Tải bản đầy đủ (.pdf) (123 trang)

Tìm hiểu giá trị di tích đình làng đức hậu (xã đức hòa, huyện sóc sơn, thành phố hà nội)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.15 MB, 123 trang )


 

TRƯỜNG ĐẠI HỌC VĂN HÓA HÀ NỘI

KHOA DI SẢN VĂN HĨA

NGUYỄN VĂN BA

TÌM HIỂU DI TÍCH ĐÌNH LÀNG ĐỨC HẬU
(XÃ ĐỨC HỊA, HUYỆN SĨC SƠN, TP.HÀ NỘI)

KHĨA LUẬN TỐT NGHIỆP
NGÀNH BẢO TÀNG HỌC
Mã số: 52 32 03 05

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. TRỊNH THỊ MINH ĐỨC

HÀ NỘI - 2014



 

LỜI CẢM ƠN
Sau một thời gian nghiên cứu và làm việc nghiêm túc, được sự giúp đỡ,
chỉ bảo tận tình của các thầy cô giáo trong khoa Di sản văn hóa, em đã hồn
thiện bài khóa luận này.
Lời đầu tiên, em xin bày tỏ lòng biết ơn tới các thầy giáo, cơ giáo đã
tận tình giảng dạy, động viên và giúp đỡ em hồn thiện bài khóa luận này.
Đặc biệt, em xin gửi lời cảm ơn chân thành và sâu sắc nhất tới PGS.TS


Trịnh Thị Minh Đức - Người đã trực tiếp hướng dẫn khoa học, giúp đỡ và chỉ
bảo cho em từ khi xác định đề tài, xây dựng đề cương cho tới khi hồn thiện
bài khóa luận.
Qua đây, em cũng xin chân thành cảm ơn Phịng Văn hóa huyện Sóc
Sơn, chính quyền xã Đức Hịa, lãnh đạo thơn Đức Hậu cùng các cụ cao niên
trong làng đã cung cấp tư liệu và tạo điều kiện thuận lợi để em tiếp cận, khảo
sát di tích đình làng Đức Hậu.
Xin chân thành cảm ơn gia đình, bạn bè đã động viên, giúp đỡ em hồn
thiện bài khóa luận này.
Là một sinh viên năm thứ tư, chưa có thời gian được tiếp xúc nhiều với
thực tế, kiến thức còn hạn chế, do vậy khóa luận khó tránh khỏi những thiếu
sót. Em kính mong nhận được sự đóng góp, chỉ bảo kiến thức của các thầy cô
giáo và bạn bè để bản khóa luận này được hồn thiện hơn nữa.
Một lần nữa em xin trân trọng cảm ơn !
Hà Nội, ngày 31 tháng 5 năm 2014
Tác giả khóa luận

Nguyễn Văn Ba



 

MỤC LỤC
Trang
LỜI CẢM ƠN

1

MỤC LỤC


2

MỞ ĐẦU

4
Chương 1

LÀNG ĐỨC HẬU VÀ ĐÌNH LÀNG ĐỨC HẬU
1.1. Tổng quan về làng Đức Hậu

9
9

1.1.1. Vị trí địa lý và đặc điểm tự nhiên

9

1.1.2. Lịch sử hình thành, quá trình tồn tại và phát triển làng

10

Đức Hậu
1.1.3. Đặc điểm cư dân

12

1.1.4. Đặc điểm kinh tế

13


1.1.5. Văn hóa truyền thống thơn Đức Hậu

15

1.2. Lịch sử hình thành, q trình tồn tại của di tích đình làng

21

Đức Hậu và nhân vật được phụng thờ
1.2.1. Lịch sử hình thành, q trình tồn tại của di tích đình làng

21

Đức Hậu
1.2.2. Nhân vật được phụng thờ trong đình làng Đức Hậu

25

Chương 2
KIẾN TRÚC, DI VẬT, LỄ HỘI ĐÌNH LÀNG ĐỨC HẬU
2.1. Kiến trúc đình làng Đức Hậu

28
28

2.1.1. Khơng gian cảnh quan

28


2.1.2. Bố cục mặt bằng tổng thể

31

2.1.3. Kết cấu kiến trúc

33

2.1.4. Nghệ thuật trang trí trên kiến trúc

42

2.2. Các di vật tiêu biểu trong di tích đình làng Đức Hậu

56



 

2.2.1. Di vật bằng gỗ

56

2.2.2. Di vật bằng gốm sứ

57

2.2.3. Di vật bằng đồng


58

2.2.4. Di vật bằng giấy

58

2.3. Lễ hội đình làng Đức Hậu

58

2.3.1. Thời gian và lịch lễ hội

59

2.3.2. Chuẩn bị lễ hội

60

2.3.3. Diễn trình lễ hội

62
Chương 3

BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ DI TÍCH ĐÌNH LÀNG

66

ĐỨC HẬU TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
3.1. Thực trạng di tích, di vật và lễ hội


66

3.1.1. Thực trạng di tích, di vật

66

3.1.2. Thực trạng lễ hội

69

3.2. Giải pháp bảo tồn và phát huy giá trị di tích đình làng Đức Hậu

72

3.2.1. Giải pháp bảo tồn di tích đình làng Đức Hậu

72

3.2.2. Giải pháp phát huy di tích và lễ hội đình làng Đức Hậu

81

KẾT LUẬN

89

TÀI LIỆU THAM KHẢO

91


PHỤ LỤC

93



 

MỞ ĐẦU
1.Lý do chọn đề tài
Trong sự nghiệp chấn hưng đất nước, văn hoá được xác định là nền
tảng tinh thần của xã hội, vừa là động lực vừa là mục tiêu của phát triển bền
vững. Văn hoá là một khái niệm rộng và nhiều nghĩa nhưng suy cho cùng
văn hoá là sự ứng xử của con người với tự nhiên với xã hội và với chính con
người. Vì vậy, văn hố là một dịng chảy liên tục kết nối thời gian và không
gian tạo ra sức sống, sự tồn tại và phát triển của cộng đồng, một tộc người,
một quốc gia dân tộc trong quá trình dựng nước và giữ nước.
Đối với dân tộc Việt Nam, trải qua hàng nghìn năm lịch sử đấu tranh
hình thành và phát triển. Với một nền văn minh nông nghiệp lúa nước rất tiêu
biểu, với chế độ làng xã rất đặc trưng đã tạo nên những giá trị văn hố đầy
tính bản sắc trong đó có văn hố đình làng. Đình làng đã trở thành một bộ
phận của văn hố Việt. Vì vậy, đình làng cũng là một trong những đối tượng
nghiên cứu của văn hố học.
Đình làng Đức Hậu thuộc xã Đức Hịa, Huyện Sóc Sơn, Thành phố Hà
Nội, thờ Đức thánh Tam Giang cùng vợ và con gái. Tương truyền Thánh
Tam Giang chính là Trương Hống – Người có cơng giúp Triệu Việt Vương
chống lại quân xâm lược nhà Lương, sau khi mất lại hiển linh giúp Lê Đại
Hành và Thái úy Lý Thường Kiệt chống quân xâm lược nhà Tống và giúp cho
đất nước yên bình.
Trải qua nhiều biến động của lịch sử, đình làng Đức Hậu vẫn cịn lưu

giữ được những giá trị văn hoá nghệ thuật, những giá trị này được thể hiện
thông qua kiến trúc, điêu khắc và một số cổ vật, hiện vật, di vật (07 đạo sắc
phong do các vị vua nhà Nguyễn ban cho) cùng những giá trị văn hoá phi vật
thể như lễ hội đình làng với nét đặc sắc riêng thơng qua những hoạt động văn hoá,
phong tục tập quán của cộng đồng cư dân địa phương.



