Tải bản đầy đủ (.pdf) (88 trang)

Tìm hiểu di tích đình hòe thị

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (5.84 MB, 88 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC VĂN HÓA HÀ NỘI
KHOA BẢO TÀNG
**********

PHẠM THỊ HẠNH

TÌM HIỂU DI TÍCH ĐÌNH HỊE THỊ

KHĨA LUẬN TỐT NGHIỆP
NGÀNH BẢO TÀNG

NGƯỜI HƯỚNG DẪN:

HÀ NỘI - 2009

1


MỤC LỤC
Mở đầu ..............................................................................................04
1. Lý do chọn đề tài.................................................................................04
2. Mục đích nghiên cứu .........................................................................05
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu .....................................................06
4. Phương pháp nghiên cứu ..................................................................06
5. Bố cục khoá luận ................................................................................06
CHƯƠNG 1: DIỄN TRÌNH LỊCH SỬ ĐÌNH LÀNG HOÈ THỊ .....07
1.1 Tổng quan về vùng đất nơi di tích tồn tại .....................................07
1.1.1 Vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên...................................................07
1.1.2 Lịch sử hình thành làng Hoè Thị và xã Xuân Phương ...................08
1.1.3 Đặc điểm dân cư và truyền thống cách mạng ................................09
1.1.4 Một vài đặc điểm về kinh tế, văn hoá, xã hội của làng Hoè Thị



11

1.1.4.1 Đời sống kinh tế...........................................................................11
1.1.4.2 Truyền thống văn hoá giáo dục ...................................................14
1.2 Đình làng Hoè Thị trong tiến trình lịch sử....................................17
1.2.1 Vài nét về đình làng Việt Nam .......................................................17
1.2.2 Lịch sử hình thành và quá trình tồn tại của đình Hoè Thị..............18
1.2.3 Lịch sử nhân vật được thờ trong đình Hoè Thị ..............................19
1.3 Đánh giá ..........................................................................................23
CHƯƠNG 2: GIÁ TRỊ KIẾN TRÚC-NGHỆ THUẬT VÀ LỄ HỘI
ĐÌNH HOÈ THỊ ....................................................................................24
2.1 Giá trị kiến trúc-nghệ thuật ...........................................................24
2.1.1 Không gian cảnh quan ....................................................................24
2.1.2 Bố cục mặt bằng tổng thể ...............................................................25
2


2.1.3 Các đơn nguyên kiến trúc ...............................................................26
2.1.4 Nghệ thuật trang trí kiến trúc .........................................................29
2.2 Các di vật trong di tích ...................................................................30
2.2.1 Di vật bằng gỗ ...............................................................................31
2.2.2 Di vật bằng gốm ............................................................................33
2.2.3 Di vật bằng đồng ............................................................................33
2.2.4 Di vật bằng vải ...............................................................................34
2.2.5 Di vật bằng giấy ............................................................................34
2.2.6 Di vật bằng đá.................................................................................35
2.2.7 Các cây cổ trong phạm vi di tích ...................................................35
2.3 Lễ hội đình làng H Thị ................................................................36
2.3.1 Thời gian và khơng gian diễn ra lễ hội ...........................................36

2.3.2 Công tác chuẩn bị cho lễ hội ..........................................................36
2.3.3 Diễn trình lễ hội ..............................................................................37
2.3.3.1 Phần lễ .........................................................................................39
2.3.3.2 Phần hội.......................................................................................47
2.4 Ý nghĩa của lễ hội đình làng Hoè Thị ............................................48
2.5 Các lớp tín ngưỡng trong việc thờ thần tại đình Hoè Thị ..........50
CHƯƠNG 3: VẤN ĐỀ BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY
GIÁ TRỊ DI TÍCH ĐÌNH H THỊ ...................................................53
3.1 Thực trạng di tích đình H Thị ....................................................53
3.1.1 Hiện trạng chung của một số di tích và nguyên nhân tác động ....53
3.1.2 Thực trạng kiến trúc đình Hoè Thị .................................................55
3.1.3 Thực trạng các di vật .....................................................................55
3.1.4 Thực trạng các hoạt động tơn giáo tín ngưỡng và lễ hội................56
3.2 Một số biện pháp bảo tồn , trùng tu di tích đình H Thị..........57
3


3.2.1 Một số vấn đề cần quan tâm ...........................................................57
3.2.2 Các giải pháp bảo tồn, tơn tạo di tích đình H Thị ......................59
3.2.2.1 Giải pháp bảo tồn giá trị văn hoá vật thể ....................................60
3.2.2.2 Giải pháp bảo tồn giá trị văn hoá phi vật thể ..............................64
3.3 Khai thác và phát huy giá trị của di tích lịch sử đình H Thị......64
KẾT LUẬN ............................................................................................67
THƯ MỤC THAM KHẢO
PHỤ LỤC

4


LỜI MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Trong suốt chặng đường dài phát triển của lịch sử dân tộc Việt Nam, từ
buổi sơ khai đấu tranh chinh phục tự nhiên và cải tạo xã hội,cũng như quá
trình dựng nước và giữ nước, cha ông ta đã để lại cho thế hệ sau một kho tàng
di sản văn hố vơ cùng quý báu. Trong số đó phải kể đến giá trị của hàng vạn
di tích bao gồm đền, đình, chùa, miếu…trên khắp mọi miền của đất nước.
Mỗi di tích lịch sử, kiến trúc chứa đựng biết bao tình cảm, tâm huyết của
các thế hệ trước. Những đường nét hoa văn hoạ tiết dưới bàn tay tài hoa của
người thợ tài hoa Việt Nam trở nên mềm mại, gần gũi.Trải qua bao thác
ghềnh của lịch sử cùng với những bước đi của dân tộc, di tích mang trong
mình dấu ấn và hơi thở của lịch sử.Chính vì vậy di tích là nơi hội tụ bản sắc
văn hoá của dân tộc, là nơi nuôi dưỡng tâm hồn người Việt Nam qua các thế
hệ, là địa điểm mà bạn bè quốc tế thấy lại một vóc dáng lịch sử, văn hố của
Việt Nam. Tựu chung, di tích lịch sử văn hóa là tài sản vô cùng quý giá không
chỉ của mỗi dân tộc mà của toàn nhân loại.
Tuy vậy, qua bao năm tồn tại, với sự khắc nghiệt của tự nhiên, sự huỷ
hoại nặng nề của các cuộc chiến tranh liên miên và những hành động thiếu
hiểu biết khơng thể kiểm sốt được của con người đã tàn phá và huỷ hoại rất
nhiều di tích. Vì vậy ngày nay chúng ta cần phải giữ gìn, bảo vệ và phát huy
những truyền thống tốt đẹp của nhiều thế hệ thông qua những giá trị của di
tích cho cuộc sống hơm nay trở nên có thêm nhiều giá trị. Con người chúng ta
không thể chỉ sống cùng các thành quả khoa học kĩ thuật của thời hiện đại mà
bao giờ cũng có xu hướng hướng về q khứ, tìm về cội nguồn văn hố
truyền thống phát huy những mặt tốt để sống tốt đẹp hơn, tiến xa hơn trong
cuộc sống hiện tại.
Với ý nghĩa và tầm quan trọng như vậy, hơn lúc nào hết, chúng ta phải
biết bảo vệ những di sản văn hố vơ giá của cha ông đã để lại cho thế hệ sau.
Việc phát hiện và lưu giữ quá khứ tốt đẹp cũng là một trong những cách làm
5



