Tải bản đầy đủ (.pdf) (148 trang)

Tìm hiểu di tích đền văn hiến (xã hạ mỗ huyện đan phượng hà nội)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.69 MB, 148 trang )

1

TRƯỜNG ĐẠI HỌC VĂN HÓA HÀ NỘI

KHOA DI SẢN VĂN HĨA

TÌM HIỂU DI TÍCH ĐỀN VĂN HIẾN
(XÃ HẠ MỖ – HUYỆN ĐAN PHƯỢNG – HÀ NỘI)

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
NGÀNH BẢO TÀNG HỌC
Mã số: 52320305

Người hướng dẫn:
PGS.TS. TRỊNH THỊ MINH ĐỨC
Sinh viên thực hiện: NGUYỄN BÁ ÁNH

HÀ NỘI - 2013


2

LỜI CẢM ƠN
Đã gần 4 năm gắn bó với mái trường Đại học Văn hóa Hà nội, đặc biệt là
được theo học ngành Bảo tàng mà em yêu thích. Được tiếp xúc các thầy, cô
những người đang ngày ngày dạy bảo chúng em với lịng nhiệt tình và hết
mực u thương học trị. Thời gian trơi đi thật nhanh, thầy cô đã bồi đắp cho
chúng em những tri thức quý báu về chuyên ngành, về đạo đức làm người.
Giờ đây chúng em dưới sự dìu dắt của thầy cơ đang ngày thêm trưởng thành,
tất cả đều là công lao to lớn, in sâu vào trái tim chúng em là lòng tự hào và
biết ơn đối với các thầy, cô.


Em xin gửi lời cảm ơn tới Ban chủ nhiệm khoa Di sản Văn hóa và đặc
biệt là PGS.TS Trịnh Thị Minh Đức, người đã trực tiếp hướng dẫn khoa học
và chỉ bảo em những vấn đề trọng tâm của đề tài ngay từ khi xác định tên đề
tài, xây dựng đề cương tới lúc hồn thiện bài khố luận. Xin cảm ơn sự giúp
đỡ của chính quyền địa phương, Ban quản lý di tích đền Văn Hiến đã tạo điều
kiện, giúp đỡ em trong quá trình khảo sát, tiếp cận nghiên cứu di tích.
Bài khóa luận này chủ yếu là kết quả khảo sát thực tế tại cơ sở với sự
giúp đỡ của giảng viên hướng dẫn và các cộng tác viên đã tận tình giúp đỡ.
Tuy nhiên do kiến thức chuyên ngành còn hạn chế, thời gian nghiên cứu hạn
hẹp chắc hẳn khố luận của em cịn có khiếm khuyết. Kính mong nhận được
sự giúp đỡ, góp ý của các thầy cơ giáo và bạn bè cho bài khố luận được hoàn
chỉnh hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!
Tác giả
Nguyễn Bá Ánh


3

MỤC LỤC
MỤC LỤC …………………………………………………………………...2
MỞ ĐẦU……………………………………………………………….…….4
1. Lý do chọn đề tà........................................................................................4
2. Mục đích nghiên cứu……………………………………………….…. ..5
3. Đối tượng nghiên cứu……………………………………………….…..6
4. Phương pháp nghiên cứu………………………………………….…….6
5. Bố cục……………………………………………………………….…..7
Chương 1: LÀNG HẠ MỖ VÀ ĐỀN VĂN HIẾN…………………….…...8
1.1. Tổng quan về làng Hạ Mỗ …………………………………….……..8
1.1.1. Vị trí địa lý – đặc điểm tự nhiên……………………………….…..8

1.1.2. Dân cư và đời sống kinh tế của dân cư………………………….....9
1.1.3. Văn hóa truyền thống làng Hạ Mỗ……………………………….13
1.2. Q trình hình thành và tồn tại của đền Văn Hiến……………….30
1.2.1. Lịch sử nhân vật được thờ………………………………….....….30
1.2.2. Quá trình hình thành và tồn tại của đền Văn Hiến……….............39
1.2.3. Đền Văn Hiến trong hệ thống di tích thờ Thái úy
Tơ Hiến Thành…………………………………………….……..40
Chương 2: GIÁ TRỊ KIẾN TRÚC – DI VẬT VÀ LỄ HỘI
CỦA DI TÍCH ĐỀN VĂN HIẾN………………………….....46
2.1 Giá trị kiến trúc đền Văn Hiến……………………………………...46
2.1.1 Không gian cảnh quan…………………………………………….46
2.1.2. Bố cục mặt bằng………………………………………………….49
2.1.3. Kết cấu kiến trúc đền Văn Hiến…………………………………..50
2.1.4. Trang trí trên kiến trúc…………………………………………....63
2.2. Hệ thống di vật……………………………………………………....69
2.2.1. Di vật bằng đá…………………………………………………….69
2.2.2. Di bật bằng gỗ……………………………………………………70
2.2.3. Di vật bằng giấy………………………………………………….76


4

2.2.4. Di vật bằng đồng…………………………………………………76
2.2.5. Di vật bằng gốm sứ……………………………………………….78
2.2.6. Di vật bằng vải…………………………………………………....79
2.3. Lễ hội đền Văn Hiến………………………………………………...80
2.3.1. Lịch lễ hội ……………………………………………………......80
2.3.2. Công tác chuẩn bị cho lễ hội.……………………………..……...82
2.3.3. Diễn trình lễ hội ……………………………….………………....83
2.3.4. Kết thúc lễ hội ………………..………………………………….92

2.3.5. Lễ hội đền Văn Hiến trong mối liên quan với các di tích
cùng thờ Thái úy Tơ Hiến Thành………………………………….………...95
2.3.6. Các ngày lễ kỷ niệm khác trong năm………………………… …98
Chương 3: BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ
DI TÍCH ĐỀN VĂN HIẾN…………………………………...99
3.1. Giá trị tiêu biểu của đền Văn Hiến…………………………………99
3.2. Hiện trạng về di tích, di vật đền Văn Hiến……………………….102
3.2.1. Hiện trạng di tích …………………………..…………………..102
3.2.2. Hiện trạng các di vật đền Văn Hiến …………………….……..105
3.3. Vấn đề bảo vệ di tích đền Văn Hiến………………………………106
3.4. Giải pháp bảo tồn cho di tích ……………………………………..109
3.4.1. Giải pháp bảo quản đối với di tích đền Văn Hiến …………......109
3.4.2. Giải pháp tu bổ di tích đền Văn Hiến ……………...…………..113
3.4.3. Tơn tạo di tích đền Văn Hiến ……………………………….....114
3.4.4. Tăng cường trong cơng tác quản lý di tích …………………….114
3.5. Hiện trạng lễ hội đền Văn Hiến và biện pháp bảo tồn lễ hội …...115
3.6. Khai thác và phát huy giá trị di tích đền Văn Hiến …………….118
KẾT LUẬN………………………………………………………………..122
TÀI LIỆU THAM KHẢO………………………………………………..124
PHỤ LỤC……………………………………………………………….....126