 

Cho đến nay, di tích đình làng Đức Hậu vẫn bảo tồn đầy đủ những nét
đẹp truyền thống của trong số 05 ngơi đình cổ thuộc huyện Sóc Sơn, thành
phố Hà Nội. Đây cũng là một cơng trình có giá trị văn hóa nghệ thuật tiêu
biểu. Việc nghiên cứu tìm hiểu một cách tồn diện từ góc độ di sản văn hóa
góp phần bảo tồn và phát huy được giá trị của di tích trong điều kiện phát
triển kinh tế - xã hội hiện nay là việc làm cần thiết.
Với những lý do nêu trên, em đã chọn đề tài: “Tìm hiểu giá trị di tích
đình làng Đức Hậu (Xã Đức Hịa, Huyện Sóc Sơn, Thành phố Hà Nội)"
làm khóa luận tốt nghiệp chuyên ngành Bảo tàng học, tại Khoa Di sản văn
hóa, Trường Đại học Văn hóa Hà Nội.
2. Lịch sử nghiên cứu
Việc nghiên cứu về đình làng nói chung và đình làng Đức Hậu nói
riêng cùng với những giá trị kiến trúc tiêu biểu đã được nhiều nhà khoa học
quan tâm, những kết quả nghiên cứu đã được xuất bản thành sách hoặc đăng
tải trên các tạp chí nghiên cứu. Dưới đây là một số các cơng trình nghiên cứu
đã viết về ngơi đình này, cụ thể như sau:
+ Cuốn “Đình và Đền Hà Nội’’ [20] của tác giả Nguyễn Thế Long, nội
dung cuốn sách đã giới thiệu về 173 ngơi đình làng, trong đó đình làng Đức
Hậu đã được tác giả đề cập đến một cách khái quát với một số nét tiêu biểu
như: Niên đại xây dựng và những lần trùng tu, lịch sử nhân vật được phụng

thờ, giá trị kiến trúc và nghệ thuật cùng các di vật cổ lưu giữ trong đình...
+ Cuốn “Đình Việt Nam’’ [23] do tác giả Hà Văn Tấn (Chủ biên). Nội
dung cuốn sách giới thiệu về đình Việt Nam. Trong đó có giới thiệu một số
đình làng tiêu biểu ở nước ta, ngơi đình làng Đức Hậu cũng được nêu ra trong
phần giới thiệu danh mục các di tích đã được xếp hạng của thủ đô Hà Nội vào
những thập niên 90 của thế kỷ XX.
+ Cuốn “Di tích lịch sử văn hoá Hà Nội’’ [28] do tác giả Nguyễn Doãn
Tuân (Chủ biên). Nội dung cuốn sách này đã tập trung giới thiệu các di tích ở



 

Thủ đơ Hà Nội, và di tích đình làng Đức Hậu chỉ được ghi trong danh mục
các di tích lịch sử văn hóa của thành phố Hà Nội đã được xếp hạng.
+ Cuốn “Lịch sử Cách mạng xã Đức Hòa" [6] do Ban Chấp Hành Đảng
bộ xã Đức Hòa (Chủ biên). Nội dung cuốn sách đã giới thiệu tóm tắt về:
Nguồn gốc hình thành làng Đức Hậu, cơ cấu kinh tế, văn hóa - xã hội và
những chặng đường cách mạng do Đảng lãnh đạo. Tại phần văn hóa – xã hội,
cuốn sách có giới thiệu về các di tích lịch sử văn hóa của làng Đức Hậu, trong
đó có một vài dịng viết về ngơi đình cổ của làng tại trang 15 của cuốn sách.
+ Cuốn "Hồ sơ Khoa học di tích đình làng Đức Hậu" [7] do Ban Quản
lý Di tích và Danh thắng Hà Nội lập. Nội dung hồ sơ đề cập đến các nội dung
như: Tên gọi của di tích, đường đi tới di tích, lịch sử vùng đất, đặc điểm kiến
trúc, di vật cổ vật, giá trị tiêu biểu, hiện trạng di tích, giải pháp... Cũng do đặc
điểm của hồ sơ quy định, nên những giá trị văn hoá phi vật thể, cụ thể là lễ hội
diễn ra tại ngơi đình này cùng những phong tục tập quán của làng cũng không được
nêu ra trong nội dung của hồ sơ khoa học.
Những tư liệu trên đây cho thấy, tới nay đình làng Đức Hậu vẫn chưa
có một chun khảo nào giới thiệu đầy đủ, tồn diện về các giá trị văn hoá

nghệ thuật, mặc dù di tích đã được Nhà nước xếp hạng là Di tích lịch sử văn
hóa cấp Quốc gia.
Tiếp thu, kế thừa những kết quả nghiên cứu của các tác giả đi trước, tác
giả khóa luận tiếp tục nghiên cứu để làm nổi bật giá trị kiến trúc nghệ thuật
của di tích đình làng Đức Hậu từ khi xây dựng cho đến nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu: Nghiên cứu giá trị kiến trúc nghệ thuật của
đình làng Đức Hậu, đồng thời nghiên cứu khơng gian văn hóa – Nơi di tích
tồn tại. Trên cơ sở đó đề xuất một số giải pháp bảo tồn và phát huy giá trị của
ngơi đình này trong giai đoạn hiện nay.



 

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
+ Tập hợp và phân tích những cơng trình nghiên cứu đi trước viết về di
tích đình làng Đức Hậu.
+ Nghiên cứu về khơng gian văn hóa - Nơi di tích tồn tại, đó là làng
Đức Hậu (Xã Đức Hịa, huyện Sóc Sơn, thành phố Hà Nội).
+ Khảo sát, nghiên cứu những giá trị văn hoá vật thể bao gồm: kiến
trúc, điêu khắc, các di vật, cổ vật; những giá trị văn hoá phi vật thể bao gồm:
các phong tục tập quán, lễ hội và sinh hoạt văn hố cộng đồng... diễn tại ngơi
đình này.
+ Trên cơ sở nghiên cứu thực trạng di tích, di vật, khóa luận đề xuất
một số giải pháp bảo tồn và phát huy giá trị di tích đình Đức Hậu trong giai
đoạn hiện nay.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu chính khóa luận là
giá trị kiến trúc, nghệ thuật của đình làng Đức Hậu, xã Đức Hịa, huyện Sóc

Sơn, thành phố Hà Nội.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
4.2.1. Phạm vi vấn đề nghiên cứu: Nghiên cứu các mặt kiến trúc, di vật,
lễ hội của đình làng Đức Hậu, trên cơ sở đó đề xuất một số giải pháp bảo tồn
và phát huy giá trị di tích trong giai đoạn hiện nay.
4.2.2. Phạm vi khơng gian nghiên cứu: Khơng gian văn hóa làng Đức
Hậu (Xã Đức Hịa, Huyện Sóc Sơn, Thành phố Hà Nội) – Nơi di tích tồn tại.
4.2.3. Phạm vi thời gian nghiên cứu
- Đối với các giá trị kiến trúc, di vật, cổ vật, nghiên cứu lịch sử hình
thành, quá tình tồn tại cùng các giá trị kiến trúc, nghệ thuật của đình làng Đức
Hậu được khởi dựng cho tới nay.
- Đối với các giá trị văn hoá phi vật thể, nghiên cứu lễ hội đình làng
Đức Hậu.



