Tải bản đầy đủ (.pdf) (104 trang)

Tìm hiểu khu di tích đình và miếu cao đài xã mỹ thành huyện mỹ lộc nam định

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (720.21 KB, 104 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC VĂN HOÁ HÀ NỘI
KHOA BẢO TÀNG
*********

NGUYỄN THỊ THU HƯỜNG

TÌM HIỂU KHU DI TÍCH ĐÌNH VÀ MIẾU CAO ĐÀI
XÃ MỸ THÀNH - HUYỆN MỸ LỘC - NAM ĐỊNH

KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP
NGÀNH BẢO TÀNG

Người hướng dẫn:

Th.s Nguyễn Thị Tuấn Tú

Hà Nội – 2009

1


LỜI CẢM ƠN
Trong q trình viết khố luận này, dù đã nỗ lực nghiên cứu các tư liệu
và khảo sát thực tế nhiều lần song chắc chắn bài viết không tránh khỏi những
thiếu sót. Kính mong các thầy cơ và các bạn đồng mơn góp ý để bài viết được
hồn thiện.
Qua đây, tơi xin bày tỏ lịng cảm ơn chân thành tới Thạc sĩ Nguyễn Thị
Tuấn Tú cùng các thầy cơ trong khoa Bảo tàng trường Đại học Văn hố Hà
Nội đã tận tình chỉ bảo tơi trong q trình thực hiện để hồn thành đề tài của
mình.
Đồng thời tơi cũng xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới các cán bộ Bảo


tàng tỉnh Nam Định, Ban quản lý di tích tỉnh Nam Định, Viện Bảo tồn Di
tích, Tiến sĩ Trần Anh Dũng - cán bộ Viện Khảo cổ học, Tiến sĩ Phạm Văn
Thắm - cán bộ Viện nghiên cứu Hán Nôm, Uỷ ban nhân xã Mỹ Thành cùng
các bạn bè đã tạo điều kiện giúp đỡ tơi hồn thành khoá luận này.
Xin trân trọng cảm ơn!
Hà Nội, ngày 3 tháng 6 năm 2009
Sinh viên

Nguyễn Thị Thu Hường

2


MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN .................................................................................................. 2
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 5
1. Lý do chọn đề tài ...................................................................................... 5
2. Mục đích nghiên cứu ............................................................................... 7
3. Đối tượng và Phạm vi nghiên cứu .......................................................... 7
4. Phương pháp nghiên cứu ........................................................................ 7
5. Bố cục ........................................................................................................ 7
CHƯƠNG 1: ĐÌNH VÀ MIẾU CAO ĐÀI TRONG DIỄN TRÌNH LỊCH
SỬ...................................................................................................................... 9
1.1Khái quát về vùng đất Cao Đài ............................................................. 9
1.1.1 Lịch sử vùng đất Cao Đài .................................................................. 9
1.1.2 Một vài đặc điểm về kinh tế, văn hoá, xã hội làng Cao Đài ........... 17
1.2 Lịch sử hình thành và quá trình tồn tại của đình và miếu Cao Đài
...................................................................................................................... 19
1.3 Vị thần được thờ trong di tích ............................................................ 23
1.3.1 Chiêu Minh đại vương Trần Quang Khải ....................................... 23

1.3.2 Công chúa phụng Dương ................................................................ 26
CHƯƠNG 2: GIÁ TRỊ KIẾN TRÚC - ĐIÊU KHẮC, LỄ HỘI CỦA
ĐÌNH VÀ MIẾU CAO ĐÀI ......................................................................... 28
2.1 Giá trị kiến trúc ................................................................................... 28
2.1.1 Không gian cảnh quan ..................................................................... 28
2.1.2 Bố cục mặt bằng .............................................................................. 31
2.1.3 Kết cấu kiến trúc ............................................................................. 33
2.2 Nghệ thuật điêu khắc trang trí kiến trúc đình và miếu Cao Đài. ... 37
2.2.1 Đình Cao Đài ................................................................................... 37
2.2.2 Miếu Cao Đài .................................................................................. 46
2.2.3 Hệ thống di vật trong di tích .......................................................... 46
2.3 Lễ hội đình làng Cao Đài .................................................................... 50
3


2.3.1 Thời gian - Không gian diễn ra lễ hội ............................................. 50
2.3.2 Việc tổ chức chuẩn bị ...................................................................... 51
2.3.3 Nội dung chính của lễ hội ............................................................... 53
CHƯƠNG 3: VẤN ĐỀ BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ VĂN HOÁ
KHU DI TÍCH ĐÌNH VÀ MIẾU CAO ĐÀI .............................................. 69
3.1 Thực trạng của khu di tích ................................................................. 69
3.2 Bảo tồn khu di tích đình và miếu Cao Đài ........................................ 70
3.2.1 Bảo vệ bằng pháp lý ........................................................................ 70
3.2.2 Bảo vệ bằng các biện pháp kỹ thuật ................................................ 74
3.3 Vấn đề tu bổ tôn tạo khu di tích đình và miếu Cao Đài ................... 81
3.4 Phát huy giá trị của khu di tích đình và miếu Cao Đài .................... 84
KẾT LUẬN .................................................................................................... 87
THƯ MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO........................................................ 89
PHỤ LỤC


4


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Nằm ở phía Nam đồng bằng châu thổ sơng Hồng, trong suốt tiến trình
lịch sử của Việt Nam, Nam Định luôn được xác lập là vùng đất ngàn năm văn
hiến, vùng đất điạ linh đã sản sinh ra những “nhân kiệt” nổi tiếng võ công,
văn trị ở thời đại Trần, một thời kỳ lịch sử được đánh giá là giai đoạn phát
triển tới đỉnh cao của văn minh Đại Việt. Gần hai thế kỷ, với những đức anh
quân, những văn thần, võ tướng, vương triều Trần đã cùng nhân dân cả nước
thực hiện thắng lợi nhiệm vụ bảo vệ và xây dựng, bảo toàn lãnh thổ Đại Việt,
giữ vững độc lập dân tộc, đề cao ý thức tự lực, tự cường. Những bài học lịch
sử về xây dựng chính quyền, đồn kết dân tộc, sử dụng nhân tài, phát triển
văn hoá, kinh tế, giáo dục, nhất là kinh nghiệm chống giặc ngoại xâm của
triều Trần vẫn ln có giá trị cao đối với các thời đại sau đó.
Trong gần 2000 di tích lịch sử văn hố của tỉnh Nam Định, thì những di
tích lịch sử văn hố thời Trần được đặt ở vị trí hàng đầu. Tức Mặc - vùng đất
được đặc cách phong lên thành “phủ Thiên Trường” có cung điện, dinh
thự...và trên thực tiễn có vai trị là một “Hành đơ”, một “Đông kinh” sau kinh
thành Thăng Long thuở đương thời. Phủ Thiên Trường xưa nổi tiếng khơng
chỉ có cung điện Trùng Quang, Trùng Hoa, chùa tháp Phổ Minh mà còn bởi
hệ thống các dinh thự của các tướng lĩnh quý tộc và quan lại cao cấp của triều
đình ở xung quanh như: các cung Đệ Nhất, Đệ Nhị, Đệ Tam, Đệ Tứ, Bảo Lộc
của An sinh vương Trần Liễu, Lựu Phố của Trần Thủ Độ... Xung quanh khu
vực Thiên Trường, ở mỗi làng, mỗi di tích đều cịn lưu dấu các di sản thời
Trần từ kiến trúc thờ tự, đến địa danh... cho tới tận ngày nay. Nhắc đến di sản
văn hoá thời Trần trên quê hương Nam Định, thật là khiếm khuyết nếu khơng
kể đến khu di tích đình và miếu Cao Đài, được dựng trên thái ấp Độc Lập của
Thái sư Trần Quang Khải xưa. Thái ấp này là bổng lộc do triều đình ban

