn hạn
chế, chắc hẳn khóa luận của tơi cịn nhiều khiếm khuyết. Kính mong nhận
được sự góp ý của các thầy cơ giáo và các bạn bè để khóa luận được hoàn
thiện hơn.
Xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, tháng 6 năm 2011
Sinh viên
Nguyễn Thị Lệ Hằng
Nguyễn Thị Lệ Hằng
Lớp: Bảo tàng 27B
Khóa luận tốt nghiệp
3
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU .............................................................................................. 1
1.Lý do chọn đề tài ........................................................................................ 5
2.Mục đích nghiên cứu .................................................................................. 7
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ............................................................. 7
4. Phương pháp luận ...................................................................................... 8
5.Phương pháp nghiên cứu ............................................................................ 8
6.Bố cục của khoá luận .................................................................................. 9
CHƯƠNG 1: LÀNG LƯƠNG XÁ VÀ DI TÍCH NHÀ THỜ DANH
NHÂN ĐẶNG TIẾN ĐƠNG ........................................................................ 10
1.1. Tổng quan về làng Lương Xá ............................................................... 10
1.1.1. Vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên .................................................. 10
1.1.2. Đời sống dân cư, kinh tế ................................................................ 11
1.1.3. Đời sống văn hố và truyền thống cách mạng ............................... 13
1.2 Di tích nhà thờ danh nhân Đặng Tiến Đơng trong diễn trình lịch sử ... 22
1.2.1. Niên đại khởi dựng ......................................................................... 22
1.2.2. Q trình tồn tại của di tích ............................................................ 23
1.2.3. Vai trị của di tích trong đời sống văn hóa xã hội của làng Lương
Xá ............................................................................................................. 24
1.3. Đôi nét về danh nhân Đặng Tiến Đơng và dịng họ Đặng – Lương Xá25
1.3.1. Đôi nét về tiểu sử danh nhân Đặng Tiến Đơng .............................. 25
1.3.2. Đơi nét về dịng họ Đặng – Lương Xá ........................................... 30
CHƯƠNG 2: CÁC GIÁ TRỊ VĂN HOÁ DI TÍCH NHÀ THỜ DANH
NHÂN ĐẶNG TIẾN ĐƠNG ........................................................................ 33
2.1. Giá trị kiến trúc nghệ thuật .................................................................. 33
2.1.1. Không gian cảnh quan .................................................................... 33
2.1.2. Bố cục mặt bằng tổng thể ............................................................... 35
2.1.3. Các đơn nguyên kiến trúc............................................................... 36
Nguyễn Thị Lệ Hằng
Lớp: Bảo tàng 27B
Khóa luận tốt nghiệp
4
2.1.4. Nghệ thuật trang trí ........................................................................ 39
2.2.Giá trị các di vật trong di tích ................................................................ 42
2.2.1. Di vật bằng gỗ ................................................................................ 42
2.2.2. Di vật bằng đá ................................................................................ 44
2.2.3. Di vật bằng đồng ............................................................................ 45
2.2.4. Di vật bằng giấy ............................................................................ 45
2.2.5. Di vật bằng vải ............................................................................... 46
2.2.6. Di vật bằng gốm ............................................................................. 46
2.3. Lễ hội và các giá trị di sản phi vật thể tại di tích .................................. 46
2.4. Giá trị lịch sử ........................................................................................ 49
2.5. Giá trị văn hoá ...................................................................................... 51
2.6. Giá trị lưu niệm ..................................................................................... 52
2.7. Mối quan hệ giữa nhà thờ danh nhân Đặng Tiến Đông và các di tích tơn
giáo-tín ngưỡng trong vùng ......................................................................... 54
CHƯƠNG 3: VẤN ĐỀ BẢO TỒN, TÔN TẠO VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ
CỦA DI TÍCH................................................................................................ 59
3.1. Đánh giá hiện trạng di tích nhà thờ danh nhân Đặng Tiến Đơng ......... 59
3.1.1. Hiện trạng di tích ............................................................................ 59
3.1.2. Hiện trạng di vật tại di tích ............................................................. 60
3.2. Một số biện pháp bảo tồn, tơn tạo di tích nhà thờ danh nhân Đặng Tiến
Đông............................................................................................................. 62
3.2.1. Hệ thống văn bản pháp lý bảo vệ di tích ........................................ 62
3.2.2. Giải pháp bảo tồn di tích nhà thờ danh nhân Đặng Tiến Đông ..... 66
3.3. Khai thác và phát huy giá trị di tích danh nhân Đặng Tiến Đông ........ 75
KẾT LUẬN .................................................................................................... 79
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 82
PHỤ LỤC
Nguyễn Thị Lệ Hằng
Lớp: Bảo tàng 27B
Khóa luận tốt nghiệp
5
PHẦN MỞ ĐẦU
1.Lý do chọn đề tài
Việt Nam là một trong những quốc gia Á Đơng có nền văn hố vơ cùng
đặc sắc, đa dạng, những nét văn hố riêng biệt ấy chính là cái cốt lõi để người
ta nhận ra Việt Nam giữa hàng trăm các quốc gia khác. Các cơng trình di tích
lịch sử văn hoá và danh lam thắng cảnh là một trong những bằng chứng phản
ánh nét riêng biệt, độc đáo của đất nước ta.
Di tích lịch sử văn hố là nơi ghi dấu những công sức, tài nghệ, ý đồ
của cá nhân hay tập thể con người trong lịch sử để lại, là q trình kết tinh tài
năng, trí lực sáng tạo để chúng trở thành những bằng chứng trung thành, xác
thực, cụ thể nhất về lịch sử và bản sắc văn hố của mỗi dân tộc. Ở đó chứa
đựng tất cả những gì thuộc về truyền thống tốt đẹp, về kĩ năng, kĩ xảo của con
người. Các di tích lịch sử văn hoá tiềm ẩn dưới dáng vẻ rêu phong, cổ kính
đồng thời cũng là một Bảo tàng sống về kiến trúc điêu khắc, trang trí và cả
phong tục cổ truyền, tín ngưỡng của người Việt. Chúng là những di sản quý
giá không chỉ của một địa phương, một dân tộc mà cịn là tài sản của tồn
nhân loại. Mỗi di tích lịch sử văn hố tồn tại, chúng khơng chỉ là những cơng
trình kiến trúc, những tác phẩm nghệ thuật có giá trị mà bên cạnh đó chúng
cịn mang trong mình những hơi thở của thời đại lịch sử, những phong tục tập
quán, những tín ngưỡng dân gian. Những di tích ấy sẽ trở nên có ý nghĩa nếu
ta đi sâu vào nghiên cứu, phân tích, bóc tách các lớp văn hố chứa đựng trong
đó để phần nào hiểu rõ hơn về cội nguồn văn hoá dân tộc, để biết lựa chọn
khai thác cũng như bảo tồn, phát huy những tinh hoa, truyền thống đạo đức,
thuần phong mỹ tục, lấy đó làm nền tảng xây dựng một nền văn hiến Việt
Nam vừa mang dư âm cổ truyền, vừa mang màu sắc hiện đại.