 

5. Phương pháp nghiên cứu
- Dựa trên quan điểm Chủ nghĩa Duy vật biện chứng và Chủ nghĩa Duy
vật lịch sử để nghiên cứu, xem xét đánh giá các nội dung của đề tài khóa luận
đặt ra.
- Sử dụng phương pháp nghiên cứu liên ngành trong văn hoá như: Bảo
tàng học, Dân tộc học, Văn hoá học, Sử học, Mỹ thuật học, Văn hoá dân gian,
Xã hội học...
- Sử dụng phương pháp khảo sát, điền dã: Quan sát, tham dự, mô tả, đo
vẽ, chụp ảnh, điều tra, phỏng vấn, phân tích, tổng hợp...
6. Những đóng góp của khóa luận
- Là cơng trình đầu tiên nghiên cứu về giá trị kiến trúc, nghệ thuật đình làng
Đức Hậu.

- Là nguồn tư liệu giúp cho cán bộ quản lý văn hóa tại địa phương có
thể tham khảo trong q trình cơng tác tại cơ sở. Đồng thời, khóa luận cũng
góp phần làm phong phú thêm nguồn tư liệu viết về một số ngôi đình cổ trên
địa bàn huyện Sóc Sơn.
7. Bố cục của khóa luận
Ngồi phần Mở đầu (05 trang), Kết luận (02 trang), Danh mục tài liệu
tham khảo (02 trang) và Phụ lục (30 trang), nội dung của Khóa luận gồm 03
chương:
Chương 1: Làng Đức Hậu và đình làng Đức Hậu (19 trang)
Chương 2: Giá trị kiến trúc, di vật, cổ vật và lễ hội đình làng Đức Hậu (38 trang)
Chương 3: Bảo tồn và phát huy giá trị của di tích đình làng Đức Hậu trong
giai đoạn hiện nay (23 trang)


10 
 

Chương 1
LÀNG ĐỨC HẬU VÀ DI TÍCH ĐÌNH LÀNG ĐỨC HẬU
1.1. TỔNG QUAN VỀ LÀNG ĐỨC HẬU

1.1.1. Vị trí địa lí và đặc điểm tự nhiên
* Vị trí địa lý
Sóc Sơn là huyện bán sơn địa, phía Bắc giáp với huyện Phổ n thuộc
tỉnh Thái Ngun; phía Đơng và Đơng Bắc giáp huyện Yên Phong thuộc
tỉnh Bắc Ninh và huyện Hiệp Hịa thuộc tỉnh Bắc Giang; phía Tây Bắc giáp
thị xã Phúc Yên tỉnh Vĩnh Phúc và phía Nam giáp các huyện Mê Linh và
huyện Đông Anh của thành phố Hà Nội.
Xã Đức Hịa nằm ở phía Đơng Nam của huyện Sóc Sơn, ngoại thành
Hà Nội. Phía Bắc giáp xã Xuân Giang và Xã Tân Minh, ranh giới tự nhiên là

kênh Bến Tre. Phía Tây giáp xã Đơng Xn và xã Tiên Dược. Phía Nam giáp
xã Kim Lũ. Phía Đơng giáp huyện Yên Phong (tỉnh Bắc Ninh), đường ranh
giới tự nhiên là con sông Cà Lồ.
Làng Đức Hậu là một trong 07 của xã Đức Hịa. Về vị trí địa lý, phía
Bắc giáp xã Xn Giang; phía Nam giáp Thơn Thượng và Thơn Chùa; phía
Đơng giáp Thơn Trung và Thơn Bến; phía Tây giáp Thanh Thủy Trại, Thanh
Huệ Trại, Thanh Huệ Đình.
Là địa phương có địa hình đa dạng, làng Đức Hậu, xã Đức Hịa có
nhiều loại hình giao thơng, thuận lợi cho việc đi lại cũng như giao lưu bn
bán. Đường giao thơng chính là đường liên xã từ Thá (Xuân Giang) qua trung
tâm xã đến Đông Xuân gặp đường Quốc lộ 16 (Phù Lỗ - Bắc Ninh). Đặc biệt,
tuyến đê sơng Cà Lồ ở phía Đơng của xã được nối với nhiều đường giao
thông nên việc đi lại trong vùng cũng như qua các vùng lân cận rất thuân tiện.
Tuyến đường sắt Đông Anh - ga Đa Phúc - Thái Nguyên cũng chạy qua địa


11 
 

bàn xã. Trong tương lai khi kinh tế phát triển, có thể mở giao thơng đường
thủy kết nối Đức Hịa với nhiều nơi trong vùng.
* Đặc điểm tự nhiên
+ Đất đai, địa hình: Vấn đề cơ cấu cây trồng và công tác thủy lợi luôn
là mối quan tâm hàng đầu của xã. Diện tích tự nhiên của xã là 716,59 ha,
trong đó 461,01 ha là đất nơng nghiệp, đất canh tác là 442,51 ha, đất chuyên
dùng 141,76 ha, đất thổ cư 69,22 ha, còn lại 1,49 ha là đất đồi trồng cây.
Giống như nhiều xã khác trong huyện, Đức Hòa thuộc vùng đất trung du, địa
hình đa dạng, có độ nghiêng Tây - Đơng rất lớn, hình thành ba vùng rõ rệt.
Vùng cao ở phía Tây có độ cao phổ biến ở cốt từ 10 - 11m, điểm cao nhất ở
cốt là 13,2m. Vùng trũng ở phía Đơng phổ biến ở cốt từ 5 - 6m, điểm thấp

nhất là cống đê Cầu Dâu, điểm cốt là 3,8m. Vùng đất giữa là vùng xen kẽ
giữa địa hình trũng với các đồi bát úp, đất đai chủ yếu là đất cát pha bồi nên
rất thuận tiện cho việc chuyên trồng cây hoa màu. Do địa hình có cấu tạo đa
dạng, đất đai phần lớn là đất cát pha, bạc màu, việc canh tác lại phụ thuộc rất
nhiều vào thiên nhiên nên năng suất cây trồng thấp, đời sống nhân dân còn
nhiều bấp bênh.
+ Sơng, nước: Phía Đơng giáp sơng Cà Lồ chảy ra sơng Cầu ở ngã ba
Xà. Trước đây, sơng cịn được người dân sử dụng dùng để vận chuyển vật
liệu xây dựng. Đến mùa mưa cư dân cắm bè đánh cá và nhiều gia đình sống ở
trên sơng, chủ yếu là người thơn Bến (giáp sơng), cịn cư dân trong các làng
thưa thớt, trong đó có làng Đức Hậu.
1.1.2. Lịch sử hình thành, quá trình tồn tại và phát triển làng Đức Hậu
1.1.2.1. Lịch sử hình thành làng
Theo truyền thuyết, đời vua Hùng thứ 6, giặc Ân đem quân xâm lược
nước ta, nhà vua hạ chiếu chỉ cầu người tài đánh giặc. Người anh hùng Gióng
(người làng Phù Đổng, huyện Gia Lâm) đã phò vua đánh giặc cứu nước,


12 
 

người xưa tơn là Thánh Gióng. Thánh Gióng chỉ huy quân sĩ, thế mạnh như
vũ bão, đánh đến đâu, giặc bại trận đến đó. Thánh Gióng đuổi giặc đến vùng
Đa Phúc, khi qua làng Thanh Thủy đã được trẻ mục đồng (người làng Đức
Hậu) lấy lá cây khoai sọ vào làng Thanh Thủy múc nước cho uống. Từ đó, để
ghi nhớ cơng ơn của người dân nơi đây, Thánh Gióng đã đặt tên cho làng có
nước là Thanh Thủy, làng có cơng múc nước là Đức Hậu. Tên làng Đức Hậu
và Thanh Thủy có từ đó và được giữ nguyên cho đến ngày nay.
Theo bản hương ước của làng Phổ Lộng cịn giữ lại được cho biết
thơng tin: Thời kì phong kiến, tổng Phổ Lộng được thành lập thay cho làng