5

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trải qua hàng ngàn năm lịch sử dựng nước và giữ nước, dân tộc Việt
Nam đã lập nên một quốc gia độc lập với nền văn hiến lâu đời. Q trình lịch
sử đó đã để lại một di sản văn hóa vơ cùng phong phú và đặc sắc. Thông qua
hệ thống di sản văn hóa chúng ta có thể tìm hiểu nắm bắt và tiếp nối những

giá trị tinh hoa mà ông cha ta để lại. Di tích lịch sử văn hóa là hình thức biểu
hiện vật chất của di sản văn hóa, nó ln có dấu ấn sâu sắc đối với mọi thế hệ
người dân Việt Nam, bởi lẽ trải qua nhiều thăng trầm của lịch sử các di tích
ln mang dấu ấn của thời đại, ghi nhận chặng đường lao động sáng tạo của
các thế hệ đi trước. Đó khơng chỉ là những giá trị vật chất cụ thể mà còn bao
hàm những giá trị tinh thần phong phú. Di tích lịch sử văn hóa là những trang
sử có sức thuyết phục lớn đối với mọi thế hệ chúng ta. Vì vậy việc nghiên
cứu, tìm hiểu để từ đó bảo tồn và phát huy giá trị của các di tích là nhiệm vụ
cấp thiết, có ý nghĩa quan trọng đối với sự nghiệp xây dựng đất nước trong
thời đại mới.
Tìm hiểu về di tích lịch sử - văn hố là tìm về cội nguồn của dân tộc để
kế thừa và phát huy góp phần làm đẹp truyền thống văn hố, nó càng trở nên
có ý nghĩa hơn nếu chúng ta đi sâu nghiên cứu, tìm hiểu, bóc tách từng lớp
văn hố chứa đựng trong đó để phần nào hiểu rõ hơn về cội nguồn văn hố
của dân tộc, từ đó gìn giữ, bảo tồn những tinh hoa văn hoá, truyền thống đạo
đức, thuần phong mỹ tục và lấy đó làm nền tảng xây dựng nền văn hoá Việt
Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc. Tuy nhiên, trải qua bao nhiêu thế kỷ,
với những biến cố thăng trầm của lịch sử và xã hội đã khiến cho nhiều di tích
lịch sử - văn hoá quý giá bị huỷ hoại, di sản văn hóa trong cả nước bị thu hẹp
và xuống cấp nghiêm trọng, nhiều di tích bị đổ nát, di vật bị hư hại, mất cắp.
Trong quá trình hội nhập và phát triển kinh tế đất nước, chiến lược phát
triển văn hóa được nhà nước quan tâm. Hồ chung với xu thế đó các di tích
lịch sử - văn hố dần được phục hồi, tôn tạo và phát huy giá trị. Các di tích


6

lịch sử - văn hố đã và đang góp phần khơng nhỏ vào sự hồn thiện con
người, giúp con người vươn tới cuộc sống tốt đẹp hơn và hướng người ta trở
về với cội nguồn, ngược dòng lịch sử, trở về với quá khứ, không lãng quên

quá khứ mà thêm trân trọng những thành quả vật chất và tinh thần của quá
khứ. Kế thừa, khai thác phát huy giá trị di tích lịch sử - văn hóa phát triển du
lịch, qua đó bảo tồn bền vững những di sản văn hóa có giá trị.
Di tích lịch sử văn hóa là nơi bảo lưu những giá trị văn hóa truyền thống
của quá khứ, là nơi chứa đựng công lao to lớn của những vị anh hùng dân tộc
trong suốt quá trình dựng nước và giữ nước. Đó cũng là nơi người dân đặt
niềm tin và ước mơ của mình để mong muốn cuộc sống bình yên, hạnh phúc
qua những điều họ gửi gắm vào nhân vật họ tơn thờ ở đó.
Làng quê Hạ Mỗ nay thuộc huyện Đan Phượng – Thành phố Hà Nội. Hạ
Mỗ cũng như bao làng quê khác trên mảnh đất Việt Nam là một làng quê yên
bình nhưng có bề dày lịch sử văn hóa và truyền thống. Chính làng quê với
những cánh đồng bao la, bát ngát thẳng cánh cò bay, với lũy tre xanh, những
dòng sông đỏ nặng phù sa,…, đã sinh ra biết bao nhân vật anh hùng tài giỏi
đóng góp rất nhiều cơng lao to lớn cho quá trình dựng nước và giữ nước của
dân tộc Việt Nam. Những người anh hùng đã làm rạng ngời thêm cho trang sử
vẻ vang của một dân tộc bất khuất kiên cường. Tôi vô cùng tự hào vì mình là
người con của đất nước Việt Nam, mảnh đất đã sản sinh ra biết bao nhiêu anh
hùng hào kiệt nổi tiếng về Nho học một thời và để hiểu biết thêm về truyền
thống văn hóa cũng như về Thái úy Tơ Hiến Thành, là người đóng góp rất
nhiều công lao cho đất nước và quê hương, tên tuổi của ông được nhân dân ca
tụng khắp nơi nên tơi đã chọn đề tài : “Tìm hiểu di tích đền Văn Hiến”, xã
Hạ Mỗ - huyện Đan Phượng - Thành phố Hà Nội, làm khoá luận tốt nghiệp
Đại học ngành Bảo tàng.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu


7

Nghiên cứu giá trị văn hóa, nghệ thuật của di tích đền Văn Hiến, khảo

sát thực trạng và tình trạng kỹ thuật của đền Văn Hiến hiện nay. Bước đầu
đưa ra các giải pháp bảo tồn và phát huy giá trị của di tích đền Văn Hiến trong
đời sống văn hóa của cộng đồng cư dân.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu tổng quan về làng Hạ Mỗ - Không gian văn hóa nơi di tích
tồn tại.
- Căn cứ vào các tài liệu biên chép và các nguồn tư liệu tại di tích xác
định niên đại xây dựng đền và những lần trùng tu, sửa chữa.
- Giới thiệu về nhân vật được thờ ở đền Văn Hiến.
- Nghiên cứu giá trị kiến trúc, di vật, lễ hội tại đền Văn Hiến.
- Khảo sát thực trạng, tình trạng kỹ thuật của di tích để đưa ra giải pháp
bảo tồn và phát huy giá trị di tích đền Văn Hiến.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu là di tích đền Văn Hiến - thơn Hạ Mỗ - xã Hạ
Mỗ, huyện Đan Phượng - thành phố Hà Nội và mở rộng đến các di tích thờ
Thái úy Tơ Hiến Thành để tìm hiểu và so sánh.
- Phạm vi vấn đề nghiên cứu: nghiên cứu khái quát toàn cảnh di tích đền
Văn Hiến trong khơng gian, thời gian, lịch sử, văn hóa, xã hội của xã Hạ Mỗ.
- Phạm vi không gian: xã Hạ Mỗ - huyện Đan Phượng – Thành phố Hà
Nội.
- Phạm vi thời gian:
+ Đối với các giá trị văn hóa vật thể: Nghiên cứu từ khi di tích hình thành
tới nay.
         +

Đối với các giá trị văn hóa phi vật thể: Nghiên cứu lễ hội đền Văn Hiến

hiện nay, so sánh với trước kia để thấy được sự biến đổi.
4. Phương pháp nghiên cứu
- Khóa luận sử dụng phương pháp nghiên cứu liên nghành: Bảo tàng học,

dân tộc học, mỹ thuật học, lịch sử, xã hội học.


8

- Phương pháp khảo sát điền dã tại di tích và sử dụng các kỹ năng: Quan
sát, miêu tả, đo vẽ, chụp ảnh, phỏng vấn, trao đổi, thống kê.
         -

Khóa luận sử dụng phương pháp nghiên cứu so sánh để tìm ra những nét

chung và riêng trong các di tích cùng thờ Thái úy Tơ Hiến Thành.
5. Bố cục khóa luận
Ngồi phần mở đầu và kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo,
khóa luận có kết cấu 3 chương:
Chương 1: Làng Hạ Mỗ và đền Văn Hiến [Từ trang 8 - 45]
Chương 2: Giá trị kiến trúc – di vật và lễ hội của di tích đền Văn Hiến
[Từ trang 45 – 99]
Chương 3: Bảo tồn và phát huy giá trị di tích đền Văn Hiến [Từ trang
100 – 123]