Nguyễn Thị Lệ Hằng
Lớp: Bảo tàng 27B
Khóa luận tốt nghiệp
6
Trong hệ thống các di tích lịch sử văn hoá của dân tộc, nhà thờ danh
nhân cũng chiếm một vị trí quan trọng khơng kém những ngơi đình, ngơi chùa
cổ kính. Từ xưa tới nay đối với mỗi người dân Việt Nam, ngôi nhà thờ cúng
tổ tiên hay thờ một vị anh hùng có cơng với nước với dân là một hình ảnh rất
đỗi thân thuộc và gần gũi.
Có thể nói, đến nay, trên khắp dải đất cong cong hình chữ S này ở đâu
có cộng đồng người Việt là hầu như ở đó có sự xuất hiện của nhà thờ họ, nhà
thờ danh nhân. Chính vì vậy, nhà thờ đã trở thành một bộ phận không thể
thiếu trong đời sống tinh thần của người Việt. Nhà thờ họ hay nhà thờ danh
nhân đều giữ một vai trị quan trọng là nơi để tưởng nhớ tới cơng đức của tổ
tiên và các bậc anh hùng có cơng với dân với nước. Việc tìm hiểu về nhà thờ
danh nhân, xác định các mặt giá trị của nó khơng chỉ có ý nghĩa trong việc tìm
hiểu văn hố truyền thống uống nước nhớ nguồn của người Việt mà còn bổ
sung nguồn tư liệu khoa học cho việc bảo tồn và phát huy giá trị văn hoá
truyền thống của làng Việt cổ truyền trong đời sống xã hội hiện nay.
Là một tỉnh ở khu vực châu thổ sông Hồng, tỉnh Hà Tây xưa (mà nay
thuộc thủ đơ Hà Nội) cịn lưu giữ một hệ thống di tích phong phú, trong đó
chứa đựng và lưu truyền nhiều giá trị văn hố vật thể và phi vật thể đặc sắc.
Trải qua qua trình dựng nước và giữ nước của dân tộc, cùng với sự phát triển
của sản xuất xây dựng xóm làng các thế hệ người dân làng Lương Xá – xã
Lam Điền - huyện Chương Mỹ - Thành phố Hà Nội cịn chú trọng trong việc
xây dựng những cơng trình kiến trúc có quy mơ rộng lớn, đặc sắc để thờ
phụng các nhân vật lịch sử có cơng với dân với nước. Nhà thờ danh nhân có
niên đại thế kỷ XVII, là một cơng trình có quy mơ khá độc đáo của xứ Đồi
xưa. Đây là một di tích có nhiều đóng góp trong cuộc sống văn hố tinh thần
của nhân dân địa phương nói chung và con cháu họ Đặng nói riêng mà nội
Nguyễn Thị Lệ Hằng
Lớp: Bảo tàng 27B
Khóa luận tốt nghiệp
7
dung và giá trị nghệ thuật là một vốn cổ vô giá trong việc phát huy truyền
thống yêu nước, uống nước nhớ nguồn.
Nhận thức được vấn đề đó, được sự đồng ý của khoa Bảo tàng - Trường
Đại học Văn hoá Hà Nội cùng với sự gợi ý của thầy giáo Nguyễn Quốc Hùng,
tơi chọn di tích nhà thờ danh nhân Đặng Tiến Đông – làng Lương Xá – xã Lam
Điền - huyện Chương Mỹ - Hà Nội làm đối tượng nghiên cứu cho bài khoá luận
tốt nghiệp của mình. Hy vọng rằng, những kết quả nghiên cứu khoá luận tốt
nghiệp chuyên ngành Bảo tồn - Bảo tàng của tơi sẽ đóng góp ít nhiều vào việc
bảo tồn và phát huy giá trị của di tích nhà thờ danh nhân Đặng Tiến Đơng nói
riêng và việc bảo tồn di tích lịch sử văn hố của Thành phố Hà Nội nói chung.
2.Mục đích nghiên cứu
- Hệ thống lại các nguồn tư liệu hiện có thử phác họa vài nét về diện
mạo truyền thống văn hóa của làng Lương Xá trong diễn trình lịch sử
-Từ những nguồn tư liệu xác định niên đại khởi dựng và những lần
trùng tu, tu bổ di tích nhà thờ danh nhân Đặng Tiến Đơng, qua đó tìm hiểu sâu
về giá trị của di tích trên hai phương diện:
+ Giá trị văn hố vật thể
+ Giá trị văn hoá phi vật thể
- Nghiên cứu thực trạng di tích nhằm đưa ra các giải pháp góp phần
bảo tồn và phát huy giá trị của di tích
- Khố luận cung cấp thêm những thơng tin cho việc học tập, nghiên
cứu, nâng cao tri thức, tầm hiểu biết của chính bản thân tác giả về nhà thờ
danh nhân Đặng Tiến Đơng nói riêng và tồn bộ các di tích nói chung.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu của khoá luận: làng Lương Xá có một quần
thể di tích gồm nhà thờ danh nhân Đặng Tiến Đơng, Đình Lương Xá, chùa
Nguyễn Thị Lệ Hằng
Lớp: Bảo tàng 27B
Khóa luận tốt nghiệp
8
Thuỷ Lâm, trong phạm vi của một bài khố luận tốt nghiệp, tơi xin chọn nhà
thờ danh nhân Đặng Tiến Đơng làm đối tượng nghiên cứu chính.
- Phạm vi khơng gian: nghiên cứu khơng gian văn hố làng Lương Xá
– xã Lam Điền - huyện Chương Mỹ - thành phố Hà Nội nơi tọa lạc đền thờ
Đặng Tiến Đơng là chủ yếu. Trong q trình nghiên cứu về làng Lương Xá và
nhân vật Đặng Tiến Đông đề tài sẽ đề cập đến một số địa phương liên quan.
- Phạm vi thời gian:
+ Về di tích, di vật: Khóa luận nghiên cứu các giá trị của di tích từ khởi
nguồn đến nay.
+ Về lễ hội: Khóa Luận tìm hiểu về họat động của các ngày lễ ở nhà
thờ danh nhân Đặng Tiến Đơng được tổ chức hiện nay,có tìm hiểu, so sánh
với các ngày lễ trước kia trong phạm vi nguồn tư liệu có được.
- Phạm vi vấn đề nghiên cứu: nghiên cứu các giá trị văn hoá vật thể và
phi vật thể thơng qua di tích nhà thờ Đặng Tiến Đơng từ góc độ Bảo tàng học.
4. Phương pháp luận
- Khóa luận áp dụng phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật
lịch sử trong việc xem xét sự phát sinh, tồn tại và các diễn biến từ khởi nguồn
đến nay của nhà thờ Đặng Tiến Đông trong mối quan hệ biện chứng với các
hiện tượng, sự vật liên quan trong các thời gian và không gian cụ thể.