cho cuộc sống hiện tại và tương lai của chúng ta có nghĩa hơn. Đó cũng là
đường lối đúng đắn mà Đảng và nhà nước ta đã đề ra nhằm xây dựng một nền
văn hoá tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc.
Nhận thức được những giá trị văn hoá to lớn mà cha ông ta đã để lại cho
chúng ta trong đó có sự đóng góp khơng nhỏ của hệ thống các di tích lịch sử
văn hố, tơi đã mạnh dạn chọn đề tài : Tìm hiểu di tích đình H Thị” để làm
bài khố luận tốt nghiệp nhằm góp phần tìm hiểu nội dung văn hố ấy và góp
một phần nhỏ bé của mình vào cơng cuộc bảo vệ di tích lịch sử văn hố của
dân tộc.
2. Mục đích nghiên cứu
Đình H Thị đã được các cơ quan văn hố chức năng khảo sát, tìm hiểu
về các giá trị kiến trúc và lễ hội để lập hồ sơ xếp hạng di tích lịch sử văn hố
năm 1990. Những thơng tin trong hồ sơ di tích đã cho chúng ta thấy được
khái qt về hiện trạng của ngơi đình trước đây. Bên cạnh đó đã có một số tờ
báo, cá nhân đã tìm hiểu và viết bài về lễ hội của đình. Tuy vậy những thơng
tin đó chỉ dừng lại ở mức khảo tả, đưa ra những nhận xét khái qt, chưa có
tính chun sâu.
Khố luận: “Tìm hiểu di tích đình H Thị” của tơi là bài viết trả mơn
trước khi tốt nghiệp nên mục đích nghiên cứu khơng nằm ngồi việc tìm hiểu
các giá trị văn hố, lịch sử, kiến trúc của đình và đưa ra một số giải pháp của
cá nhân nhằm bảo tồn và phát huy giá trị củaA di tích. Nhưng với tính chất
của một cơng trình nghiên cứu khoa học, bài viết của tơi đã có sự chun sâu
tìm hiểu về giá trị văn hố của lễ hội đình làng H Thị nhằm phản ánh một
đời sống tinh thần phong phú, độc đáo và giàu ý nghĩa của người dân nơi đây.
Nó làm nên tính khác biệt của làng Hoè Thị so với các làng quê khác của Hà
Nội. Điều này rất cần thiết cho các cơ quan chức năng phát hiện và bảo tồn
những giá trị văn hố lễ hội của một ngơi đình nhỏ ở Hà Nội, tránh sự mai
một trong đời sống hiện đại.


6


3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Đình làng H Thị nằm ở thơn H Thị, xã
Xuân Phương, huyện Từ Liêm, thành phố Hà Nội.
- Phạm vi nghiên cứu: Nghiên cứu khái quát toàn cảnh di tích H Thị
trong khơng gian, thời gian, lịch sử văn hố, xã hội của vùng đất nơi di tích
tồn tại.
4. Phương pháp nghiên cứu
Để làm bài khoá luận này tôi sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau:
Phương pháp điền dã dân tộc học.
Phương pháp thống kê, phân tích, tổng hợp.
Phương pháp liên ngành lịch sử, khảo cổ học, văn hố học.
5. Bố cục khố luận
Ngồi phần mở đầu, kết luận, bài viết của tôi gồm 3 chương:
Chương 1: Diễn trình lịch sử đình làng Hoè Thị.
Chương 2: Giá trị kiến trúc-nghệ thuật và lễ hội đình làng Hoè Thị.
Chương 3: Vấn đề bảo tồn và phát huy giá trị di tích đình H Thị.
Đây là cơng trình nghiên cứu khoa học của tơi nhằm trả bài tốt nghiệp
khố 25 khoa Bảo Tàng, trường Đại học Văn Hoá Hà Nội. Bài viết sẽ khơng
tránh khỏi những thiếu sót, kính mong các thầy cơ, bạn bè tham khảo góp ý
kiến với tơi nhằm bổ xung thêm những nội dung cịn thiếu sót. Tơi xin chân
thành cảm ơn.
Qua đây tơi cũng xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến thầy Nguyễn văn Tiến là
người đã hưỡng dẫn tôi trong suốt thời gian làm khoá luận tốt nghiệp. Thầy
đã tạo điều kiện cho tơi tìm hiểu tài liệu liên quan đến di tích và gợi ý, hướng
dẫn tơi cách làm bài để tơi có thể hồn thành khố luận tốt nghiệp của mình.

7



Chương 1
DIỄN TRÌNH LỊCH SỬ ĐÌNH LÀNG HOÈ THỊ
1.1 Tổng quan về vùng đất nơi di tích tồn tại.
1.1.1 Vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên.
Đình H Thị ngày nay nằm ở thôn Hoè Thị, xã Xuân Phương là một
trong mười sáu xã, thị trấn của huyện Từ Liêm ngoại thành phía tây Hà Nội.
Xã Xuân Phương phía bắc giáp các xã Minh Khai, Phú Diễn. Phía đơng
giáp xã Mỹ Đình và thị trấn Cầu Diễn. Phía nam giáp xã Tây Mỗ. Các xã, thị
trấn trên đều nằm ở huyện Từ Liêm. Riêng phía tây, Xuân Phương tiếp giáp
với xã Vân Canh huyện Hoài Đức.
Con đường đến thăm di tích khơng khó khăn chút nào. Từ Hồ Gươm ở
trung tâm Hà Nội theo con đường Tràng Thi qua Cửa Nam, Kim Mã sang Cầu
Giấy theo đường Quốc Lộ 32 đến thị trấn Nhổn rẽ trái theo đường 70 chừng 2
km là vào thẳng đình H Thị.
Chúng ta có thể đi con đường khác gần hơn là khi qua Cầu Diễn trên
Quốc Lộ 32 thì rẽ trái qua thơn Thị Cấm là sang H Thị.
Xn Phương có địa hình khá cao ráo nên cảnh lụt lội ít khi xảy ra.
Đường Quốc Lộ 32 chạy từ Hà Nội lên Sơn Tây ngang qua xã theo hướng
đông tây nối thủ đô với khu vực Trung du Tây Bắc đất nước. Đường tỉnh lộ
70 chạy từ Hà Đông lên thị trấn Nhổn qua xã Xuân Phương theo hướng bắc
nam. Con sông Nhuệ chạy men phía đơng của xã ngược lên phía bắc ra sông
Hông, xuôi về hạ lưu xuống thị xã Hà Đông và về tận Cầu Rẽ. Xuân Phương
nằm ở vùng có vị trí địa lý khá thuận lợi như vậy nên có nhiều điều kiện để
giao lưu phát triển kinh tế văn hoá với các vùng miền khác nhau.