9

Chương 1
LÀNG HẠ MỖ VÀ ĐỀN VĂN HIẾN
1.1. Tổng quan về làng Hạ Mỗ
1.1.1. Vị trí địa lý - đặc điểm tự nhiên
Xã Hạ Mỗ ngày nay gồm hai thôn Hạ Mỗ và Trúng Đích, Bắc giáp hai
xã Trung Châu và Hồng Hà, Đông giáp hai xã Liên Hồng và Liên Hà, Tây

giáp Trung Châu và Thượng Mỗ, Nam giáp xã Tân Hội.
Trước hoặc sau cuộc chống Lương Tùy, Hạ Mỗ có tên là trang Phú Lộc
rồi hương Ơ Diên. Trúng Đích xưa kia cịn có tên là Làng Cách (Thơ Mỗ, phú
cách, sách Vẽ, phương ngôn).
Ở thế kỷ VI, Hậu Nam Đế, Lý Phật Tử lập thành trì ở đây nên có tên là
thành Ơ Diên. Trong Đại Việt địa dư toàn biên (Nguyễn Văn Siêu) ghi: “Đời
Tùy đổi đặt Giao Chỉ thuộc Giao Châu. Đời Đường, năm Vũ Đức thứ 4 lại đặt
Giao Châu ở đấy, lại chia đặt ba huyện là Từ Liêm, Ô Diên, Vũ Lập. Lấy
sông Từ Liêm (sông Nhuệ) đặt tên gọi là Từ Châu. Năm thứ 6, đổi gọi là Nam
Từ Châu. Đầu năm Trinh Quán bỏ châu, ba huyện lại thuộc Giao Chỉ”. Như
vậy tên Ơ Diên (làng) xưa cịn được gọi tên cho một huyện. Hương Ô Diên
thuộc huyện Vĩnh Khang, phủ Ứng Thiên đời Lý, đến thời Trần thuộc huyện
Vĩnh Thuận ( hoặc Từ Liêm) phủ Đông Đô. Từ đầu thế kỷ XIX Hạ Mỗ thuộc
tổng Thượng Hội, còn Trúng Đích thuộc xã Thượng Trì huyện Từ Liêm, phủ
Quốc Oai, trấn Sơn Tây.
Từ đầu thế kỷ XX, Hạ Mỗ và Trúng Đích đều thuộc huyện Từ Liêm, phủ
Hồi Đức, tỉnh Hà Đông.
Từ giữa thế kỷ XX trở về trước xã Hạ Mỗ gồm hai thôn là Hạ Mỗ, tục
gọi Mỗ Hạ và Tiên Tân, tục gọi Mố Bến.
Từ sau cách mạng tháng Tám và trong kháng chiến chống thực dân
Pháp, Hạ Mỗ thuộc xã Hồng Thái (nay là 3 xã Hạ Mỗ, Hồng Hà, Thượng Mỗ)
cịn Trúng Đích thuộc xã Liên Trì, huyện Liên Bắc (trước 1953), Đan Phượng
(từ 1953 về sau) tỉnh Hà Đông.


10

Từ năm 1956, hai làng Hạ Mỗ và Trúng Đích sát nhập thành một xã và
vẫn lấy tên là xã Hồng Thái. Từ 1972, xã Hồng Thái đổi tên thành xã Hạ Mỗ
huyện Đan Phượng tỉnh Hà Đông, sau đổi thành tỉnh Hà Tây (1965), Hà Sơn

Bình (1976), Hà Nội (1979), Hà Tây (1991), từ tháng 8/2008 đến nay lại
thuộc về Hà Nội. Xã Hạ Mỗ hiện nay chia thành 10 cụm dân cư: cụm số 1 đến
cụm số 8 thuộc thôn Hạ Mỗ, cụm số 9 và số 10 thuộc thơn Trúng Đích. Di
tích đền Văn Hiến nằm về phía Tây, cách Thủ đơ Hà Nội khoảng 30km. Đi
đến di tích, khách tham quan có thể đi theo đường Tràng Thi – Nguyễn Thái
Học – Cầu Giấy. Đi tiếp theo đường 32 qua Thị trấn Trơi (Hồi Đức) tới
Phùng rẽ tay phải theo đê quai sông Hồng khoảng 4km là tới địa phận thơn
Hạ Mỗ, di tích Văn Hiến Đường nằm ngay đầu làng.
1.1.2. Dân cư và đời sống kinh tế của dân cư
* Dân cư (Xem a1 – Phụ lục 1 trang 126)
“Hạ Mỗ là miền đất rất cổ”, có bề dày lịch sử văn hóa lâu đời. Ngay từ
thế kỷ VI tức là cách ngày nay trên 1400 năm, Hạ Mỗ đã đi vào lịch sử dân
tộc với tư cách là kinh đô của Nhà nước Vạn Xuân dưới triều Hậu Lý Nam
Đế, Lý Phật Tử.
Trong lịch sử hình thành, phát triển dân tộc, người Việt từ vùng trung du
tràn xuống khai thác vùng đồng bằng thấp đã để lại một hệ thống thành thị
gắn với những bước phát triển của lịch sử, xã hội: Thành Cổ Loa, thành Ô
Diên, thành Long Biên, Thăng Long cùng một số thành khác,… Trong mối
tương quan này, thành Ô Diên nằm gần khu vực ngã ba giao giữa hai con
sông: sơng Hồng và sơng Đáy – hai con sơng đóng vai trị là đường giao
thơng huyết mạch, đồng thời là đường trung chuyển và giao lưu văn hóa của
vùng này với khu vực thượng nguồn. Như vậy, thành Ô Diên cùng với thành
Cổ Loa được coi như thành quách mang tính chất “cột mốc văn hóa” đánh
dấu lãnh thổ trên con đường tiến xuống vùng đồng bằng thấp thuộc châu thổ
Bắc bộ của cư dân Việt. Sự hình thành và phát triển của thành cổ Ô Diên cũng


11

là quá trình hình thành và phát triển của làng Hạ Mỗ trong suốt tiến trình lịch

sử của dân tộc.
Dân làng Hạ Mỗ xưa nay vẫn tự hào về con người và mảnh đất quê
hương qua câu:
“Làng chúng tôi Đế vương đất cũ
Người chúng tôi Tể phụ ngày xưa”

“Đất này là đất cố đô
Người trung, trung tự thuở xưa đến giờ”.
Hơn 15 thế kỷ trơi qua, mảnh đất Ơ Diên ngày xưa – Hạ Mỗ ngày nay,
ngày càng chuyển biến theo xu hướng phát triển của xã hội. Dân số Hạ Mỗ
đơng dần và tấm lịng u nước thương nịi, tình làng nghĩa xóm cũng ngày
cành vững chắc. Gắn bó với quê hương, chung sức chung lòng xây dựng đất
nước là bản chất được tơi luyện và gìn giữ bền chặt của mọi nhà, mọi người
dân Hạ Mỗ.
Hiện nay theo thống kê của Ban văn hóa xã Hạ Mỗ thì tồn xã có 50
dịng họ. Trong đó làng Hạ Mỗ có 37 dịng họ, dựa theo các cuốn gia phả một
số dịng họ ở làng Hạ Mỗ như họ Tơ, Nguyễn Thế (lớn nhất), Nguyễn Khắc,
Bùi Quang. Trong đó họ Tô hiện nay con cháu đang xây dựng nhà thờ họ, cịn
ba họ trên đều có nhà thờ họ và tổ chức giỗ Tổ thường niên mỗi năm một lần.
Họ Tơ là dịng họ lâu đời nhất ở làng Hạ Mỗ, tuy nhiên con cháu dịng họ Tơ
bao đời nay đều đi lập nghiệp ở nơi khác cho nên hiện nay số đinh của họ Tơ
chỉ có 40 người. Bên cạnh đó thì gia phả dịng họ Nguyễn Thế, Nguyễn Khắc,
Bùi Quang đều có ghi chép cho biết các cụ Tổ của các họ đã đến đây lập
nghiệp và dựng họ được trên 300 năm. Họ Nguyễn Thế hiện nay có 350 suất
đinh, Nguyễn Khắc và Bùi Quang có 300 suất đinh. Lý giải cho vấn đề này
các cụ cao niên trong làng cho biết tuy số họ trong xã nhiều nhưng chủ yếu là
người dân tứ phương về đây từ đầu thế kỷ 20, đặc biệt là bộ đội sau kháng
chiến chống Thực dân Pháp và Đế quốc Mỹ đã ở lại đây lập nghiệp. Mặc dù