thưởng cho Trần Quang Khải, nhưng đóng vai trị quan trọng về chiến lược
qn sự lâu dài của triều Trần. Song, trải qua thời gian dài giặc giã, bão gió,
lụt lội, các kiến trúc thời Trần ở Cao Đài hầu như khơng cịn, chỉ cịn các phế
5


tích và những địa danh gợi nhớ một thời lịch sử huy hồng nơi đây, đó là: Gị
Nồi Chõ, Cồn Rèn, đồng Nội Bơng, chùa Độc Lập... Khu di tích đình và miếu
Cao Đài – nơi thờ Trần Quang Khải và cơng chúa Phụng Dương có giá trị khá
đặc biệt đối với người dân địa phương nói riêng và tỉnh Nam Định nói chung.
Đi sâu nghiên cứu khu di tích, chúng ta khơng chỉ thấy được vai trị trung tâm
trong việc điều tiết đời sống văn hoá của làng xã Cao Đài mà ở đây còn bảo
lưu được các giai thoại mang đầy tính anh hùng ca của một thời hào hùng và
rực rỡ. Bên cạnh đó, khu di tích này còn lưu giữ được những dấu vết vật chất
của thời Trần (khu miếu của Phụng Dương cơng chúa), đình Cao Đài với
những mảng chạm khắc có giá trị từ thế kỷ 17. Tuy nhiên những di tích này
đang bị xuống cấp nghiêm trọng, rất cần có biện pháp bảo tồn lâu dài để có
thể phát huy giá trị.
Khu di tích đình và miếu Cao Đài có giá trị cao về lich sử, văn hố.
Nhưng, nó ít được các nhà nghiên cứu quan tâm và đến nay chưa có một cơng
trình nào nghiên cứu sâu, mang tính tổng hợp về khu di tích này. Hiện nay,
mới chỉ có lác đác một vài nghiên cứu nhỏ lẻ, nhưng các nhà nghiên cứu chỉ
quan tâm đến một lĩnh vực nghiên cứu nào đó như: Luận án Tiến sĩ của nhà
sử học Nguyễn Thị Phương Chi có một phần nhỏ đề cập đến khu vực thái ấp
của Trần Quang Khải ở Cao Đài dưới góc độ lịch sử. Hồ sơ khoa học về đình
Cao Đài ở Viện Bảo tồn Di tích mới đề cập đến đình Cao Đài, trong đó chú
trọng đến giá trị kiến trúc, cịn giá trị văn hố phi vật thể ở đây chưa được
quan tâm... Chính vì thế, để có một cái nhìn tồn diện hơn, tơi nhận thấy cần
phải nghiên cứu một cách hệ thống, tổng hợp về khu di tích này.
Di tích lịch sử văn hố và danh lam thắng cảnh là di sản vô cùng quý

báu của tổ tiên, cha ông chúng ta để lại, là tài sản lớn lao cả về vật chất lẫn
tinh thần của dân tộc, q hương. Chính vì thế, trong thời đại ngày nay, cơng
tác bảo tồn di tích và xã hội hố di tích đang được đặt ra như một nhu cầu tất
yếu của cuộc sống tinh thần của đại đa số tầng lớp nhân dân. Là một sinh viên
năm thứ 4 khoa Bảo tàng với niềm say mê nghề nghiệp cùng các kiến thức
thực tập thực tế tại các di tích và các bảo tàng, hiểu rõ tầm quan trọng của các
6


di tích lịch sử văn hố, tơi nghĩ rằng mình cần phải đóng góp phần nhỏ bé
trong sự nghiệp bảo vệ di sản văn hoá quý báu của dân tộc.
Sinh ra và lớn lên trên quê hương Nam Định, ngay từ nhỏ đã được tiếp
cận với loại hình di tích đặc trưng cho văn hố làng là ngơi đình, để đến hơm
nay tơi lại càng mong muốn tìm hiểu, nghiên cứu về nó. Được sự đồng ý của
Hội đồng khoa học và sự chỉ bảo hướng dẫn của Thạc sĩ Nguyễn Thị Tuấn
Tú, tôi đã mạnh dạn chọn đề tài: “Tìm hiểu khu di tích đình và miếu Cao
Đài, xã Mỹ Thành, huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định” làm khoá luận tốt
nghiệp với hy vọng góp phần nhỏ bé của mình vào việc bảo tồn và phát huy
giá trị của di tích quý đang dần bị mai một, đồng thời cũng là để làm sống dậy
phần nào hình ảnh về một thái ấp Độc Lập nổi tiếng trong lịch sử dân tộc.
2. Mục đích nghiên cứu
- Tìm hiểu giá trị về mặt lịch sử, văn hoá, khoa học, kiến trúc nghệ
thuật của khu di tích đình và miếu Cao Đài.
- Trên cơ sở khảo sát thực tế, đưa ra một số giải pháp nhằm góp phần
bảo tồn phát huy giá trị khu di tích đình và miếu Cao Đài.
- Qua đó giúp cho việc học tập, nghiên cứu, nâng cao tri thức, hiểu biết
của mình về di tích nói chung và khu di tích đình và miếu Cao Đài nói riêng.
3. Đối tượng và Phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu là khu di tích đình và miếu Cao Đài xã Mỹ
Thành, huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định.

- Phạm vi nghiên cứu: Nghiên cứu khái quát toàn cảnh khu di tích đình
và miếu Cao Đài trong khơng gian, thời gian lịch sử văn hoá xã hội làng Cao
Đài.
4. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp điền dã: khảo sát, phỏng vấn, ghi chép, chụp ảnh...
- Phương pháp thống kê, tổng hợp tư liệu
- Phương pháp liên ngành: sử học, khảo cổ học, bảo tàng học, văn hoá
học
5. Bố cục
7


Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục, bài viết kết cấu gồm ba chương:
- Chương 1: Đình và miếu Cao Đài trong diễn trình lịch sử
Nội dung chương này tập trung đi vào giới thiệu mảnh đất, con người
nơi di tích ra đời, tồn tại và phát triển cho tới ngày nay. Đồng thời còn giới
thiệu sơ lược về vị thần được thờ tại di tích.
- Chương 2: Giá trị kiến trúc - điêu khắc, lễ hội của đình và miếu
Cao Đài
Đây là phần chính của luận văn. Chương này chủ yếu đi vào khảo sát
thực tế nhằm khai thác những giá trị về lịch sử, kiến trúc, nghệ thuật. Đồng
thời tìm hiểu và giới thiệu về lễ hội đình làng Cao Đài - một hoạt động văn
hố có ý nghĩa.
- Chương 3: Vấn đề bảo tồn và phát huy tác dụng khu di tích đình
và miếu Cao Đài
Dựa vào những văn bản pháp lý của quốc tế, quốc gia và thực trạng của
khu di tích, người viết trình bày những giải pháp để bảo vệ và phát huy giá trị
khu di tích đình và miếu Cao Đài trong giai đoạn hiện nay.

