Tải bản đầy đủ (.pdf) (112 trang)

Tìm hiểu di tích đền cờn (xã quỳnh phương, huyện quỳnh lưu, tỉnh nghệ an)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.4 MB, 112 trang )

Trờng đại học văn hóa h nội

Khoa bảo tng
*********

Nguyễn THị PHƯƠNG

TìM HIểU DI TíCH ĐềN CờN
(XÃ QuỳNH PHƯƠNG, HUYệN QuỳNH LƯU, TỉNH NGHệ AN)

Khóa luận tốt nghiệp
Ngnh bảo tng

Ngời hớng dÉn: PGS.TS NguyÔn Quèc Hïng

HÀ NỘI - 2010


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
1.Lí do chọn đề tài................................................................................................................................... 4 
2. Mục đích nghiên cứu ........................................................................................................................... 5 
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ....................................................................................................... 5 
4. Phương pháp nghiên cứu: ................................................................................................................... 6 
5. Kết quả nghiên cứu ............................................................................................................................. 6 
6. Bố cục khoá luận ................................................................................................................................. 7 
Chương 1 :LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ QUÁ TRÌNH TỒN TẠI CỦA DI TÍCH ............................... 8 
1.1. Giới thiệu về vùng đất nơi di tích tồn tại ....................................................................................... 8 
1.1.1 Vài nét về huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An .......................................................................... 8 
1.1.2 Vài nét về xã Quỳnh Phương, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An .......................................... 12 
1.2.Lịch sử di tích đền Cờn ............................................................................................................... 16 


1.2.1 Lịch sử nhân vật được thờ .................................................................................................. 16 
1.2.2 Niên đại khởi dựng và q trình tồn tại của di tích .............................................................. 22 
1.2.2.1 Niên đại khởi dựng ..................................................................................................................... 22 
1.2.2.2 Q trình tồn tại của di tích ........................................................................................................ 23 
Chương 2  :KIẾN TRÚC, NGHỆ THUẬT VÀ LỄ HỘI ĐỀN CỜN ..................................................... 28 
2.1 Kiến trúc ..................................................................................................................................... 28 
2.1.1 Không gian cảnh quan ........................................................................................................ 28 
2.1.2 Bố cục mặt bằng của di tích ................................................................................................ 31 
2.1.3 Kết cấu kiến trúc ................................................................................................................. 33 
2.1.3.1 Nghi môn ................................................................................................................................... 33 
2.1.3.2 Bái đường .................................................................................................................................. 35 
2.1.3.3 Thượng điện ............................................................................................................................... 36 
2.2 Nghệ thuật .................................................................................................................................. 37 
2.2.1 Trang trí trên kiến trúc ....................................................................................................... 37 
2.2.1.1 Trang trí bên trong kiến trúc....................................................................................................... 37 
2.2.1.2 Trang trí bên ngồi kiến trúc ...................................................................................................... 40 
2.2.2 Một số di vật tiêu biểu ......................................................................................................... 41 
2.3 Lễ hội đền Cờn ........................................................................................................................... 46 
2.3.1 Thời gian và không gian diễn ra lễ hội ................................................................................ 47 
2.3.2 Chuẩn bị lễ hội ......................................................................................................................... 47 
2.3.3 Diễn trình lễ hội. ....................................................................................................................... 48 


2.3.4 Các trò chơi dân gian ............................................................................................................... 57 
2.3.5 Lễ hội đền Cờn trong đời sống cộng đồng ................................................................................. 61 
2.4 Tín ngưỡng thờ Mẫu và hình thức hầu đồng ở đền Cờn. .................................................................... 64 
2.4.1 Tín ngưỡng thờ Mẫu ở đền Cờn. ............................................................................................... 64 
2.4.2 Hầu đồng – một hình thức trong tín ngưỡng thờ Mẫu. .............................................................. 68 
Chương 3 :BẢO TỒN, TƠN TẠO VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ DI TÍCH ĐỀN CỜN ............................ 72 
3.1 Hiện trạng di tích đền Cờn. ............................................................................................................... 72 

3.2 Bảo vệ, tơn tạo di tích. ....................................................................................................................... 73 
3.2.1 Cơ sở pháp lí. ........................................................................................................................... 73 
3.2.2 Bảo quản, tu bổ - tơn tạo .......................................................................................................... 76 
3.3 Khai thác phát huy giá trị di tích. ...................................................................................................... 79 
KẾT LUẬN........................................................................................................................................... 82 
TÀI LIỆU THAM KHẢO..................................................................................................................... 84 


MỞ ĐẦU
1.Lí do chọn đề tài.
Đất nước Việt Nam trải dài theo hình cong chữ “S” với 54 tộc người
gắn bó, đồn kết cùng sinh sống. Mỗi tộc người với những nét truyền thống
văn hố riêng đã cùng hồ nhập góp phần tạo nên nền văn hố Việt Nam
phong phú, đa dạng nhưng cũng mang đậm nét dân tộc truyền thống. Nền văn
hố Việt Nam biểu hiện ở nhiều góc độ, khía cạnh khác nhau. Một biểu hiện
cụ thể và đậm nét nhất trong số đó là ở hệ thống các di tích lịch sử- văn hố.
Dù đi bất cứ nơi đâu trên mảnh đất Việt Nam này chúng ta cũng đều có
thể bắt gặp những ngơi chùa, ngơi đình, đền…mà ở đó tập trung thể hiện rõ
nhất những nét đặc sắc, tiêu biểu của văn hoá, của lịch sử và những vấn đề
liên quan đến thời đại mà di tích đó tồn tại.
Dọc theo chiều dài của đất nước dừng lại ở mảnh đất miền Trung đầy
nắng và gió để đến với xứ Nghệ ân tình, khúc ruột của miền trung để cùng tìm
hiểu về truyền thống văn hố- lịch sử của con người và mảnh đất nơi đây.
Nếu ai chưa từng đến Nghệ An chắc hẳn cũng hình dung được phần
nào về mảnh đất này qua câu thơ “Đường vô xứ Nghệ quanh quanh/Non
xanh nước biếc như tranh họa đồ”.
Nghệ An đã đi vào thơ ca như thế! Với những con đường quanh quanh
khúc khuỷu, với cảnh núi non sơng nước hịa quyện một màu, với những con
người chất phác cần mẫn, chịu thương chịu khó. Là tỉnh có diện tích đất đai
rộng lớn, dân số đơng, lại hứng chịu nhiều những ảnh hưởng xấu từ thiên

nhiên với những trận bão lụt vào mùa đơng, những cơn gió lào khơ nắng nóng
vào mùa hè và cũng là nơi tập trung một số lượng lớn các di tích thuộc các
loại hình khác nhau. Hệ thống các di tích đó là tài sản quý giá của tỉnh nhà


cũng như của cả nước. Tìm hiểu về những di tích đó là chúng ta đang quay trở
về với truyền thống lịch sử từ bao đời của cha ông ngày xưa.
Quỳnh Lưu- huyện địa đầu của tỉnh Nghệ An là nơi tập trung khá nhiều các
di tích lớn, nổi tiếng. Đền Cờn thuộc xã Quỳnh Phương của huyện là một trong số
4 ngôi đền lớn, nổi tiếng linh thiêng chứa đựng trong đó nhiều giá trị quan trọng
cần phải được nghiên cứu, tìm hiểu và làm rõ. Tuy nhiên trong xu thế phát triển
hiện nay cùng với q trình đơ thị hố, chun mơn hố cùng những tác động từ
thiên nhiên, mơi trường thì có rất nhiều những vấn đề đặt ra đối với hệ thống các
di tích của tỉnh nói chung cũng như di tích đền Cờn nói riêng. Do đó với mong
muốn nghiên cứu, tìm hiểu để có cái nhìn tồn diện hơn về di tích đền Cờn, trên
cơ sở khảo sát thực trạng di tích đề ra một số những giải pháp trong vấn đề bảo vệ,
gìn giữ, tu bổ, tôn tạo cũng như phát huy giá trị của di tích em đã chọn đề tài:
“Tìm hiểu di tích đền Cờn” thuộc xã Quỳnh Phương, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh
Nghệ An làm đề tài tốt nghiệp chuyên ngành bảo tồn- bảo tàng.

2. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu lịch sử ra đời, q trình tồn tại của di tích đền Cờn
Xác định những giá trị của di tích qua những đặc trưng, đặc điểm về
kiến trúc, nghệ thuật và lễ hội
Tìm hiểu thực trạng của di tích từ đó đề xuất ý kiến về giải pháp trong
việc gìn giữ, bảo tồn, tôn tạo và phát huy giá trị của di tích.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu chính của khố luận là đền Cờn (xã Quỳnh
Phương, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An).

Đền Cờn thuộc xã Quỳnh Phương, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An
gồm có 2 đền là đền Cờn trong (ở trong làng) thờ Tứ vị thánh nương và đền
Cờn ngoài (ở ngoài biển) thờ Tống Đế Bính cùng các trung thần của ơng.


Trong phạm vi bài khoá luận tập trung nghiên cứu về đền Cờn trong thờ Tứ vị
thánh nương.
Xung quanh nhân vật Tứ vị thánh nương thờ ở đền trong có rất nhiều
những câu chuyện, những sự tích và truyền thuyết hư thực để tìm hiểu,
nghiên cứu. Hơn nữa đền Cờn trong là cơng trình kiến trúc khá đồ sộ và
đẹp với những nét đặc sắc, tiêu biểu về kiến trúc, nghệ thuật của thời Lê một trong số những công trình kiến trúc cịn lại rất ít trên đất Nghệ An hiện
nay mang phong cách thời Lê. Do vậy đền Cờn trong với những câu
chuyện về nhân vật được thờ, với những giá trị về lịch sử, những nét đặc
sắc về kiến trúc, nghệ thuật cần được tìm hiểu, nghiên cứu do đó khố luận
tập trung chủ yếu vào việc nghiên cứu đền trong. Tuy nhiên trong quá trình
tìm hiểu, nghiên cứu có giới thiệu về đền ngồi và những vấn đề có liên
quan đến đền ngồi sẽ được đề cập.
Phạm vi nghiên cứu: khu vực huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An.

4. Phương pháp nghiên cứu:
Để giải quyết các vấn đề nêu trên một số phương pháp được sử dụng như:
Phương pháp luận chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy
vật lịch sử.
Phương pháp nghiên cứu liên ngành: Bảo tàng học, Sử học, Xã hội học,
Khảo sát thực địa: quan sát, đo vẽ, khảo tả, chụp ảnh, phỏng vấn để thu thập tư liệu.
Ngồi ra cịn sử dụng phương pháp so sánh, tổng hợp, phân tích…

5. Kết quả nghiên cứu
Xác định niên đại của di tích đền Cờn và q trình tồn tại của di tích
trong lịch sử.

Xác định đặc trưng và giá trị cơ bản về kiến trúc, nghệ thuật, lễ hội
ở di tích.


Đề xuất một số giải pháp về bảo tồn, tôn tạo và phát huy giá trị của
di tích.

6. Bố cục khố luận
Ngồi phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo và Phụ lục nội dung
chính của khố luận được chia làm 3 chương:
Chương 1: Lịch sử hình thành và q trình tồn tại của di tích đền Cờn.
Chương này tập trung giới thiệu một vài vấn đề có liên quan đến di tích
đền Cờn như: Vùng đất xã Quỳnh Phương, huyện Quỳnh Lưu nơi di tích tồn
tại; lịch sử nhân vật được thờ ở di tích; niên đại khởi dựng và q trình tồn tại
của di tích.
Chương 2: Kiến trúc, nghệ thuật và lễ hội đền Cờn
Chương này tập trung vào tìm hiểu những đặc điểm và giá trị của di
tích đền Cờn.
Chương 3: Bảo tồn, tơn tạo và phát huy giá trị của di tích đền Cờn
Qua tìm hiểu thực trạng của di tích bước đầu đưa ra một số những giải
pháp trong việc bảo tồn, tôn tạo và phát huy giá trị của di tích đền Cờn.
Trong q trình viết khố luận, ngồi sự nỗ lực của bản thân em đã nhận được
sự giúp đỡ, động viên của thầy (cơ) giáo và của các bạn cùng khố. Nhân đây em xin
được bày tỏ lời cảm ơn sâu sắc đến PGS – TS Nguyễn Quốc Hùng người đã nhiệt
tình hướng dẫn em trong q trình viết khố luận. Em xin gửi lời cảm ơn tới Ban
quản lý di tích và danh thắng tỉnh Nghệ An, Ban quản lý di tích đền Cờn, UBND xã
Quỳnh Phương, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An và các thầy (cô) giáo trong khoa
cũng như các bạn đã giúp đỡ và động viên em hồn thành khố luận tốt nghiệp này.
Do hạn chế về thời gian và khả năng trình độ nên bài viết khơng tránh khỏi
những thiếu xót rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến cũng như sự chỉ bảo của

quý thầy cô và các bạn để em rút kinh nghiệm cho những lần nghiên cứu sau.
Em xin chân thành cảm ơn!


Chương 1
LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ QUÁ TRÌNH TỒN TẠI CỦA DI
TÍCH
1.1. Giới thiệu về vùng đất nơi di tích tồn tại
1.1.1 Vài nét về huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An

Quỳnh Lưu nằm ở phía bắc của tỉnh Nghệ An, là huyện địa đầu của xứ
Nghệ. Xa xưa là đất của bộ lạc Hàm Hoan. Đời Hán đặt là huyện Hàm Hoan
thuộc quận Cửu Chân. Thời Tam Quốc và Lưỡng Tấn, Hàm Hoan là đất của
quận Cửu Đức, nhưng Hàm Hoan lúc này không bao gồm cả Nghệ Tĩnh mà
chỉ có các huỵên Anh Sơn, Tân Kỳ, Nghĩa Đàn, Quỳ Châu ( cũ ), Yên Thành
và Diễn Châu bây giờ trong đó có Quỳnh Lưu. Thời Nam Bắc triều và thời
Tuỳ vẫn thế. Năm 618 nhà Đường lật đổ nhà Tuỳ. Buổi đầu nhà Đường cũng
theo cương vực của các quận, huyện như nhà Tuỳ, đặt vùng này là quận
Trung Nghĩa, sau gọi là quận Diễn Thuỷ. Trong thời Trinh Quán (627- 650)
lại bỏ, gồm cả Nghệ Tĩnh gọi là Hoan Châu. Mãi năm Quảng Đức thứ 2 (764)
mới tách một phần Hoan Châu, đặt Diễn Châu xếp ngang hàng với Hoan
Châu. Diễn Châu đời Đường gồm các huyện: Trung Nghĩa, Long Trì, Tri
Nơng, Vũ Dương, Vũ Kim… nhưng diên cách, vị trí địa lý của các huyện ấy
đến nay vẫn chưa khảo sát được chỉ biết đó là dải đất từ Cầu Cấm (Nghi Lộc)
chảy thẳng lên Quế Phong và ra mãi khe Nước Lạnh, giáp Châu Ái tức Thanh
Hố bây giờ trong đó có Quỳnh Lưu.
Buổi đầu tự chủ, các nhà Ngô- Đinh- Tiền Lê đều bỏ hẳn chế độ quận,
huyện. Đinh Tiên Hoàng chia nước ra làm 10 đạo. Lê Hoàn đổi 10 đạo làm lộ,
phủ, châu. Nghệ Tĩnh thời đó sử cũ gọi là Châu Hoan và Châu Diễn. Quỳnh
Lưu vẫn là đất của Châu Diễn.