8



1.1.2 Lịch sử hình thành làng Hoè Thị và xã Xuân Phương.
Hoè Thị là một trong bốn thôn của xã Xuân Phương rộng lớn gồm: Hoè
Thị, Thị Cấm, Ngọc Mạch và Tu Hồng. Sở dĩ làng có tên gọi là Hoè Thị bởi
gắn liền với giai thoại tướng Lý Phục Man thời Lý Nam Đế đánh giặc đi qua
vùng này. Năm 545, nhà nước Vạn Xuân non trẻ phải đương đầu với quân
xâm lược nhà Lương từ phương Bắc. Vua Lý Nam Đế đã tổ chức đấu tranh
bảo vệ độc lập dân tộc. Lý Phục Man là một thủ lĩnh nghĩa quân, đứng đầu
hàng quan văn võ của nhà nước Vạn Xuân. Quê ông ở làng Cổ Sở (nay là Yên
Sở, huyện Hoài Đức, Hà Nội) được phụ trách giữ thành bên sông Tô Lịch (Hà
Nội), nơi giặc Lương công phá dữ dội. Lý Phục Man cưỡi ngựa trắng trực tiếp
xơng ra đánh tướng giặc là Trần Bá Tiên. Vì giặc đông thế mạnh vây hãm
quân ta, Lý Phục Man bị thương nhưng vẫn ung dung ngồi trên ngựa tiếp tục
chiến đấu phá vịng vây. Vết thương q nặng khơng chống đỡ nổi, Lý Phục
Man phi ngựa thẳng về quê hương. Khi đi qua đất của làng thấy người đàn bà
đứng ở cửa đình ơng xuống ngựa xin nước uống. Ơng hỏi chuyện thì người
đàn bà sợ hãi mà khơng nói gì, thấy vậy ơng buột miệng nói: “thị câm” (tức
người đàn bà khơng nói). Ơng lại lên ngựa đi tiếp lên làng trên, ông đứng
ngựa hỏi một người đàn bà xem mình có cịn sống được nữa khơng, người
đàn bà này chỉ cười và khơng nói gì. Ơng buột miệng nói: “hoè thị” ( tức là
người đàn bà cười). Từ tích đấy mà khi đặt tên làng, dân làng đã chọn tên là
H Thị cịn làng dưới có tên đọc chệch là Thị Cấm.
Ngoài tên gọi là Hoè Thị, làng cịn có một tên khác là làng Canh. Cái tên
Hương Canh (hương có nghĩa là làng) vốn là tên cũ của xã Xuân Phương. Các
thôn trong xã đều dùng tên nôm là Canh như: Canh Thị Cấm, Canh Hoè
Thị… thế nhưng tên Canh còn được sử dụng để gọi một vùng đất rộng lớn
hơn bao gồm các xã Xuân Phương và xã Vân Canh thuộc huyện Hoài Đức
ngày nay.

9



Ngược lại dịng lịch sử, xã Xn Phương có rất nhiều lần thay đổi tên gọi
và vị trí hành chính. Vùng đất Xuân Phương từ đời nhà Đinh đến đời Trần
đều thuộc về lộ Quốc Oai. Năm 1466 Xuân Phương thuộc về Thừa TuyênQuốc Oai. Năm 1469 lại đổi Quốc Oai thành Thừa Tuyên- Sơn Tây. Qua mấy
trăm năm đời Lê Trung Hưng và đời Tây Sơn, Xuân Phương có tên là Hương
Canh thuộc về huyện Từ Liêm-phủ Quốc Oai-trấn Sơn Tây. Năm 1831
Hương Canh thuộc tổng Hương Canh- huyện Từ Liêm- Phủ Hoài Đức- tỉnh
Hà Nội. Năm 1884 đời vua Kiến Phúc, Hương Canh đổi tên là Phương Canh.
Năm 1902 khi nội thành Hà Nội cắt cho Pháp làm nhượng địa, xã Phương
Canh thuộc về tỉnh Hà Đông.
Năm 1959 xã Phương Canh đổi thành xã Xuân Phương thuộc huyện
Hoài Đức- tỉnh Hà Đông. Năm 1961 xã Xuân Phương được cắt về huyện Từ
Liêm cho đến ngày nay.
1.1.3 Đặc điểm dân cư và truyền thống cách mạng.
Xuân Phương là mảnh đất cổ nằm trong dịng chảy văn hố Sơn TâyThăng Long nên có một bề dày truyền thống đậm bản sắc, góp phần tạo dựng
một Thăng Long Hà Nội nghìn năm văn hiến. Di chỉ khảo cổ học ở cánh đồng
Ngoạ Long hay còn gọi là cánh đồng Trầm (nay thuộc xã Minh Khai) cách
Xuân Phương gần hai cây số tìm được những di vật có niên đại từ đầu thời đại
đồ đồng thau (khoảng 4000 năm trước đây) chứng minh khu vực này đã có
dân cư đến tụ cư từ rất sớm. Mảnh đất này thấm đượm bản sắc văn hoá dân
tộc. Truyền thống lịch sử, văn hoá, lao động sản xuất được tích luỹ hàng ngàn
đời khơng ngừng chảy trong mỗi thế hệ người dân nơi đây. Theo thần phả ở
hai đình Hoè Thị và Thị Cấm thì từ thời Hùng Vương, đây là mảnh đất trù
phú cây cỏ tốt tươi, phong tục thuần hậu. Một vị tướng Tản Viên Sơn Thánh
là Phan Tây Nhạc đã chọn nơi đây là nơi xây dựng Tây hành cung để sống
cùng ba bà vợ của mình. Sau này ngài và ba bà vợ đã trở thành Thành Hoàng
của hai làng Hoè Thị và Thị Cấm. Sau này, đến đời Lý Nam Đế vùng đất này
lại gắn với những truyền thuyết liên quan đến các vị tướng của nhà nước Vạn
Xuân như việc tướng Lý Phục Man đánh giặc đi qua làng.
10



Xuân Phương từ xưa đến nay luôn gắn liền với lịch sử mảnh đất và con
người của huyện Từ Liêm. Từ Liêm là một vùng đất cổ, nằm ngay sát với
kinh thành Thăng Long, với một hệ thống giao thông thuỷ bộ thuận tiện. Sách
“Kiến văn tiểu lục” của Lê Quý Đôn cho biết tên “Từ Liêm” được đặt từ năm
Vũ Đức thứ tư (621), tính ra đến nay đã được gần một ngàn năm trăm năm.
Còn theo cuốn “Nguyên hồ quận huyện chí” thì cái tên Từ Liêm được đặt
cho mảnh đất này là do có con sơng Từ Liêm (chính là sơng Nhuệ) chảy qua.
Từ khi Thăng Long trở thành kinh đô của nước Đại Việt (năm1010), mọi biến
cố chính trị- văn hố đều có tác động ngay đến Từ Liêm. Những khi Thăng
Long bị ngoại xâm thì Từ Liêm là nơi tập trung quân để giải phóng thủ đơ.
Quang Trung đã bí mật đưa qn ra tập trung ở Mễ Trì, Nhân Mục và Phùng
Khoang để đánh vào quân Thanh ở Đống Đa năm 1789. Hoàng Kế Viêm đã
tụ quân ở đây rồi đánh hai trận Cầu Giấy nổi tiếng năm 1873 và 1883. Nói về
thế hiểm của huyện Từ Liêm trong bản tấu gửi Vua Minh Mệnh năm 1832,
Nguyễn Văn Hiếu tổng đốc Hà Nội đã viết: “Từ Liêm là một huyện lớn đất
rộng dân nhiều, tiếp giáp địa đầu 2 xứ Tây Bắc thực là sung yếu…, cơng việc
tuần phịng phải rất được coi trọng…”.
Sang thế kỉ XX, nhân dân Xuân Phương- Hoè Thị lại tiếp nối truyền
thống yêu nước của cha ông, viết tiếp lên truyền thống lịch sử. Năm 1930
đồng chí Lều Thọ Nam- Thành uỷ viên Thành uỷ Hà Nội đã về đây tuyên
truyền và xây dựng các tổ chức cánh mạng. Ngày 01-05-1930 các hội viên
Nông Hội Đỏ của làng Hoè Thị đã treo cờ búa liềm ngay tại cây đa đình làng
và ở ngã tư Canh.
Tại chợ Canh cũng có một cây đề nơi trong kháng chiến chống Pháp đã
diễn ra một sự kiện lịch sử quan trọng của địa phương. Tại đây thực dân Pháp
đã bắt, tra tấn và sử tử đồng chí Nguyễn Thị Hồi- ngun Bí Thư phụ nữ cứu
quốc xã kiêm chính trị viên xã đội.