5.Phương pháp nghiên cứu
- Khoá luận sử dụng phương pháp nghiên cứu liên ngành: Sử học, Bảo
tàng học, Mỹ thuật học, Xã hội học,…
- Sử dụng các phương pháp khảo sát điền dã: quan sát, miêu tả, ghi
âm, ghi chép, phỏng vấn, đo vẽ, chụp ảnh,…
- Tập hợp, hệ thống hố tư liệu liên quan đến di tích để phân tích, đánh
giá, so sánh, đối chiếu,
Nguyễn Thị Lệ Hằng
Lớp: Bảo tàng 27B
Khóa luận tốt nghiệp
9
6.Bố cục của khố luận
Ngồi phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục,
khố luận gồm có ba chương:
Chương 1: Làng Lương Xá và di tích nhà thờ danh nhân Đặng Tiến
Đơng
Chương 2: Các giá trị văn hố di tích nhà thờ danh nhân Đặng Tiến
Đông
Chương 3: Vấn đề bảo tồn, tôn tạo và phát huy giá trị của di tích
Nguyễn Thị Lệ Hằng
Lớp: Bảo tàng 27B
Khóa luận tốt nghiệp
10
CHƯƠNG 1
LÀNG LƯƠNG XÁ VÀ DI TÍCH NHÀ THỜ
DANH NHÂN ĐẶNG TIẾN ĐÔNG
1.1. Tổng quan về làng Lương Xá
1.1.1. Vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên
Lương Xá là một ngôi làng nhỏ nằm bên bờ sông Đáy thuộc xã Lam
Điền, huyện Chương Mỹ, Hà Nội. Trong lịch sử, đất Chương Mỹ thời kỳ đầu
dựng nước thuộc quận Giao Chỉ, vào thời Lý, Trần thuộc châu Quốc Oai, sau
là lộ Quốc Oai và lộ Ứng Thiên. Thời Lê thế kỷ 15, Chương Mỹ là một phần
của huyện Chương Đức, phủ Ứng Thiên, đạo Sơn Nam.
Lương Xá là một địa danh cổ, Xã Lương Xá hợp với 8 tổng, xã khác
gồm Chúc Sơn, Quảng Bị, Bài Trượng, Văn La, Hoàng Xá, Viên Nội, Bột
Xuyên và Tuy Lai tạo nên huyện Chương Đức ở thời Lê. Đến năm Đồng
Khánh thứ 3 (1888) huyện Chương Mỹ được thành lập do sáp nhập các tổng
của huyện Chương Đức ( tỉnh Hà Nội) và huyện Mỹ Lương (tỉnh Sơn Tây),
Lương Xá là địa danh hành chính cấp xã của huyện Chương Đức xưa, sau là
Chương Mỹ.
Sau cách mạng tháng Tám năm 1945, đơn vị tổng, phủ bị bãi bỏ,
Lương Xá đổi thành một thôn thuộc xã Lam Điền, huyện Chương Mỹ, tỉnh
Hà Đông.
Năm 1965, quận Hà Đông hợp nhất với thị xã Sơn Tây thành tỉnh Hà Tây.
Năm 1976, 2 tỉnh Hà Tây và Hịa Bình hợp nhất lại với nhau thành Hà
Sơn Bình
Nguyễn Thị Lệ Hằng
Lớp: Bảo tàng 27B
Khóa luận tốt nghiệp
11
Năm 1991, tại kỳ họp thứ 9, quốc hội khóa VIII đã quyết định tách tỉnh
Hà Sơn Bình thành hai tỉnh Hà Tây và Hịa Bình, huyện Chương Mỹ trở lại
thuộc tỉnh Hà Tây.
Năm 2008, Quốc hội đã sát nhập tồn bộ địa giới hành chính Hà Tây về
Hà Nội, từ đó Chương Mỹ trở thành một huyện ngoại thành của Thủ đơ.
Về địa giới hành chính thơn Lương Xá, phía Đơng giáp sơng Đáy và
thơn Đại Từ, phía Tây giáp xã Hợp Đồng, phía Nam giáp thơn Bài Trượng
thuộc xã Hồng Diệu, phía Bắc giáp thơn Duyên Ứng.
Thôn Lương Xá nằm dọc theo hai bên bờ sông Đáy, từ quận Hà Đông
theo Quốc lộ 6 đi qua địa giới các xã Ngọc Sơn, Thụy Hương, đến ngã ba dốc
Ninh rẽ trái men theo hữu ngạn đê sông Đáy đi về ngã ba Thá khoảng 6 km,
qua đường liên xã Lam Điền, Thụy Hương, Hoàng Diệu. Từ đây đi tiếp qua
trung tâm xã Lam Điền chừng 1 km là đến thôn Lương Xá.
1.1.2. Đời sống dân cư, kinh tế
1.1.2.1. Dân cư
Bằng tư liệu hồi cố, chúng ta được biết làng Lương Xá xưa kia là dải
đất hoang, đầm lầy, nằm dọc con sông Bồ Đề. Tổ tiên người Lương Xá từ các
vùng lân cận đến đây khai phá đất đai, sinh cơ lập nghiệp lấy tên là làng Mạc
Xá, sau đổi là xã Lương Xá - tổng Lương Xá - phủ Ứng Thiên - huyện
Chương Đức - tỉnh Hà Đông (nay là làng Lương Xá - xã Lam Điền - huyện
Chương Mỹ - Hà nội ).
Lương Xá nổi tiếng là mảnh đất văn chương, người Lương Xá tự hào vì
trong thơn có nhiều người thi cử đỗ đạt cao, nhiều người đỗ đại khoa, làm
quan to trong các triều đại. Theo tài liệu truyền lại, xưa kia làng có tới 18
quận cơng và 12 tiến sĩ.
Nguyễn Thị Lệ Hằng
Lớp: Bảo tàng 27B
Khóa luận tốt nghiệp
12
Trong tổng số 12 dịng họ của làng, thì có 9 dịng họ lớn có nhiều người
đỗ đạt, có nhiều đóng góp cho sự phát triển của làng . Đó là các dịng họ:
Đặng, Nguyễn (Văn), Lê, Trịnh, Nguyễn (Đắc), Hồng, Nguyễn (Đình),
Nguyễn (Viết), Nguyễn (Hữu).
Hiện nay cả làng có 520 hộ gia đình, với 2.510 khẩu, phần lớn nhân lực
trẻ, dồi dào, có thể khai thác tốt để phát triển kinh tế nông nghiệp và các
ngành nghề khác trên địa bàn làng xã cũng như mở rộng ra thành phố và các
tỉnh lân cận.