Năm 1010 nhà Lý thay nhà Tiền Lê, thời gian đầu vẫn gọi là châu, sau
đó Lý Thái Tổ chia nước ta ra làm 24 lộ. Diễn Châu là một lộ. Quỳnh Lưu
nằm trong lộ Diễn Châu. Năm Thiên Thành thứ 3 (1030) đời Lý Thái Tông
đổi Hoan Châu làm Nghệ An. Cái tên Nghệ An có từ đó. Đến thời Lý Nhân
Tông (1072- 1128) gọi Diễn Châu là phủ. Tuy chia nước ta ra thành các đơn
vị hành chính như thế nhưng sử cũ vẫn gọi Nghệ An cũ (bao gồm cả Hà Tĩnh)
là châu, nên mới gọi Lý Nhật Quang làm tri châu Nghệ An.
Đến đời Trần, năm 1256 đổi Hoan Châu và Diễn Châu làm trại rồi lại
gọi là lộ và phủ. Năm Quang Thái thứ 10 (1397) đổi Diễn Châu làm trấn
Vọng Giang. Theo Đại Việt Sử Ký tồn thư thì trước đó vào năm 1218 đời
Lý Huệ Tông (1211- 1224) “Chiêm Thành và Chân Lạp đến cướp châu Nghệ
An, Lý Bất Nhiễm đánh được thăng lên trật hầu cho thực ấp 750 hộ, thật
phong 1500 hộ”.
Đến nhà Hồ, đổi trấn Vọng Giang thành phủ Linh Nguyên. Trấn Vọng
Giang hay phủ Linh Nguyên tức Châu Diễn thời Trần- Hồ gồm các huyện:
Thiên Động, Phù Dung, Phù Lưu, Quỳnh Lâm và Trà Thanh. Thời Minh lại
gọi phủ Diễn Châu. Theo Gs Đào Duy Anh trong cuốn “Đất nước Việt Nam
qua các đời” thì huyện Thiên Động là đất của huyện Yên Thành ngày nay,
Phù Dung là đất của huyện Diễn Châu, còn Phù Lưu, Trà Thanh và Quỳnh
Lâm là đất của huyện Quỳnh Lưu, Nghĩa Đàn hiện tại.
Nhà Lê, buổi đầu Diễn Châu thuộc đạo Hải Tây. Năm Quang Thuận
thứ 10 (1469) Lê Thánh Tông định lại bản đồ cả nước để hệ thống các phủ,
huyện vào các thừa tuyên, mới hợp cả Nghệ An và Diễn Châu làm một gọi là
Nghệ An thừa tuyên. Thừa tuyên Nghệ An quản lĩnh 8 phủ, 18 huyện, 2 châu.
Một trong 8 phủ đó là Diễn Châu. Diễn Châu quản lĩnh 2 huyện Đông Thành
và Quỳnh Lưu.



Năm Hồng Đức thứ 21 (1490) thừa tuyên Nghệ An đổi làm xứ. Đời
Hồng Thuận (1509- 1516) đổi làm trấn. Đời Tây Sơn và đầu đời Nguyễn vẫn
gọi là trấn. Như vậy từ 1469 Diễn Châu chỉ là một phủ của trấn Nghệ An, phủ
Diễn Châu vẫn có 2 huyện Đông Thành (tức Diễn Châu và Yên Thành hiện
tại) và Quỳnh Lưu (tức Quỳnh Lưu hiện tại và Nghĩa Đàn trước đây). Đến
năm Minh Mệnh thứ 12 (1831) mới đặt tỉnh Nghệ An và tỉnh Hà Tĩnh. Quỳnh
Lưu thuộc phủ Diễn Châu, tỉnh Nghệ An. Năm Minh Mệnh thứ 21 (1840)
trích 7 tổng phía tây là Lâm La, Phác Lộ, Nghĩa Hưng, Tuần Hàm, Nhiêu
Hạp, Thượng Do, Đường Khê lập huyện Nghĩa Đường (năm 1886 đổi tên là
Nghĩa Đàn). Bốn tổng cịn lại ở phía đơng gồm Phú Hậu (sau đổi là Hoàn
Hậu), Thanh Viên, Quỳnh Lâm và Hoàng Mai gọi là huyện Quỳnh Lưu thuộc
vào phủ Diễn Châu.
Năm 1919, chính quyền Thực dân Pháp và nhà nước phong kiến Việt
Nam bỏ cấp phủ, Diễn Châu khơng cịn là cấp quản lí về phương diện nhà
nước đối với Quỳnh Lưu.
Cách mạng tháng Tám thành công, nhà nước ta gọi các đơn vị hành
chính như phủ, huyện, châu đều là huyện và có điều chỉnh một số phần đất.
Một số làng của huyện Diễn Châu cắt về quỳnh Lưu đó là các làng: Vĩnh
Lộc, Tam Khơi, Ngỗ Trường (thuộc xã Quỳnh Diễn), Cao Hậu Đông,
Luyện Đồng, Yên Lưu (thuộc xã Quỳnh Giang) và Quang Phong (thuộc xã
Quỳnh Tam), Phú Gia (thuộc xã Quỳnh Hưng). Làng Nghĩa Môn thuộc
tổng Qui Trạch (Yên Thành) năm 1954 cũng cắt sang Quỳnh Lưu. Như vậy
là Quỳnh Lưu hiện có 41 xã và 2 thị trấn trong đó có 9 làng từ Diễn Châu
và Yên Thành cắt sang.
Về vị trí địa lý, huyện Quỳnh Lưu phía tây giáp huyện Nghĩa Đàn, phía
nam giáp huyện Diễn Châu và n Thành, phía đơng là Biển Đơng, phía bắc


giáp huyện Tĩnh Gia, Thanh Hoá mà điểm giáp giới là vùng khe Nước Lạnh,
nơi đây có dãy núi đá Hoàng Mai.