11


1.1.4 Một vài đặc điểm về kinh tế, văn hoá, xã hội của làng Hoè Thị.
1.1.4.1 Đời sống kinh tế
Là một vùng đất gắn liền với bao huyền thoại, sự tích về các vị thần
xung quanh khu vực hồ Tây, sơng Tơ Lịch. Khơng những thế Từ Liêm cịn là
một vùng đất có nhiều làng nghề nổi tiếng. Mà chắc rằng khi nói đến một
trong những sản vật ấy người ta sẽ nhắc ngay đến Thăng Long- Hà Nội như:
Cốm làng Vòng, cam Canh, bưởi Diễn, hồng Xuân Đỉnh, nghề rèn ở Hoè
Thị…Nhân dân Xuân Phương- Hoè Thị có truyền thống lao động cần cù.
Nhiều sản vật địa phương đã trở nên nổi tiếng và được ca ngợi khắp nơi trong
cả nước. Cam Canh là một sản phẩm nông nghiệp của địa phương. Quả cam
Canh nổi tiếng vì quả nhỏ, vỏ mỏng chín ngọt và thơm:
“Ngọt thay cái quả cam tròn
Vừa thơm vừa mát hãy còn trong Canh”
Từ lâu đời, nhân dân xã Xuân Phương vẫn lấy sản xuất nông nghiệp làm
nguồn sống chính, chủ yếu cấy lúa, trồng thêm ngơ, khoai và chăn ni trong
gia đình Cũng như bao làng quê khác, Hoè Thị là một trong những làng sinh
sống băng nhiều nghề. Ruộng đất nơi đây là loại đất thó trắng nên có thể dùng
làm gạch ngói rất tốt, nên nghề làm gạch ngày trước rất phát đạt .H Thị cịn
là một làng q có nhiều nghề thủ công cổ truyền, tên xưa là Hương Canh
(làng Canh) bởi vùng này có nghề dệt vải, dệt lụa- nghề canh cửi. Theo truyền
thuyết, Hoa Dung công chúa, vợ ba của Phan Tây Nhạc đại vương là người có
cơng dạy dân làng cách làm ruộng và dệt vải. Dân làng đã học theo và bảo tồn
nghề này qua năm tháng. Nghề dệt còn phát triển đến tận những năm 19301940. Nơi người làng mua sợi là Hà Đông rồi đem về làng dệt. Vải của làng
Canh đã trở nên nổi tiếng mà người đời đã truyền tụng câu nói: “The La, lụa
Vạn, vải Canh”. Sản phẩm được đem bán khắp nơi trong vùng. Trong lễ hội
đình làng Hoè Thị ngày trước vẫn còn tổ chức thi dệt vải giữa các giáp trong
làng với nhau để tưởng nhớ công ơn vợ chồng Phan Tây Nhạc đại vương và

mong muốn cho các nghề vẫn mãi phát đạt.
12


Khơng chỉ có thế, nghề làm thiếc, lị rèn, vàng bạc, nghề thêu cũng rất
phát triển. Người dân Hoè Thị và những làng xung quanh như Thị Cấm còn
vào trong kinh kỳ hoa lệ, góp phần lập nên những phố buôn nổi tiếng như
phố hàng Bạc ( chuyên chế tác bạc), phố Lò Rèn, phố Sinh Từ (chuyên bán
dao kéo), phố Hàng Thiếc (chuyên bán đồ gia dụng bằng thiếc). Người vùng
Canh cịn lập hẳn một ngơi đình tại số 1 phố Lò Rèn để người dân ra Hà Nội
làm thợ tiện đường đến tế lễ. Đặc biệt nghề rèn là nghề phát triển hơn cả. Ca
dao xưa có câu:
“Chợ Canh lắm bạc nhiều tiền
Trai giỏi nghề rèn, gái lại đảm đang”
Câu ca dao như kể về người trai đất Hoè Thị ở xóm nào cũng biết
rèn và đều giỏi giang không kém nơi nào. Câu ca cũng kể về các cô gái đảm
đang, từ thủa xưa đã thi tài nấu cơm để được tòng quan giết giặc. Đến khi
thái bình các cơ được Hoa Dung cơng chúa –vợ của tướng Phan Tây Nhạc
thời Hùng Vương dạy nghề dệt vải.
Nghề rèn được hình thành đầu tiên ở Hoè Thị, sau này thì lan sang Thị
Cấm bởi hai làng sát cạnh nhau, nhân dân hai làng coi nhau như anh em.
Nghề rèn ở Hoè Thị có nhiều truyền thuyết kể về nguồn gốc:
-Tương truyền khi tướng quân Phan Tây Nhạc đóng quân tại làng, ngài
ra lệnh cho binh lính phải rèn vũ khí, người H Thị có người đã học được
nghề truyền lại cho con cháu.
- Cũng có truyền thuyết kể rằng họ Nguyễn Đắc là một chi từ Nông Cống
mang nghề ra Thăng Long và lập thành làng nghề. Hiện nay ở các xóm tại
Hoè Thị và trên phố Nguyễn Khuyến (Sinh Từ cũ) vẫn cịn hậu duệ.
- Cũng có truyền thuyết kể rằng từ thời Hùng Vương thứ 6 dân nước Văn
Lang đã biết rèn, vua Hùng đã trưng tập các thợ giỏi về Phù Đổng để rèn áo

giáp, ngựa sắt, gậy sắt cho Phù Đổng Thiên Vương đánh giặc Ân. Lịch sử
nước Việt cũng cho biết vào thời Hồ Quý Ly, dân ta rèn được cả súng thần cơ
13


theo thiết kế của Hồ Nguyên Trừng. Khi nhà Minh xâm chiếm Đại Việt đã bắt
hết thợ giỏi và cấm dân dùng sắt, nhưng khi Bình Định Vương khởi nghĩa,
vẫn có thợ rèn Vân Chàng tham gia nghĩa quân tiến về giải phóng Kinh Đơ.
Sơ qua về nghề rèn như vậy để thấy dù ở đâu, ở thời đại nào, người Việt tài
hoa vẫn làm chủ được nghề và phục vụ thị trường.
Làng H Thị với 8 xóm thì trong 8 xóm đều có người làm nghề rèn, tuy
nhiên mỗi chi họ, mỗi xóm lại có hàng nghề riêng biệt.
Khi xưa, đường 32 chưa làm, đường thiên lý đi qua vùng Canh, nên thợ
rèn làng Canh nhanh chóng hội nhập Thăng Long, làm các hàng đồ sắt phục
vụ sinh hoạt phố phường và cung đình. Các sản phẩm sinh hoạt, nông cụ như
cuốc, mai, liềm, hái, răng bừa, dao, kéo…được trao đổi buôn bán tới nhiều
vùng trong cả nước, phục vụ đời sống nhân đân. Cuối thế kỉ thứ 19, các sản
phẩm rèn của làng đã được trưng bày ở hội đấu xảo bên nước Pháp. Đã có câu
thơ trong vùng nói về tài năng của người thợ rèn nơi đây:
“ Lưỡi dao sáng lống lịng gang thép
Mũi kéo tung hồnh hội Á-Âu”
Kể ra đâu hết những bí quyết chun mơn của nghề rèn truyền thống,
trình độ kĩ thuật đạt tới mức tinh xảo, họ làm chủ được nguyên liệu, nhiệt độ
nung, cách uốn, vuốt, pha sắt thép, đột lập khoan cắt trong lúc đang rèn đỏ.
Tiếng búa của người thợ cả lúc nhặt lúc khoan, lúc đập chắc chắn từng nhát
mạnh vào vật rèn đã như bí quyết bắt thép phải vào khuân vào phép. Nghề rèn
được phân đơn vị theo lị. Mỗi lị có bốn người: Người bễ- người cặp và hai
người quai búa. Người cặp có kĩ thuật cao hơn cả họ nhìn mắt biết được lửa
non hay già và thường là chủ lò. Người thổi bễ cũng không đơn giản, bàn tay
ù thổi như cái van hơi, khi nào dồn lửa, khi nào dừng họ đều biết cả. Người