12

hiện nay với sự phát triển của đất nước, đời sống của người dân xã Hạ Mỗ
cũng đã khác trước, tốt hơn nhưng các dịng họ trong làng chỉ có nhà thờ họ là
những căn nhà cấp 4 lụp xụp, chật hẹp, rất ít các dịng họ có đất để xây nhà
thờ họ riêng mà đa số các cụ Tổ của dòng họ được thờ trong nhà của “Trưởng
tộc”.
* Đời sống kinh tế của dân cư
+ Nông nghiệp
Hạ Mỗ là một xã thuần nơng, diện tích đất canh tác hiện có 388,5ha với
dân số 7571 khẩu, bình qn 276m2 một nhân khẩu. Đất hẹp, người đông
nhưng với tinh thần yêu nước, truyền thống lao động cần cù, trong thăng trầm
của lịch sử, mọi khó khăn thử thách người Hạ Mỗ đều đã vượt qua, từng bước
xây dựng xóm làng tiến lên những bước mới, hồn thành mọi nhiệm vụ, đóng
góp sức người, sức của xây dựng quê hương, bảo vệ và phát huy giá trị của
các di sản văn hóa do cha ông ta để lại.
Theo báo cáo kết quả thực hiện nhiệm vụ kinh tế - xã hội, an ninh quân
sự năm 2012: Tổng diện tích gieo trồng 306,2 ha. Diện tích gieo cấy vụ xuân
155,6 ha, năng suất bình quân đạt 67,75 tạ/ha, sản lượng đạt 1.069,73 tấn.
Diện tích trồng hoa màu: Ngơ bãi diện tích 5 ha, năng suất đạt 55 tạ/ha, sản
lượng 55 tấn. Hoa 35 ha đạt năng suất 100 triệu/ha. Rau màu, cây ăn quả năng
suất đạt 60 triệu/ha. Diện tích gieo cấy vụ mùa 150,6 ha năng suất bình quân
đạt 57 tạ/ha sản lượng đạt 888,89 tấn. Ngơ diện tích 5 ha đạt năng suất 55
tạ/ha với sản lượng 27,5 tấn. Hoa 35 ha đạt năng suất 100 triệu/ha. Rau màu,
cây ăn quả năng suất đạt 60 triệu/ha. Năng suất lúa cả năm đạt 12,57 tạ/ha,
sản lượng hai vụ 1.958,62 tấn. Tăng cường công tác khuyến nông, phối hợp
Khuyến nông huyện tổ chức chuyển giao khoa học kỹ thuật vào sản xuất,
chăn nuôi. Tổ chức 5 lớp tập huấn cho 350 người tham dự. Phong trào trồng
cây xanh được đẩy mạnh, toàn xã trồng được 1200 cây xanh đạt 100% so với
kế hoạch. Chăn ni gia súc, gia cầm: Tổng đàn lợn có 3.086 con bằng 93,6%

giảm 211 con so với cùng kỳ; Đàn trâu, bị có 24 con bằng 50% so với cùng


13

kỳ; Đàn chó có 484 con, bằng 82% so với cùng kỳ; Đàn gia cầm 17.364 con,
bằng 112% so với cùng kỳ. Được UBND Thành phố đầu tư phát triển dự án
nuôi chim trĩ được 4.200 con; Dự án tổ chức phi chính phủ AM được 1200
con; Dự án Ngân hàng bò do tổ chức AM đầu tư 22 con; Dự án ni bị của
ơng Bổng Việt kiều Mỹ đầu tư 10 con. Tổ chức thực hiện tốt kế hoạch và
phương án phòng chống lụt, bão úng năm 2012.
+ Tiểu thủ công nghiệp
Nhân dân Hạ Mỗ đã sớm kết hợp được nền kinh tế tự cung tự cấp với
việc trao đổi hàng hóa với các vùng xung quanh nên phát triển một số nghề
thủ công như mộc, nề, làm gạch ngói, ép mía mật,…
Hạ Mỗ có nghề thêu ren xuất khẩu, nghề du nhập vào Việt Nam đầu thế
kỷ XX. Tuy là một nghề mới nhưng người Hạ Mỗ đã làm cho nghề thêu ren
phát triển mạnh. Hiện nay ngoài nghề nông, Hạ Mỗ vẫn là một làng làm các
mặt hàng thêu ren xuất khẩu của Hà Nội. Ren (còn gọi là Gien vơ ni): Đã
từng có thời gian, người dân Hạ mỗ đi khắp nơi để dạy nghề. Tuy nhiên, do
thị trường xuất khẩu bị bó hẹp nên nghề này đến nay đã bị mai một.
Nghề làm rượu ở Hạ mỗ đã tồn tại từ bao đời nay và ngon có tiếng. Đây
là loại rượu rất thơm, có độ cồn cao (tối thiểu 48% độ cồn) nhưng không bao
giờ khiến người uống bị đau đầu. Chất lượng luôn ngon nhất vùng có lẽ cũng
bởi bản chất thật thà của người dân ở đây.
Nghề làm Nem: Khác hoàn toàn với Nem Phùng (một loại Nem nổi tiếng
khác cũng ở huyện Đan phượng) được làm từ bì heo, Nem Hạ mỗ có thành
phần chủ yếu là thịt nạc loại ngon nhất và nem thính nên ăn rất ngọt.
Nghề làm Đậu phụ: Đậu phụ Hạ Mỗ ngon nổi tiếng, hàng ngày cung cấp
một số lượng lớn cho thị trường Hà nội. Đặc điểm bìa đậu (dân địa phương

gọi là khăn đậu) to, mềm nhưng không nát, được làm từ những hạt đậu tương
đã qua chọn lọn kỹ lưỡng. Dù rán, nướng hay ăn ngay vẫn cảm thấy vị béo
ngậy thơm ngon. Đây là bí quyết nhà nghề và do nguồn nước địa phương đã
tạo nên chất lượng của sản phẩm.


14

Nghề làm Bột sắn dây: Hiện nay do hàng giả q nhiều nên các gia đình
làm sắn dây khơng cịn mặn mà với nghề này nữa. Trong làng chỉ còn ít gia
đình vẫn cố gắng giữ nghề.
1.1.3. Văn hóa truyền thống làng Hạ Mỗ
* Truyền thống khoa bảng
Người dân làng Hạ Mỗ luôn tự hào là nơi sinh ra, nuôi dưỡng nhiều nhân
tài, có nhiều đóng góp to lớn vào lịch sử dân tộc. Theo lời các cụ cao niên
trong làng thì Hạ Mỗ là nơi có truyền thống học hành vì vậy có nhiều người
học cao, thi cử đỗ đạt và ra làm quan dưới các triều đại phong kiến.
Không chỉ là nơi nổi tiếng về Nho học, thời xưa với Thiền sư Trí Bảo
(Nguyễn Trí Bảo) nhà lý luận xuất sắc thuộc thế hệ thứ 10 dòng Thiền Quang
Bích của Phật giáo thời Lý, thế kỷ XII Hạ Mỗ lại đóng góp cho đất nước một
nhân vật kiệt xuất là Thái úy, Thái phó Bình chương qn Quốc trọng sự tước
vương Tô Hiến Thành (1102-1179). Thế kỷ XV có Hồng giáp Đỗ Trí Trung
(1439 - ?) thi đỗ đệ nhị giáp cận đệ chánh Tiến sĩ khoa Ất Mùi năm Hồng
Đức thứ 6 đời vua Lê Thánh Tông (1475). Ông làm quan đến chức Đặc tiến
kim tử Vinh Lộc Thượng đại phu Nhập nội thị tả thị Lang. Ông đứng đầu
khoa kim cương bát bộ tham dự vào hội “Quỳnh uyển cửu ca”. Ơng tham gia
tích cực vào sinh hoạt văn thơ ở kinh thành, là một trong 28 vì sao của Hội
Tao Đàn do vua Lê Thánh Tơng sáng lập.
Thế kỷ XVII có Đào Hồng Thực (1670-1748) năm 21 tuổi thi Hương
đỗ giải Nguyên, năm 22 tuổi dự thi văn chức đỗ đầu. Khoa thi Hội năm Đinh

