ðẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ðẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------
NGUYỄN QUỐC MẠNH
ðỒ GỐM ĨC EO TRONG DI CHỈ CƯ TRÚ
KHU DI TÍCH GÒ THÁP
(HUYỆN THÁP MƯỜI – TỈNH ðỒNG THÁP)
LUẬN VĂN THẠC SĨ SỬ HỌC
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH – NĂM 2009
ðẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ðẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
----------NGUYỄN QUỐC MẠNH
ðỀ TÀI
ðỒ GỐM ÓC EO TRONG DI CHỈ CƯ TRÚ
KHU DI TÍCH GỊ THÁP
(HUYỆN THÁP MƯỜI – TỈNH ðỒNG THÁP)
Chun ngành:
Mã số: 60.22.60
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC LỊCH SỬ
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TIẾN SĨ ðÀO LINH CƠN
Thành phố Hồ Chí Minh – năm 2009
CAM ðOAN
Tơi xin cam đoan Luận văn này là cơng trình nghiên cứu của riêng tơi,
do TS. ðào Linh Cơn hướng dẫn. Những số liệu, tư liệu ñược sử dụng trong
Luận văn này là trung thực và có nguồn gốc.
Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 18 tháng 8 năm 2009
Tác giả
Nguyễn Quốc Mạnh
LỜI CẢM ƠN
Luận văn ñược thực hiện trong một quá trình khai quật – điền dã khảo
cổ học và chỉnh lý tư liệu lâu dài. Trong suốt quá trình làm việc, học viên ñã
nhận ñược sự giúp ñỡ của quý thầy, cơ và các bạn đồng nghiệp.
ðầu tiên, học viên cảm ơn cơ sở ñào tạo (Trường ðại học KHXH &
NV), q thầy cơ đã tạo điều kiện tốt cho học viên trong suốt quá trình học
tập chương trình cao học. Chân thành cảm ơn những đóng góp ý kiến của TS.
Bùi Chí Hồng, PGS. Lê Xn Diệm và sự hỗ trợ tư liệu quan trọng của TS.
Lê Thị Liên ñối với luận văn. ðồng thời, học viên xin gửi lời cảm ơn ñến các
bạn ñồng nghiệp tại Trung tâm Nghiên cứu Khảo cổ, họa sĩ Bùi Xuân Long
và các cán bộ Bảo tàng Tổng hợp tỉnh ðồng Tháp, ñã hỗ trợ học viên rất hiệu
quả trong suốt quá trình thu thập và chỉnh lý tư liệu.
Học viên xin gửi lời cảm ơn đến gia đình, người thân đã động viên, chia
sẻ với học viên trong suốt quá trình học tập và thực hiện luận văn.Cuối cùng,
học viên xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến TS. ðào Linh Cơn, người đã định
hướng cho học viên đến với văn hóa Ĩc Eo và loại hình hiện vật gốm làm đối
tượng nghiên cứu trong con đường làm khoa học của mình. TS. ðào Linh
Côn cũng là người hướng dẫn khoa học ñể học viên hoàn thành luận văn này.
Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 18 tháng 8 năm 2009
Tác giả luận văn
Nguyễn Quốc Mạnh
MỤC LỤC
PHẦN 1:
TỔNG QUAN
Trang
1. Sự cần thiết của ñề tài
1
2. ðối tượng và phạm vi nghiên cứu
5
3. Phương pháp nghiên cứu
5
PHẦN 2:
CHƯƠNG I:
NỘI DUNG
7
TỔNG QUAN VỀ KHU DI TÍCH GỊ THÁP
1. Vị trí địa lý – điều kiện tự nhiên môi trường
7
2. Lịch sử phát hiện và nghiên cứu vấn ñề
11
2.1. Giai ñoạn trước năm 1975
2.2. Giai ñoạn từ sau năm 1975 ñến nay