học việc thường là quai búa. Búa có nhiều loại: Đánh nẻ, đánh quai, đánh tay.
Cầm búa thì dễ nhưng quai búa thì lại khó.
Nghề gị hàn thiếc, tráng gương , cắt kính địi hỏi người thợ phải khoẻ
mạnh, khéo tay làm từ những chiếc đèn sắt nhỏ đến những chiếc thùng tưới
14


rau, thùng gánh nước, chậu xơ tơn, khung kính gương tủ…Ở phố Lò Rèn và
phố Hàng Thiếc đa phần là người dân H Thị ra bn bán góp phần tạo dựng
và tô đẹp thêm cho đời sống kinh tế, văn hóa của Thăng Long- Hà Nội xưa.
Các hiệu Sinh Tài, Sinh Lợi nổi tiếng ở đất Hà Nội đều là dân Hoè Thị. Điều
này chứng tỏ rằng: Nghề thủ công ở đây phải đạt đến trình độ tinh xảo mới có
thể đứng vững được ở Hà Nội, như tạo ra những thương hiệu thân quen mang
tên những con phố.Hoè Thị nói riêng và Xuân Phương nói chung xưa kia đã
trở thành nơi cung cấp thợ giỏi cho cả đất Kinh Kỳ ngàn năm văn hiến.
1.1.4.2 Truyền thống văn hoá giáo dục.
Tên cũ của Xuân Phương là Hương Canh. Đây là một trong bốn vùng
danh tiếng của huyện Từ Liêm xưa: “ Mỗ,La,Canh,Cót tứ danh hương”. Đây
là bốn vùng nổi tiếng về học hành, đỗ đạt cũng là nơi có nghề truyền thống
nổi tiêng. Nền văn hoá đặc sắc của vùng được bảo tồn trong những lễ hội làng
và những phong tục tập quán của nhân dân địa phương. Từ xưa, dân làng đã
có tục tách ruộng cơng gọi là “ học điền” để cấp cho những ai đỗ kì thi hương,
mỗi người năm sào để thêm lương thực tiếp tục học hành thành tài. Sự học đã
và luôn được coi trọng, là công việc của mỗi cá nhân và của làng xã , làm cho
vùng đất này thêm giàu có về bản sắc riêng của mình. Truyền thống hiếu học
ở địa phương thể hiện qua nhiều tấm gương học giỏi và đỗ đạt cao. Dưới thời
phong kiến tồn xã có bốn hai người đỗ từ Thám Hoa đến Tú Tài. Làng Thị
Cấm có các họ Bùi, họ Mai nổi tiếng nhiều về đỗ đạt. Làng Hoè Thị có họ
Nguyễn như: Nguyễn Bỉnh Đức đỗ đầu khoa thi hội tiến sĩ năm Giáp Tuất
(1524) thời Lê Cung Hoàng làm tới chức Thiếu phó Liêm quận cơng và

Nguyễn Phi Thứ đỗ tiến sĩ khoa Hồnh Từ. Họ Khúc có Khúc Thành đỗ cử
nhân, các con ơng là Khúc Kiếm, Khúc Bình đều đỗ tú tài. Rất nhiều người
làm chức huấn đạo, đốc học, đặc biệt trong lĩnh vực ngoại giao có các nhà
ngoại giao tài ba là Nguyễn Nhân Uyên, đỗ tiến sĩ khoa thi năm 1565, làm
chánh sứ nhiều lần đi giao thiệp với nhà Minh. Nhiều người đỗ đạt nhưng
không là làm quan mà ở nhà dậy học như nhà giáo Vũ Trác hồi bé rất thông
minh hiếu học nhưng nhà nghèo dù khó khăn đến mấy cũng tìm cách để học,
15


dù có đi xa đến hàng vạn dặm cũng khơng nản. Song vì có lịng u nước
trọng nghĩa khinh tài nên chỉ đỗ tú tài vào làm ở Viện Hàn Lâm. Nhiều lần
tổng đốc Hà Nội Nguyễn Hữu Độ ép ra làm quan nhưng ông từ chối mà ở nhà
mở lớp dậy học. Nguyễn Phan Châu làm huấn đạo huyện Bình Lục, dạy nhiều
học trị thành đạt, có người nổi tiếng như Tam Ngun n Đổ Nguyễn
Khuyến. Ơng cịn là người đứng ra xây dựng văn chỉ, sửa chữa đình chùa ở
Xn Phương, nay ơng cịn để lại bút tích trên bức hồnh phi “hộ quốc an
dân” ở đình Thị Cấm. Truyền thống hiếu học được các tầng lớp thế hệ ở địa
phương nối tiếp nhau chăm lo khuyến khích. Ở Hoè Thị, nơi mảnh đất cổ xưa
ấy đã có bao con người làm rạng rỡ cho lịch sử quê hương, lịch sử daan tộc.
Vào cuối thế kỉ XVIII, người trong làng Hoè Thị là Vũ Thưởng lập chiến
công lớn trong chiến dịch đại phá quân Thanh xâm lược giải phóng Thăng
Long, nên được phong tước Võ Bá. Trong sắc phong năm Quang Trung thứ
hai (1789) nhà vua đã khen thưởng Vũ Thưởng “tráng sĩ dũng mãnh” (dũng
cảm như hùm gấu) “ trăm trận đánh đâu được đấy, Thưởng là Võ Bá” (theo
Vũ gia thế phả 1835). Rồi đến phong trào Đông Kinh nghĩa thục, người Hoè
Thị cũng là hạt nhân cuả phong trào. Ơng Vũ Hán (cịn gọi là kép Hán), người
hai lần đỗ tú tài, là thầy dạy của trường Đơng Kinh nghĩa thục tại đình H
Thị năm 1905-1908. Ông cũng từng mời cụ Phan Chu Chinh về Hoè Thị diễn
thuyết và cổ vũ tinh thần yêu nước, canh tân đất nước.

Sang thế kỉ XX Hoè Thị là quê hương của nhiều nhà cách mạng, danh
nhân của đất nước như: Đồng chí Xuân Thuỷ và đồng chí Trần Duy Hưng.
Những đóng góp của các ơng được nhân dân, nhà nước ghi nhận, tên tuổi của
các ông được Thành phố Hà Nội chọn đặt cho hai con đường lớn thuộc quận
Cầu Giấy (vốn xưa kia cũng là đất Từ Liêm).
Đồng chí Xuân Thuỷ (1912-1985) tên thật là Nguyễn Trọng Nhàm sinh
tại xóm Đới- thơn H Thị. Ơng từng là uỷ viên BCHTW Đảng cộng sản Việt
Nam các khoá 2,3,4. Từng đảm đương các chức vụ: Bộ trưởng bộ ngoại giaophó chủ tịch kiêm Tổng bí thư hội đồng nhà nước. Ơng là người có cơng rất
lớn trong việc đàm phám và kí kết hiệp định Pari (Từ năm 1968 đến 1973).
16