Sửu (1697) ông đỗ Tiến sĩ trúng cách (Đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân) xếp
thứ 5. Tháng 12 cùng năm (đời vua Lê Hy Tơng niên hiệu Chính Hịa thứ 18)
ơng thi Điện, đỗ hàng thứ 5. Khi đó Đào Hồng Thực 28 tuổi. Ơng làm quan
từ chức Hiến sát, sau thăng Gián tham tụng Binh bộ thượng thư, Hình bộ
thượng thư. Khi về hưu ơng tiếp tục tham gia Thị ngũ lão chế, được phong
Quận công tước tại triều đình. Trong khoảng thời gian hơn 40 năm tại triều,


15

Đào Hồng Thực là người thơng tuệ văn chương, tài trí hơn người, khảng
khái có khí tiết, khơng chịu né tránh cường quyền, nổi tiếng là người ngay
thẳng thời bấy giờ. Do đó, từ khi bị khiển trách nhẹ ơng lại được tin dùng,
nhiều lần giúp ngoài biên, rồi tham dự việc chính sự quan trọng, dâng sớ vài
trăm điều, đều thiết thực, hợp ý vua. Chúa Trịnh Doanh thường khen ông là
bậc Ngụy Trưng, Lý Giáng (hai tể tướng đời Đường Thái Tơng và Đường
Hiến Tơng). Đào Hồng Thực là người học rộng y thư, nghề y nổi tiếng, được
nhà vua ban cho biên soạn sách y. Ơng cịn tinh thơng địa lí, được phụng sai
xem đất ở xứ Thanh Hóa, chọn được khu đất đẹp lập họa đồ cung tiến lên
vua,… Lúc cuối đời, ông trở về quê dạy học. Số người theo học đến hơn 100
người, nhiều người đã đỗ đạt cao ra làm quan. Đào Hoàng Thực được môn
sinh đời sau ngưỡng mộ như Thái Sơn, Bắc Đẩu vậy. Sau khi ông mất, nhà
vua phong tặng chức Thiếu phó.
Đây là một minh chứng cho truyền thống học hành khoa bảng và sự tôn
vinh của các nho sinh đối với các bậc thầy xưa kia, làng Hạ Mỗ có xây văn
chỉ để thờ cúng. Là một địa phương giàu truyền thống, một vùng “địa linh
nhân kiệt”, hiếu học, giàu truyền thống lịch sử. Thế hệ những người dân Hạ
Mỗ luôn tự hào về một miền quê văn hiến, sớm có những người con trung
hiếu làm rạng rỡ non sơng. Phát huy truyền thống q giá đó nhân dân làng
Hạ Mỗ chung sức đồng lòng xây dựng quê hương ngày càng giàu đẹp, văn

minh hơn nữa để xứng đáng với các bậc tiên hiền đi trước, tiến lên sánh
ngang với các địa phương khác trong cả nước. Việc giữ gìn và phát huy
những truyền thống đó là trách nhiệm và cũng là niềm tự hào của thế hệ mai
sau ở Hạ Mỗ.
* Di tích lịch sử văn hóa
Làng Hạ Mỗ mang trong mình bản sắc của nền văn minh sơng Hồng, vì
vậy các cơng trình sinh hoạt văn hóa cộng đồng của làng Hạ Mỗ rất đặc sắc,
nó biểu thị sự gắn kết, hòa hợp của mỗi cá nhân trong cộng đồng làng. Đó là


16

tinh thần tơn trọng, thờ phụng tổ tiên, người có cơng với nước,… Đồng thời
thể hiện trí óc thơng minh, bàn tay khéo léo của người dân địa phương, được
thể hiện qua những cơng trình kiến trúc nghệ thuật.
Để duy trì và phát huy những truyền thống tốt đẹp của quê hương đất
nước, nhân dân Hạ Mỗ sớm xây dựng các cơng trình văn hóa, các di tích lịch
sử - văn hóa được bảo tồn và phát huy giá trị. Xưa kia Hạ Mỗ có 2 đình (đình
Vạn Xn và đình Trúng Đích), 2 miếu (miếu Hàm Rồng và miếu Âm Hồn),
2 chùa (chùa Hải Giác và chùa Báo Ân), 1 văn chỉ (nay là đền Văn Hiến), 1
võ chỉ (nay là đền Tri Chỉ) và 1 đền (đền Chính Khí). Trải qua những biến đổi
của xã hội, hiện nay Hạ Mỗ có 2 đình (đình Vạn Xn và đình Trúng Đích), 1
miếu (miếu Hàm Rồng), 2 chùa (chùa Hải Giác và chùa Báo Ân) và 3 đền
(đền Văn Hiến, đền Tri Chỉ, đền Chính Khí). Đình Vạn Xn, Miếu Hàm
Rồng, đền Chính Khí thờ thần Bát Lang và các nhân vật lịch sử có liên quan
với thành Ơ Diên như Hậu Lý Nam đế Lý Phật Tử, Nhã Lang Vương và Biệt
Súy Lý Phổ Đỉnh. Miếu và đình Trúng Đích thờ hồng tử Đơng Chinh
Vương, con vua Lý Thái Tổ có cơng dẹp giặc ở Châu Văn (Lạng Sơn). Đền
Văn Hiến xưa là văn chỉ, là nơi biểu dương các danh nhân khoa bảng và
tưởng niệm những con người ưu tú đã làm rạng rỡ cho quê hương đất nước.

Đền Tri Chỉ xưa là võ chỉ, thần chủ là Trần Hưng Đạo. Tháng 10/1991, Đình
Vạn Xuân, chùa Hải Giác và đền Văn Hiến đã được xếp hạng di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia. Trong đó làng Hạ Mỗ hiện nay có các di tích như đình
Vạn Xuân, chùa Hải Giác, miếu Hàm Rồng, và 3 đền (đền Văn Hiến, đền Tri
Chỉ, đền Chính Khí).
+ Đình Vạn Xuân
Đình Vạn Xuân nằm ở trung tâm làng, xây dựng theo hướng Tây, là tâm
đối xứng của hai ngôi đền Hàng Văn (Văn Hiến Đường) và Hàng Võ (Tri Chỉ
Đường) ở hai đầu bắc – nam của làng. Đình được xây dựng trên khu đất rộng,
thế quy vờn ngọc. Phía sau là một gò nhỏ áp tường nhà hậu, nằm nhơ ra bờ
bán nguyệt (nay đã bị san lấp). Phía trước là sân rộng, vuông vức trên 600m2,


17

tả hữu vu mỗi bên đều rộng 5 gian. Bao quanh sân ở 4 góc là 4 cửa quấn thư
Đơng, Tây, Nam, Bắc. Ngoài cùng là hệ thống cột đồng trụ cùng hai nhà tả
môn, hữu môn kiến trúc kiểu cổ diêm tám mái tạo nên một khơng gian vừa
thống đạt, vừa mạnh mẽ uy nghi. Nối tiếp cổng, sân gạch là sân cỏ rộng kề
bên ao đình có gị tròn ở giữa. Đường đi lối lại bao quát quanh đình. Quang
cảnh xung quanh và phía trước đền như một công viên thu nhỏ rất thuận tiện
cho việc tổ chức sinh hoạt vui chơi giải trí, hội hè, lễ nghi truyền thống.
Đình Vạn Xuân là một tổng thể kiến trúc hoàn chỉnh kiểu “nội vương
ngoại quốc” được cấu thành bởi 10 nóc nhà liên hồn dọc ngang với diện tích
trên 700m2. Nhà tiền tế rộng 5 gian, 2 chái. Tiếp theo là tịa đại đình. Từ gian
giữa nhà tiền tế là hệ thống mái dọc chạy thẳng vào gian giữa đại đình nối
liền với hậu cung. Ngơi nhà dọc này được nâng cao cả hai tầng mái. Nhà hậu
cung gồm hai gian dọc chạy suốt đại đình ra tiền tế. Nối nhà tiền tế và đại
đình ở hai đầu là hai dãy hành lang nhỏ gồm 3 gian hẹp nòng. Sau hậu cung là
3 nếp nhà nối liền nhau gọi là nhà hậu phịng, mỗi nhà đều có 3 gian. Nằm
giữa các tịa tiền tế, đại đình, dãy nhà dọc và hành lang ở 2 bên là hồ vuông