1.1.2.2. Kinh tế
* Nơng nghiệp
Làng Lương Xá với tổng diện tích đất tự nhiên là 2.120.000 m2 , trong
đó có 1.390.000 m2 là đất nông nghiệp trồng lúa, một số cây hoa màu và rau
thương phẩm. Vùng bãi bồi phía ngồi đê gần 400 mẫu, do được phù sa sông
Đáy bồi đắp nên đất đai khá màu mỡ. Người dân chủ yếu trồng rau màu như:
ngô, khoai, sắn,… và các loại cây công nghiệp, cây ăn quả như: dâu tằm, mía,
vải,… cung cấp một nguồn nguyên liệu đồi dào cho các nhà máy. Vùng đất
phía trong có diện tích gần 900 mẫu sản xuất chủ yếu là cây lúa nhưng rất khó
khăn vì đây là vùng đất trũng, đất đai bị ngập úng do mùa mưa, nước lũ, nước
sông Đáy chảy dồn về.
Dưới thời thực dân phong kiến, đồng ruộng không được cải tạo, hệ
thống thủy lợi hầu như khơng có, sản xuất phụ thuộc vào thiên nhiên. Nhưng
đến nay, do được sự quan tâm của Đảng và Nhà nước, việc áp dụng khoa học
công nghệ vào sản xuất nông nghiệp đã được thực hiện nên đời sống dân cư
đã khá hơn trước, năng suất nơng nghiệp cũng tăng cao.
Ngồi ra, thơn Lương Xá cịn có mấy chục mẫu ao, hồ, đầm trước kia
bỏ hoang cỏ mọc, bèo tây phủ kín, nhưng nay đã được xã chia lại cho từng hộ
để tiến hành nuôi trồng thủy sản tăng thêm thu nhập cho người dân.
Nguyễn Thị Lệ Hằng
Lớp: Bảo tàng 27B
Khóa luận tốt nghiệp
13
* Tiểu thủ cơng nghiệp
Đến nay song song với phát triển nơng nghiệp, thơn Lương Xá cịn có
một số ngành nghề tiểu thủ cơng nghiệp được phát triển song song như nghề
mộc, mây tre đan, và các dịch vụ khác được phát huy.
Tuy nhiên, tất cả mới chỉ dừng ở mức tự phát nhỏ lẻ, phân tán theo kiểu
kinh tế hộ cá thể. Trong đó, khoảng 100 hộ làm mây tre đan, 15-20 hộ làm thợ
mộc, thợ nề.
Theo số liệu của Ủy ban nhân dân xã Lam Điền tính đến năm 2008,
Lương Xá đạt được tốc độ tăng trưởng kinh tế khoảng 14%, trong thơn khơng
có nhà tranh tre dột nát, khơng có hộ đói, tỷ lệ hộ nghèo khoảng 6,2%, bình
quân thu nhập đầu người là 8.200.000 đ.
* Thương nghiệp
Ngày nay, cùng với nông nghiệp và tiểu thủ công nghiệp, thương
nghiệp và dịch vụ làng Lương Xá cũng rất phát triển. Ngoài chợ đựợc cải tạo,
nâng cấp, thu hút nhiều hộ kinh doanh, toàn xã Lam Điền cịn có trên hàng
trăn hộ mở cửa hàng dịch cụ về lương thực, các sản phẩm chăn ni, tạp
hố,vật liệu nông nghiệp, vật liệu xây dựng,…
Sự phát triển của sản xuất nông nghiệp, ngành nghề và dịch vụ đã tạo ra
diện mạo mới về kinh tế, cải thiện căn bản đời sống của nhân dân trong làng.
1.1.3. Đời sống văn hoá và truyền thống cách mạng
* Truyền thống khoa bảng
Lam Điền nói chung và Lương Xá nói riêng cịn tự hào là nơi sinh ra và
nuôi dưỡng nhiều nhân tài, đóng góp xứng đáng vào lịch sử dân tộc như: Bùi
Hiện (thôn Lam Điền) đỗ Đệ Tam Giáp đồng tiến sĩ xuất thân khoa Nhâm
Tuất, niên hiệu Đại Bảo 3 (1442) đời Lê Thái Tông, được cử đi sứ nhà Minh
(1426) làm quan đến chức Thị Lang.
Nguyễn Thị Lệ Hằng
Lớp: Bảo tàng 27B
Khóa luận tốt nghiệp
14
Bùi Phúc (thơn Lam Điền) đỗ Đệ Nhị Giáp tiến sĩ xuất thân khoa Mậu
Thìn (1448) đời Lê Nhân Tông. Làm quan đến chức Quốc sử Viện đồng tu sử.
Hồng (Trần) Nghĩa Phú (1480-?) ngun qn thơn Lương Xá sau chuyển ra
thôn Đa Sĩ (xã Kiến Hưng – Hà Đông) đỗ Đệ nhất giáp tiến sĩ cập đệ đệ nhất
danh (Trạng Nguyên) khoa Tân Mùi (1511) đời Lê Tương Dực, làm quan
Tham tri chính sự kiêm đơ ngự sử.
Hồng Du (1512-?) ngun qn thơn Lương Xá, đỗ Hồng Giáp khoa
Nhâm Thìn (1532) đời Mạc Đăng Doanh, làm quan tới chức Binh bộ Thị
Lang. Hoàng Tế Mỹ (?-?) nguyên quán thôn Lương Xá đỗ Đệ tam giáp đồng
tiến sĩ xuất thân khoa Mậu Tuất (1538) đời Mạc Đăng Doanh làm quan tới
chức Thừa chính Sứ. Cấn Văn Nhạ (1566 - ?), người thôn Lương Xá đỗ đệ
tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân khoa Giáp Thìn (1604) đời Lê Kính Tơng.
Trần Khắc Minh (1453 - ?) ngun qn thôn Lương Xá đỗ đệ tam giáp
đồng Tiến sĩ xuất thân khoa Giáp Thìn (1484) đời Lê Thánh Tơng làm quan
tới chức Lễ bộ thượng thư kiêm Đông các đại học sĩ, tức Lương nhân hầu.
Và đặc biệt là Đặng Đình Tướng (1649-1735) người thơn Lương Xá đỗ
Đệ Tam Giáp đồng tiến sĩ khoa Canh Tuất (1670) đời Lê Huyền Tơng. Từng
giữ nhiều chức vụ quan trọng trong triều đình nhà Lê: Đại Tư Mã, Chưởng
Phủ Sử, Đại Tư Đồ tước ứng quận cơng. Ngồi ra cịn có nhiều vị danh sĩ đỗ
đạt khác mà trong khuôn khổ bài viết hạn hẹp tôi không thể nêu hết.
Họ Đặng là một trong những dịng họ lớn có nhiều người đỗ đạt làm
quan. Thời phong kiến có nhiều người làm quan to trong triều, thời vua Lê
chúa Trịnh, họ Đặng có tới 18 quận công 12 bà chúa ở trong cung làm vinh
hiển cả quê hương. Đến thế hệ thứ 9 dòng họ Đặng có một vị danh tướng là
Đặng Tiến Đơng - chức Đại đô đốc (đô đốc Long) tước Đông Lĩnh Hầu, chi
giáp nhất thống lĩnh 2 đạo quân Vũ Thắng - Thiên Hương bên cạnh vua
Quang Trung làm nên chiến thắng Đống Đa lịch sử.