Đồng chí Trần Duy Hưng (1912-1988) tên thật là Phạm Thư, sinh ở xóm
Chùa- thơn H Thị từng dự hội y khoa và đỗ bằng bác sĩ tại Pháp. Trong
kháng chiến chống Pháp ông là thứ trưởng Bộ nội vụ rồi Bộ y tế. Sau năm
1964 ông là chủ tịch Uỷ ban nhân dân thành phố Hà Nội liên tục cho đến năm
1977.
Truyền thống văn hóa của làng Hoè Thị được các thế hệ người trong các
dòng họ thay nhau vun đắp. Làng Hoè Thị có rất nhiều họ lớn như Nguyễn,
Bùi, Mai, Vũ, Trần, Ngơ…và có nhiều chi khác nhau và có một số nhà thờ họ
lớn như nhà thờ họ Nguyễn Phan, nhà thờ họ Nguyễn Vinh, các nhà thờ họ
trong làng có quy mơ lớn, thể hiện một tâm thức của người dân làng Hoè Thị
luôn hướng về tổ tiên, ln có ý thức bảo lưu các giá trị truyền thống mà cha
ông ta đã tạo nên và không ngừng bồi đắp thêm cho các thế hệ sau này. Đồng
thời các dòng họ trong làng Hoè Thị vẫn ln đồn kết, gắn bó, giúp đỡ nhau
cùng xây dựng làng phát triển về mọi mặt và sản sinh ra những giá trị văn hóa
vật chất cũng như tinh thần. Sự xuất hiện của nhiều nhà thờ họ ở đây cũng thể
hiện đây là vùng đất có phong tục thuần hậu, đời sống con người nề nếp, gia
phong, thể hiên một truyền thống hiếu học lấy việc học làm cách mở mang
với đời. Điều này không phải làng quê nào cũng có được.

Xuân Phương là một vùng đất trù phú, mang đậm dấu bản sắc văn hoá và
được bao bọc trong một khơng gian nhiều huyền tích đã tạo cho nơi đây một
sức cuốn hút mạnh mẽ. Tất cả được dồn nén và được thể hiện trong những
ngơi đình trăm tuổi, khang trang lộng lẫy, mang trong mình những giá trị văn
hố bất diệt.
Ta có thể thấy đình H Thị tồn tại trong một khơng gian văn hố linh
thiêng của một vùng đất cổ, khơng những vậy cịn có sự trù phú của mùa
màng, gắn bó mật thiết vời một cộng đồng dân cư làng xã truyền thống. Tất
cả đã làm tơn thêm vẻ uy nghi cổ kính cho ngơi đình này.

17


1.2 Đình làng Hoè Thị trong tiến trình lịch sử.
1.2.1 Vài nét về đình làng Việt Nam.
Di tích tồn tại và phát triển dựa trên đơi bàn tay và trí óc của người dân
lao động. Đặc biệt với các di tích tơn giáo tín ngưỡng, thì sự chăm chút trong
xây dựng của nhân dân là điều dễ nhận thấy trước tiên. Thờ Thành Hồng
trong xã hội phong kiến là cơng việc hết sức quan trọng nhất là của làng xã,
chính vì vậy mà từ những ngơi đình nhỏ, sơ sài đồ tế tự trải qua hàng trăm
năm, nhân dân đã tạo ra một hệ thống kiến trúc, nội thất đặc trưng của hoạt
động tín ngưỡng này.
Ban đầu, “đình” theo nghĩa chữ Hán cổ là loại hình kiến trúc cơng cộng
để trú quân, nghỉ tạm. Lịch sử phát triển của ngôi đình làng gắn với những
thời kì phong kiến độc lập tự chủ từ hưng thịnh đến suy tàn. Vào thời Trần,
theo chiếu chỉ của vua thì nhiều địa phương đã xây dựng kiến trúc “đình
trạm” tương đối rộng khắp làm nơi nghỉ cho những người đi đường dừng
chân. Cũng có ý kiến cho rằng: Thời kì thái bình thịnh trị này, các Thái
Thượng Hồng và vua Trần có quan hệ khá mật thiết với đời sống nhân dân,
hay đi tuần du, vi hành về các địa phương, do đó đình trạm là nơi nhân dân và

các quan chức sở tại đón tiếp nhà vua, sau dần trở nên thành đình làng với
chức năng giải quyết công vụ. Những chữ “ thánh thọ vơ cương”, “hồng đế
vạn tuế”, “ Thánh cung vạn tuế” trên các hồnh phi ở trên đình có thể thể
hiện nội dung nói trên, song cũng có thể biểu hiện chế độ quân chủ tập quyền
qua kiến trúc đình làng. Vào các triều đại sau này, khi nho học phát triển, từ
chức năng ngôi nhà công cộng, kiến trúc đình làng dần biến đổi thành ngơi
nhà đa năng, nó được thờ Thành hồng làng. Chúng xuất hiện với tư cách là
cơng trình kiến trúc tơn giáo tín ngưỡng kết hợp với điêu khắc khá hoàn chỉnh
của làng xã. Do vậy mà kiến trúc đình làng rầm rộ phát triển khắp các làng xã
thôn quê Việt Nam với sự đóng góp của quần chúng nhân dân và thực sự trở
thành cơng trình đầu tư và sáng tạo tập thể. Do khơng bị quyền lực gị bó,
cơng thức như chế độ trưng tập xây dựng kiến trúc cung đình dinh thự cho các
18


vua quan nên kiến trúc đình làng mang đậm tính dân gian, độc đáo hơn tất cả
các loại hình kiến trúc cổ khác, đồng thời nghệ thuật chạm khắc và những
hoạt động vui chơi, giải trí mang đậm tính văn hố dân gian khác cũng qua
hội hè đình đám mà phát triển. Và quan trọng nhất, trong tâm trí người xưa
nơi đây thờ vị thần bảo trợ cho tất cả người dân trong một làng. Con người
lúc này nhìn ngơi đình với một cái nhìn tơn thờ, thành kính.
1.2.2 Lịch sử hình thành và quá trình tồn tại của đình Hoè Thị.
Lịch sử hình và phát triển của đình làng H Thị cũng khơng nằm ngồi
lịch sử phát triển chung của đình Việt Nam. Đình Hoè Thị tương truyền được
xây dựng vào thế kỉ XV (1470). Qua tư liệu điều tra điền dã mà tơi biết được
thì vị trí đầu tiên của đình là ở xóm Gáo và đình lúc đó có tên là đình Đụn.
Đình Đụn được xây dựng vào đời Lê, lúc đó ngơi đình chỉ có ba gian thờ, kết
cấu hình chữ nhất, đình được xây dựng theo tập tục của làng xã Việt Nam để
thờ Thành hồng làng. Người được tơn làm Thành Hồng làng lúc đó là Phan
Tây Nhạc đại vương và ba bà vợ của ơng. Các vị Thành hồng đã có cơng

giúp nước đánh giặc, dạy dân làng cày cấy, dệt vải. Đến thế kỉ XVIII vào đời
Minh Mệnh thứ 12(1831) ngơi đình lại được trùng tu và di chuyển ra địa điểm
mới này. Vào thời gian này kiến trúc ngơi đình H Thị có kết cấu hình chữ
nhất với một tồ đại đình, Vào cuối thế kỉ XIX, do cuộc sống của dân làng
ngày càng khấm khá hơn, người ta đã quyên góp tiền của để xây dựng thêm
một tồ hậu cung ở phía sau. Lúc này đình có kết cấu hình chữ “đinh”.
Những dòng chữ Hán đề trên thượng lương chỉ cho thấy những niên đại
trùng tu đình về sau này. Hậu cung đình trùng tu năm Canh Tuất (1910) nhà
tiền tế có niên đại trùng tu năm 2004.
Đến năm 1936, làng lại tổ chức bán bốn chức quan để lấy tiền xây dựng
phương đình. Năm 1947,làng lại tiếp tục tu bổ, xây dựng đình.
Trong suốt quá trình tồn tại, đình H Thị là một trung tâm văn hố,
hành chính, tín ngưỡng của dân làng, là nơi hội đồng kỳ mục họp bàn việc
19