đối xứng do 8 bờ xối nước chảy và tạo thành. Ở bên trong cũng có 2 hồ tương
tự nằm giữa tịa đại đình, nhà hậu cung, hậu phịng. Bốn hồ nước này vừa tạo
khơng gian thống mát, sáng sủa, vừa là điểm nhấn trên mặt bằng cấu trúc
kiểu “Nội Vương Ngoại Quốc” của đình Vạn Xuân. Giáp mái gian giữa nhà
tiền tế là một sân vuông được xây cao hơn mặt sân đình 15cm theo kiểu sân
lộng, sân chầu. Nhân dân thường gọi là sân chất kiệu, sân hát chèo (một nơi
biểu diễn). Bức tường đốc hậu nhà hậu cung xây theo kiểu bít đốc tay ngai.
Bên trong hậu cung được làm sàn gỗ cao 1,4m so với mặt đất, gian ngồi bày
hịm sắc, bát hương và nhiều đồ tự khí. Gian trong làm hệ thống cửa bức bàn
để tạo thành cung cấm. Trong cung đặt long ngai thần vị và đặt tượng thần
hoàng làng.
Lễ hội hàng năm, Thần được rước từ miếu Hàm Rồng về đình Vạn Xuân
và được tổ chức từ ngày 12 đến ngày 14 tháng Giêng âm lịch.


18

+ Chùa Hải Giác (xem a2 – Phụ lục 1 trang 126)
Chùa Hải Giác (Hải Giác Tự) thuộc làng Hạ Mỗ, huyện Đan Phượng
nằm bên hữu ngạn sông Nhuệ cổ, cách trung tâm Hà Nội 20km về phía Tây
Bắc. Chùa hiện nay cịn khá ngun vẹn, là một ngơi chùa lớn đồ sộ trong
vùng. Nhà Tiền đường cấu thành bởi năm tịa ngang dọc nối tiếp liên hồn.
Đối diện với Tiền đường là tam quan, hai bên là nhà Tổ và điện Mẫu. Về chùa
Hải Giác được lưu truyền trong dân gia câu ca:
“Chùa làng có đủ trăm gian
Nội cơng ngoại quốc rõ ràng chẳng sai”.
Đến cuối thế kỷ XIX, chùa được trùng tu, sửa chữa lớn. Tuy bài ký trên
bia “Tự hậu bi ký” (một trong số 25 bia) trong chùa dựng ngày 30 tháng Hai
nhuận năm Thành Thái thứ hai (1896) không ghi rõ chi tiết, quy mô của việc
trùng tu, nhưng hiện trạng di tích đã cho thấy qui mô và các kiến trúc của

chùa là sản phẩm của thời kỳ này.
Chùa Hải Giác được xây dựng trên khu đất bằng phẳng ở dìa làng. Các
kiến trúc bộ phận dược bố trí chiều sâu, theo trục chính là Đơng – Tây. Phía
trước là tam quan, sau đến sân gạch rộng, hai bên sân là hai dãy nhà Tổ, nhà
Mẫu nằm song song. Cuối cùng là tòa Tiền đường. Bao quanh khu kiến trúc là
giếng nước dựng lầu Quan Âm, vườn Tháp, vườn cây xanh rộng lớn để tạo ra
không gian thanh u tĩnh mịch cho cửa Thiền, đem lại sự hài hịa giữa kiến trúc
với mơi trường tự nhiên, tạo cho di tích những vẻ đẹp độc đáo gần gũi với
cuộc sống con người. Tam quan là một nếp nhà ba gian, hai tầng, tám mái.
Tầng trên treo chng, khánh, bên dưới bốn bề thống đạt tiện dụng trong
sinh hoạt hàng ngày. Từ Tam quan vào Tam bảo, cũng như từ nhà Tổ sang
điện Mẫu qua một sân rộng hơn 300m2. Nhà Tổ nằm ở bên phải sân chùa gồm
5 gian, trong cung đặt 10 pho tượng các sư tổ. Đôi câu đối ở gian giữa ca ngợi
vị sư tổ, nhà yêu nước, Hữu quân chánh tướng trong phong trào chống Pháp
những năm cuối thế kỷ 19 như sau:


19

“Vị quốc xả thân vạn đại Tổ Sư danh bất hủ.
Cứu dân độ thế ức niên chân lý đức lưu hinh”.
(Vì nước bỏ mình, mn đời danh tiếng Sư Tổ không bao giờ mất.
Cứu dân giúp đời, vạn kiếp đức của Người là chân lý mãi tỏa hương.)
Điện Mẫu nằm đối diện với nhà Tổ. Hai nếp nhà này có quy mơ và kiến
trúc giống nhau. Trong điện Mẫu có tượng Tam phủ (Mẫu Thiên, Mẫu Thủy,
Mẫu Nhạc),… Có động Sơn Trang và Phủ Trần Triều hiển Thánh. Khu chùa
chính của chùa Hải Giác vẫn bảo lưu được quy hoạch trên mặt bằng kiến trúc
của ngôi chùa thời Lê là Tiền đường, Thượng điện cùng với những dãy hành
lang bao quanh. Thượng điện là dãy nhà dọc 4 gian nối với chính giữa của
nhà tiền đường. Bao quanh khu chùa chính là 3 dãy hành lang nối tiếp nhau,

mỗi dãy gồm 10 gian hẹp nòng. Mặt sau của các dãy nhà xây tường bao ngăn
cách, sát tường xây bệ gạch để đặt tượng. Chùa Hải Giác là một trong những
chùa có nhiều tượng nhất ở nước ta hiện nay với hơn 200 pho tượng lớn nhỏ,
trong đó 50 pho tượng trịn là những tác phẩm nghệ thuật có giá trị cao.
Tại tịa thượng điện trên vị trí trang trọng ở hàng thứ nhất là 3 vị Tam
Thế đang ngồi kiết già trên tòa sen. Hàng thứ hai là bộ Di Đà tam ngơn gồm
A Di Đà và hai bên có hai Đại Bồ Tát Quan Thế Âm và Đại Thế Chí thị giả.
Hàng thứ ba là tượng Di Lặc, Văn Thù, Phổ Hiền ngồi trên lưng bạch tượng
hai bên làm tăng thêm sức mạnh của Đức Phật tương lai. Hàng thứ tư là tượng
Thích Ca thiền định. Tám pho tượng lớn đều ngự trên tịa sen, có vân xốy
trên đầu. Hàng thứ năm là tượng Ngọc Hoàng ngồi trên long ngai, hai bên có
Nam Tào, Bắc Đẩu. Hàng thứ sáu, Thích Ca sơ sinh trong tịa Cửu Long, hai
bên có Phạm Thiên, Đế Thích. Ở hai góc cuối thượng điện có Quan Âm Thị
Kính (bên phải) và Quan Âm Thiên Thủ (bên trái). Hai bên sườn thượng điện
là Thập điện Diêm Vương, phía tiền đường có hai pho Kim Cương lớn, cịn
gọi là hai ơng Hộ Pháp (Khuyến Thiện và Trừng Ác).
Bên trái Tiền đường, thờ Đức Ông và hai quan văn võ tùy tòng. Đối
xứng với ban tượng này về phía bên phải có nhóm tượng gồm Thánh Tăng,


20

Diệu Nhiên và Đại Sĩ (cịn gọi là ơng ăn khói nói ra lửa). Dọc theo hai tường
hồi, tượng được bài trí giống nhau, mỗi bên gồm 4 vị Kim Cương và hai Bồ
Tát, cả hai tập hợp hoàn chỉnh là Bát Bộ Kim Cương, Tứ Bồ Tát. Hai dãy
hành lang song song với thượng điện được dùng làm nơi tọa lạc của Thập Bát
La Hán. Tượng được thể hiện trong nhiều tư thế khác nhau, tiêu biểu cho cá
tính và đặc trưng của từng người.
Nhà hậu trong cùng được làm Mặt động và dựng 25 tấm bia hậu để biểu
dương những người cơng đức. Trong đó 5 bức tượng phù điêu của thời Lê.