Phổ Lộng. Tổng Phổ Lộng bao gồm hai vách: vách trên gồm xóm Xn Dục
Đồi (Xã Phù Linh) và xóm Xn Dục Đơng (Xã Tân Minh); vách dưới có
bốn xóm: xóm Phổ Lộng, xóm Đức Hậu, xóm Thanh Thủy Huệ và xóm
Thanh Thủy Đơng. Từ xưa cho đến những năm 60 của thế kỷ XX, Đức Hịa
đã có nhiều lần thay đổi về tên gọi và địa gới hành chính cấp xã. Tháng 04
năm 1946, sau bầu cử Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân xã, Ủy ban nhân
dân huyện quyết định thành lập xã Phổ Đức Thanh và tên xã được lấy từ tên
đầu của ba làng: Phổ Lộng, Đức Hậu, Thanh Thủy.
Ngày 18 tháng 04 năm 1949, do yêu cầu của cuộc kháng chiến chống
Pháp, huyện Đa Phúc quyết định hợp nhất hai xã Phổ Đức Thanh và Xuân
Thủy lại với nhau và lấy tên mới là xã Việt Tiến.
Kháng chiến chống Pháp thắng lợi, hịa bình lập lại trên miền Bắc, để
phù hợp với tình hình cách mạng mới, tháng 05 năm 1955, huyện Đa Phúc
quyết định tách xã Việt Tiến thành ba xã: Đức Hòa, Việt Tiến và Xn Thu.
Riêng Đức Hịa, thơn Thanh Thủy Đông được nhập vào xã Đông Xuân
(Huyện Kim Anh cũ). Xã Đức Hịa gồm 07 thơn: Thanh Huệ Đình, Thanh
Huệ Trại, thôn Thượng, thôn Chùa, thôn Bến, thôn Trung, thôn Đức Hậu và
xóm Phú Hào. Địa giới và tên xã Đức Hòa được giữ nguyên cho đến hiện nay.


13 
 

1.1.2.2. Quá trình hình thành và phát triển của làng
Làng Đức Hậu có lịch sử từ lâu đời, là mảnh đất địa linh nhân kiệt với
truyền thống yêu nước nồng nàn và những con người nguyện đem hết mình
bảo vệ từng tấc đất của quê hương. Thời kì phong kiến cho đến những năm
đấu của thế kỷ XX, tên làng Đức Hậu hầu như vẫn giữ nguyên, về sau mới
gọi chung là tổng Phổ Lộng. Khi giặc Pháp tràn vào, chúng cướp phá, thực
hiện các chính sách ngu dân khiến cư dân Đức Hậu và nhân dân xã Đức Hòa

trăm bề cơ cực. Bọn chức dịch làm tay sai, nối giáo cho giặc hành hạ những
con người thuần nông chất phác, và rồi cư dân Đức Hậu đã đi theo tiếng gọi
của Đảng, đổi mới các quan niệm cổ hủ, các tập tục khơng cịn phù hợp. Năm
1937, thơn Đức Hậu mở trường tiểu học tại đình Đức Hậu (Học lực Séc - ti vi - ca, tương đương với lớp 4 bây giờ). Tuy là trường quốc lập nhưng cũng
chỉ có ít học sinh đến học, chủ yếu là con nhà giàu trong làng và trong huyện
đến học. Năm 1939, trường được xây mới với ba lớp học ở khu văn chỉ trước
cửa đình thơn Đức Hậu.
Về mặt văn hóa nghệ thuật, giai đoạn 1961 - 1965, ở thơn Đức Hậu đã
thành lập một đội cải lương, chuyên phục vụ các ngày lễ tết ở làng và các
vùng khác với quy mô lớn. Những năm kháng chiến chống Mỹ cứu nước,
Đức Hậu được coi là "Hộp thư bí mật" của vùng và chính thơn Đức Hậu cũng
bị thiệt hại nặng nề bởi bom Mỹ tàn phá. Song những người con Đức Hậu
quyết tâm giữ vững quê hương, hết lòng vì miền Nam ruột thịt. Hịa bình lập
lại, Đức Hậu lại vươn mình đi lên trong cơng cuộc thi đua sản xuất, kiến thiết
cho quê hương. Ngày nay, thôn Đức Hậu đã được nhận danh hiệu "Làng văn
hóa tiêu biểu" của huyện Sóc Sơn, thành phố Hà Nội.
1.1.3. Đặc điểm dân cư
Có thể nói, đặc điểm cư dân nơi đây gắn liền với quá trình hình thành
làng Đức Hậu. Như trên đã trình bày, cư dân ở làng Đức Hậu đã có mặt ở


14 
 

vùng đất này từ rất sớm, theo truyền thuyết thời Hùng Vương thứ 6, đó là việc
Thánh Gióng đánh giặc qua làng được người dân giúp đỡ và sau đó đặt cho
làng tên gọi "Đức Hậu". Trải qua các thời kỳ lịch sử khác nhau, đến nay, Đức
Hậu là một làng có số người đơng nhất xã Đức Hịa, chiếm 40% dân số của cả
xã. Bởi vì thơn Đức Hậu gồm 840 hộ và 3.500 khẩu, trong khi đó cả xã Đức
Hịa gồm hơn 8.000 khẩu (theo thơng tin của ông Đỗ Văn Nguyên, 60 tuổi, là

Phó thôn Đức Hậu cho biết). Có thể thấy, Đức Hậu là thơn đơng dân sống lâu
đời, nên tình cảm đồn kết giữa những người dân được đề cao.
Theo thông tin do cụ thủ từ ( cụ Đặng Đình Dũng ) và ơng Phó thơn
Đức Hậu cho biết, làng Đức Hậu có tổng số trên 10 dịng họ đó là: Nguyễn
Văn, Nguyễn Bá, Nguyễn Hữu, Đặng Đình, Đặng Đức, Trần, Hồng, Phùng,
Đỗ, Nguyễn (họ Nguyễn là từ nơi khác về và không phải gốc gác của làng).
Trong làng có 06 dịng họ lâu đời nhất: Nguyễn Văn, Nguyễn Hữu, Nguyễn
Bá, Đặng Đình, Đặng Đức, Trần, trong đó có 03 dịng họ có nhà thờ là: Họ
Nguyễn Văn, Nguyễn Bá, Nguyễn Hữu. Trải qua quá trình lịch sử, dù các
dịng họ đến sinh sống vào những thời điểm khác nhau, nhưng các thế hệ cư
dân làng Đức Hậu có truyền thống đồn kết, thương u nhau “Lá lành đùm
lá rách” để sinh sống và tồn tại. Họ cùng nhau làm ăn, cùng uống chung
nguồn nước, cùng thờ thành hoàng làng và cùng nhau chung vui hội hè đình
đám. Những nét đẹp văn hóa đó đã góp phần làm nên thuần phong mỹ tục độc
đáo của cư dân Đức Hậu.
1.1.4. Đặc điểm kinh tế
1.1.4.1. Kinh tế nông nghiệp
Từ xưa đến nay làng Đức Hậu chủ yếu làm nghề nông nghiệp. Trước
và sau Cách mạng tháng 8 năm 1945, người dân nơi đây chỉ có trơng chờ vào
nghề nông là chủ yếu. Đặc biệt, sau Cách mạng tháng 8 năm 1945, đời sống
nhân dân xã Đức Hòa gặp rất nhiều khó khăn, nguyên nhân là do chiến tranh