Nguyễn Thị Lệ Hằng
Lớp: Bảo tàng 27B
Khóa luận tốt nghiệp
15
* Tơn giáo, tín ngưỡng
Với truyền thống văn hóa của mình, xã Lam Điền nói chung và làng
Lương Xá nói riêng cũng có đình, đền, chùa,…đặc sắc biểu thị sức sống mãnh
liệt của cộng đồng làng xã Việt Nam, tinh thần tôn trọng, thờ phụng tổ tiên
người có cơng với nước, đồng thời thể hiện trí óc thông minh, bàn tay khéo
léo của người dân địa phương.
- Phật giáo
Trước khi có đạo cơng giáo được truyền bá vào và trở thành một bộ
phận của tôn giáo trong làng, thì đại bộ phận cộng đồng dân cư thơn Lương
Xá đều theo đạo Phật nên ở nơi đây ta có thể tìm thấy những cơng trình kiến
trúc phật giáo mà tiêu biểu là chùa Thủy Lâm.
Nơi đây đã trở thành một trung tâm sinh hoạt tôn giáo, là nơi để mọi
người đến cầu cúng những điều an lành, hạnh phúc cho cuộc sống, là nơi để
họ có thể trút bỏ những phiền não, bộn bề của trần tục để đến với khơng gian
tĩnh lặng, n bình, thư thái của Phật pháp.
- Nho giáo
Sự đề cao việc học, tôn vinh người thầy, coi trọng bậc hiền tài đã tạo nên
một truyền thống văn hóa tốt đẹp hàng nghìn năm ở Việt Nam. Với truyền thống
khoa bảng của làng, người dân Lương Xá đã xây dựng một văn chỉ để thờ đức
Khổng Tử và 72 môn sinh của ông, vị tổ đã sáng lập ra Nho giáo.
- Đạo công giáo
Từ cuối thế kỷ XIX, đạo Công giáo đã xâm nhập vào đất Lam Điền, trở
thành nhu cầu sinh hoạt của một bộ phận dân cư các thơn Lam Điền, Ứng
Hịa, Dun Ứng, Lương Xá.
Lam Điền có 5 thơn thì 4 thơn có người theo đạo Cơng giáo ở rải rác
theo kiểu xơi đỗ. Mỗi thơn đều có nhà thờ để bà con hành lễ, riêng thơn Lam
Điền có 2 nhà thờ: nhà thờ Lương Xá xây dựng năm 1937, nhà xứ Lam Điền
Nguyễn Thị Lệ Hằng
Lớp: Bảo tàng 27B
Khóa luận tốt nghiệp
16
xây dựng năm 1940. Những cơng trình kiến trúc này đã mang đến một nét văn
hóa mới hiện đại, làm phong phú thêm đời sống văn hóa tinh thần cho người
dân Lam Điền.
* Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên
Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên hay cịn gọi được gọi khái quát là Đạo Ông
Bà là tục lệ thờ cúng những người đã chết, đặc biệt là tổ tiên, của nhiều dân
tộc Đông Nam Á và đặc biệt phát triển trong văn hóa Việt và văn hóa Trung
Hoa. Đối với người Việt, nó gần như trở thành một thứ tơn giáo; khơng gia
đình nào khơng có bàn thờ tổ tiên trong nhà. Đó là sự bày tỏ lịng thành kính,
biết ơn của con cháu đối với tổ tiên, ông bà, cha mẹ. Đồng thời cũng thể hiện
lòng biết ơn của lớp người sau đối với công sức của lớp người trước.
Bởi vậy, trong các gia đình của làng đều có bàn thờ tổ tiên, được đặt ở
nơi cao nhất, trang trọng nhất trong nhà. Họ tin rằng linh hồn của tổ tiên, ông,
bà, cha, mẹ luôn dõi theo mọi hoạt động của con cháu, che chở, phù hộ cho
con cháu. Vào ngày giỗ ông bà, tổ tiên, con cháu của các dòng họ trong làng
đều tụ tập về từ đường dịng họ mình để giỗ tổ. Đó là một truyền thống tốt
đẹp cần phải gìn giữ.
* Tín ngưỡng thờ thành hồng làng
Đây là một tín ngưỡng cơ bản và phổ biến giữ vai trò quan trọng trong
đời sống văn hóa tâm linh của người Việt. Trong phạm vi gia đình, người Việt
thờ tổ tiên và vài vị thần như Táo công, Thổ công, thần Tài...; ở phạm vi làng
xã, người Việt thờ Thành hoàng làng. Thành hoàng làng là danh từ chung để
chỉ vị thần được thờ trong một làng xã Việt Nam. Giống như Táo công và Thổ
cơng, Thành hồng cai quản và quyết định họa phúc của một làng và thường
được thờ ở đình làng.
Nguyễn Thị Lệ Hằng
Lớp: Bảo tàng 27B
Khóa luận tốt nghiệp
17
Sau khi du nhập vào làng xã Việt Nam tín ngưỡng thờ thành hồng làng
đã nhanh chóng bám rễ vào trong tâm thức người nông dân Việt, trở nên hết
sức đa dạng, thể hiện truyền thống “uống nước nhớ nguồn”. Tơn thờ Thành
hồng làng chính là một nhu cầu tâm lý, người dân thờ Thành hoàng làng để
phục vụ cho hiện thực cuộc sống, là chỗ dựa tinh thần không thể thiếu được,
là phương tiện, là động lực thúc đẩy sản xuất và ổn định cuộc sống.
Riêng xã Lam Điền có 3 ngơi đình, trong đó nổi bật là Đình Lam Điền
và Đình Lương Xá. Đình Lam Điền hiện còn giữ nhiều tư liệu cổ bằng chữ
Hán như quyển Giáng Bát, 44 đạo sắc phong (đạo sắc lâu nhất cách đây trên
350 năm). Đình Lương Xá tương truyền được xây từ năm Đức Nguyên thờ 8
vị vua nhà Lý, hiện còn lưu giữ được một số lượng sắc phong rất lớn với 83
đạo sắc phong.
Cùng với việc thờ cúng tổ tiên thì tín ngưỡng thờ Thành hồng làng
đem lại cho người dân ý thức hướng về cội nguồn, về quê cha đất tổ bằng
những biểu hiện sinh hoạt văn hoá truyền thống.
* Phong tục, tập quán
- Cưới xin
Ở Lương Xá cũng như bao làng quê khác ở Việt Nam, hôn nhân là việc
không phải chỉ là việc của cá nhân mà còn là việc của cả gia đình và dịng họ.
Khi sự tìm hiểu đã chín muồi, người con trai sẽ thưa chuyện với cha,
mẹ mình để chuẩn bị lễ vật sang nhà gái xin cưới. Trước năm 1945, nhà trai
không những phải chuẩn bị lế vật mà còn phải làm cỗ cho nhà gái. Nhà gái
nếu lấy chồng là người trong làng thì phải nộp cheo đôi chiếu hoa cho làng,
nếu lấy chồng không phải là người làng thì nhà gái phải nộp gạch cho làng để
xây đường, mà phải là loại gạch đơn thì làng mới chịu.