3. ðịa tầng khảo cổ học các di chỉ cư trú trong khu di tích Gị Tháp
3.1. ðịa điểm chân Gị Minh Sư
3.2. ðịa điểm miếu Bà Chúa Xứ
3.3. ðịa điểm ðìa Phật
3.4. ðịa điểm ðìa Vàng
21
CHƯƠNG II:
ðỒ GỐM ÓC EO DI CHỈ CƯ TRÚ
Trang
TRONG KHU DI TÍCH GỊ THÁP
33
1. Phân loại chất liệu, loại hình gốm Gị Tháp
1.1. Chất liệu
33
2. Các loại hình hiện vật gốm
33
2.1. Loại hình bình
33
2.1.1. Phân loại loại hình miệng – thân – đế – vịi bình
2.1.1.1. Loại hình miệng bình
2.1.1.2. Vai bình
2.1.1.4. Vịi bình
2.1.2. Hiện vật bình gốm
38
2.1.2.1. Bình khơng có vịi
* Bình loại 1
* Bình loại 2
* Bình loại 3
2.1.2.2. Bình có vịi
42
* Bình loại 4
* Bình loại 5
* Bình loại 6
2.2. Loại hình nồi, vị
47
2.2.1. Phân loại loại hình miệng và thân nồi, vị
47
2.2.1.1. Loại hình miệng
2.2.1.2. Loại hình thân và vai nồi, vị
2.2.2. Hiện vật nồi, vị
* Nồi, vò loại 1
* Nồi/vò loại 2
50
Trang
* Nồi/vò loại 3
* Nồi/vò loại 4
* Nồi/vò loại 5
2.2.2.2. Nồi con tiện – Nồi loại 6
57
* Loại 6a
* Loại 6b
2.3. Chậu có quai cầm
61
2.4. Bát bồng
61
2.5. Tơ, bát nhỏ
62
2.6. Nắp ñậy
62
2.7. Ly cốc
70
2.8. Chum nhỏ
73
2.9. Chai gốm
74
2.10. Cà ràng
75
2.11. Khuôn làm gốm
76
3. Hoa văn
78
3.1. Văn kỹ thuật
3.2. Văn trang trí
3.3. Một số đồ án hoa văn tiêu biểu trên gốm Gò Tháp
Trang
CHƯƠNG III:
GỐM GÒ THÁP – NIÊN ðẠI VÀ CÁC QUAN HỆ VĂN HĨA
1. Niên đại
89
89
1.1. Niên đại phân tích C14
1.1.1. Niên đại phân tích mẫu tượng Phật gỗ
1.2. Niên đại di tích Gị Tháp qua minh văn và loại hình học hiện vật
2. Nội hàm di tích – di vật gốm Gò Tháp
99
2.1. Nội hàm di chỉ cư trú Gò Tháp
2.2. Nội hàm di vật gốm Gò Tháp
2.2.1. Mối quan hệ giữa nguyên liệu, chất liệu và kỹ thuật sản xuất gốm
2.2.1.1. Nguyên liệu, kỹ thuật và vấn ñề nơi sản xuất gốm
2.2.1.2. Một số ñặc trưng chất liệu, loại hình và hoa văn gốm Gị Tháp
3. Gốm Gị Tháp trong mối quan hệ với gốm Ĩc Eo ở đồng bằng sơng Cửu
Long
3.1. Các loại hình gốm chất liệu loại 1 – gốm mịn
3.2. Các loại hình gốm làm bằng chất liệu gốm thô – chất liệu loại 2, 3, 4
110
Trang
PHẦN 3:
KẾT LUẬN
121
TÀI LIỆU THAM KHẢO
126
PHỤ LỤC
133
BẢNG THỐNG KÊ
134
BẢN VẼ
160
BẢN DẬP HOA VĂN
183
BẢN ẢNH
193
PHẦN 1:
TỔNG QUAN
1. Sự cần thiết của đề tài:
Văn hóa Óc Eo ñược các học giả người Pháp – Trường Viễn ðông Bác
cổ (EFEO) phát hiện vào những năm 40 của thế kỷ XX. Tháng 04 năm 1942,
L. Malleret ñã khai quật khi địa điểm Gị Ĩc Eo (Ĩc Eo – Ba Thê), tiếp sau đó
là hàng loạt những di tích và di vật khảo cổ học có cùng đặc điểm tính chất
văn hóa với địa điểm Gị Ĩc Eo ñã ñược phát hiện và thu thập trên khắp vùng
ñồng bằng châu thổ sơng Cửu Long, đã dần làm lộ diện về sự tồn tại của một
nền văn hóa cổ có khơng gian phân bố rộng lớn, được L. Malleret đặt tên là
“văn hóa Ĩc Eo” – lấy theo tên gọi của ñịa ñiểm ñầu tiên ñược khai quật.