làng, nơi dân làng tiến hành các hoạt động văn hoá, văn nghệ của làng như hát
chèo, hát quan họ, hát văn…Đình H Thị là nơi có nhiều đóng góp đối với
đời sống văn hoá, tinh thần của người dân địa phương. Truyền thống yêu
nước đánh giặc ngoại xâm được khởi nguồn từ Phan Tây Nhạc đại vương đã
luôn được dân làng phát huy trong việc tích cực tham gia các cuộc kháng
chiến chống xâm lược của dân tộc. Bên cạnh đó làng cịn xây dựng truyền
thống hiếu học bằng cách biểu dương các bậc khoa bảng trên bia tiên hiền.
Tới ngày tồn quốc kháng chiến, di tích mang thêm một nội dung lịch sử mới
bởi sự gắn bó với các chiến sĩ anh hùng của trung đồn thủ đơ. Sau khi hoàn
thành cuộc chiến đấu cầm chân địch ở Hà Nội, bộ đội thủ đơ đã sử dụng đình
làm nơi đóng qn, trạm cứu thương và xây dựng phịng tuyến chống giặc.
Các thanh niên ưu tú của làng đã tích cực tham gia đong góp vào cuộc kháng
chiến thần thánh của dân tộc.
Hàng năm, làng luôn mở hội tại đình nhằm tưởng nhớ đức Thành Hồng,

thu hút đơng đảo nhân dân trong vùng đến tham dự. Trong những năm kháng
chiến chống Mỹ ác liệt, do điều kiện không cho phép nên lễ hội đình làng
khơng thể tổ chức được. Hàng năm chỉ có các vị bơ lão trong làng địa diện
mang lễ vật từ đình Hoè Thị sang đình Thị Cấm để phúng lễ giao hiếu. Đến
năm 1990, khi đất nước đã thực sự đi vào đổi mới, đời sống nhân dân khấm
khá hơn trước, lễ hội đình Hoè Thị mới được khôi phục lại nhằm đáp ứng nhu
cầu tâm linh của dân làng.
1.2.3 Lịch sử nhân vật được thờ trong đình Hoè Thị.
Hoè Thị là vùng đất thuộc địa bàn sinh tụ chính của cư dân Việt cổ thời
Hùng Vương. Quanh khu vực này, khảo cổ học đã phát hiện và khai quật một
hệ thống di tích văn hố quan trọng của thời đại kim khí cách ngày nay từ hai
đến bốn nghìn năm. Trong mơi trường văn hố tự nhiên và văn hố cổ xưa đó,
làng H Thị cũng sớm ra đời và cuộc sống văn hoá tinh thần của dân làng
gắn bó chặt chẽ với thời kì dựng nước và giữ nước đầu tiên trong lịch sử dân
tộc. Các nguồn tư liệu thành văn như thần phả, sắc phong và truyền thuyết
20


dân gian ở địa phương đều ghi nhận sự có mặt của những nhân vật quan trọng
thời Hùng Vương là Cổ Mục Phán Quan Phan Tây Nhạc đại vương cùng ba
bà vợ là Tả Phi Nhân cơng chúa, Hữu Hồng Hậu công chúa, và Hoa Dung
công chúa là những Thành hồng làng trong ngơi đình H Thị.
Theo cuốn Ngọc phả hiện cịn do quan hàn lâm đơng các đại học sĩ
Nguyễn Bính soạn vào đầu năm Hồng Đức (1470) và quan Quản Giám Bách
thần Tri Sùng thiếu Khanh Hùng Lĩnh Bá Nguyễn Hiển soạn vào năm Cảnh
Hưng thứ ba (1742) thì: Tổ tiên Phan Tây Nhạc vốn là người Hà Trung, Châu
Ái (nay là Thanh Hố). Ở đó có gia đình ơng bà họ Phan tuổi ngồi 40 giàu
có, thế lực mạnh mẽ nhưng chậm có con. Trong lịng thấy buồn bã không vui.
Một hôm nhân ngày giỗ tổ ông bà Nhạc nhìn nhau than thở: “Khơng có con
nối nghiệp là tội lớn, vậy khư khư giữ tiền của để làm gì?”. Thế là ơng bà

chăm lo làm điều nhân nghĩa, chia thóc gạo tiền, cứu giúp người nghèo và cầu
tự nơi đình , chùa, đền, miếu. Một hơm đi lễ chùa về bà nằm mộng thấy một
cụ già râu tóc bạc phơ, tướng mạo uy nghi ngồi trên bàn thờ và mấy chục
người mang gươm vác kích, nghiêm chỉnh đứng đầu hai bên tả hữu. Cụ già
truyền hiệu và bảo rằng bà sẽ sinh hạ một cậu bé xinh xắn làm rạng rỡ tổ tông,
phát huy danh tiếng trong thiên hạ. Cịn việc sớm hay muộn thì đã định,
khơng nên lo ngại gì. Bà tỉnh giấc mộng thì có thai. Đầy tháng sinh hạ được
một cậu con trai mập mạp, tuấn tú, quả đúng như lời thần báo mộng ông bà
mừng lắm bèn lập đàn chay giới, tế cáo trời đất quỷ thần. Khi lớn lên cậu bé
có tài năng xuất chúng, sức khoẻ hơn người lại tinh thông các phép lục pháp,
thần phu khơng ai sánh nổi. Ơng bà liền đặt tên là Nhạc. Phan Nhạc nghe nói
trên núi Tản Viên là nơi trời đất sắp đặt, cảnh vật huyền diệu thiêng liêng, lại
có thần thánh uy phong lẫy lừng bèn tìm đến xin gặp. Sau khi gặp gỡ, ơng
được thần Tản Viên giao cho giữ gìn mục lục của các vị thần, chức vị gọi là
Cổ Mục Phán quan.
Khi ấy đất nước thái bình, vua Hùng Duệ Vương có hai người con gái
đẹp là Tiên Dung cơng chúa đã gả cho Chử Đồng Tử và công chúa Ngọc Hoa
đương độ tuổi cập kê. Nghe tin vua Hùng tổ chức thi tài kén rể, Tản Viên sơn
21


thần và Phán quan cùng đi tới dự hội. Với tài năng và đức độ hơn người của
mình, Tản Viên sơn thần đã chiến thắng và trở thành phò mã. Nhà vua thấy
Phán quan là người anh tài đặc biệt, phong độ hiên ngang nên vua yêu quý và
gả cho ba người cháu gái của Hồng Hậu là Tả cơng chúa, Hữu công chúa và
Hoa Dung công chúa.
Sau khi chiến thắng Thuỷ Tinh trong cuộc chiến ác liệt dưới chân núi
Tản, Sơn Thánh và Phán Quan đi thăm thú đất nước. Trên đường qua vùng
đất mà ngày nay là Xuân Phương, Sơn Thánh thấy nhân dân vùng này cần cù,
phong tục thuần hậu, cảnh quan tươi sáng bèn quyết định xây Tây hành cung