15 
 

chống Nhật và chống Pháp, nơng nghiệp mất mùa, đói kém (cả nước lúc này
có khoảng 2 triệu người chết đói)... Cả nước phải dồn sức người, lương thực
cho chiến tranh nên cuộc sống của người dân cũng thiếu thốn nhiều.
Hiện nay, đời sống nhân dân thôn Đức Hậu vẫn dựa vào nơng nghiệp là

chính. Số hộ đơng vì vậy ruộng chia theo đầu người ít (bình qn 1 sào rưỡi/
người, cịn các thơn khác là 2 sào/người), đất chật, người đông tưởng như cư
dân sẽ rất vất vả, thiếu thốn nhưng đồng ruộng Đức Hậu đã cưu mang, nuôi
sống họ. Vì là đất màu nên họ canh tác một năm được 03 vụ (nơi khác là 02
vụ) gồm 02 vụ lúa và 01 vụ màu. Nhờ có thủy lợi, đồng ruộng của làng hiện
đã cấy trồng 2 vụ lúa và một vụ màu tương đối ổn định. Trong hơn chục năm
gần đây, Đức Hậu thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế, trọng tâm là chuyển
dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi. Các giống lúa mới như Bắc thơm, Khang
Dân, Tạp Giao… được gieo cấy, đưa năng xuất lúa lên cao. Ngồi lúa, dân
làng cịn chủ động thâm canh, luân canh nhiều cây thực phẩm như: Đậu, lạc,
các loại rau xanh (cà chua, đỗ quả, su hào, cải bắp…).
1.1.4.2. Kinh tế thủ công nghiệp
Hiện nay, tại làng Đức Hậu đã phát triển nghề mộc hiện có khoảng 10
xưởng làm mộc chuyên làm đồ thờ và đồ gỗ mỹ nghệ, bên cạnh đó nghề hàn
xì cũng phát triển, các ngành nghề mới này đem lại thu nhập khá cao cho
người làm. Cho tới thời điểm này, tình hình kinh tế xã hội ở Đức Hậu đã ổn định
trên tất cả các lĩnh vực, đời sống nhân dân được đẩy mạnh và nâng cao. Nhiều gia
đình trong thơn đã thốt khỏi hộ nghèo, mua sắm được các trang thiết bị cần
thiết trong gia đình như tivi, tủ lạnh, máy giặt, máy vi tính, thậm chí có những
hộ đã có ơ tơ riêng… Cơ sở hạ tầng, nhà ở đã ngày càng được nâng cấp, những
ngôi nhà tầng được xây mới, khép kín bên trong có những trang thiết bị hiện
đại thay thế những ngơi nhà ngói ba gian chật chội hay bị hỏng vào mùa mưa...
1.1.4.3. Một số loại hình kinh tế khác


16 
 

Ở làng Đức Hậu hiện nay, tình hình xuất khẩu lao động diễn ra rất phổ
biến với hàng trăm người đi lao động ở các nước như: Hàn Quốc, Malaysia,

Nhật Bản... Do đi xuất khẩu lao động ở nước ngoài, nên nhiều gia đình ở thơn
Đức Hậu đã chuyển sang kinh doanh bán hàng tạp hóa, vật liệu xây dựng và
đầu tư kiến thiết cơ sở hạ tầng cho quê hương như: đổ đường bê tông, xây
trường mầm non, nhà văn hóa...
1.1.5. Văn hóa truyền thống thơn Đức Hậu
1.1.5.1. Phong tục tập quán
* Cưới xin
Ở làng Đức Hậu cũng như mọi nơi khác, hôn nhân và cưới xin là việc
không chỉ của riêng cá nhân mà là của cả gia đình và dịng họ. Người con trai
đến tuổi lấy vợ, khơng chỉ nhằm duy trì nịi giống, thờ phụng tổ tiên, nuôi
dưỡng cha mẹ khi già yếu, mà nhiều khi còn là tăng sức lao động để phát triển
kinh tế và uy thế về sự lớn mạnh của dòng họ mình trong mối quan hệ với các
dịng họ khác. Hơn nhân bắt buộc khơng cịn nữa, thanh niên trong làng tự do
lựa chọn tìm hiểu người bạn đời của mình. Khi sự tìm hiểu đã chín muồi,
người con trai thưa chuyện với cha mẹ mình để chuẩn bị lễ vật sang nhà gái
xin cưới. Tục lệ thách cưới, nộp cheo ngày nay khơng cịn tồn tại và lễ cưới
được tổ chức đơn giản hơn. Ngày xưa, muốn cưới được vợ, chú rể phải nộp
treo 500 viên gạch để xây đường làng theo như quy định của làng. Theo câu
chuyện kể lại của cụ thủ từ Đặng Đình Dũng, 78 tuổi cho biết, năm 10 tuổi
ông lấy vợ, khi đi rước dâu ở huyện Yên Phong (Bắc Ninh) nhà gái căng dây
trước cổng vào, nhà trai phải đưa tiền thì nhà gái mới thu dây lại. Khi vào
cổng, nhà gái lại đóng cổng, lúc này nhà trai lại phải đưa tiền thì họ mới mở
cổng. Khi vào trong nhà, nhà trai đưa tiền thì nhà gái mới trải chiếu ra cho
ngồi. Nếu nhà gái cịn ơng bà thì phải chấp tay để lễ (vái), ơng bà mất thì chấp
tay lễ bố mẹ vợ. Khi rước dâu về, cô dâu chú rể ra ngồi sân, tại đây có bàn


17 
 


làm lễ và có người đọc văn ( gần giống như người dẫn chương trình đám cưới
hiện nay) cho hai người chính thức là vợ chồng. Ngồi ra, vào dịp tết Thường
Tân (cúng cơm mới), con rể phải mang đôi chim ngói, gạo tám thơm xuống
tết bố mẹ vợ... Đến nay, mặc dù những thủ tục này đã bị xóa bỏ, nhưng lễ
cưới ở đây vẫn có những quy định theo phong tục truyền thống xưa như: lễ
chạm ngõ, ăn hỏi, lễ cưới, lễ lại mặt. Người dân nơi đây quan niệm, sau lễ
cưới của đôi nam nữ, hai gia đình từ chỗ là quan hệ xã hội đã trở nên gắn bó
mật thiết với nhau.
* Tang ma
Nếu cưới xin là việc vui đánh dấu sự trưởng thành của đời người, thì
tang ma lại là việc buồn kết thúc chu trình của một đời người. Việc tổ chức
đám tang với sự chứng kiến của cộng đồng, dân làng. Đám tang được tổ chức
có mặt đơng đủ nội ngoại, xóm làng, khu phố, bằng các nghi thức và sự phân
công chặt chẽ theo tục lệ cổ truyền của làng. Tổ chức đám tang thường có các
nghi thức sau: Khi người thân sắp qua đời, gia chủ gọi con cháu ruột thịt đến
nhìn mặt lần cuối và nghe những lời dặn dị sau cùng (nếu có thể) của người
sắp qua đời. Sau đó người nhà cử một số người chăm sóc, đun nước lá thơm
tắm rửa, gội đầu, chải tóc, chờ đến lúc tắt thở rồi thay quần áo mới. Một số anh
em ruột thịt túc trực bên người quá cố suốt đêm. Sau đó chờ con cháu, người
thân ở xa về đông đủ mới tiếp tục liệm, nhập quan, phát tang. Con cháu, anh
em đội khăn tang theo thứ bậc và tỏ lòng thương tiếc người chết. Đồng thời, đặt
di ảnh, hương đèn, hoa quả để con cháu, họ tộc gần xa, thân bằng cố hữu phúng
viếng. Con trai trưởng, con dâu trưởng cùng một số anh em trong nhà đứng đáp
lễ, ghi chép phúng viếng.
Đám ma ở Đức Hậu có những điểm đặc biệt hiếm thấy tại các nơi khác,
nếu người mất là cụ bà thì vào đêm trước khi đưa ma, ơng trưởng đồn kèn
trống ( hiện nay chính là cụ thủ từ của đình Đức Hậu) sẽ lên sân khấu (tại trước