8



CHƯƠNG 1: ĐÌNH VÀ MIẾU CAO ĐÀI TRONG
DIỄN TRÌNH LỊCH SỬ
1.1Khái quát về vùng đất Cao Đài
1.1.1 Lịch sử vùng đất Cao Đài
Cao Đài dưới thời Trần là thôn Độc Lập, thuộc huyện Thượng Nguyên,
phủ Thiên Trường. Phủ Thiên Trường gồm bốn huyện là Mỹ Lộc, Thượng
Nguyên, Nam Chấn và Giao Thuỷ. Đầu thế kỷ 19, Cao Đài có tên là Cao
Đường, là một xã thuộc huyện Thượng Nguyên, tỉnh Nam Định, đến đời Duy
Tân có tên là Cao Đài xã. Thời Pháp thuộc bỏ huyện Thượng Nguyên sát
nhập hầu hết các xã vào huyện Mỹ Lộc, Cao Đài thành một thôn thuộc xã Mỹ
Thành, huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định. Theo truyền thuyết, vùng này là thái
ấp của Trần Quang Khải - một vị tướng tài ba của nhà Trần. Khi nhà Trần
quyết định xây dựng hành cung Thiên Trường, cùng với các tướng khác, ông
được cấp đất để lập thái ấp ở thôn Độc Lập, phủ Thiên Trường. Thái ấp này là
bổng lộc do triều đình ban thưởng cho Trần Quang Khải nhưng đóng vai trị
quan trọng về chiến lược quân sự lâu dài của triều Trần. Ở đây, Trần Quang
Khải đã cho xây dựng bến thuyền lớn, các xưởng rèn, mộc, dệt vải, lò nung
gạch, lò sứ, gốm, trại nuôi trâu, dê và cả những bãi tập cho binh sĩ. Với hàng
trăm mẫu đất trồng lúa nước, thái ấp Cao Đài (Độc Lập) trở thành căn cứ địa
vững chắc, có thể làm chỗ lui quân cho các cuộc rút lui chiến lược của quân ta
và là nơi cung cấp nguồn lương thực, khí giới dồi dào đủ sức nuôi quân để
chờ thời cơ phản công. Theo ký ức dân gian và thơ ca truyền tụng lại, trong
chiến tranh, thái ấp Độc Lập là căn cứ chiến lược, lúc thái bình lại trở thành
một cơ sở kinh tế phát triển nên thái ấp được xây dựng kiên cố, lớn và đẹp.
Tên làng Cao Đài có thể được đặt để kỷ niệm một cơng trình kiến trúc lớn
từng tồn tại ở khu vực này. Tương truyền đó là tồ lầu cao trong phủ đệ của
Trần Quang Khải. Hiện nay trong đình cũng có một bức đại tự lớn có ba chữ
“Hữu Cao Đài” (có lầu cao) chạm nổi, sơn son thếp vàng, khung viền hoa văn

triện gấm treo trang trọng ở gian giữa toà tiền tế. Hiện tượng này cũng xảy ra
ở một số làng thuộc xã Mỹ Thành như xóm Nội Bơng - trước đây tương
9


truyền là nơi trồng nhiều bông dệt vải may quần áo cho binh lính, hay xóm
Miễu trước đây trồng nhiều lúa gạo.
Trong quá trình nghiên cứu, theo người dân địa phương cho biết, thái ấp
Độc Lập của Chiêu Minh đại vương Trần Quang Khải có quy mơ bằng một
làng (làng Cao Đài). Ta có thể nhận thấy quy mơ của nó cũng giống như quy
mơ của các thái ấp khác: Thái ấp của Trần Thủ Độ ở Quắc Hương (làng Vọc)
xã Vụ Bản, huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam. Thái ấp của Trần Nhật Hạo ở
Dương Xá (làng Dàng) xã Hồng Đức huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình. Để
đáp ứng nhu cầu quân sự trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên - Mông
lần thứ hai (1285), mở rộng con đường thuỷ bộ, các đầu mối giao thông và
thái ấp, Trần Quang Khải đã cho mở rộng phạm vi thái ấp. Điều này chắc làm
ảnh hưởng tới làng bên nên có câu ca:
Ngày xưa Bắc cận tiểu giang
Bởi quan Thái phó bắc sang tiểu cừ
Tiểu giang là con sông và cũng là ranh giới giữa hai làng Cao Đài và
Lương Mỹ. Tiểu cừ là con ngòi ở làng Lương Mỹ. Sau này, quy mô thái ấp
được mở rộng sang tận tiểu cừ.
Thái ấp nằm ở phía nam của huyện Mỹ Lộc giáp với thành phố Nam
Định, huyện Lý Nhân và huyện Thanh Liêm (Hà Nam), huyện Vụ Bản, Ý
Yên (Nam Định). Điều đáng chú ý ở đây là vùng xung quanh thái ấp Độc Lập
đều có những thái ấp - điền trang của quý tộc hoàng thất nhà Trần. Thái ấp
của Trần Thủ Độ ở Quắc Hương (xã Vụ Bản, huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam).
Thái ấp của Trần Khánh Dư ở Dưỡng Hoà (xã Duy Hải, huyện Duy Tiên, tỉnh
Hà Nam). Điền trang của Trần Nhật Duật ở làng Vọng Trung (xã Yên Đồng,
huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định). Điền trang của trưởng công chúa Thái Đường

ở thôn Bắc Hà, xã Thuỵ Liêu (nay là xã Đại Thắng, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam
Định). Hơn nữa, thái ấp Độc Lập rất gần với cung điện Trùng Quang, Trùng
Hoa của thượng hoàng nhà Trần (cách khoảng 15km). Như vậy, có thể thấy ở
đây mối giao lưu liên hệ mật thiết của quý tộc tôn thất nhà Trần.

10


Thái ấp Độc Lập nằm ở vị trí ngã ba sơng Vị Hồng - sơng Ninh Giang.
“Sơng Vị Hồng nằm ở phía Nam huyện Mỹ Lộc, nước do ngã ba Vường
phân lưu chảy về phía Tây từ cửa kênh Phụ Long qua huyện hạt Mỹ Lộc và
hai huyện Kiên Bản, Nam Chân gần 39 dặm hợp với sông Non Nước tỉnh
Ninh Bình. Từ đây thuận dịng chảy xuống phía Nam hai huyện Yên Khánh
và Đại An 13 dặm, đến lịch ngang chia thành một chi chảy ra cửa Lác, lại
chảy 10 dặm rồi đổ ra cửa Lưu. Tương truyền cửa kênh Phù Long, tức kênh
Phù Lộng, từ chỗ này đến sơng Vị Hồng ngun trước là đất bằng, chỉ có
một khe nhỏ chảy vào cầu Vĩnh Tế đằng sau hương Tức Mặc, chảy qua cầu
Giao Hoà, ra cửa kênh Tiểu Cốc, rồi đổ vào sông An Tiêm. Đến cuối đời Trần
vì lầm lẫn về địa lý mới đào từ kênh Phụ Long xuống đến sơng Vị Hồng dẫn
nước đổ thẳng vào sông An Tiêm để chầu vào hương cũ Tức Mặc” [7, tr.341].
Cũng trong Đại Nam nhất thống chí chép: “Sơng Ninh Giang ở phía
Bắc huyện Mỹ Lộc, nước từ sơng Nhị chảy ra phía Tây, qua phía Bắc huyện
Thiên Bản 25 dặm lại về phía Tây 18 dặm đến sơng xã Bình Điền huyện Ý
n, chảy về phía Tây 26 dặm đến phường Thuỷ Cơ xã Dũng Quyết thì hợp
với sông Thiên Phái.” [7, tr.342].
Như vậy hai con sông lớn Vị Hồng và Ninh Giang đều lấy nước từ
sơng Nhị, đều là chi lưu của sông Nhị để tạo thành ngã ba đường nước nối
liền hai trung tâm chính trị lớn nhất lúc bấy giờ là Thăng Long và Thiên
Trường. Thái ấp Độc Lập nằm ở vị chí “chốt” của đường nước đó. Xét về mặt
cảnh quan thái ấp Độc Lập ngự trên khu đất cao nổi lên như một hòn đảo giữa

vùng đồng chiêm trũng. Xung quanh thái ấp có nhiều ngịi lạch thuận lợi cho
giao thơng, thái ấp lại gần đường Thiên Lý, chợ Huyện rất thuận lợi cho việc
buôn bán với các vùng xung quanh.
Về giao thơng đường thuỷ, từ thái ấp có thể theo đường sông Ninh vào
sông Châu ra sông Hồng để lên kinh đơ Thăng Long, có thể theo sơng Vị
Hồng, sơng Đáy vào sông Vân đến căn cứ địa Trường Yên, lại có thể theo
sơng Vĩnh đến cung Trùng Quang - nơi ngự của Thượng hoàng ở phủ Thiên
Trường. Trong khu vực thái ấp có hồ lớn rộng hơn mẫu, to và sâu, chứa
11