Nguyễn Thị Lệ Hằng
Lớp: Bảo tàng 27B
Khóa luận tốt nghiệp
18
Đến nay, những tục lệ đó đã khơng cịn tồn tại và lễ cưới được tổ chức
đơn giản theo nếp sống mới mà vẫn đảm bảo đầy đủ những quy định cần phải
tuân thủ.
- Tang ma:
Đám tang đựoc tổ chức có đơng đủ nội ngoại, xóm làng,bằng các nghi
thức và sự phân công chặt chẽ theo tục lệ cổ truyền của làng.
Đưa tang ở làng Lương Xá gọi là đưa ra đồng, mọi việc đề đựoc tổ
chức phân công chu đáo, thứ bậc rõ ràng. Trên đường đưa tang có rắc vàng
thoi bằng giấy, tiền âm từ nhà gia chủ ra đến huyệt để người chết nhớ đường
về nhà mình. Khi hạ huyệt thường có thầy cúng hoặc vị sư làm phép trì huyệt,
các cụ bà đọc kinh trước mộ. Động thái này cho rằng, cúng trì huyệt mới xua
được tà ma cũ để cho ma mới đựoc yên ổn.
- Tục lên lão:
Từ xưa đến nay, người đàn ông cứ bước sang tuổi 60 là đựoc lên lão.
Theo phong tục của làng, vào đầu xuân mới người lên lão sửa một cái lễ
(không bắt buộc) mang ra đình trình Thành hồng làng. Ở nhà gia chủ làm cỗ
khao vọng để mời thân bằng cố hữu đến tham dự chúc mừng. Đến tuổi 80, 90
là thượng thọ và thượng thượng thọ thì tổ chức lớn hơn.
- Một số phong tục khác
+ Trước năm 1945, nếu nhà ai chăn vịt ở ao đình, làng mà bắt được thì
sẽ phạt đóng đinh dưới đình làng. Nếu nhà ai mà để trâu, bò ăn lúa, phá hoại
mùa màng, dân làng mà bắt được thì sẽ phạt, thịt trâu, bị của nhà đó rồi chia
cho cả làng cùng hưởng
+ Những tục lệ này đến nay khơng cịn nữa, nhưng việc nghiên cứu
những tục lệ này sẽ góp phần giúp chúng ta bổ sung thêm những thơng tin về
đời sống, văn hóa, xã hội của làng quê Việt trước cách mạng.
* Các di tích lịch sử văn hóa
Nguyễn Thị Lệ Hằng
Lớp: Bảo tàng 27B
Khóa luận tốt nghiệp
19
Các cơng trình kiến trúc nghệ thuật của làng như: đình, chùa, đền, văn
chỉ, truyền thuyết, phong tục hội hè,…Tất cả đều đã trở thành những di sản
quý giá, chứa đựng nhiều thông tin giúp cho việc nghiên cứu, tìm hiểu, truyền
thống quê hương thêm phong phú.
- Chùa Thuỷ Lâm
Đây là ngôi chùa duy nhất toạ lạc ở làng Lương Xá. Hiện nay khơng
cịn tài liệu nào viết về lịch sử chùa nhưng theo lời vị sư trụ trì cho rằng chùa
được xây dựng vào khoảng thời Tây Sơn. Nơi đây trước kia vốn là một đồi
cao được bao quanh là một dịng sơng. Vì thế chùa mới có tên là Thuỷ Lâm.
Hiện trong chùa ngồi thờ Phật thì cịn thờ ơng Dỗn Xá – là thầy dạy học tại
ngôi chùa này và cũng là thầy giáo đầu tiên đã dạy ông Đặng Tiến Đông trong
suốt thời gian ông dùi mài kinh sử tại đây và sau này trở thành người anh hùng
của đất nước. Ngoài ra bên cạnh Ban thờ Đức ơng của ngơi chùa cịn đặt tượng
thờ ông Đặng Tiến Đông để tưởng nhớ tới công lao của một bậc danh nhân
làng Lương Xá đã có cơng trừ giặc xâm lược mang lại cuộc sống yên bình cho
nhân dân. Chùa Thuỷ Lâm được xây dựng theo kết cấu hình chữ Đinh. Nhà
Mẫu được xây tách biệt bên phải chùa chính với diện tích khá rộng. Hệ thống
vì kèo của chùa được làm theo kiểu bán giá chiêng. Trước sân chùa hiện đang
lưu giữ nhiều tấm bia với nhiều hình dáng khác nhau nhưng đặc biệt nhất trong
đó có tấm bia có khắc bài văn “ Tông đức thế tự bi” do Phan Huy Chú soạn,
Ngô Thì Nhậm nhuận sắc khắc vào ngày 15 tháng 6 năm Cảnh Thịnh thứ 5 (tức
ngày 9-7-1797) (2 chữ Cảnh Thịnh đã bị đục bỏ). Đây là tấm bia quý hiếm
thuộc đời Tây Sơn cịn sót lại qua giơng bão của thời cuộc.
- Đình Lương Xá
Đây là di tích nằm khá gần với di tích nhà thờ Đặng Tiến Đơng, cổng
phụ của đình nằm đối diện với cổng chính của nhà thờ. Hiện Đình thờ Lý Bát
Đế đồng thời phối thờ Ứng Quận Cơng Đặng Đinh Tướng vì ơng đã có cơng
Nguyễn Thị Lệ Hằng
Lớp: Bảo tàng 27B
Khóa luận tốt nghiệp
20
với làng, với nước. Ơng được dân làng đưa vào thờ với tư cách một vị quan võ
bảo vệ cho các vị vua. Ngồi ra Đình cịn là trung tâm sinh hoạt văn hóa của
người dân trong làng, sân đình là khu vui chơi cho trẻ em vào các buổi chiều.
Đến nay, những tài liệu, thư tịch liên quan đến thời điểm xây dựng đình
Lương Xá hầu như khơng cịn, khiến cho việc xác định niên đại khởi dựng
gặp nhiều khó khăn. Bằng tư liệu Hán – Nơm, mà cụ thể là 83 đạo sắc phong
hiện cịn được lưu giữ tại Đình. Với những sắc phong sớm nhất cịn giữ lại có
niên đại năm Chính Hịa thứ 4 (1683) và một số tài liệu cũng như dấu vết kiến
trúc còn tồn tại, bước đầu khẳng định niên đại ngơi Đình vào khoảng thế kỷ
XVII - thời Lê Trung Hưng, đã được tu sửa vào thời Nguyễn - đầu thế kỷ
XIX. Đình Lương Xá được kết cấu theo bố cục hình chữ Cơng với tịa Đại
bái ở ngồi, tòa ống muống và hậu cung nối dọc từ gian giữa Đại bái ra phía
sau. Trong khn viên đình có sân rộng lát gạch, nghi mơn và hồ nước hình
bát giác, bên trong hồ đặt hòn giả sơn, trước hồ là một bức bình phong.