18 

 

ban thờ ở sân nhà người mất) diễn tích ‘‘Mục Liên Thanh Đề" để tả lại sự tích
Đức Mục Hiền Liên khi đã tu thành Phật đi xuống địa ngục, vượt biển lửa cứu
mẹ. Theo tích Phật mẹ của ngài đã mắc tội phỉ báng và có việc làm tội lỗi đối
với những sư tăng (cho thịt chó vào bánh bao mời nhà sư ăn). Sau khi cứu được
mẹ, cụ thủ từ lại hóa thân vào vai một ơng già chèo đị và một người nữ trong
đồn đóng vai Ngọc nữ đưa mẹ về Tây Thiên theo Phật. Còn nếu người mất là
cụ ơng, thì phải có ba người trên sân khấu để diễn tích "Người con trung hiếu".
Tích này diễn ra như sau: Ở một gia đình nọ, người chồng tên là Tuấn Anh,
người vợ là Mai Hương cùng ở với cha già. Sau đó, Tuấn Anh lên kinh để ôn
thi chuẩn bị cho kỳ thi sắp tới, ở nhà Mai Hương mị cua bắt ốc để ni cha,
ni chồng. Trời khơng phụ lịng người hiếu học, kỳ thi năm đó Tuấn Anh đỗ
và được vinh quy bái tổ. Nhưng thật đau đớn thay khi đúng lúc chàng về thì
cha lại mất, chưa kịp để mình báo hiếu cho cha. Thương cha nên hai con làm lễ
và đưa cha về cõi Tây phương. Với tích này, cụ thủ từ đã đóng vai người cha,
đồng thời sau đó lại đóng ln cả vai người chèo đị đưa người đã khuất về quy
y cửa Phật.
Lễ phúng viếng tuỳ theo mối quan hệ giữa người đi phúng viếng với
người quá cố. Trường hợp gia đình thơng gia thường có thẻ nhang, tiền viếng;
đồn thể có vịng hoa, bức chướng, tiền viếng. Đội trống kèn thờ liên tục phát
ra những âm thanh tiếc thương người quá cố đến lúc hết người phúng viếng thì
nghỉ. Việc đưa tang ở làng Đức Hậu gọi là đưa ra đồng, mọi việc đều được tổ
chức phân công chu đáo, thứ bậc rõ ràng. Đưa tang bằng hình thức đi bộ, linh
cữu người chết được để trong xe đẩy (trước đây phải khiêng linh cữu), trên
đường đưa tang có rắc vàng thoi bằng giấy, tiền âm từ nhà gia chủ ra đến
huyệt để người chết nhớ đường về nhà mình. Khi hạ huyệt thường có thầy
cúng hoặc vị sư làm phép trì huyệt, các cụ bà đọc kinh trước mộ. Động thái
này cho rằng, cúng trị huyệt mới xua đuổi được tà ma cũ để cho vong linh
người mất được yên ổn.



19 
 

Qua nghi lễ của đám tang ở làng Đức Hậu cho thấy, đây là vùng đất có
truyền thống lịch sử văn hóa, người dân nơi đây vẫn giữ gìn được những nét văn
hóa đặc sắc, đó là những nghi thức, tập tục cổ truyền, những câu chuyện được
diễn thành các tích trị với nội dung tư tưởng nhân văn cao cả để người sống
hướng mình tưởng niệm người đã khuất đồng thời tự mình tu thân tích đức.
* Lệ làng
Trước Cách mạng tháng 8, làng Đức Hậu còn giữ được hương ước của
làng nhưng sau đó làng đã bị thất lạc. Hiện nay, khơng cịn tư liệu nào nhắc
đến các điều khoản trước đây, chủ yếu là dựa vào tư liệu hồi cố của một số cụ
cao niên trong làng kể lại.
Vào ngày 15 tháng Một âm lịch tức ngày Rằm tháng Giêng, cả thôn
Đức Hậu tổ chức ăn rất to, đây còn gọi là tục "ăn tết lại" với câu nói "Tết
quanh năm khơng bằng ngày Rằm tháng Giêng". Bởi vì vào ngày này, tất cả
con cháu, dâu rể ở các nơi đều phải về gia đình để gặp mặt, gói bánh chưng,
làm cỗ để cúng tổ tiên. Vì ngày tết, nhiều thành viên trong gia đình có thể là
khơng về nhà được vì nhiều ngun nhân khác nhau nên đây là dịp để tất cả
mọi người quay quần thay cho sự thiếu vắng của họ vào dịp tết Ngun Đán.
Trước đó, ngày mồng 07 tháng Giêng hay cịn gọi là ngày lễ hạ cây Nêu, mọi
người tổ chức làm cỗ ăn mừng. Nhưng sau năm 1943 đến ngày này chuyển
sang ngày 15 tháng Giêng. Trên địa bàn xã Đức Hịa chỉ có làng Đức Hậu tổ
chức lễ này vào ngày 15 tháng Giêng, còn 06 xã khác tổ chức vào ngày 10
tháng Giêng.
Ngày nay, các phong tục tập quán của thôn Đức Hậu cũng được lãnh
đạo và nhân dân thống nhất đặt quy định mới cho phù hợp với tình hình thực
tế của địa phương: ma chay, cưới hỏi chỉ tổ chức trong một ngày, không được

mời quá 300 khách, sử dụng loa đài sau 10 giờ đêm phải tắt…
1.1.5.2. Di tích lịch sử văn hóa


20 
 

Ở làng Đức Hậu hiện nay còn một sỗ di tích lịch sử văn hóa:
* Chùa Đức Hậu
Cơng trình kiến trúc này nằm sát phía bên trái đình Đức Hậu, cả hai di
tích chùa và đình có chung khn viên. Những tư liệu về thời điểm khởi dựng
của ngôi chùa khơng được ghi rõ. Chùa có mặt bằng kiến trúc hình chữ
“Đinh”, gồm: Tiền đường xây bít đốc tay ngai và Thượng điện, phía trước là
sân gạch và cổng chùa. Tiền đường gồm 7 gian 2 dĩ với 12 cột gỗ ở gian giữa
vng, 4 cột sát tường trịn. Các cột hiên xây bằng gạch. Phía trước 5 gian
làm cửa bức bàn, gian đầu hồi có cửa sổ chữ nhật trổ hình chữ thọ dạng chữ
triện. Các vì kèo kết cấu kiểu “chồng giường”. Thượng điện nối liền tiền
đường bằng nóc. Đơn ngun này gồm 5 gian với 4 vì kèo gồm 8 cột gỗ
vng, ở đầu hồi khơng có vì kèo. Các vì kèo này làm theo kiểu quá giang đỡ
trụ trốn. Chỉ có vì giáp tiền đường làm kiểu “Giá chiêng” gánh thượng lương.
Hai bên thượng điện có hành lang rộng, dọc hành lang có trụ đỡ bộ mãi.
Phần trang trí nghệ thuật của chùa Đức Hậu chủ yếu ở nhà Tiền đường
và tập trung vào 2 bộ vì gian giữa. Ở phần chính giữa nối với thượng điện có
bức cửa võng được chạm cầu kì với đặc điểm phía trên là hình hổ phù và triện
cúc dây, hai diềm cửa chạm hình lân ký cầu. Các vì khác khơng thể hiện các
họa tiết trang trí.
Ngồi ra, trong khn viên của chùa cịn có ban tổ, ban mẫu được đặt
trong một đơn nguyên kiến trúc phụ. Đơn nguyên này gồm 5 gian, xây bít đốc
trụ biểu, kiến trúc đơn giản kiểu “Tiền kẻ, hậu bẩy”… Ngôi chùa này đã được
Bộ Văn hóa và thơng tin xếp hạng di tích kiến trúc, nghệ thuật vào ngày mồng