khoảng hàng trăm thuyền lớn (nay vẫn cịn dấu tích). Trên hồ, Trần Quang
Khải cho xây đình trạm để đón các quan vào thái ấp. Nhân dân lưu truyền tên
gọi là Hồ Bến Đình (vừa là hồ vừa là bến thuyền).
Thái ấp nằm cạnh đường Thiên Lý Mã (đường Cổ Ngựa theo tên gọi
Nôm) từ phủ Thiên Trường lên Thăng Long. Ngã ba đường Thiên Lý vào thái
ấp từ xưa đã là huyện lỵ Thanh Trà, ở đây có chợ gọi là chợ Huyện buôn bán
sầm uất. Từ ngã ba chợ Huyện xuống khu thái ấp còn đoạn đường cao rộng
bằng đường cái quan dài khoảng 1500m, quanh năm không ngập nước, nhân
dân gọi là đường Cao. Đó là con đường lớn so với nhiều đường nông thôn
thời phong kiến.
Khu phủ đệ trong thái ấp có diện tích khoảng 5 mẫu nằm trên một doi
đất cao, bốn mặt đắp tường đất hơn 2m bên ngồi có hào sâu đủ để cho những
con thuyền nhỏ đi lại được. Đặc điểm khí hậu nước ta nắng lắm, mưa nhiều,
con hào vừa có tác dụng thốt nước, vừa là phịng tuyến bảo vệ khu phủ đệ.
Từ con hào này có thể đến được Hồ Bến Đình. Ở giữa khu đất nổi lên tồ lâu
đài cao lộng gió, đằng trước là vườn hoa cây cảnh, bên cạnh là vườn cờ (nay
cịn dấu tích). Trong thời bình, đó là nơi Thái sư vịnh cảnh ngâm thơ, uống
rượu chơi cờ. Trong thời chiến, trên tầng cao của tồ lâu đài có thể là đài quan
sát tình hình quân địch. Ca ngợi quang cảnh tươi đẹp của thái ấp, Thái sư

Trần Quang Khải viết bài thơ “Dã thự”:
Dã thự sơ khai cảnh tướng tân
Phân phi đào lý tứ thời xuân
Nhất thanh ngưu dịch, thanh lâu nguyệt
Kỷ phiến nơng thơi bích lũng vân...
Dịch là:
Trại mới vừa xây cảnh đánh vui
Rườm rà đào mận bốn mùa tươi
Lầu cao trăng biếc vi vu sáo
Mấy phủ đồng chiêm bóng áo tơi...
[33, tr.17]
12


Như vậy khu vực phủ đệ không chỉ là nơi ở của gia đình Thái sư mà
cịn là khu vực trung tâm chính trị của thái ấp. Bên cạnh cịn có Nhà Quan nơi nghỉ ngơi của quan lại khi về thái ấp chơi hoặc bàn công việc.
Trải qua nhiều biến cố lịch sử, sự thay đổi thăng trầm qua các triều đại,
sự tàn phá của giặc ngoại xâm, sự huỷ hoại của thiên nhiên vùng nhiệt đới gió
mùa, mưa nhiều bão lắm nên cơng trình kiến trúc dinh thự thời Trần trong khu
thái ấp hầu như bị tàn phá, nay chỉ cịn lại vết tích dưới lịng đất hoặc hàng
trăm viên gạch rải rác ở các nhà dân trong vùng.
Kết quả khai quật khảo cổ do Viện Khảo cổ học phối hợp với Bảo tàng
Nam Định tiến hành vào các năm 1975, 1992, 1994, 1995 và gần nhất là vào
tháng 4/ 2009 tại khu vực đình và miếu Cao Đài đã chứng minh cho điều đó.
Tháng 12/1994, đào thám sát 3 hố ở vế phía nửa gị phía Tây, kết quả là ở độ
sâu 0,90m gặp đất sét mịn, cách mặt gò 1,4m gặp vỉa than củi dày từ 2 đến
5cm theo hình vịng cung từ đơng sang tây. Đây là lớp cấu trúc vẻ ngoài của
các mộ táng thời Trần đã phát hiện và khai quật ở các địa phương: Tam
Đường, Đường Phần, Lộc Thọ, Hải Triều (thuộc tỉnh Thái Bình), mộ Dưỡng
Phú (thuộc tỉnh Hải Hưng) và mộ Thành Thị, xã Vụ Bản, huyện Bình Lục

(Nam Hà). Từ trước tới nay, nhân dân địa phương trong khi sản xuất thường
phát hiện ở khu vực đình - miếu Cao Đài thấy rất nhiều gạch, mảnh bát đĩa,
âu, liễn, thống tráng men nâu. Đặc biệt là ở đây đã phát hiện loại gạch mà rìa
cạnh có dịng chữ Hán “Vĩnh ninh Trường”, gạch hoa vuông cỡ 40cm x
40cm x 7cm, một mặt có trang trí hoạ tiết cánh sen, hoa cúc dây... giống với
loại gạch đã tìm thấy ỏ khu vực cung điện Trùng Quang, Trùng Hoa, khu vực
Đệ Tứ…(phủ Thiên Trường) đã được định niên đại vào thời Trần thế kỷ 13.
Ngồi ra ở đây cịn tìm thấy nhiều mảnh bát, đĩa, thống, liễn vật liệu trang trí
trong kiến trúc có niên đại Trần thế kỷ 13. Các nhà khảo cổ còn tiến hành
khảo sát một số di tích đáng chú ý khác như:
-

Gị Cây Sang: Diện tích gò 100m2 cao hơn mặt ruộng khoảng

2m. Xung quanh gò thấy xuất lộ một tường bao gạch hình vng, mỗi cạnh
10m. Thứ tự cấu trúc như sau: dưới cùng là loại ngói chiếu được cắm xuống
13


đất như đóng dăm cối thành từng cụm kiểu xương cá hoặc chữ chi. Tiếp theo
trên lớp ngói chiếu là gạch xếp nằm ngang, cứ lớp nọ tiếp lớp kia bao quanh
mộ. Đây là loại gạch 35cm x 12cm x 4cm, độ nung già, chất đất mịn, màu đỏ
sậm.
-

Gò Nồi Chõ: Cách miếu chừng 100m về phía Tây - Nam. Hiện

nay gò này đã bị san phẳng nhưng theo nhân dân địa phương thì khi phá cũng
thấy lớp gạch ngói cấu trúc tương tự như ở gò Cây Sang.
-


Chùa Độc Lập: Nằm cách đình Cao Đài khoảng 100m về phía

Tây. Ngôi chùa này tương truyền là do bà Phụng Dương cơng chúa vợ Trần
Quang Khải góp cơng sức và tiền của xây dựng nên. Trong văn bia được soạn
năm Quý Tỵ niên hiệu Hưng Long năm thứ nhất (1293) có đoạn chép công
chúa Phụng Dương đã đem tiền bạc cúng tiến vào chùa. Năm 1953 chùa này
đã bị thực dân Pháp đốt cháy trụi, nay chỉ còn 1 cây tháp mộ 5 tầng, 1 quả
chng có dịng chữ Hán “Độc Lập Tự Chung” (nghĩa là chuông chùa Độc
Lập) được khắc vào niên hiệu Cảnh Thịnh thứ 8 (1800) thời Tây Sơn.
-

Cồn Rèn: Cồn này nằm cách đình Cao Đài 90 mét về phía Bắc.