để Phán Quan đón ba bà vợ đến ở. Khi ở Hoè Thị, vợ chồng Phán Quan đã
dạy dân lễ nghi, sửa sang phong tục và canh tác làm ăn nên được mọi người
yêu mến tôn làm Phan Ông Tây Nhạc.
Bấy giờ lợi dụng lúc nhà Hùng suy yếu, làn sóng bành trướng về phía
Nam diễn ra mạnh mẽ, thủ lĩnh của tộc Âu đem quân xâm lược nước ta.
Trước nạn ngoại tộc xâm lăng, vua Hùng Vương giao cho thần Tản Viên cầm
quân đánh giặc và phong cho Phan Nhạc làm tướng tiên phong. Cùng ra trận
với Phán Quan cịn có hai bà vợ của ngài là Tả công chúa và Hữu công chúa.
Việc bảo vệ doanh trại và Tây hành cung do công chúa Hoa Dung đảm nhận.
Sau khi đánh tan quân giặc, triều đình tiến hành bình cơng khen thưởng cho
ba qn tướng sĩ. Do chiến đấu dũng cảm và lập nhiều chiến công nên Phán
Quan được vua phong cho làm Tây Nhạc đại vương. Tả công chúa làm Tả Phi
Nhân và Hữu công chúa làm Hữu Hoàng Hậu.
Sau khi mất, Tả Mục Phán Quan và ba bà vợ được làm phúc thần, các
triều vua tiếp theo đều phong sắc ban tặng “Hộ quốc tí dân”, “mn đời
huyết thực”, “ hương hoả bất tuyệt”. Để tưởng nhớ những người có cơng với
nước, bảo vệ và dạy dỗ dân làng, nhân dân địa phương đã tôn thờ Phán quan
cùng ba bà vợ của ông làm Thành hoàng làng. Những nghi thức thờ cúng,
hành lễ được cả làng duy trì và được cả làng thực hiện rất thành kính, trang
nghiêm.
22


Có thể nhận thấy rằng hệ thống thần được thờ trong di tích liên quan đến
thời kì dựng nước và giữ nước đầu tiên của dân tộc. Đồng thời bằng những
suy luận có căn cứ, tơi tạm cho rằng, ban đầu Phan Tây Nhạc đại vương có
nguồn gốc là một vị nhiên thần. Thứ nhất, Phan Tây Nhạc đại vương là một vị
tướng của Tản Viên Sơn Thánh, mà điều này ai cũng biết Tản Viên là một vị
thần núi. Do vậy, nguồn gốc của Phan Tây Nhạc đại vương ắt hẳn liên quan
đến núi, đá. Thứ hai, từ chính tên của Phan Tây Nhạc đại vương đã nói lên

điều này. “Nhạc” trong tiếng Hán có hai từ với hai nghĩa khác nhau, trong đó
chúng ta lưu ý đến từ “nhạc” [
“tây” [

] có bộ “sơn” là chỉ “ngọn núi cao” .Cịn

] có nghĩa là “phía tây”. Chính vì vậy mà “tây nhạc” là chỉ

“ngọn núi cao ở phía tây” khơng gì khác chính là núi Ba Vì. Từ hai lý do trên
mà tơi có thể khẳng định nguồn gốc Thành hoàng làng Hoè Thị là một vị
nhiên thần. Điều này thực ra cũng là dễ hiểu bởi vì gắn với tín ngưỡng thờ
thần tự nhiên vào buổi sơ khai của lịch sử loài người. Con người thời xa xưa
sống phụ thuộc vào tự nhiên, họ tôn sùng và thờ cúng thiên nhiên hùng vĩ với
nhiều bí ẩn mà con người lúc nó khơng thể giải thích được. Ta có thể kể ra
một số kiểu thần tự nhiên như: thần đá (thạch trụ đại vương), thần cây (Cây
bao đại vương)…Bước vào xã hội phong kiến, để thắt chặt sợi dây cai trị từ
triều đình đến các làng xã, nhà vua đã phong tước cho vị thần ở trong đình
của mỗi làng quê. Tước hiệu càng cao thì làng càng vinh dự. Nhưng không vị
vua nào phong tước cho những vị thần khơng có tên tuổi xác thực và khơng
đóng góp cho đất nước như các vị thần tự nhiên.Chính vì vậy mà dân làng đã
thay đổi tên gọi tạo nguồn gốc khác cho vị thần làng mình trên cơ sở những
đặc trưng vốn có của thần. Thành hồng làng H Thị cũng là một vị thành
hoàng làng như vậy, đồng nghĩa với việc này cho thấy đây là một vùng đất cổ
của Hà Nội, còn bảo lưu được những giá trị văn hoá đặc sắc của dân tộc. Do
tồn tại trong buổi bình minh của lịch sử dân tộc, nên sự tích các vị thần được
thờ trong đình đượm màu huyền thoại. Sự thật lịch sử trong thần tích được
gạn lọc và những giá trị đi liền với di tích sẽ là những đóng góp đáng kể trong
việc đi tìm về ngọn nguồn của đời sống văn hoá dân tộc.

23



1.3 Đánh giá
Những dòng giới thiệu trên đây cũng là bước đầu cho tơi được tìm hiểu
về đình H Thị và vùng đất nơi di tích tồn tại, và cũng để có thể tìm hiểu sâu
hơn về những giá trị văn hố mà ngơi đình H Thị mang lại.
Đình H Thị được tồn tại trong một khơng gian văn hóa cổ truyền, nơi
mà tên đất, tên người đã trở nên thân thuộc với tất cả mọi người. Và là một
trong những địa danh (làng Hương Canh) góp phần làm nên tên tuổi của Hà
Nội ngàn năm văn hiến. Chính truyền thống ấy là kết quả vun đắp của bao thế
hệ con người nơi đây. Truyền thống ấy được bảo lưu từ đời này qua đời khác
trong những gia đình, dịng họ và tất cả những cơng trình kiến trúc cơng cộng
của làng xã mình. Do vậy mà ngơi đình làng là nơi có thể thấy rõ nhất đời
sống văn hố vật chất và tinh thần của người dân Hoè Thị.

24


Chương 2
GIÁ TRỊ KIẾN TRÚC-NGHỆ THUẬT VÀ LỄ HỘI
ĐÌNH HOÈ THỊ

2.1 Giá trị kiến trúc-nghệ thuật
2.1.1 Không gian cảnh quan.
Ngay từ thời xa xưa, việc chọn hướng để xây dựng nhà cửa đã được cha
ông ta hết sức coi trọng. Đối với việc xây dựng những cơng trình mang chức
năng tơn giáo như đình, chùa, đền, miếu… thì cơng việc này địi hỏi phải có
tính cẩn thận và chính xác cao hơn nữa. Ca dao xưa có câu: “ toét mắt là tại
hướng đình…” đã cho ta thấy tầm quan trọng của công việc chọn hướng khi
xây dựng các công trình kiến trúc tơn giáo trong làng xã. Khi xây dựng những

cơng trình này, người dân phải chọn một vị trí đẹp trong làng về mặt phong
thuỷ, phù hợp với chức năng sử dụng và đảm bảo tính thẩm mỹ của cơng
trình. Thơng thường ngơi đình được chọn dựng trên một khu đất cao ráo, rộng
rãi như trên gò, ụ chứ khơng phải ở giữa hoặc rìa làng. Tiếp đó là phải gần
con nước hoặc trước mặt là hồ hay sông…Những yếu tố này kết hợp với nhau
tạo thành một điểm tụ khí thiêng của làng, ngơi đình đó sẽ nằm ở vị trí đắc
địa.
Ngơi đình H Thị toạ lạc trên một khu đất cao ráo, bằng phẳng của
làng, được giới hạn bởi hệ thống tường bao bảo vệ. Trước mặt đình là con
đường làng to đẹp, bên phải và bên trái ngơi đình là khu dân cư đơng đúc,
đằng sau đình có một con ngịi khá lớn chạy từ Hoài Đức qua làng Hoè Thị để
đi xuống làng Thị Cấm. Ngày nay con ngòi đã bị lấp nhiều đoạn. Đình Hoè
Thị được dựng theo hướng nam với một tầm nhìn về phía trước thật phóng
khống. Hơn nữa hướng nam về mặt phong thuỷ là hướng mưa thuận gió hồ,
mà theo các nhà nho là hướng của thánh nhân, người xưa có câu: “ Thánh
nhân nam diện nhi thính thiên hạ” ( nghĩa là: các bậc thánh nhân ngồi quay
25


×