Về cơ bản Quỳnh Lưu là vùng đồng bằng ven biển với diện tích đất tự
nhiên là 61.603ha, dân số tính đến năm 2006 là 331.318 người cùng với bản
tính cần cù, chăm chỉ, chịu đựng gian khổ Quỳnh Lưu đang từng bước xây
dựng và đổi mới cuộc sống của huyện mình cùng với cả nước phấn đấu đi lên,
nêu cao quyết tâm: “ dân giàu, nước mạnh”.
Quỳnh Lưu, mảnh đất giàu truyền thống lịch sử. Trong lịch sử dân tộc
Quỳnh Lưu đã cùng với cả nước tham gia các phong trào, các cuộc nổi dậy
với nhiều những nhà hoạt động cách mạng như: Hồ Bá Ôn, Hồ Tùng Mậu,
Nguyễn Đức Mậu…
Là mảnh đất khoa bảng và truyền thống văn hố lâu đời. Quỳnh Lưu là
huyện xưa kia có nhiều người đi thi và đỗ đạt nổi lên có: Lê Quỳnh đỗ tam
giáp đồng tiến sĩ xuất thân khoa Quý Mùi niên hiệu Phúc Thái thứ 1 (1543)
đời Lê Chân Tông; Hồ Sĩ Dương; Hồ Sĩ Đống; Hồ Bá Ôn; Phạm Đình Trác;
Dương Thúc Hạp… Nơi đây lưu giữ nhiều câu chuyện kể dân gian, vè, ca dao
dân ca cũng như văn học thành văn về sau, gắn liền với tên tuổi của nhiều nhà
văn nhà thơ nổi tiếng trong lịch sử văn học nước nhà như Hồ xuân Hương,
như Bùi Hiển, Hồng Trung Thơng, Nguyễn Minh Châu, Phan Cự Đệ…
Đồng thời là mảnh đất tập trung được một hệ thống những di tích nổi tiếng
như nhà thờ họ Hồ ở Quỳnh Đôi, di chỉ khảo cổ ở Quỳnh Văn, đền Xuân Úc ở
Quỳnh Liên …đi kèm với đó là những lễ hội truyền thống đặc sắc với nhiều
nghi thức nghi lễ, trò diễn…là kho tư liệu quý giá cho những ai muốn nghiên
cứu, tìm hiểu.


1.1.2 Vài nét về xã Quỳnh Phương, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An

Đền Cờn thuộc địa phận xã Quỳnh Phương, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh
Nghệ An. Về vị trí địa lý: xã Quỳnh Phương nằm ở phía đơng bắc huyện
Quỳnh Lưu mà cũng là tỉnh Nghệ An. Phía Đơng là biển và một phần giáp xã
Quỳnh Lập. Phía Tây giáp xã Mai Hùng và một phần xã Quỳnh Dị. Phía Nam

giáp xã Quỳnh Liên và một phần xã Quỳnh Lương. Phía bắc giáp xã Quỳnh
Lộc và một phần xã Quỳnh Lập.
Theo thần phả đền Cờn, xã phương Cần hay còn gọi là Hương Cần đời Lê
gồm các thôn Hương Cần (tức Càn Miếu), Hữu Lập , Đông Hồi, Kim Lung,
Ngọc Huy…Trước đây cịn có làng Hương Hành nhưng vì nước thuỷ triều dâng
lên làm lở đất, dân làng đã chuyển lên xã Quỳnh Dị gọi là xóm Mu Cua thuộc
làng Thuỷ Cư nay gọi là xóm Sĩ Tân. Đầu thế kỷ XIX chỉ có giáp Vĩnh Lộc
thuộc xã Hương Cần lúc bấy giờ nằm trong tổng Hoàng Mai. Năm 1887 là thơn
Hương Cần (cịn gọi là Càn Miếu) thuộc tổng Hồng Mai. Năm 1892 là thôn
Hương Cần thuộc tổng Quỳnh Mai. Từ 1935- 1940 là thơn Phương Cần thuộc
tổng Hồng Mai. Sau cách mạng tháng Tám 1945, lúc đầu gọi là xã Phương
Cần, từ 1948 – 1953, Phương Cần nằm trong xã Văn Phương. Cuối 1953, sau
phong trào phát động quần chúng giảm tô xã Văn Phương chia làm nhiều xã đều
lấy chữ Quỳnh đứng đầu, Phương Cần cùng với xóm Úc Cạn cịn gọi là làng
Thượng Lân, một làng khơng đồng triện dưới thời Pháp thuộc gọi là xã Quỳnh
Phương. Hiện nay xã Quỳnh Phương gồm có 11 xóm: Tân Phong, Hồng Phong,
Quang Trung, Ái Quốc, Thân Ái, Quyết Tiến, Tân Tiến, Tân Hải, Hồng Hải,
Hồng Thái, Phương Hồng. Đền Cờn hiện nay thuộc xóm Quang Trung, xã
Quỳnh Phương, huyện Quỳnh Lưu, Nghệ An.
Hiện nay dân số của xã là 15000 người với 3111 hộ dân. Diện tích đất
tự nhiên của xã là 345ha, trong đó đất nơng nghiệp chỉ trên 80ha, đất chuyên
dùng chỉ khoảng 50ha, đất chưa sử dụng là 90ha, còn lại là đất ở khoảng


70ha. Có thể nói Quỳnh Phương là xã có các loại diện tích đất hẹp nhất huyện
Quỳnh Lưu, đất đai không thuận lợi cho sản xuất, sinh hoạt nhưng từ xưa cho
tới nay Quỳnh Phương vẫn được xếp là xã có mức sống vào loại khá của
huyện. Sách “Quỳnh Lưu phong thổ ký” của Bùi Dương Lịch có viết: “Riêng
xã Phương Cần người ở đây khơng có nghề gì khác, tranh nhau kiếm lời về
cá. Vẫn có tục lập đàn kỳ đảo để thuyền mành vượt bể được thần giúp sức,

sóng gió khơng ngăn trở khi đi bn bán.Tập qn ở đây xa hoa. Ngày đêm
thể chế khơng thể bó buộc, bốn mùa đều là mùa xuân vì sống phong lưu”.
Hơn nữa các cơng trình kiến trúc như đình Chợ, đình Tháng Ba, đền Cờn
cũng cho thấy văn hố ở đây đã trải qua thời kì khá phát triển.
Người dân ở Quỳnh Phương sống chủ yếu bằng nghề đánh bắt cá biển
và một số ngành nghề khác liên quan đến biển cả như: chế biến thuỷ - hải sản,
làm nước mắm, làm muối, đóng tàu thuyền. Nghề nơng nghiệp ở đây vẫn
được duy trì tuy nhiên do đất đai chủ yếu là đất cát pha nên chỉ thích hợp để
trồng lúa và trồng một số cây hoa màu như: lạc, đỗ, ngơ…
Tại Quỳnh Phương có cửa Cờn, tên chữ là Càn Hải sau đổi là Cần Hải
do sông Mai chảy ra. Cửa Cờn vừa hùng tráng vừa nên thơ, lại in đậm bao
dấu ấn lịch sử đã gợi nên nhiều tứ thơ cho nhiều thi hào khi đi qua đây. Bài
thơ của tiến sĩ Dương Thúc Hạp người làng Quỳnh Đôi, huyện Quỳnh Lưu là
một trong số những bài thơ tiêu biểu viết về cửa Cờn (ông đỗ tiến sĩ năm
1884).
Phiên âm:
Cần Hải
Cần giang thiên ngoại vọng du du
Nhất sắc trừng ngưng tiếp tố thu.
Bàng ngạn lô diêm yên nhạn trạch


Lăng ba vọng cổ phiếm ngư châu.
Anh Tôn mộng tỉnh phong ba thiếp
Thánh Mẫu linh quang thủy nguyệt phù,
Chử thượng nhàn du lại thừa hứng
Cơ tâm vọng xứ áp sa âu.
Dịch thơ:
Cửa Cờn
Cần Hải chân trời xa tít tắp