Trong khi canh tác nhân dân phát hiện thấy rất nhiều loại gạch, trong đó có cả
gạch hoa 40cm x 40cm, một mặt trang trí hoa sen, cúc dây. Đặc biệt là nhân
dân đã phát hiện ở đây dấu vết các lò nung, xỉ than, xỉ sắt, trơn bát kê dính
vào nhau, gạch chữ nhật rìa cạnh có chữ Hán “Vĩnh ninh Trường”, ngói mũi
hài, ngói nóc kích thước lớn.
-

Cánh đồng Nội Bơng: Khu vực này rộng khoảng 20 mẫu cao hơn

các khu đất xung quanh. Theo truyền thuyết thì đây là khu nhà cửa dùng cho
binh lính ở, trên đó có nơi trồng bơng dệt vải, vườn hoa cây cảnh... Tuy khu
vực này hiện đã san thành cánh đồng trồng hoa màu nhưng qua khảo sát cho
thấy ở đây có rất nhiều mảnh gạch, ngói, mảnh bát, đĩa, mảnh chum vại sành,
mảnh thạp...thời Trần. [11, tr. 2-3].
Tháng 4/2009, các nhà khảo cổ đã đào hai hố thám sát tại đình Cao Đài,
cả hai hố đều có diện tích là 10m2. Tầng văn hố khá dày, ở độ sâu 1,16 1,40m so với mặt sân gạch, độ dày từ 0,2 - 0,4m là lớp văn hoá Trần, đất sét

14


pha cát màu xám trắng, lẫn với đất sét màu xám nhạt, đất tơi xốp. Hiện vật
gồm có gốm men, sành (thơ, mịn), gạch, ngói, bao nung gốm, mảnh trang trí
kiến trúc. Về gốm men có các mảnh bát, đĩa, thạp gốm men ngọc, mảnh đế
bát gốm men nâu. Nhiều mảnh sành ( thô, mịn) và một số mảnh gạch ngói đặc
trưng của thời Trần như gạch bìa, ngói sen. Đặc biệt còn thấy xuất hiện mảnh
bao nung gốm thuộc thế kỷ 13 - 14, và một mảnh trang trí kiến trúc màu đỏ
tươi, mặt in nổi hoa văn cúc dây, thuộc thế kỷ 13 - 14.
Những kết quả đó không chỉ cho thấy giá trị lịch sử của di tích mà cịn
góp thêm tư liệu trong việc nghiên cứu lịch sử văn hoá thời Trần ở Nam Định.
Căn cứ vào kết quả đào thám sát khu vực gò miếu và đình Cao Đài trước đây
và các kết quả đào thám sát tháng 4 năm 2009 của Viện Khảo cổ, bước đầu
có một số nhận xét như sau:
+ Đây là phế tích của một cơng trình kiến trúc có quy mơ rất bề thế của
hồng tộc nhà Trần thế kỷ 13.
+ Căn cứ vào loại hình vật liệu kiến trúc cho thấy ở đây có mặt hầu hết
các chi tiết dùng trong xây dựng chỉ trừ các vật liệu bằng gỗ vì bị mục nát.
Gạch xây bao móng thường có kích thước lớn: 30 - 40cm, rộng 19 - 26cm,
dày 4 - 7cm. Nền được lát gạch vuông cớ lớn 40 x 40 x 7cm, một mặt có trang
trí hoa văn cúc dây tạo thành một bố cục chặt chẽ, hoàn chỉnh... giống với
gạch lát nền đã đào được ở khu cung điện Trùng Quang, Trùng Hoa (thôn Tức
Mạc xã Lộc Vượng ngoại thành Nam Định) và nền gạch hoa ở lịng đất chùa
Lộc Hạ... Ngồi ra ở đây cịn sử dụng gạch lát hình vng cỡ lớn khơng trang
trí hoa văn.
Về vật liệu để lợp mái: Ngói mũi hài cỡ lớn, bên trong có gài ngói màn
cỡ 40 x 23 x 2cm có gờ để móc vào mè, và một số hiện vật bằng gốm sứ tráng
men có lẽ dùng để thơng gió.
Như vậy căn cứ vào những di vật tìm thấy trong tầng văn hố và căn cứ

vào truyền thuyết trong nhân dân thì Cao Đài là khu thái ấp của Thượng
tướng thái sư Chiêu minh đại vương Trần Quang Khải được thành lập khoảng

15


thời gian trước cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Nguyên - Mông lần
thứ 2 (1285).
Sau khi công chúa Phụng Dương mất (1291) và nhất là sau khi Trần
Quang Khải mất vào năm Giáp Ngọ, niên hiệu Hưng Long thứ 2 (1294) thì
khu vực này trở thành nơi thờ tự, để mộ và cắt cử một số quan lại, người cày
cấy trông coi.
Căn cứ vào cấu tạo các vỉa gạch xuất lộ ở xung quanh mộ công chúa
Phụng Dương với kích thước 40 x 40cm hình vng, nhất là các vỉa kiến trúc
ở phía tây khu vực mộ cho thấy gò mộ được đắp trong nền cũ của khu kiến
trúc khi kiến trúc này khơng sử dụng nữa.
Có thể vào thời Trần bao quanh khu mộ có xây tường rào ranh giới trên
cơ sở nền móng kiến trúc cũ của thái ấp. Khi tường bao vì ngun nhân nào
đó bị đổ nát thì mới đắp tường đất bao quanh (tường này theo nhân dân thì
năm 1980 cịn cao 2m, mặt tường rộng 1m, bên trong cây cối mọc um tùm vì
thế nhân dân gọi là “miếu cấm”.
Mặt khác, mặt bằng của vỉa gạch trong hệ thống lớp kiến trúc phía tây
(đã lộ ra qua đào thám sát) ở độ sâu 0,6 đến 0,7 mét so với mặt đất chứng tỏ
trước khi để mộ thì ở đây đã tồn tại một cơng trình kiến trúc với quy mơ
khơng chỉ 40 x 40m như hiện nay mà phân bổ cấu trúc theo từng cấp lan dần
ra phía tây. Thêm vào đó, cách mặt đất hiện tại từ 10cm đến 30cm có một lớp
ngói vỡ dầy 5 - 7cm được đầm chắc giống như đầm nền của kiến trúc nhà ở
trên phạm vi gần 2000m2 càng khẳng định tính chất nhà ở thực dụng chứ
khơng chỉ là một kiến trúc tơn giáo.
Phế tích lò nung gốm sứ: Khi đào thám sát mặt Bắc và Nam của miếu,

các nhà khảo cổ đã phát hiện thấy rất nhiều mảnh bao nung, ken dày đặc
giống như để giải đầm nền trên một diện tích rất rộng. Hàng loạt chồng trơn
bát dính giống như loại hình tương tự đã đào được ở Cồn Chè (Mỹ Thịnh,
Bình Lục). Sự xuất hiện với mật độ dày đặc của các hiện vật trên (bao nung,
chồng trơn bát dính, sỉ than...) cho thấy ở ngay tại khu miếu Cao Đài (hoặc ít
ra là ở khu vực địa điểm trên trong thái ấp của Trần Quang Khải) có các lị
16


nung gốm sứ để phục vụ cho nhu cầu sinh hoạt của hoàng tộc, quân sĩ và nhân
dân trong vùng xứ Độc Lập xưa (bao gồm các xã Mỹ Thành, Mỹ Thịnh (Bình
Lục), Mơn Nha, Hậu Nha xã Hiển Khánh huyện Vụ Bản hiện nay và một số
vùng lân cận khác).
1.1.2 Một vài đặc điểm về kinh tế, văn hoá, xã hội làng Cao Đài
Xét về mặt kinh tế, nghề chủ yếu trong khu vực thái ấp là nghề trồng
lúa và chăn nuôi. Đây là xứ đồng trũng nước trong nên ruộng lúa nước chiếm
đại bộ phận, cấy một vụ chiêm, nay thuộc các xứ đồng Vông, đồng Chành,
đồng Trong, đồng Dồi, trại nuôi trâu, chuồng nuôi dê ở cánh đồng Nội Bơng.
Đến năm 1991, ở đây vẫn cịn cây đa cổ thụ dân gọi là cây đa Trại trâu ở phía
Đơng Nam miếu Cấm. Bên cạnh đó, trong khu thái ấp cịn tồn tại các nghề thủ
cơng như dệt vải, rèn, đóng cối xay, nung gạch, sản xuất gốm, sứ... Ngoài khu
phủ đệ, bên cạnh hệ thống nhà quan, nhà lính, nhà ở cho gia nơ là các xưởng
thủ công. Xưởng dệt vải là nơi chuyên may quần áo phục vụ trong thái ấp do
công chúa Phụng Dương phụ trách. Lị rèn là nơi rèn đúc vũ khí và công cụ
lao động phục vụ cho chiến tranh và cuộc sống sản xuất trong thái ấp. Hiện
nay di tích Lị Rèn nằm phía Bắc đình Cao Đài. Xưởng sản xuất gạch ngói,
bát đĩa hiện cịn di tích Cồn Ngói. Ven sơng Bún cịn có lị gốm sứ dân dụng
và tráng men cao cấp. Khai quật ở đây đã phát hiện được nhiều gạch nung và
mảnh bát, đĩa, âu , liễn thời Trần. Nghề đóng cối xay thóc là nghề thủ cơng
truyền thống có từ lâu đời ở làng Cao Đài, cả làng ai cũng biết đóng cối và đã