10 tháng Ba năm 1994.
* Nhà thờ họ
Dòng họ là tập hợp những gia đình có chung nguồn gốc về huyết thống, là
một trong những yếu tố quan trọng để cấu thành một ngôi làng. Thông thường ở


21 
 

một ngơi làng được cấu thành bởi nhiều dịng họ khác nhau. Như đã trình bày ở
phần trên, làng Đức Hậu có tổng số trên 10 dịng họ, trong đó có 03 nhà thờ
của dịng họ Nguyễn Văn, Nguyễn Bá, Nguyễn Hữu. Hiện nay, những nhà thờ
này đã được tu bổ, tôn tạo khang trang để phục vụ cho nhu cầu sinh hoạt văn
hóa dịng họ của các gia đình cùng chung huyết thống.
1.1.5.3. Lễ hội và các ngày lễ khác
* Lễ hội đình làng Đức Hậu: Lễ hội này diễn ra vào ngày 06 tháng
Chín âm lịch hàng năm, cứ 5 năm tổ chức lễ hội lớn. Bên cạnh đó, có ngày
giỗ Thánh là ngày 10 tháng Tư âm lịch, nếu như hầu hết các ngơi đình cổ của
Việt chủ yếu chọn ngày sinh hoặc ngày hóa của vị thành hồng được thờ
trong đình làm ngày lễ hội thì đình Đức Hậu lại có chút khác biệt. Đó là người
dân khơng chọn ngày hóa của thần làm lễ hội mà lại chọn ngày thánh Tam
Giang cùng vợ, con đến vùng đất này sinh sống làm ngày tổ chức lễ hội. Lễ
hội đình làng Đức Hậu diễn ra trong 03 ngày: 04, 05, 06 tháng Tư, trong đó
ngày mùng 05 là ngày chính của lễ hội. Trong lễ hội có lễ tế thành hoàng làng
được chú trọng nhất, ngoài ra trong lễ hội cịn có các hình thức diễn xướng
dân gian khác: hát quan họ, múa song quạt, múa kiếm và các trò chơi dân gian
như: chọi gà, đu quay, ném cổ chai...( Chi tiết sẽ giới thiệu ở mục 2.3 của
chương 2 ).
* Giỗ Thánh
Là việc kỷ niệm ngày hóa của thánh Tam Giang Trương Hống và vợ

con tự vẫn tại ngã ba Xà vào ngày mùng 10/04 âm lịch (Thực chất là ngày
mùng 09 tháng Tư, nhưng hiện này đền Xà tổ chức vào ngày mùng 09/04, nên
lễ giỗ thánh ở đình làng Đức Hậu phải lui lại đến mùng 10/04 mới tổ chức.
Bởi vì đền Xà được coi như người anh cả, cịn các đình khác như Đức Hậu
được xem như em thứ nên phải tổ chức sau. Ngày giỗ Thánh được tổ chức tại
sân đình và có liên hoan cỗ mặn (khoảng 30 mâm), thành phần dự tiệc gồm
các cụ và nhân dân trong làng đến dự hội...( mục 2.3 ở chương 2).


22 
 

1.1.5.4. Truyền thống học hành
Người dân thôn Đức Hậu từ lâu đã có truyền thống hiếu học và truyền
thống ấy vẫn luôn được tiếp bước đến ngày nay. Trong lịch sử, tuy đời sống
vật chất cịn nhiều khó khăn nhưng đã có một số người học hành thành đạt
đem lại niềm tự hào cho vùng đất này và trở thành những tấm gương sáng về
tri thức cho các thế hệ trẻ noi theo. Như họ Đặng Đình xưa có người học
hành đỗ đạt, làm tới chức Tri phủ tỉnh Cao Bằng. Ngày nay, trong làng có 02
vị tiến sĩ ở dịng họ Nguyễn Văn và Đặng Đức. Do có truyền thống hiếu học
nên các thế hệ con cháu hiện nay vẫn ln ý thức gìn giữ và phát huy tinh
thần truyền thống đó. Bởi lẽ việc học hành đối với mỗi người dân Đức Hậu
không chỉ là trách nhiệm với bản thân mà còn là bổn phận làm rạng danh
cho gia đình, dịng họ và cả xóm giềng. Các dịng họ, lãnh đạo thôn Đức
Hậu đã thành lập quỹ hiếu học, hàng năm thường tổ chức gặp mặt vinh danh
và trao phần thưởng cho các con em quê hương học hành đỗ đạt.
1.2. LỊCH SỬ HÌNH THÀNH, QUÁ TRÌNH TỒN TẠI CỦA DI TÍCH ĐÌNH
LÀNG ĐỨC HẬU VÀ NHÂN VẬT ĐƯỢC PHỤNG THỜ

1.2.1. Lịch sử hình thành, quá trình tồn tại của di tích đình làng Đức Hậu

1.2.1.1. Lịch sử hình thành
Đối với lịch sử hình thành ngơi đình làng nói chung: Đình làng có từ bao
giờ cũng chưa có tài liệu nào ghi chép lại một cách cụ thể. Đình được đề cập
đến trong lịch sử bắt đầu từ thời Trần khi các vua Trần cho xây đình làm nơi
dừng chân khi đi tuần thú. Khi đó ngơi đình mang chức năng như một cơng
qn - dịch đình. Sau này, ngơi đình cịn đưa tượng Phật vào thờ và thêm
chức năng tín ngưỡng. Nhưng từ bao giờ đình làm nơi thờ thành hồng làng
chưa có nguồn sử liệu nào ghi chép cụ thể. Tuy nhiên trên thực tế hiện nay,
chúng ta cịn lại những ngơi đình có niên đại thế kỉ XVI, XVII, XVIII, XIX.
Qua nghiên cứu thực thể các kiến trúc đình làng người Việt có thể cho phép


23 
 

nhận định về chức năng của đình làng. Đình làng là ngôi nhà công cộng của
làng xã Việt Nam.
Về chức năng hành chính, đình là chỗ để họp bàn các “việc làng”, để xử
kiện, phạt vạ, ăn khao… theo những quy ước của làng, từ những cuộc họp của
bô lão trong làng, trong họ tộc, chuyện làm lễ lên lão cho nhà này, phạt vạ nhà
kia có con gái khơng chồng mà chửa… cho đến những việc đại sự như đón
sắc phong của vua ban, hội đình, tất tật đều được diễn ra ở sân đình và theo lệ
làng. Về chức năng tơn giáo, đình là nơi thờ thần của làng, được gọi là “Thần
Thành hoàng làng”. Về chức năng văn hóa, đình là nơi biểu diễn các kịch hát,
như chèo hay hát cửa đình, nơi tiến hành các lễ hội, các trị chơi… Các chức
năng trên khơng bao giờ tách bạch mà ln đan xen hịa quyện với nhau. Có
thể coi đình là một tịa thị chính, một nhà thờ và một nhà văn hóa cộng lại của
làng xã Việt Nam. Ngơi đình là biểu tượng cho cộng đồng làng xã Việt Nam,
là một yếu tố hữu hình của văn hóa làng Việt Nam. Ở các làng xã trong xã
hội cũ, việc tơn thờ thành hồng làng là việc tối quan trọng của cả làng xã.