Trời thu nước biếc, biển mênh mông.
Thuyền chài tung lưới đè cơn sóng
Xóm bến trương rèm đón gió sơng.
Trăng nước chung say đền Thánh Mẫu
Phong ba lay tỉnh mộng Anh Tơng.
Đàn cị trước bãi đang đùa giỡn
Như muốn cùng ai cởi tấc lịng.
Qua cửa Cờn vào sơng Mai là cảng Xước. Đây là một cảng lớn của trấn
Nghệ An từ đời Lê trở về trước. Cảng Xước có núi Xước che chắn phía đơng
bắc và phía tây. Hai bên cảng Xước là những núi đồi cao thấp nằm trong dãy
núi Hoàng Mai, đã thế lại có đường thiên lý đi gần kề tạo cho cảng Xước
thành một vị trí hiểm yếu. trong chuyến chinh Nam năm 1470 Lê Thánh Tơng
có viết bài “Cảng Xước trung thi”:
“Sóng gào nước vỗ bầu khơng,
Đường như kẻ chỉ vắt trong cảng dài.
Thuyền neo góc biển sáng mai,
Năm canh lộng ánh sao trời lộng soi”.


(Bản dịch của Ngơ Linh Ngọc)
Địa hình xã Quỳnh Phương khơng được bằng phẳng, có hai gị (đồi)
cao là đồi Quạ và đồi Thằn Lằn (hay còn gọi là đồi Hùng Vương). Dưới chân
gị Hùng Vương có vết bàn chân ông Khổng Lồ mà người dân gọi là ông
Đùng. Tại núi Đồ Nay ở làng Hữu Lập bên cạnh cũng có dấu vết bàn chân
ơng Đùng.Trong dân gian có câu:
Hịn Bung hịn Mê,
Ơng lê một chuyến.
Hịn Biện một xách một tay
Rú Đồ Nay ơng khơng bõ xách.
Gị Thằn Lằn hay đồi Hùng Vương và đồi Quạ ở giáp biển nên địa hình

Quỳnh Phương có xu thế cao lên về phía đơng. Phía Tây là sơng Mai. Nước
sơng Mai từ khe Lễ (Quỳnh Châu) chảy về; Theo Đại Nam nhất thống chí, tập
II, Nxb KHXH, Hà Nội: “đến đường Trạm thuộc xã Hoàng Mai, chảy 3 dặm
nữa đến xã Kim Lung, rồi hợp với kênh Tang (kênh Dâu), lại chảy 5 dặm rồi
hợp với kênh Xước ở phía Bắc, lại chảy 5 dặm rồi đổ vào cửa Cờn”, “ở quãng
xã Hoàng Mai có đường quan, có bến đị Hồng Mai (nay đã có cầu Hồng
Mai). Qng sơng ở phố Hồng Sa hợp với các lạch nước ở cửa Quèn (Quyền
Hải) có tên riêng là sông Ngọc Để”.
Sông Ngọc Để, một nhánh sơng Hồng Mai, chảy từ Quỳnh Phương đến
Tiến Thủy tạo nên vùng Bãi Ngang. Sông này nhân dân thường gọi là sơng Mai
hay sơng Mơ. Đó là sơng đào từ nhà Tiền Lê nên nhân dân thường gọi là kênh
Nhà Lê. Kênh Nhà Lê hay sông Mai chảy qua suốt giới hạn xã Quỳnh Phương.
Trên đất Phương Cần đã có núi Hùng Vương (còn gọi là núi Rắn, núi
Thằn Lằn). Rắn hay Thằn Lằn thuộc về họ rồng, chữ Hán là “long”. Ngồi ra
trong xã Quỳnh Phương hiện tại có làng Thượng Lân. Thượng Lân và Hạ Lân
(thuộc xã Quỳnh Liên) trước kia là thơn Úc Cạn. Lân là kì lân tức sư tử.


Phương Cần lại giáp Phú Lương mà Phú Lương có rú Ói, tên chữ là Quy Lĩnh
tức núi Rùa. Thêm vào đó ở 2 bên đền Cờn có 2 đồi giăng 2 bên người ta cho
đó là 2 cánh .Như vậy trên mảnh đất Quỳnh Phương chúng ta thấy sự hội tụ
của địa thế “Tứ linh”: long – ly – quy - phượng. Phải chăng địa thế này là dấu
hiệu dự báo những điều kì diệu, linh thiêng sẽ xảy ra ở trên đó?
Quỳnh Phương hiện tại có đến 98 họ trong đó đơng và lớn nhất là các
họ Phan, Trần, Lê, Phạm, Ngơ, Bùi…
1.2.Lịch sử di tích đền Cờn
1.2.1 Lịch sử nhân vật được thờ

Đền Cờn thuộc xã Quỳnh Phương, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An
thờ Tứ vị thánh nương, nữ thần bảo vệ, phù hộ những người làm ăn trên sông

nước, đã từng âm phù quân đội nhà Trần rồi nhà Lê vượt biển bình an, chiến
thắng Chiêm Thành.
Hiện nay đền thờ Tứ vị thánh nương có ở nhiều nơi. Ở Quỳnh Lưu
ngồi đền Cờn là đền chính cịn có đến 30 làng nữa thờ Tứ vị thánh nương. Ở
Thanh Hoá, Hà Tĩnh… nhiều làng cũng thờ. Riêng tại huyện Hoằng Hố
(Thanh Hố) đã có 20 đền thờ. Khơng chỉ ở ngồi bắc mà ở miền nam cũng
có đền thờ Tứ vị thánh nương (Đồng Nai, Sơng Bé…).
Có rất nhiều sách đề cập đến đền Cờn và Tứ vị Thánh nương. Sau đây
xin trích dẫn một số sách viết về sự tích Tứ Vị Thánh nương:
Theo sách “Đại Càn Thánh Mẫu” của tác giả Nguyễn Ngọc Định và
truyền thuyết thì: Vào thế kỷ XIII , Trung Quốc đang trong giai đoạn phân
tranh. Nước Kim chiếm giữ Trung Nguyên nhưng rồi thời kỳ tồn thịnh cũng
qua đi. Mơng Cổ phụ thuộc nước Kim nổi dậy thành lập được quốc gia Mơng
Cổ. Bấy giờ nhà Nam Tống đóng ở Lâm An, Hàng Châu nhưng trong tình thế
suy yếu. Năm 1234 Mông Cổ tấn công Nam Tống. Triều Tống nhu nhược, đất
đai mất dần vào tay quân Mông Cổ.