đi làm ở khắp mọi nơi. Tương truyền rằng để phục vụ nhu cầu quân lương
trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên – Mông lần hai (1285), trong thái
ấp đã xuất hiện cối xay thóc thay cho cối giã gạo chày tay. Năng suất lao động
của cối xay thóc tăng gấp 20 lần so với giã gạo chày tay. Đến đời Lê (theo tộc
phả họ Nguyễn ở Cao Đài) thì vua Lê Lợi đã huy động hàng trăm thợ cối ở
đây vào Lam Sơn phục vụ hậu cần cho nghĩa quân, và được ban tặng chữ
“Cối thụ sinh” (nghĩa là nẩy nhiều chồi lộc). Sau khi công chúa Phụng Dương
mất (1291) và Thái sư Trần Quang Khải qua đời (1294) thì thái ấp chỉ còn là
nơi thờ tự. Tất cả dân cư trong thái ấp đã toả ra khu vực xung quanh an cư lập
17


nghiệp, đời này qua đời khác hình thành nên các thơn xóm Cao Đài như ngày
nay.
Hiện nay, ngành nghề chủ yếu của cư dân Cao Đài vẫn là sản suất nông
nghiệp trồng lúa và chăn nuôi. Hàng năm Cao Đài duy trì cấy với diện tích
khoảng 100ha, năng suất trung bình đạt 110 tạ/ha/năm, tổng sản lượng lương
thực khoảng 110 tấn, giá trị trên một ha canh tác đạt trên 20 triệu đồng. Trong
lĩnh vực chăn nuôi đã được các hộ đầu tư phát triển với phương châm đa cây,
đa con, đặc biệt việc chăn ni trâu bị có xu hướng phát triển mạnh. Việc
chăn nuôi gia cầm, lợn thịt tuy thời gian gần đây gặp rất nhiều khó khăn do
xuất hiện bệnh dịch song vẫn giữ được ổn định, diện tích ao hồ trong vùng đã
được các hộ tận dụng ni thả cá, bước đầu đã có những hiệu quả đáng kể
góp phần tăng tỷ trọng cơ cấu nơng nghiệp. Hệ thống kênh máng tưới tiêu và
lưới điện dân dụng được đầu tư nâng cấp phục vụ cho sản xuất nơng nghiệp
và sinh hoạt của nhân dân. Ngồi ra các hộ nhân dân mạnh dạn đầu tư mở
mang các ngành nghề và dịch vụ để tận dụng thời gian nhàn rỗi, phát triển
kinh tế tăng thu nhập cho gia đình. Nhiều gia đình đã đầu tư mua máy xay
xát, xe vận tải hàng hoá, mở các cơ sở mộc, gị hàn, làm dịch vụ kinh doanh
hàng tạp hố, vật tư nơng nghiệp đã góp phần khơng nhỏ cho thu nhập kinh tế

- xã hội trên địa bàn.
Về văn hoá xã hội: Sự nghiệp văn hoá, y tế, giáo dục được quan tâm
đúng mức, các chính sách xã hội được chú trọng, đời sống nhân dân không
ngừng được cải thiện và nâng cao, tỷ lệ hộ nghèo giảm, tỷ lệ tăng dân số tự
nhiên giảm. Cơ sở hạ tầng phục vụ cho phúc lợi công cộng được đầu tư cơ
bản, bước đầu đã đáp ứng được nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội và đời sống
của nhân dân. Nhiệm vụ quốc phòng an ninh được tăng cường, an ninh chính
trị được giữ vững, trật tự an tồn xã hội được đảm bảo, an ninh nông thôn
được ổn định
Sự nghiệp giáo dục đào tạo được các cấp lãnh đạo và nhân dân quan
tâm đầu tư cơ sở vật chất như: xây mới trường tiểu học, cải tạo chống xuống
cấp trường mầm non và trường trung học cơ sở. Phong trào “khuyến học,
18


khuyến tài” ở Cao Đài phát triển mạnh mẽ, 100% các cháu trong độ tuổi đi
học được đến trường. Công tác y tế được triển khai tổ chức thực hiện tốt các
chương trình nhiệm vụ cơng tác chăm sóc sức khoẻ ban đầu cho nhân dân,
thường xuyên làm tốt công tác tuyên truyền hướng dẫn phòng chống dịch
bệnh.
Đời sống văn hoá tinh thần của người dân Cao Đài khá phong phú.
Tiếng hát của chiếu chèo sân đình vùng đồng chiêm, ở các luỹ tre làng vào
hội, ca ngợi cuộc sống, lao động, ca ngợi quê hương, con người trong sinh
hoạt và đấu tranh chống thiên nhiên vang lên rộn rã. Các trò vè, trò chơi dân
gian trong lễ hội làng như múa sư tử, đấu võ, vật, côn, kiếm, múa rồng... Đến
ngày giỗ cơng chúa Phụng Dương, những tích truyện được diễn lại như đóng
cối xay, thổi cơm thi, tích “thuyền chài bắt giặc Tàu Ngô” ca ngợi dân ta đánh
giặc Ngun - Mơng, ...đều mang tính dân gian, đậm đà truyền thống quê
hương và bản sắc dân tộc.
Văn hoá thơng tin trong những năm qua đã có nhiều chuyển biến tích

cực. Cao Đài có hai đơn vị thơn được cơng nhận khu dân cư văn hố, hàng
năm có 80% số gia đình được cơng nhận gia đình văn hố. Công tác đền ơn
đáp nghĩa ngày càng được quan tâm. Ban thương binh xã hội đã thường
xuyên kết hợp với các ban ngành đồn thể làm tốt cơng tác tun truyền vận
động nhân dân tham gia đóng góp xây dựng quỹ “Đền ơn đáp nghĩa”, quỹ
“Chất độc da cam”, quỹ “ngày vì người nghèo”...
Như vậy, tồn thể cán bộ và các tầng lớp nhân dân Cao Đài đã và đang
nêu cao truyền thống yêu nước, đoàn kết thống nhất dưới sự lãnh đạo của
Đảng, ra sức thi đua lao động sản xuất, công tác và học tập, phấn đấu vươn
lên, vượt qua mọi khó khăn góp phần phát triển kinh tế - văn hoá - xã hội, xây
dựng cuộc sống mới ngày càng giàu đẹp, văn minh tiến bộ trên quê hương
Cao Đài.
1.2 Lịch sử hình thành và quá trình tồn tại của đình và miếu Cao Đài
Di tích được hình thành là sản phẩm của bàn tay tài hoa và trí tưởng
tượng phong phú của con người. Cơ sở lịch sử, xã hội và văn hoá phần nào đã
19