Chính vì vậy, ban đầu thần được thờ ở những ngơi đình nhỏ, ít được người
dân chú trọng, trải qua thời gian, việc thờ thần đã được nhân dân coi trọng và
chính người dân đã tạo ra một hệ thống kiến trúc, trang trí phù hợp với chức
năng, đặc trưng của các hoạt động tín ngưỡng tơn giáo này.
Đối với trường hợp đình làng Đức Hậu, đây là cơng trình kiến trúc tín
ngưỡng và nằm trong dịng chảy lịch sử phát triển của đình làng Việt Nam.
Song cho tới nay, chưa có tài liệu nào khẳng định về niên đại khởi dựng chính
xác của đình Đức Hậu. Nhưng dựa vào những chứng cứ thơng qua q trình
khảo sát tại di tích cho thấy, đặc điểm kiến trúc và trang trí trên kiến trúc của
tồ Đại đình có thể cho phép xác định niên đại tương đối của di tích đình làng
Đức Hậu được xây dựng vào khoảng cuối thế kỷ XVII đầu thế kỷ XVIII. Với
đặc điểm kiến trúc, điêu khắc mang đậm phong cách nghệ thuật thời Hậu Lê,


24 
 

trong đó các đầu dư, các đề tài chạm khắc trên các bức cốn, xà nách với hình
ảnh rồng thú, tiên cưỡi rồng, người hát Ả đào, người uống rượu... Nhìn chung,
các đề tài này được chạm khắc trên kiến trúc gỗ ở đình Đức Hậu khá phổ biến
trong các đề tài trang trí trên kiến trúc của các ngơi đình Việt Nam ở thế kỷ
XVII, XXIII nổi tiếng như: Đình Hùng Lơ, đình Lâu Thượng (huyện Lâm
Thao, Phú Thọ), Tam đình của thị trấn Hương Canh (Vĩnh Phúc), đình Thổ
Tang (Vĩnh Tường, Vĩnh Phúc); đình Yên Nội (Việt Yên, Bắc Giang), đình
Chu Quyến, Liên Hiệp (Hà Nội), đình Hồng Xá, đình Phượng Cách (Quốc
Oai, Hà Nội), đình Bạch Trữ (Mê Linh, Hà Nội), đình Ninh Giang (Gia Lâm,
Hà Nội)...
Đặc biệt, hiện nay ở các cột gỗ chịu lực trong tồ Đại đình cịn có dấu
vết của các lỗ mộng đỡ ván sàn. Điều này chứng minh rằng, trước đây tịa Đại
đình đã từng tồn tại ván sàn gỗ mà do nhiều nguyên nhân khác nhau, nay lớp

sàn ván gỗ này đã bị tháo dỡ. Khi nói về sàn đình, tác giả Hà Văn Tấn cho
rằng, “Sàn đình là một kết cấu vốn có của những ngơi đình cổ cịn bảo lưu lại
ở đình làng thời Mạc” [23, tr.22].
Mặt khác, tại đình làng Đức Hậu cịn lưu giữ được 07 sắc phong (gồm
bản gốc và bản sao) do triều đình nhà Nguyễn phong tặng cho vị thần được
thờ tại đây có niên đại từ năm 1809 đến 1924. Đây cũng là một căn cứ quan
trọng trong việc xác định niên đại tương đối của ngơi đình này.
Như vậy, căn cứ vào phong cách kiến trúc và mĩ thuật trên các bức
chạm khắc, dấu vết lỗ mộng sàn đình trên kiến trúc cùng các văn bản sắc
phong được lưu giữ tại đình làng Đức Hậu như đã trình bày ở trên là căn cứ
để xác định, kiến trúc của đình làng Đức Hậu hiện nay được xây dựng vào
thời Hậu Lê Trung Hưng (khoảng từ cuối thế kỷ XVII đến đầu thế kỷ XVIII).
1.2.1.2. Quá trình tồn tại và phát triển
Tồn tại cho đến ngày nay, ngơi đình này đã trải qua nhiều biến động
của lịch sử như chiến tranh, sự tác động vô thức của người dân và sự khắc


25 
 

nghiệt của thời tiết, tự nhiên. Trong quá trình tồn tại đó, đình Đức Hậu đã
được trùng tu, sửa chữa mở rộng về mặt quy mô. Theo tư liệu hồi cố của các
cụ cao niên trong làng cung cấp và căn cứ vào các dấu vết kiến trúc tại đình
có thể nhận thấy đình được trùng tu lớn ở thế kỷ XIX và thế kỷ XX.
Dấu vết của việc trùng tu sửa chữa đình là việc xây thêm tịa Tiền tế ở
trước Đại đình, tuy khơng có tư liệu và niên đại ghi trên đó, nhưng qua đặc
điểm kiến trúc cho thấy tòa Tiền tế được xây thêm vào thời Nguyễn, các hoa
văn trang trí trên các bộ vì và các bẩy hiên là hoa văn lá lật mang phong cách
nghệ thuật thời Nguyễn. Qua khảo sát một số ngôi đình có niên đại cùng thời
với ngơi đình này ở trên địa bàn huyện Sóc Sơn nói riêng và ở châu thổ Bắc

Bộ nước ta nói chung cho thấy, các tịa Tiền tế của những ngơi đình này đều
được xây dựng vào thời Nguyễn, duy nhất chỉ có tịa Tiền tế của đình làng
Hùng Lơ (huyện Lâm Thao tỉnh Phú Thọ có dịng niên đại ghi rõ năm khởi
dựng vào thời Hậu Lê Trung Hưng (niên hiệu Bảo Thái năm thứ 06 - 1710).
Mặt khác, trong tịa Đại đình có nhiều cột quân được thay thế và nhiều
cột cái được sơn son. Lúc đầu tồ nhà này khơng có tường bao, sau đó người
dân đã trùng tu, tơn tạo và xây thêm hệ thống tường bao quanh tồn bộ tịa
nhà bằng các nguyên vật liệu mới như gạch, xi măng...và cho lát tồn bộ nền
đình bằng gạch màu sẫm. Hậu cung được mở rộng và đẩy lùi về phía sau vào
thời Nguyễn thế kỷ XX với kiểu dáng tường hồi bít đốc được xây dựng bằng
gạch bìa, gạch vồ có kích thức lớn. Năm 1943, dân làng đã cho xây thêm
tường bao và hai cột trụ ở hai bên cầu ao trước cửa đình. Từ năm 1990 đến
nay, việc tu sửa nhỏ trong di tích được chính quyền và nhân dân địa phương
tiến hành khi xảy ra dấu hiệu xuống cấp. Tồn bộ ao đình đã được kè đá lại
trong vài năm gần đây. Năm 2013, dân làng đã cho xây lại cổng đình mới
nằm cạnh cổng chùa Đức Hậu. Đầu năm 2014, địa phương đã sửa chữa lại hệ
thống ván sàn ở gác lửng trong hậu cung do đã bị xuống cấp nghiêm trọng.


×