Vua Tống Độ Tông mất, con là Cung Tông nối ngôi vào năm 1274.
Trước thế lực hung bạo của Mông Cổ kinh đơ nhà Tống thất thủ, triều đình
bất lực phải bỏ chạy về phía nam để lo kháng chiến phục quốc. Nhưng tình
hình ngày càng xấu đi nên các quan đại thần phải phù giá Thái hậu họ Dương
và các công chúa cùng chạy về Nhai Sơn (Quảng Châu).
Triều đình Nam Tống tơn Ích Vương lên ngơi ở Phúc Châu, tức Đoan
Tơng hồng đế, tơn mẹ làm hồng thái hậu bng rèm coi chính sự. Phong
Văn Thiên Tường là hữu thưà tướng. Văn Thiên Tường đã đem quân đánh
Mông Cổ lấy lại được Mai Châu. Trong khi đó Trương Thế Kiệt cũng đem
quân đánh bại quân giặc lấy lại được huyện Cát Công.
Nhưng quân Mông Cổ không chịu thất bại, đã tăng cường viện binh và
giở chiến thuật đánh úp quân Tống ở Hưng Quốc, sau đó thắng liên tiếp ở

nhiều nơi khiến nhà Nam Tống nao núng.
Lúc này Tống Ích Vương đóng ở Phúc Châu bị qn địch bao vây phải
rời về Triều Châu, Hồ Châu rồi mất. Em vua là Quảng Vương h Bính nối
ngơi, rời qn về Nhai Sơn, Quảng Châu để tiếp tục kháng chiến. Cuối niên
hiệu Tường Hưng năm 1279 Trương Hoằng Phạm đem quân đánh úp Nhai
Sơn, quân Tống bị đánh tan. Vua Tống Đế Bính cùng gia quyến, bề tơi, qn
lính hơn 800 người lên thuyền trốn ra biển. Thế cùng lực tận lại bị quân giặc
đuổi theo truy bức gấp rút, quan tả thừa tướng Lục Tú Phù ôm vua Đế Bính
nhảy xuống biển tự tử. Quan quân thấy vậy cũng lần lượt chết theo có đến
hàng chục vạn người.
Lênh đênh trên biển, Thái hậu của vua Tôn là Thái hậu Dương Nguyệt
Quả và 2 con cùng tướng Trương Thế Kiệt khơng may bị gió bão ập đến,
thuyền bị sóng biển đánh tan vỡ, quan quân bị chết đuối. Riêng Thái hậu và
các công chúa nhờ bám vào được mảnh ván thuyền trơi dạt đến cửa Càn (cịn
gọi Càn Hải) thuộc địa phận huyện Quỳnh Lưu, phủ Diễn Châu. Một nhà sư


trụ trì ở một ngơi chùa gần đó thấy vậy liền cứu vớt đem vào chùa cho ăn
uống tử tế. Được mấy tháng mẹ con lại sức trở nên khoẻ mạnh, vẻ mặt hồng
hào nhất là phu nhân. Thấy vậy sư động lịng trần muốn tư thơng nhưng bị cự
tuyệt sư xấu hổ gieo mình xuống biển tự tử. Mẹ con phu nhân thấy thế than
rằng: “Chúng ta nhờ sư mà được sống, nay sư vì chúng ta mà phải chết sao nỡ
yên tâm”. Nói xong rồi cùng nhảy xuống biển tự tử. Xác của mấy mẹ con
Thái hậu trôi dạt vào cửa Càn Hải, xã Quỳnh Phương; xác vị sư nọ trơi dạt
vào hịn Ĩi (núi Quy Lĩnh) thuộc xã Phú Lương mặt mũi hồng hào như người
sống. Dân làng Phương Cần và Phú Lương thương xót lo liệu chôn cất, dựng
thảo am để thờ cùng.
Đền Cờn ở Phương Cần thờ ba mẹ con công chúa Nam Tống.
Đền Quy lĩnh ở Phú Lương thờ vị sư.
Cuối thời Trần do quan niệm mê tín dân Phương Cần rước bài vị của vị

sư được thờ ở đền Quy Lĩnh về hợp tế nên gọi là đền “Tứ vị”.
Sang thời Lê do quan niệm Nho giáo dân Phương Cần dựng thêm đền
ngoài trên núi sát biển thờ vị sư, vua Đế Bính và các trung thần của ông. Đền
Cờn trong thờ ba mẹ con Dương Thái hậu và một bà nhũ mẫu. Từ đó đền
cũng được gọi là đền thờ Tứ vị.
Theo sách “Đại Nam nhất thống chí” của Quốc sử quán triều Nguyễn
biên soạn viết về:
“Đền thần cửa Cờn: ở địa phận xã Hương Cần, huyện Quỳnh Lưu.
Khoảng niên hiệu Tường Hưng nhà Tống, quân Tống bị quân Nguyên đánh
vỡ ở Nhai Sơn, Thái hậu họ Dương cùng ba công chúa chạy ra biển, chợt bão
nổi, bị chết đuối, xác trôi dạt vào đến cửa Cờn, nhan sắc vẫn như lúc sống,
người địa phương lập đền thờ.


Xét: Sử chép rằng năm Trần Hưng Long thứ 12, vua Anh Tông thân
chinh đi đánh Chiêm Thành, thuyền qua cửa Cờn, đêm nhà vua mộng thấy
thần nhân báo rằng: “Thiếp là cung phi nhà Tống, vì giặc bức bách, lênh đênh
sóng gió, trơi dạt đến đây, thượng đế sắc phong làm thần biển đã từ lâu, nay
xin giúp công thánh thượng để giết giặc”. Nhà vua tỉnh giấc, sai làm lễ kính
tế. Ra đi mặt biển yên lặng, kéo quân đến thẳng thành Chà Bàn, thắng trận trở
về, hạ lệnh gia phong là “Quốc Gia Nam Hải Đại Càn Thánh Nương”, lại sửa
đền thờ thêm rộng rãi. Năm Hồng Đức thứ 1, vua Lê Thánh Tông thân chinh
đi đánh Chiêm Thành, thuyền qua cửa Cờn, vào đền mật đảo, khi ra đi được
sóng êm, gió lặng, kéo quân đến thẳng Chiêm Thành, được đại thắng; khi kéo
quân về thuyền ngự đã qua cửa Biện, chợt có gió đơng nổi lên, buồm, thuyền
theo chiều gió quay lại, thành ra trở lại dưới chân đền. Nhà vua bèn hạ lệnh
tăng phẩm trật thần và dựng thêm đền miếu, nhân đấy gọi chỗ thuyền quay lại
là xã Hồi Châu. Thần được lịch triều phong tặng và bản triều gia phong, nay
trong cả nước có nhiều đền thờ”.
Theo sách viết thì thấy Thái hậu họ Dương đã thay cho Hoàng hậu và là

Thái hậu họ Dương cùng ba công chúa chạy ra biển và cửa Cờn là nơi xác
Thái hậu cùng ba công chúa trơi dạt vào.
Sự tích đền Cờn ở làng Phương Cần được ghi theo bản sao lời khai của
lý dịch làng Phương Cần gửi cho viên quan cai trị đề ngày 1/6/1937, hiện lưu
tại đền Cờn và nằm trong hồ sơ khoa học đền Cờn tại Bảo tàng tỉnh Nghệ An:
“… Chúng tôi là viên sắc lý dịch làng Phương Cần, tổng Hoàng Mai,
huyện Quỳnh Lưu vâng lời cụ lớn (?) sức khai sự tích linh miếu với phát tích
năm nào, dựng miếu năm nào, lăng tẩm ở chốn nào với các bản sắc phong
cùng tiền sự thờ tế thế nào, dân chúng con xin khai như sau này:
Duyên dân chúng con từ trước phụng thờ vị Đại Càn Quốc Gia Nam
Hải, Tứ Vị thượng thượng đẳng thần.