Mặt động của chùa Hải Giác được thể hiện 2 tầng đối nghịch nhau. Tầng trên
là cõi phúc, cõi cực lạc dành cho những người có công quả tu luyện và
chuyên làm những điều thiện; Tầng dưới là cõi âm ty, địa ngục với những
hình phạt khốc liệt đang đón đợi kẻ ác ở trên dương giới. Tồn bộ mặt động
có 13 pho tượng lớn và hàng trăm pho tượng nhỏ được bố trí hợp lý thành
những tiểu cảnh mang ý nghĩa giáo dục với con người.
Có thể nói, chùa Hải Giác là một ngơi chùa cổ, chứa đựng những giá trị
văn hóa truyền thống quý báu, được nhà nước cơng nhận là di tích lịch sử cấp
quốc gia.
+ Miếu Hàm Rồng
Miếu Hàm Rồng tục gọi là Quán Bét, đọc lệch chữ Bát tức Lý Bát Lang.
Đây là một chứng tích hiếm hoi cịn sót lại trên khu thành Ơ Diên.“Miếu
ngun xưa là gị hạt ngọc, nổi giữa đầm Hàm Rồng, thuộc về trong thành Ô
Diên, nay có đê vịng sau miếu”. Như vậy, miếu Hàm Rồng vốn xưa là phủ đệ
của Lý Bát Lang. Năm Tân Mão (571), sau khi Lý Bát Lang mất, theo lệnh
của hậu Lý Nam Đế, nhân dân xây cất thành miếu thờ ông, ngay trên phủ đệ
và cũng là nơi ông hóa. Từ đó đến nay đã 7 lần tu tạo và đổi hướng nhiều
lần.Trong một tư liệu ghi trong tộc phả họ Bùi Tất, việc xây dựng và tu tạo
miếu như sau: “Lần thứ nhất, tháng 3 năm Tân Mão, trùng tu theo hướng cũ
nhưng làm mới rõ ràng hơn. Lần thứ hai, tháng 9 năm Mậu Tuất, tu tạo đổi
hướng sang Tây Bắc (Càn). Cước chú: Không biết hay dở thế nào, được một


21

tiến sĩ và 3 hương cống. Lần thứ ba, năm Canh Ngọ tu tạo xoay lại hướng Tây
Nam (Khôn) như cũ. Cước chú: Đức thành tối linh, nhân vật thịnh. Lần thứ
tư, tháng 3 năm Giáp Ngọ đổi hướng Đông Nam: dân gặp tai nạn và hỏa hoạn
nhiều. Lần thứ năm, ngày 13 tháng 3 năm Đinh Sửu, tu tạo đổi hướng Đơng:
Có con gái đẹp. Lần thứ sáu, năm Q Dậu (1873) tu tạo, đổi hướng nhìn

thẳng 3 dịng nước gặp nhau có hàm rồng như cái gương sáng”.
Năm 1947, thực hiện tiêu thổ kháng chiến để không cho thực dân Pháp
chiếm cứ, dùng làm căn cứ quân sự chống lại kháng chiến của quân ta, nhân
dân Hạ Mỗ đã chuyển tượng Thành hồng về đình Vạn Xn thờ và tiêu hủy
miếu.Từ khi thực hiện tiêu thổ kháng chiến, giặc Pháp ra tay khủng bố nhân
dân, chống phá cách mạng, làng xóm tiêu điều, lịng dân khơng n. Sau khi
hịa bình lập lại (1954), dân làng xây ban thờ lộ thiên trên nền hậu cung, thực
hiện tế lễ tuy cịn đơn giản nhưng đảm bảo nghiêm thành kính.. Năm 1995,
tơn tạo lần thứ bảy trên nền móng và kiểu dáng cũ. Miếu Hàm Rồng có quy
mơ nhỏ hơn đình Vạn Xuân vì làm trên địa điểm trước đây là phủ đệ của Lý
Bát Lang. Trước miếu là một sân cỏ như một bán đảo nhô ra thượng nguồn
sông Nhuệ cổ. Kiến trúc miếu kiểu chữ đinh gồm hậu cung và tiền tế, hướng
Đông - Đông Nam. Nhà tiền tế gồm 5 gian, dãy nhà dọc nằm từ gian giữa nhà
tiền tế chạy thẳng vào hậu cung như một sảnh đường hai tầng. Giáp mái gian
giữa nhà tiền tế là một sân vuông được xây cao hơn mặt sân miếu 15cm theo
kiểu sân lộng, sân chầu. Hình thức tổ chức này cũng được thực hiện như ở
cơng trình đình Vạn Xuân. Khi xưa, xung quanh miếu, theo triền đê, cây cối
sum suê như một khu rừng. Trong kháng chiến chống Pháp bị triệt phá, nay
đang được khôi phục. Trong hậu cung đặt hai ngôi tượng cổ. Pho tượng lớn tư
thế ngồi cao 1,7m, đường kính 0,9m (khơng kể bệ) bằng chất liệu gỗ, chạm
khắc tinh tế, sơn son thiếp vàng là một tác phẩm mỹ thuật cao. Pho tượng thứ
hai nhỏ hơn do dân làng tạc thêm hơn 200 năm nay, trong dịp tổ chức lễ hội
truyền thống, tổ chức rước long ngai từ miếu về đình Vạn Xuân và ngược lại,
đây là một nghi lễ có tiếng trong vùng từ xưa.


22

+ Đền Tri chỉ
Đền Tri chỉ vốn là võ chỉ thời trước, sau lễ đồng giáng bút năm Đinh

Mùi (1907), dân làng xây dựng thêm các cơng trình thờ phụng và có tên là Tri
Chỉ Đường. Đền Tri Chỉ thờ Trần Hưng Đạo và Tam thánh (Văn Xương Đế
Quân, Quan Thánh Đế Quân và Phu Hựu Đế Quân). Thần chủ đền Tri Chỉ là
Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn. Về sau thờ thêm Tản Viên Sơn
Thánh, hoàng tử Lý Bát Lang thành hồng làng. Ngồi ra cịn thờ Táo Quân
và Thổ Thần. Tất Cả các vị thần được thờ đều bằng tượng. Trong cuộc kháng
chiến chồng quân Nguyên Mông lần thứ 2 (1285), Đinh Tuấn, một vị tướng
của triều Trần dưới sự chỉ huy của Hưng Đạo Vương đã từng tổ chức dân
binh trong vùng chiến đấu chống giặc Ngun. Có lần đội dân binh này đã
tiến cơng tiêu diệt gọn một đồn thuyền chiến của giặc trên sơng Hồng, chỗ
cửa sông Nhuệ. Máu giặc trôi đỏ cánh đồng các làng Hạ Mỗ, Thượng Mỗ ở
hai bên cửa sông. Để ghi nhớ chiến công của quân dân ta trên mảnh đất này
trong các cuộc kháng chiến chống xâm lăng từ nhiều thế kỷ trước, đồng thời
cũng thể hiện tư tưởng tài kiêm văn võ của quê hương nên khi lập đền Văn
Hiến (đền hàng văn) thì cũng lập ngay đền Tri Chỉ (hàng võ). Đền được kiến
trúc hình chữ đinh gồm đại bái và hậu cung. Tòa nhà đại bái là lớp nhà ngang
3 gian 2 dĩ xây gạch theo kiểu tường hồi bít đốc tay ngai. Phía ngồi hai đầu
hồi đắp đầu rồng, đường viền tay ngai xây triện hoa văn. Đặc biệt, tại tòa đại
bái được nâng cao cả hai tầng mái tạo thế đứng vững chắc. Đền được trùng tu
sửa chữa nhiều lần. Những năm gần đây, đền xây thêm khu nhà Mẫu và tu
sửa nhà khách được khang trang hơn trước.
+ Đền Chính Khí
Đền Chính Khí tọa lạc trên khu đất cao nhất (cốt đất 13,8 – độ cao 13,8
m so với mặt nước biển) làng Hạ Mỗ, nay thuộc cụm dân cư số 2, tục gọi là
xóm Già (chỉ các làng Già Mét bên hữu ngạn sông Hồng) hay khu Đất Thuế
(âm đọc chệch của từ Thế - Thế là chân phần đất được chia theo suất đinh.
Con trai được thế phần bố - Nếu khơng có con trai thì khi chết phải trả làng để