* Truyền thống Cách mạng
Về phong trào đấu tranh Cách mạng, người dân Lương Xá là một trong
số những vùng quê của đất nước tham gia đấu tranh cách mạng ngay từ sớm.
Khi Cách mạng tháng Tám nổ ra toàn nhân dân làng Lương Xá đã nổi lên
giành chính quyền từ tay thực dân, phong kiến, mở ra một trang sử mới cho
thơn làng.
Tiếp đó, trong giai đoạn 1945 - 1954, nhân dân làng Lương Xá đã thực
hiện chỉ thị kháng chiến kiến quốc, phong trào diệt giặc đói, giặc dốt, chính
sách chiến đấu trong lịng địch do Ban chấp hành trung ương Đảng đề ra.
Trong giai đoạn chống Mỹ cứu nước (1954 - 1975), dưới sự lãnh đạo
của chính quyền địa phương, nhân dân đã từng bước ổn định đời sống kinh tế,
văn hóa, xã hội, tiến hành cải cách ruộng đất. Tiến hành thành lập chi bộ
Nguyễn Thị Lệ Hằng
Lớp: Bảo tàng 27B
Khóa luận tốt nghiệp
21
Đảng xã Lam Điền, từng bước chuyển đổi cơ cấu kinh tế. Người dân nơi đây
không những cùng nhân dân cả nước tích cực xây dựng chủ nghĩa xã hội ở
miền Bắc mà cịn đóng góp cả sức người vào cuộc đấu tranh giải phóng miền
Nam, thống nhất đất nước với hơn 30 liệt sĩ đã hi sinh trong chiến trường
miền Nam.
Trong hai cuộc kháng chiến chống Thực dân Pháp và Đế quốc Mỹ, đã
có biết bao người con Lương Xá ngã xuống cho sự tự do của thơn làng, đất
nước. Đã có hơn 50 người con anh dũng của làng Lương Xá đã hi sinh trong
hai cuộc kháng chiến trường kỳ của Tổ Quốc.
Trong toàn xã Lam Điền đến nay đã có 22 Đảng viên 40 - 50 tuổi
Đảng. Trong đó, làng Lương Xá có một đồng chí 50 tuổi Đảng và 8 đồng chí
40 năm tuổi Đảng.
Từ năm 1975 đến nay, cùng với sự phát triển nhanh chóng của đất
nước, thì diện mạo xã Lam Điền đã có sự biến đổi lớn về tất cả các lĩnh vực
của đời sống xã hội, kinh tế phát triển nhanh chóng, đời sống nhân dân ngày
một ấm no, an ninh trật tự của địa phương ngày càng được củng cố.
* Đời sống văn hóa - xã hội hiện nay
Nhìn chung, đời sống của người dân Lương Xá từ sau năm 1945 đến
nay đã có nhiều chuyển biến tích cực, ngày càng ổn định và phát triển. Phong
trào xây dựng gia đình văn hóa được triển khai sâu rộng. Các hình thức tổ
chức thực hiện có hiệu quả. Có các thiết chế văn hóa thơng tin, thể dục thể
thao, giáo dục y tế phù hợp và hoạt động thường xuyên.
Nếu như trước năm 45, cả tổng Lương Xá mới có một trường sơ học
yếu lược đặt ở chợ Lam Điền, chủ yếu là để cho con em của cường hào lý
trưởng. Nội dung học tập nặng tính nhồi sọ nhằm tạo ra một lớp tay sai trung
thành với chế độ thực dân - phong kiến. Mỗi năm có hàng trăm trẻ em trong
Nguyễn Thị Lệ Hằng
Lớp: Bảo tàng 27B
Khóa luận tốt nghiệp
22
độ tuổi khơng được cắp sách đến trường. Thì nay, đã có trường học của xã,
hàng năm đón hàng trăm em học sinh đến trường. Bình qn 4,1 người dân có
1 người đi học. Có 1112 hộ được cơng nhận gia đình văn hóa, 3/5 làng xây
dựng quy ước làng văn hóa, 1 làng được cơng nhận làng văn hóa.
Trước cách mạng, cả tổng Lương Xá khơng có một thầy thuốc, một
phịng khám chữa bệnh cho nhân dân, lúc ốm đau, khi sinh nở người dân chỉ
còn biết tin vào số mệnh, cúng lễ để mong khỏi bệnh. Thì hiện nay, bệnh viện,
trạm xá đã được xây dựng. Trong 5 năm (1996 - 2000) thôn đã khám bệnh
cho tổng cộng là 10350 lượt người. Tỷ lệ tăng dân số tự nhiên là 1,1%, tỷ lệ
sinh con thứ 3 giảm 16%.
Các câu lạc bộ thơ ca - thể dục dưỡng sinh có 60 thành viên tham gia,
có câu lạc bộ bóng bàn, cờ tướng, cầu lơng, câu lạc bộ chăm sóc sức khỏe
sinh sản. Hệ thống thơng tin trong làng có loa truyền thanh tiếp sóng đài tỉnh,
xã để nhân dân nắm được chủ trương đường lối của Đảng. Trong thơn, có tới
97% hộ gia đình có phương tiện nghe nhìn, có nhà văn hóa, thư viện, sân chơi
thể thao.
1.2 Di tích nhà thờ danh nhân Đặng Tiến Đơng trong diễn trình
lịch sử
1.2.1. Niên đại khởi dựng
Nằm trong dịng lịch sử các di tích tồn tại trên đất Việt, di tích nhà thờ
danh nhân Đặng Tiến Đơng cũng như bao di tích khác khơng cịn mang tính
ngun sơ khởi thuỷ mà nó đã mang trên mình nhiều lớp “phù sa văn hố”
lắng đọng lại. Đó chính là dấu ấn lịch sử, dấu ấn thời đại.
Nhà thờ danh nhân Đặng Tiến Đơng cịn có tên gọi khác là Hữu Phủ Từ
hay nhân dân làng Lương Xá thường gọi là Phủ thờ họ Đặng, ban đầu là ngôi
nhà được chúa Trịnh Tráng xây dựng để thờ ơng ngoại của mình là Đặng Huấn
Nguyễn Thị Lệ Hằng
Lớp: Bảo tàng 27B
Khóa luận tốt nghiệp
23
Đại Vương. Sau này khi danh nhân Đặng Tiến Đông mất được đưa về nơi đây
để thờ, xét tới cơng lao to lớn của ơng, dịng họ đã đổi tên thành nhà thờ danh
nhân Đặng Tiến Đông. Đây cũng là nơi thờ phụng các vị tổ của dịng họ Đặng.
Về niên đại khởi dựng di tích, theo các tài liệu sử sách và theo lời ơng
Đặng Đình Phúc – chi trưởng dòng họ Đặng Lương Xá hiện nay – cũng là
người trông nom nhà thờ cho rằng nhà thờ được khởi dựng vào thời Lê năm
1623 (thế kỷ XVII).