Ngài là dịng dõi họ Dương vợ vua Độ Tơng nhà Nam Tống lúc sang
Nam phát tích nơi cồn Diệc (tức rú Ói), dân chúng con phải lập đền tranh thờ
phụng. Đến đời nhà Trần, hiệu Tường Hưng năm thứ 20, vua Anh Tông thân
đánh rợ Chiêm Thành, tàu qua Cửa Lạch, ngài báo thần mộng xin giúp đỡ,
quả nhiên đánh được, lúc trở về sai quan trọng thần mang sắc khen phong,
mới dựng đền bằng ngói và hàng năm kính tế đến cuối đời nhà Trần. Vua
Thái Tổ nhà Lê khởi nghĩa đã tới linh miếu cầu khẩn. Ngài cũng bảo hộ, khi
mở nước vua phong sắc cùng Duệ hiệu với ban cả đồ vàng ngọc châu báu.
Sang niên hiệu Hồng Đức năm thứ 1, vua Thánh Tông nhà Lê thân chinh
Nam đánh người Trà Thuyên (nói Chiêm Thành) qua linh từ kỳ đảo cũng quả
nhiên đánh được, sau về đưa lễ bái tạ và tiến hai người con gái tên là Nguyễn Thị
Diễm, Hoàng Thị Hảo để lưu chầu chực, lại ngự chế bài thơ khen tặng.
Lúc về kinh vua sai quan mang sắc lại phong Thượng đẳng thần, sai thợ
khắc đá dựng bia, và lập thêm một đền ngói nữa, thường năm xuân thu hai vụ,
phát triển cống biện sửa lễ phẩm, sai quan về kính tế, chuẩn ban cho dân chúng
con làm dân tạo lệ, có chiếu cho miễn trừ binh hộ với mọi việc lao dịch….”
Theo sự tích của làng thì làng thờ vị Đại Càn Quốc Gia Nam Hải, Tứ vị

thượng thượng đẳng thần. Ngài là dịng dõi họ Dương, vợ vua Độ Tơng, lúc
sang Nam phát tích nơi cồn Diệc.
Theo “Thơ chữ Hán của Nguyễn Du” trong bài “Dao vọng Càn hải linh
từ”, hai tác giả Lê Thước và Trương Chính chú thích rằng: “Lúc Tống thất thế,
Trương Thế Kiệt, tướng võ đem Dương Thái hậu vợ vua Tống Độ Tơng và Đế
Bính, con bà cùng hai người con gái chạy ra Quỳnh Nhai (thuộc Quảng Đông) để
lánh nạn. Quân Nguyên kéo đến nơi, Lục Tú Phu, tướng văn cõng Đế Bính nhảy
xuống biển, cả hai cùng chết. Trương Thế Kiệt cũng bị đắm thuyền, chết.
Dương Thái hậu cùng hai con gái sang thuyền khác trốn. Thuyền đắm,
ba người trôi dạt vào Cửa Cờn, được người địa phương giúp đỡ, sống lại. Khi


được biết con bà là Đế Bính đã chết Dương Thái hậu khóc mà nói rằng: “Ta
sở dĩ chịu gian khổ để sống đến ngày hơm nay là vì họ Triệu Tống mà giữ gìn
một khối thịt ấy (tức Đế Bính), nay đã đến nỗi này ta cịn mong gì”. Khóc
than xong, nhảy xuống biển chết, hai cơng chúa cũng chết theo”.
Ở trên là một số những sách và truyền thuyết nói về nhân vật Tứ vị.
Giữa các sách cũng có những điểm giống nhau nhưng cũng có những điểm
khác nhau. Trên cơ sở những tư liệu đã nêu trên và qua thực tế khảo sát ở đền
thấy ở gian giữa tịa thượng điện là một ban thờ trên có đặt 4 pho tượng: phía
trong cùng, đặt ở trong ngai là tượng Dương Thái hậu; ở giữa là tượng vợ vua
Đế Bính (hồng hậu hay cung phi?), ngồi là 2 tượng cơng chúa đặt 2 bên
tượng vợ vua Đế Bính. Như vậy là có thể nghĩ rằng khi thuyền đắm ngồi cửa
Cờn thì phải là có 4 người. Thêm vào đó trong bản sự tích đền Cờn có nói là
đền thờ Tứ vị như vậy thì phải là thờ 4 người chứ không thể thờ 3 người như
một số sách có nói đến là chỉ có Dương Thái hậu và 2 cơng chúa hoặc Hồng
hậu và các cơng chúa và cũng không thể gọi là thờ Tứ vị Thánh nương mà lại
có cả vị sư đã cứu giúp được.
Từ những luận điểm trên người viết đưa ra một số ý kiến về nhân vật
được thờ ở đền là: đền Cờn thờ Tứ Vị Thánh nương gồm có Thái hậu họ

Dương, vợ vua Đế Bính và 2 cơng chúa.
Ngồi ra ở đền Cờn còn thờ hai vật thiêng nữa là: khúc gỗ và vỏ hạt lúa
tượng trưng. Việc phối thờ này có truyền thuyết nói rằng: Tứ vị anh linh nhập
vào cây gỗ. Cây gỗ trôi vào địa phận Càn Môn thì dân đẩy ra. Sau cây gỗ trơi
xuống thơn Phú Lương cách Càn Môn chừng đôi ba cây số, một già làng thấy
cây gỗ lạ liền lấy dao chặt thử thì thấy mùi thơm toả ra, lại thấy có vết máu.
Thấy vậy dân Phú Lương kéo gỗ lên, làm lán che tạm bằng tranh tre để thờ cây
gỗ thần và cũng từ đó dân Phú Lương làm ăn phát đạt, ngư dân được mùa cá.


Biết vậy dân Càn Môn lập mưu xuống cướp lại gỗ thần. Các phe, giáp
bí mật trong đêm xuống Phú Lương khiêng trộm cây gỗ về thờ. Các chức sắc
trong làng còn được báo mộng lấy gỗ làm tượng thờ Tứ vị. Và trước khi dân
làng dựng đền có truyền thuyết nói rằng hơm đó bỗng dưng trời mưa to, gió
lớn, sơng Mai cuồn cuộn sóng rồi thấy có bè gỗ lớn nổi trên sông gần đồi
Quạ. Nhờ vậy mà dân làng Càn có gỗ làm đền và đổi kẻ Càn thành Hương
Cần. Dân Phú Lương biết chuyện kiện lên quan trên và triều đình nhưng vẫn
bị thua cuộc (bởi có quy định bên nào châm hương bốc cháy thì bên ấy thắng
cuộc). Do vậy dân Hương Cần được phép thờ cây gỗ thần và cũng từ lí do
trên Cần Miếu có tục chạy Ĩi tức là rước kiệu đến Hịn Ĩi mà xưa kia hai
làng có sự tranh chấp để đón bốn cỗ ngai tượng trưng cho Tứ vị rồi chồng
ngai vào kiệu để tế lễ ăn mừng. Do đó mà ở đền Cờn chúng ta có thấy thờ 2
vật thiêng là khúc gỗ và vỏ hạt lúa tượng trưng.
1.2.2 Niên đại khởi dựng và quá trình tồn tại của di tích

1.2.2.1 Niên đại khởi dựng
Việc xây dựng đền Cờn được một số tài liệu như một số ngọc phả, sách
Địa chí Nghệ An của Bùi Dương Lịch có nói đến là nhờ sự quan tâm của vua
Trần Anh Tông từ năm 1312 gắn liền với sự kiện khi vua Anh Tơng hồng đế
hành qn nghỉ tại Càn Hải được Dương hậu báo mộng.