23


cấp cho tai đinh khác). Từ khi nhân dân An Lão Thị đến định cư ở đây, theo
sáng kiến của các sinh đồ (sau gọi là Tú tài) Vũ Huy Chuẩn, Vũ Huy Thanh
và Vũ Huy Trừng, nhân dân xây dựng đền thờ vua Lý Phật Tử và các vương
tôn nhà Tiền Lý. Tương truyền, những ngày đầu đến lập q mới, người An
Lão Thị lập “đình” nhưng khơng thành. Sau được thần báo mộng, với sự hiểu
biết về lịch sử và địa lý, các nho sinh và nhân dân trong xóm xin được lập đền
thờ trên đất trung tâm thành Ơ Diên xưa. Cơng việc được thực hiên trơi chảy.
Ngôi đền tồn tại đến nay đã trên dưới 200 năm.
Đền theo hướng tây bắc, trơng núi, nhìn sơng:
“Tản Lĩnh thanh hai ẩn ước sơn dung miếu mạo
Nhĩ Hà bạch nhiễu bồi hồi vân ảnh thiên quang”
(Cột đồng trụ)
(Tản Lĩnh non xanh phảng phất ẩn hiện, dáng núi như để lại cùng miếu mạo.
Nhĩ Hà nước biếc đi đi lại lại vịng quanh, mây trời tan hết).
Đền có quy mơ nhỏ, kiến trúc đơn giản. Hậu cung là ngôi nhà một gian,
hai dĩ theo chiều dọc, tiếp đến là nhà tiền tế nay khơng cịn. Phía sau xây bít
đốc tai tượng, hai bên xây kín, phía trước xây kiểu hiên chắn mái khuôn thành
cửa tam quan, với bốn trụ biểu. Hai chữ Chính Khí được viết trên bức Đại tự,
cùng hai vế đối sắc sảo:
“Bắc phương cạnh tú (sao tranh phương Bắc)
Nam nhạc chung thiên” (Núi hợp trời Nam)
Trước hậu cung là sân gạch (2 nấc), sau đến cổng đền. Giữa cổng là hai
cột đồng trụ lớn được đắp hổ phù, rồng phượng quay bốn phía. Hai bên là tả,
hữu nghi xây kiểu chồng diêm tám mái, hai cột đồng trụ nhỏ tiếp nối tường
bao quanh đền. Hai nhà tả vu, hữu vu mới xây thêm năm 2007, mỗi nhà có ba
gian. Bước qua đường cái làng là hồ nước lớn, giếng tròn xưa được xây kiên
cố trực diện với cổng đền. Đền Chính Khí thờ Tứ vị đại vương:
“Diêm La Phật Tử đại vương



24

Hy Minh Dũng Nghị đại vương
Nhã Lang linh ứng đại vương
Biệt súy Phổ Đỉnh đại vương”
Ngày đại tiệc hàng năm là ngày mồng 7 tháng Giêng (sinh nhật vua Lý
Phật Tử), nhân dân trong xóm tổ chức tế lễ linh đình. Đồ tế tự, tế khí, sắc
phong đến nay hầu hết đã bị thất lạc. Hiện chỉ cịn 2 đơi câu đối gỗ, 4 bài vị
thánh, 1 hương án, 1 trống cái, 1 chuông nhỏ, 9 lư hương to nhỏ, 2 y mơn, 1
mâm bồng cỗ, 1 hịm đựng sắc và một số cây đèn, nến, đài,…, đều đã bị hư
hỏng nặng.
Trước hậu cung và ba mặt đồng trụ đều có câu đối. Đáng chú ý là các
câu đối nêu rõ vị trí xưa của thành Ơ Diên và các sự kiện đã diễn ra ở đây:
“Bát bảo xa thư thông Bắc cực.
Vạn niên lễ nhạc sán Nam cung”
(Tám ấn báo tin thống nhất đất nước của nhà vua,
Vạn năm sau lễ nghi và âm nhạc tươi đẹp nơi xưa vua ở).
“Kỳ dịch Tràng An phưởng phất bách niên tiền tĩnh
Càn khôn bất lão y hy thất miếu hậu cao"
(Những trận đánh (cuộc chơi cờ) lớn ở Kinh đô nhiều năm trước chỉ cịn
thoảng qua đều đã n ổn
Tình nghĩa vua tơi cịn mãi dẫu chỉ mường tượng khơng rõ ràng ở miếu thờ
các tiên vương về sau luôn được quý kính).
* Phong tục tập quán
Làng Hạ Mỗ với truyền thống văn hiến lâu đời, luôn hướng theo ngọn cờ
Thiên hạ thái bình, phấn đấu cho mục tiêu cao cả: “Khi khả quan văn vật, tốt
đẹp lễ nhạc y quan. Ngành văn nổi các khoa mục, ngành vũ xuất những cơng
hầu, nhà nhà phú thọ khang ninh, làng xóm phục hịa phồn hậu”. Đó là ý chí,
tình cảm và quyết tâm của người dân Hạ Mỗ từ ngàn đời vẫn lưu truyền cho

các thế hệ.


25

Kế thừa những hương ước của cha ông từ ngàn xưa để lại, đặc biệt là
hương ước Hạ Mỗ Giáp Tuất (1904), đến nay đã có quy ước làng Hạ Mỗ
2012 với sự kế thừa và bổ sung, điều chỉnh những vấn đề mới nảy sinh, phù
hợp với thời kỳ đổi mới đất nước.
+ Điều 1. Quy định về lễ hội truyền thống, phong tục tập quán
Thực hiện chính sách tơn giáo của Chính phủ, mọi người trong làng đều
có quyền tự do tín ngưỡng, được thờ cúng, tế lễ trong gia đình, miếu, chùa,
đền của làng theo đúng thể lệ, quy định. Theo tính chất và nội dung thờ tự từ
xưa mỗi nơi nên giữ vững không tự ý thay đổi. Nếu được dân làng nhất trí,
chính quyền đồng ý cho phép, các cơ quan văn hóa và tổ chức tơn giáo chuẩn
y thì mới được thay đổi. Các di tích được thực hiện đúng “Luật Di sản Văn
hóa 2001 và sửa đổi bổ sung năm 2009”.
Việc thờ cúng thể hiện sự trang nghiêm, thành kính, tránh lãng phí phơ
trương, ăn uống tốn kém làm phương hại sự đồn kết, ảnh hưởng xấu đến uy
tín, giảm lịng tin của nhân dân và khách thập phương. Mọi người đến nơi thờ
cúng quần áo chỉnh tề, không dung tục, không gian dối, không lợi dụng nơi
công cộng để tuyên truyền ảnh hưởng cá nhân, gây bè kéo cánh, nói xấu
người khác hoặc làm phương hại đến công việc của địa phương và Nhà nước.
Người trong làng cũng như khách thập phương đến lễ bái khơng được hành
nghề mê tín dị đoan hoặc đầu cơ trục lợi, kinh doanh trái phép, tổ chức đánh
bạc dưới bất cứ hình thức nào, khơng đốt đồ mã trong khu vực lễ hội, không
đốt pháo, thả đèn trời. Mọi người thực hiện giữ gìn vệ sinh cơng cộng. Người
đang có đại tang thì tạm hỗn việc ra đình, đền, nếu đang đảm nhiệm cơng
việc của làng thì cử người khác thay thế. Ra đình, chùa, đền, điếm sở mọi
người nên có ý thức tơn trọng các cụ cao tuổi, chọn chỗ ngồi thích hợp với lứa

tuổi, biết nhường chỗ thuận lợi và trân trọng khách của làng, tôn trọng nội
quy của dân làng.
Hội làng không nhất thiết năm nào cũng tổ chức. Năm nào mở hội thì tùy
tình hình cụ thể về nội dung và tính chất mà quyết định số ngày nhưng không


×