1.2.2. Q trình tồn tại của di tích
Trải qua biết bao thăng trầm của lịch sử, nhà thờ danh nhân Đặng Tiến
Đông đã được tu bổ tôn tạo khá nhiều lần.
Ban đầu nhà thờ được làm bằng chất liệu khơng bền, rất đơn sơ, đó là
các chất liệu: tranh tre, nứa lá. Trải qua thời gian cùng với các tác động của
thiên nhiên, đến năm 1685 nhà thờ đã được trùng tu, tôn tạo lại lần thứ nhất
với các vật liệu bền chắc hơn và có bố cục như bây giờ.
Sau cách mạng tháng 8 năm 1945 nơi đây được làm trường học bình
dân học vụ. Năm 1952 nơi đây thuộc vùng tạm chiến của địch và bị phát hiện
trong nhà thờ có hầm bí mật.
Trong giai đoạn chống Mỹ nhà thờ còn làm nơi hội trường, bếp ăn tập
thể của cơng binh, sau đó địa phương đã dùng nơi đây làm xưởng nông cụ và
nhà để vật tư của hợp tác xã.
Đến năm 1993 cổng nhà thờ được xây mới lại, năm 1999 di tích đựoc
cơng nhận là di tích lịch sử văn hố cấp Quốc gia, cùng năm đó con cháu
cùng Nhà nước đã trùng tu lại Tiền đường và năm 2002 Nhà nước đã đầu tư
700 triệu để sửa hoàn chỉnh toà Tiền đường, lát gạch phần sân và đường vào
của nhà thờ và một phần của Hậu đường. Những năm gần đây, con cháu trong
dòng họ thường xuyên có những tu bổ nhỏ như xây dựng tường bao bảo vệ,
đảo lại ngói. Hiện nay, nhà thờ danh nhân Đặng Tiến Đông được bảo vệ chu
Nguyễn Thị Lệ Hằng
Lớp: Bảo tàng 27B
Khóa luận tốt nghiệp
24
đáo có con cháu trong dịng họ trông nom, thường xuyên, hệ thống kiến trúc
khá bền vững, riêng toà Hậu đường một số bộ phận đã xuống cấp. Hiện tại,
nhà thờ danh nhân Đặng Tiến Đông được chính quyền nhân dân và dịng họ
bảo vệ chu đáo.
1.2.3. Vai trị của di tích trong đời sống văn hóa xã hội của làng
Lương Xá
Nhà thờ danh nhân Đặng Tiến Đơng ở Lương Xá là một cơng trình kiến
trúc nghệ thuật quý hiếm, nơi thờ danh nhân cũng là nơi thờ những cụ thuỷ tổ
dòng họ như cụ Đặng Hiên, Đặng Trần Cận, Đặng Trần Du,…những danh
nhân có tài có đức đóng góp vào q trình bảo vệ nền độc lập tự chủ mở mang
bờ cõi, xây dựng đất nước quê hương giàu đẹp. Đồng thời đây cũng là những
người gần gũi với nhân dân, thơn q, di tích là nơi để nhân dân tưởng nhớ
tới sự góp cơng góp của xây dựng đình chùa, mở mang sự tự do tín ngưỡng
cho nhân dân của các bậc anh hùng. Đây khơng chỉ là niềm tự hào của riêng
dịng họ Đặng mà nó cịn là niềm tự hào, vinh dự cho cả tồn người dân làng
Lương Xá.
Di tích toạ lạc tại làng Lương Xá, là một trong những nhân tố quan
trọng góp phần tác động tích cực tới đời sống văn hố của con người nơi đây.
Qua đây người dân có thể hiểu thêm về truyền thống tốt đẹp của người dân
làng Lương Xá nói riêng và tồn thể nhân dân Lam Điền – Chương Mỹ nói
chung. Đó là truyền thống yêu nước, hiếu học, uống nước nhớ nguồn. Từ đó
noi gương các bậc danh nhân hùng tài, ra sức học tập, rèn luyện, nâng cao
tinh thần đoàn kết, tham gia bảo vệ Tổ Quốc, hăng hái lao động sản xuất, góp
sức mình cùng tồn dân thực hiện cơng cuộc đổi mới, dân giàu nước mạnh, xã
hội công bằng dân chủ văn minh.
Nguyễn Thị Lệ Hằng
Lớp: Bảo tàng 27B
Khóa luận tốt nghiệp
25
Nhà thờ danh nhân Đặng Tiến Đơng từ xưa đã không chỉ riêng là nơi
thờ cúng tổ tiên của dòng họ Đặng mà đây còn là nơi sinh hoạt văn hoá cộng
đồng của người dân Lương Xá vào các dịp lễ lớn của làng.
1.3. Đôi nét về danh nhân Đặng Tiến Đơng và dịng họ Đặng –
Lương Xá
1.3.1. Đôi nét về tiểu sử danh nhân Đặng Tiến Đông
Đô đốc Đông Lĩnh Hầu Đặng Tiến Đông huý là Gián, tự là Đông, sinh
giờ Quý Sửu, ngày 02 tháng 05 năm Mậu Ngọ (1738), là con trai thứ 8 của cụ
Đặng Đình Miên (1676 – 1749)(có sách ghi là Đặng Đình Cẩm) và cụ bà là
Phạm Thị Yến (1712 – 1759). Cụ Miên là tướng phụng sự nhà Lê qua nhiều
triều đại được phong là quyền phụ Thái Bảo Dận Quận Công. Cụ bà được
phong là Ấn Tự Phu Nhân.
Xuất thân trong một gia đình đại quý tộc, Đặng Tiến Đông lớn lên và
trưởng thành ở nửa sau của thế kỷ XVIII, một giai đoạn diễn ra những biến
động lớn trong xã hội, là giai đoạn nhà hậu Lê đến thời kỳ suy tàn, bão táp các
cuộc đấu tranh của các tầng lớp nông dân làm lung lay tận gốc rễ nền thống trị
của vua Lê –chúa Trịnh, sự mục nát tha hố của chính quyền họ Trịnh, đời
sống nhân dân cùng khổ, sức mạnh quật khởi của quần chúng, thực tiễn lịch
sử đã tác động không nhỏ tới tư tưởng của Đặng Tiến Đông.
Năm Đinh Mão (1747), 10 tuổi vâng lệnh thân phụ, ơng theo học thầy
Dỗn Xá tại chùa Thuỷ Lâm ở xã Lương Xá nay là làng Lương Xá – xã Lam
Điền - huyện Chương Mỹ - Hà Nội.
Năm Kỷ Tỵ (1749) lúc 12 tuổi thân phụ ông mất và năm Kỷ Mùi
(1959) thân mẫu của ông lại qua đời. Ông về chịu tang xong lại tiếp tục đến
thầy Doãn Xá theo đuổi bút nghiên, rèn văn, luyện võ, nấu sử sôi kinh.
Nguyễn Thị Lệ Hằng
Lớp: Bảo tàng 27B