Nghệ Tĩnh lúc bấy giờ là phên dậu của nước nhà, là đất trọng thần, nam
trấn của triều đình. Cửa Cờn là một trong số 3 cửa biển của Nam trấn có nhiều
điều kiện thuận lợi, đóng qn ở đây khơng chỉ phịng thủ mà tiến thoái đều
dễ dàng. Cửa Cờn trở thành địa điểm tập kết qn thuỷ bộ để tấn cơng phía
Nam lí tưởng cho các nhà quân sự lúc bấy giờ.


Theo Đại Việt sử kí tồn thư: Tân Hợi năm thứ 19 (1311) đời vua Trần
Anh Tông, “mùa đông tháng 12, vua thân chinh đi đánh Chiêm Thành, vì vua
nước ấy là Chế Chí phản trắc”.
Thuyền quân vào cửa biển Cần Hải (nguyên trước là Càn Hải vì tránh
tên huý đổi là Cần Hải), đóng quân ở đây, đêm chiêm bao thấy có thần nữ
khóc và nói: “Thiếp là cung phi nhà Triệu Tống, bị giặc bức bách, gặp sóng
gió chết đuối trôi dạt đến đây, thượng đế phong cho làm thần biển ở đây đã
lâu, nay thấy bệ hạ đem quân đi, thiếp xin giúp đỡ lập công”. Khi thức dậy,
vua cho gọi các cố lão ở đấy hỏi sự thực, ban tế một tuần rồi đi thì biển khơng
nổi sóng, tiến thẳng đến thành Chà Bàn, bắt được vua Chiêm đem về.
Tháng 6 năm sau (1312) vua từ Chiêm Thành về đến kinh đô tổ chức
ăn mừng thắng lợi. Ngồi việc khao thưởng qn vua Trần Anh Tơng còn
nghĩ đến giấc mộng ở cửa Càn và sự thuận buồm xi gió trong khi hành
qn dẹp giặc nên hạ lệnh ban tặng sắc phong là “Quốc Gia Nam Hải Đại Càn
Thánh Nương”, sai “hữu ty lập đền thờ, tuế thì cùng tuế”.
Như vậy từ câu chuyện lịch sử trên cho chúng ta biết được niên đại
khởi dựng của đền Cờn đó là vào năm 1312 dưới thời vua Trần Anh Tơng.
1.2.2.2 Q trình tồn tại của di tích
Mỗi di tích có q trình tồn tại và phát triển riêng, có lúc thịnh lúc suy
nhưng cùng với thời gian di tích đã tồn tại đến ngày nay để trở thành những
nhân chứng lịch sử vô cùng quý giá, là kho tư liệu chứa đựng trong đó nhiều
vấn đề cần được tìm hiểu, nghiên cứu.
Đền Cờn (đền trong) là tên gọi dân gian có từ lâu. Đền cịn có tên là

đền Càn; tên chữ là Càn Hải linh từ hoặc là đền thờ Tứ vị Thánh nương. Đền
Cờn gồm có 2 đền là đền trong và đền ngoài. Gọi là đền Cờn trong là bởi ngôi


đền này nằm ở trong làng, và cũng để phân biệt với đền Cờn ngoài ở ngoài
biển thờ Tống Đế Bính và các trung thần của ơng.
Đền Cờn từ khi còn là thảo am do dân làng dựng lên để thờ Tứ vị (năm
1279) đến nay đã có rất nhiều sự kiện xảy ra gắn liền với sự tồn tại và phát
triển của di tích.
Năm 1312 thời vua Trần Anh Tông, sau chiến thắng Chiêm Thành trở
về nhớ tới giấc mộng ở cửa Cờn vua đã cho lập đền thờ và ban sắc phong
“Đại Càn Quốc gia Nam Hải Thánh Mẫu Thượng đẳng thần” nghĩa là: “Vị
Thánh Mẫu ở cửa Càn biển Nam Hải nước Việt Nam được phong là Thần bậc
Thượng đẳng”
Năm 1470 Vua Lê Thánh Tông cho xây lại đền quy mô hơn. Việc này
gắn liền với sự kiện: Dưới triều Lê Thánh Tông niên hiệu Hồng Đức năm thứ
1 (1470) giặc phương Nam lại quấy phá các tỉnh phía Nam. Lần này vua Lê
huy động một lực lượng quân đội lớn hiếm thấy trong lịch sử hành quân nước
ta vào trong thời điểm lịch sử lúc bấy giờ. Đội quân gồm 500 chiến thuyền và
25 vạn quân ào ạt hành quân, khi đến cửa Cờn dừng lại nghỉ ngơi và chấn
chỉnh đội ngũ. Khi nghỉ tại cửa Cờn vua Lê Thánh Tông đã vào đền Thánh
Mẫu làm lễ và cầu nguyện Thánh Mẫu âm phù cho cuộc chinh phạt thắng lợi,
sau đó đồn qn ra đi gặp thời tiết sóng yên bể lặng và cũng nhanh chóng
đến Chiêm Thành đánh bại quân Chiêm.
Trên đường vua tôi nhà Lê trở về kinh đơ, đồn thuyền đã vượt q cửa
Cờn chừng 10 dặm bỗng gió đơng nổi lên làm cho thuyền bị lật buồm quay
trở lại. Hiện tượng lạ này khiến nhà vua nhớ đến việc cầu đảo tại đền Cờn nên
cho thuyền ngược lại đền Cờn, mua sắm lễ vật lên đền tạ ơn. Sau đó đồn
chiến thuyền trở về kinh đơ một cách bình thường.



Sự việc kể trên khiến vua Lê Thánh Tông thấy sự linh nghiệm của ngôi
đền thiêng ở cửa Lạch nên ban cấp thêm vàng, bạc để lo sửa sang nâng cấp
đền thờ: dựng thêm tòa đền thờ, tạc tượng Thánh Mẫu, đúc chng và mua
sắm đồ tế tự. Đích thân vua đã làm bài thơ chế ngự như sau:
“Mịch nô mặc thạch phiến chu quy,
Cần Hải sơn đầu tưởng đáo thì.
Nhất thủy tự tồn thiên tạm hiểm,
Quần phong thủy qi thạch bình nguy.
Phong đào cửu trích Trần Anh mộng,
Hương hóa do lưu Thánh Nữ từ.
Nhiếp hải bình Nam kim thịnh hội,
Tường dư khởi đãi Lạc Long quy”.
Tạm dịch:
“Chiến thuyền len lỏi chen ghềnh đá,
Càn Hải đầu non tới biển này.
Bốn mặt nước vòng trời tạo dựng,
Các bề lũy chắn núi bao vây.
Hưng Long lặng sóng truyền trong sách,
Thánh Mẫu đền thiêng cảnh vẫn đây.
Vận hội bình Nam may mắn thế,
Nhờ ơn tiên tổ thuở xưa dày”.
Theo văn bia dựng ở đền Cờn thì vào niên hiệu Cảnh Trị nguyên niên
(1663) dựng tòa ca vũ (còn gọi là nhà bái đường).
Năm Kỷ Sửu đời Lê Hiển Tông (1740- 1786) niên hiệu Cảnh Hưng thứ
30 đền Cờn được trùng tu lớn, toà ca vũ được xây lại khang trang. Hiện nay


×