chi phối tới di sản văn hoá của người Việt. Người Việt coi thần linh là vẻ đẹp
thánh thiện, là tinh hoa của đất trời, là nguồn sinh khí tạo nên những vụ mùa
bội thu, những hạnh phúc tràn đầy ở thế gian.
Đề cập đến sự hình thành của đình làng, đình làng đã được nghiên cứu
từ khá lâu, có nhiều ý kiến đưa ra về nguồn gốc và nghệ thuật của nó. Trước
đây, dưới thời Pháp thuộc, thậm chí những năm 50 - 60 của thế kỷ 20,nhiều
nhà nghiên cứu đã cho nguồn gốc của đình làng được bất nguồn từ kiểu nhà
của người thiểu số, trong đó có nhà rơng. Cũng có ý kiến khác cho rằng đình
làng mang dáng dấp của con thuyền úp…Có nghĩa là khá nhiều ý kiến tản
mạn xung quanh nguồn gốc của ngôi đình làng. Suy cho cùng, người ta
thường chú ý đến hình thức để đưa ra ngững giả định.Nhưng gần đây, một đôi
nhà nghiên cứu dân tộc học mỹ thuật, bằng phương pháp liên ngành, nhịn

nhận ngơi đình dưới nhiều góc độ khác nhau. Ngoài lĩnh vực kiến trúc, các
nhà nghiên cứu này đã chú ý nhiều đến lịch sử học, dân tộc học, xã hội học,
văn hoá học… đồng thời cũng chú ý đến kiến trúc học nên đã đưa ra một giả
thiết cho rằng đình làng là sản phẩm của lịch sử, được ra đời sớm nhất cũng
chỉ vào nửa cuối thế kỷ 15, khởi nguyên của nó là nơi ban bố chính lệnh của
triều đình, đồng thời cũng có thể là trụ sở của chính quyền địa phương. Nó
được coi như một kiến trúc nảy sinh bởi sự áp đặt từ triều đình xuống xã thơn,
phần nào như đã phản ánh về một bước phát triển mới trong sự chuyển đổi
chế độ chính trị xã hội từ quân chủ chuyên chế Phật giáo sang chế độ quân
chủ chuyên chế Nho giáo. Từ đó người ta có thể coi như hiện tượng ra đời của
đình làng đã đánh dấu bàn tay chính trị của tầng lớp thống trị muốn thị xuống
xã thơn một cách mạnh mẽ và chặt chẽ hơn , đó là một con đường phát triển
để củng cố thống nhất của cộng đồng. Song trong quá trình tồn tại của nó, để
thích ứng với hồn cảnh dân chủ làng xã, với sự phân hoá xã hội chưa cao, thì
ở mặt tinh thần người ta đã hội nhập dần vào ngơi đình những tính chất vượt
ra ngồi chức năng khởi ngun, trong đó nổi lên là một ngơi nhà cơng cộng.
Khởi đầu có lẽ đình làng khơng có Thành Hồng làng mà chỉ từ khi đình trở
thành một thực thể văn hoá của làng xã, chủ yếu là vào thế kỷ thứ 16, thì liền
20


đó Thành Hồng làng đã xuất hiện. Hiện tượng đưa thần làng vào trong đình
là một trong những cơ sở quan trọng để đình làng dần dần mang tính đa năng,
làm nền cho sự tồn tại vững chắc của nó ở xã thôn. Tuy nhiên, cũng ngay từ
thời đầu, về với dân, đình đã có các yếu tố của một đền thờ thần bên cạnh
những chức năng khác. Có nghĩa, nó được dân gian hố để thích ứng với tâm
hồn, tư duy truyền thống nông nghiệp. Lấy sự bao quát của sự hình thành nên
ngơi đình làng và Thành Hồng làng trong cộng đồng làng xã người Việt thì
đình Cao Đài cũng khơng thể tránh khỏi tiến trình hình thành đó.
Tuy nhiên để xác định rõ thời điểm khởi dựng của một di tích hồn tồn

khơng phải dễ. Hiện nay, chưa một ai phát hiện được tài liệu nào nói chính
xác về sự hình thành ngơi đình Cao Đài. Do vậy chỉ có thể căn cứ vào truyền
thuyết, vào những nguồn sử liệu có trong di tích. Theo truyền thuyết thì đình
- miếu Cao Đài được dựng trên phần đất thái ấp Độc Lập xưa của Thái sư
Trần Quang Khải.
“Thái ấp Độc Lập từng là địa điểm bảo toàn lực lượng vương triều
trong cuộc rút lui chiến lược, bảo vệ đường sông trong - tuyến đường nước
Bắc – Nam rất quan trọng đối với vương triều trong kháng chiến.
Sau khi đất nước trở lại thanh bình, Thái sư Trần Quang Khải lên kinh
đô Thăng Long làm việc. Thái ấp Độc Lập trở thành cơ sở kinh tế phục vụ
cho quan Thái uý. Sau khi công chúa Phụng Dương mất (1291) và Thượng
tướng Thái sư Trần Quang Khải qua đời (1294) thì Thái ấp trở thành nơi thờ
tự. Ruộng đất trong thái ấp chỉ giữ lại một ít (khơng có số liệu cụ thể) lấy
hương hoả thờ tự, còn chia theo đinh nam. Như vậy, đất đai trong thái ấp đã
không được truyền lại cho các con của Trần Quang Khải.” [3, tr.120-121]
Đình làng Cao Đài khơng có niên đại khởi dựng tuyệt đối, nhưng căn
cứ vào dấu vết vật chất cịn lại, cho biết đình ít nhất đã tồn tại từ thế kỷ 17.
Hiện đình cịn lưu giữ phong cách nghệ thuật chạm khắc của nhiều thời điểm
khác nhau thuộc thế kỷ 17, 18 và nửa đầu thế kỷ 20. Ở kiến trúc đại bái và
hậu cung còn lưu giữ được nhiều mảng chạm mang phong cách nghệ thuật thế
kỷ 17, đó là các hình tượng rồng, con người, vân xoắn, đao mác… Trên vì
21


nách gian bên tiền tế các dấu vết phong cách thế kỷ 18 rất rõ nét, cho chúng ta
một giả thiết: có thể tồ tiền tế được làm vào thế kỷ 18( trước đó chỉ có đại
bái và hậu cung). Hiện tại ở dạ thượng lương tiền tế có ghi niên đại “Hoàng
triều Duy Tân Mậu Thân niên, Ất Sửu nguyệt, Canh Thân nhật trùng tu thụ
trụ thượng lương”, cho biết năm 1908 có cuộc tu sửa lớn ở đình Cao Đài. Dấu
vết của lần tu sủa này khá đậm đặc trong kiến trúc của toà tiền tế và một phần

ở đại bái
Căn cứ vào kiến trúc hiện còn, chúng ta nghĩ rằng trong lịch sử đình
làng Cao Đài đã có sự biến đổi chức năng. Có thể trước đó nó mang nặng
chức năng của một ngơi đền. Bằng chứng là kiến trúc đại bái rất nhỏ (diện
tích mặt bằng chỉ 32m2), không gian chật hẹp, cửa ra vào nhỏ và thấp (1,5m x
0,3m), khơng thích hợp cho chức năng của một ngơi đình (là nơi hội họp, tế lễ
và giải quyết việc làng). Ngôi đền được dựng để thờ tự sau khi công chúa
Phụng Dương mất và Thượng tướng Thái sư Trần Quang Khải qua đời (như
nhận xét của Tiến sĩ Nguyễn Thị Phương Chi). Trải qua thời gian, do nhu cầu
và sự biến đổi của xã hội, người dân đã mở rộng thêm diện tích, hội thêm vào
đó chức năng của một ngơi đình làng.
Theo văn bia tại miếu Cao Đài thì cơng chúa Phụng Dương mất ngày
22 tháng 3 năm Tân Mão (22-04-1291 Dương lịch), tang tại thôn Độc Lập,
phủ Thiên Trường. Ngày táng là 11 tháng 4 niện hiệu Hưng Long năm đầu
(18-05-1293 Dương lịch). Tương truyền khu miếu chính là nơi đặt mộ cơng
chúa Phụng Dương. Theo kết quả khai quật khảo cổ do Viện Khảo cổ học
phối hợp với Bảo tàng Nam Định tiến hành vào năm 1994, đào thám sát 3 hố
ở vế phía nửa gị phía Tây, kết quả là ở độ sâu 0,90m gặp đất sét mịn, cách
mặt gò 1,4m gặp vỉa than củi dày từ 2 đến 5cm theo hình vịng cung từ đơng
sang tây. Đây là lớp cấu trúc vẻ ngoài của các mộ táng thời Trần đã phát hiện
và khai quật ở một số địa phương như đã nói ở trên. Khu mộ được đắp trên
nền cũ của khu kiến trúc thời Trần khi kiến trúc này không cịn dùng nữa. Có
thể vào thời Trần, bao quanh khu mộ có xây tường rào ranh giới trên cơ sở
nền móng kiến trúc cũ của thái ấp. Trải qua thời gian dài của lịch sử, do sự
22


huỷ hoại của thiên nhiên nhiệt đới, sự tàn phá của chiến tranh, nhân dân địa
phương đã xây dựng lại khu miếu như ngày nay. Như vậy miếu Cao Đài được
xây dựng trên phần mộ của công chúa Phụng Dương. Ngơi miếu này có giá trị

lớn về lịch sử, nhưng kiến trúc rất nhỏ bé và là sản phẩm muộn về sau này.
Năm 1964, từ những giá trị lịch sử - văn hố của khu di tích, đình và
miếu Cao Đài đã được cơng nhận là di tích lịch sử văn hố cấp quốc gia. Từ
đó đến nay, di tích đã được tôn tạo và phát huy tốt tác dụng trở thành nơi sinh
hoạt tín ngưỡng cộng đồng. Hiện nay ngơi đình có thể đáp ứng nhu cầu tâm
linh và sinh hoạt văn hoá của dân làng, đồng thời cũng là địa chỉ tin cậy để
nghiên cứu tìm hiểu về thái ấp nhà Trần.
1.3 Vị thần được thờ trong di tích
Đình Cao Đài thờ Thái sư Trần Quang Khải và cơng chúa Phụng
Dương là chính. Ngồi ra, đình cịn phối thờ các vị thần khác là Linh Lang,
Nam Hải, Câu Mang, Đô Đầu Nhữ Hạ, Ả nương công chúa Quỳnh Huy,
Quỳnh Hoa (các con gái của Trần Quang Khải).
1.3.1 Chiêu Minh đại vương Trần Quang Khải
Chiêu Minh đại vương Trần Quang Khải sinh tháng 10 năm Canh Tý
(1240), mất ngày 3 tháng 7 năm Giáp Ngọ (1294), thọ 55 tuổi, quê ở hương
Tức Mặc, phủ Thiên Trường (nay là phường Lộc Vượng, thành phố Nam
Định). Ông là con thứ ba của vua Trần Thái Tông, mẹ là Thuận Thiên công
chúa.[6, tr.835]
Theo Đại Việt sử ký toàn thư chép: Năm Tân Mùi, niên hiệu Thiệu
Long thứ 14 (1271) Trần Quang Khải được phong tướng quốc thái uý nắm
giữ việc nước... Đến năm Nhâm Ngọ, niên hiệu Thiệu Bảo thứ 4 (1282) ông
được thăng thượng tướng thái sư [20, tr.55-71]. Ông là người học rộng, tài
cao, văn võ song tồn, có tài ngoại giao ứng đối linh hoạt. Với cương vị là
người đứng đầu hàng quan văn trong triều, thâu tóm mọi công việc trong
nước, ông đã giúp vua Trần đề ra nhiều quyết sách có tác dụng phát triển kinh
tế văn hố giáo dục như: chính sách khuyến nơng, chăm sóc bảo vệ đê điều,
mở mang trường học, tổ chức các khoá thi tuyển chọn nhân tài. Khi giặc
23



Nguyên lăm le xâm lược bờ cõi, triều đình nhà Trần với các mưu sĩ trong đó
có Thái sư Trần Quang Khải đã khẩn trương chuẩn bị các mặt quân sự, chính
trị, kinh tế, ngoại giao và tổ chức các hội nghị mang tầm chiến lược như hội
nghị các tướng lĩnh, vương hầu quý tộc ở Bình Than (Nam Sách Hải Dương)
năm 1282, hội nghị đại biểu nhân dân toàn quốc ở đại điện Diên Hồng năm
1283, nhằm tập hợp đoàn kết các tầng lớp quý tộc và toàn dân để mọi người
một lịng một dạ, đóng góp nhân tài, vật lực cùng triều đình quyết chiến với
quân thù.
Trong cuộc kháng chiến chống giặc Nguyên xâm lược lần thứ hai
(1285) và lần thứ ba (1288) thượng tướng Thái sư Trần Quang Khải là một
trong những người đóng vai trị chủ chốt, ơng có mặt ở nhiều chiến trường
quan trọng và đã tham gia chiến dịch phản cơng lớn. Ơng vừa là một vị tướng
cầm quân đi đánh giặc, vừa là nhà lãnh đạo chính trị kiệt xuất, nhà ngoại giao
có tài. Ông cùng Hưng Đại Vương Trần Quốc Tuấn và vương triều Trần làm
nên chiến thắng Hàm Tử, Chương Dương, Thăng Long, Vạn Kiếp, Bạch
Đằng v.v... quét sạch quân thù ra khỏi bờ cõi, bảo vệ non sơng gấm vóc của
mình.
Đầu năm 1285 là lúc chiến trường nguy nan nhất Thượng hồng Trần
Thánh Tơng đã tặng ơng một lá cờ với hai câu thơ:
“Nhất đại công danh thiên hạ hữu,
Lương triều trung hiếu thế gian vô”
Dich nghĩa:
Công danh trọn một đời thiên hạ có,
Nhưng lịng trung hiếu với hai triều vua
thì thế gian này khơng ai sánh được.
Chiêu minh đại vương Trần Quang Khải còn là một nhà thơ lớn, thơ
ông biểu hiện một tinh thần yêu nước, một tấm lịng gắn bó với con người,
với tạo vật, một khí phách anh hùng, tiêu biểu cho dân tộc ta thời đó.
24



Ngày 6 tháng 6 năm Ất Dậu (9 - 7 - 1285 Dương lịch), sau khi đã quét
sạch quân thù ra khỏi bờ cõi, triều đình và các tướng sĩ nhà Trần từ căn cứ địa
Thiên Trường (nay thuộc ngoại thành Nam Định) trở về kinh đô Thăng Long,
trong buổi lễ mừng chiến thắng ôn lại những chiến công hiển hách vừa qua,
thượng tướng thái sư Trần Quang Khải đã đọc một bài thơ bất hủ, vang vọng
núi sông:
Đoạt sáo Chương Dương Độ
Cầm Hồ Hàm Tử quan
Thái bình tu trí lực
Vạn cổ cựu giang san
(Tịng giá hồn kinh sư)
Dịch thơ:
Chương Dương cướp giáo giặc
Hàm Tử bắt quân thù
Thái bình nên gắng sức
Non nước ấy nghìn thu.
(Theo Vua về kinh)
Trần Trọng Kim dịch
[33,tr.8 -9]
Khi được triều đình cử tiếp sứ phương Bắc, Thái sư Trần Quang Khải
đã thực hiện đường lối ngoại giao mềm dẻo nhưng kiên quyết bảo vệ chủ
quyền quốc gia danh dự dân tộc. Đối với sứ giả thì ơng dùng đạo đức và lễ
nghĩa để thuyết phục.
Nhà sử học Phan Huy Chú nhận xét về ông: “Công lao thu phục được
nước ông đứng thứ nhất…ông nghe rộng, biết nhiều, hiểu được người nước
Phiên. Mỗi khi sứ sang ta, ơng được chọn vào thù tiếp. Ơng rất chăm học, hay
làm thơ.” [4,tr.223]. Sau này con cháu ông cũng là những người nổi tiếng văn
25



×