Cho ñến nay, việc nghiên cứu văn hóa Ĩc Eo đã đạt nhiều thành tựu
quan trọng, trong đó các nhà khảo cổ học đã xác định được những khu di tích
quan trọng như: khu di tích Ba Thê – Ĩc Eo, ðá Nổi (An Giang), khu di tích
Gị Tháp (ðồng Tháp), Cạnh ðền (vùng rừng U Minh), Nhơn Thành (Cần
Thơ),… và những loại hình di tích – di vật tiêu biểu. Qua ñó, dần làm rõ
nhiều vấn ñề văn hóa – xã hội, khôi phục lại một phần lịch sử của vùng đất
Nam Bộ, nơi có nền văn hóa Ĩc Eo phát triển rực rỡ, với cấu trúc xã hội –
kinh tế của một quốc gia cổ đại ở khu vực ðơng Nam Á. Văn hóa Ĩc Eo được
xác định niên đại tồn tại và phát triển từ đầu Cơng ngun kéo dài đến khoảng
thế kỷ VII – VIII AD, có nội hàm văn hóa rất phong phú, phát triển đa dạng
trong một khơng gian văn hóa rộng lớn và thống nhất, nó có mối quan hệ giao
lưu mạnh mẽ với những nền văn hóa – văn minh trong khu vực và trên
thế giới.
Khu di tích Gị Tháp là một trong những di tích khảo cổ học thuộc văn
hóa Ĩc Eo được biết đến từ rất sớm, có quy mơ lớn và rất quan trọng của văn
hóa Ĩc Eo ở khu vực ðồng Tháp Mười. Khu di tích này cùng tồn tại và phát
triển song song với các khu di tích lớn của văn hóa Ĩc Eo như Ba Thê – Ĩc
Eo, Cạnh ðền, Nhơn Thành,… tạo nên một tổng thể văn hóa đa dạng và
thống nhất của văn hóa Ĩc Eo ở miền Tây Nam Bộ.
Khu di tích Gị Tháp đã được biết ñến từ những thập niên cuối của thế
kỷ XIX. Cho ñến nay, sau hơn một trăm năm kể từ khi phát hiện những vết
tích đầu tiên, khu di tích này đã có nhiều cuộc khai quật quy với mơ lớn. Theo
tư liệu khảo cổ học thu thập ñược qua các cuộc điều tra và khai quật này đã
góp phần giải quyết nhiều vấn ñề cơ bản gắn với các loại hình di tích – di vật
như thư tịch cổ, văn bia, kiến trúc, hội họa, ñiêu khắc, các loại hình hiện vật
điêu khắc, trang sức, vật dụng sinh hoạt,… ñược làm bằng nhiều chất liệu
khác nhau (ñá, ñất nung, vàng,…). Bên cạnh đó, hàng loạt di tích kiến trúc,
văn bia và các tác phẩm ñiêu khắc nghệ thuật – tơn giáo được tìm thấy, đã
khẳng định Gị Tháp khơng chỉ là một nơi tụ cư có quy mơ lớn nhất ở vùng
ðồng Tháp Mười, mà còn là một một trong những trung tâm văn hóa – tơn
giáo lớn của văn hóa Ĩc Eo ở đồng bằng sơng Cửu Long.
Những thành tựu nghiên cứu đối với khu di tích Gị Tháp nói trên cũng
là bức tranh chung của q trình tìm hiểu về lịch sử văn hóa Ĩc Eo ở Nam
Bộ, được biết đến từ các di tích – di vật gắn liền với các kiến trúc – nghệ
thuật, mộ táng (kiến trúc ñền thờ, tượng, vật thờ bằng kim loại,…), phân bố
trên địa hình gị cao ở khu di tích. Việc nghiên cứu loại hình di chỉ cư trú dưới
chân gò và khu vực trũng thấp còn ở mức thám sát, kiểm tra cho đến trước
những năm 2000.
Loại hình di chỉ cư trú và những di vật gốm có số lượng nhiều vốn là
những tư liệu gắn liền với sinh hoạt thường nhật của con người, phản ánh
nhiều mặt ñời sống văn hóa – xã hội. Gốm là tư liệu khơng thể thiếu đối với
việc tìm hiểu về đời sống xã hội của các cộng ñồng cư dân cổ, là “chữ cái”
ñối với các nhà khảo cổ học.
Việc nghiên cứu loại hình di chỉ cư trú và hiện vật gốm có vai trị quan
trọng trong việc tìm hiểu văn hóa Ĩc Eo. Những tư liệu này là sự phản ánh
chuẩn xác nhất về đời sống văn hóa – xã hội của con người trong từng giai
ñoạn tồn tại và phát triển của cư dân Gò Tháp và văn hóa Ĩc Eo.
Những năm gần đây, việc nghiên cứu loại hình di chỉ cư trú đã bắt đầu
được triển khai có hiệu quả bằng các cuộc điều tra, thám sát và một số cuộc
khai quật tại khu di tích Ba Thê – Óc Eo (Thoại Sơn – An Giang), khu di tích
Gị Tháp (Tháp Mười – ðồng Tháp), di tích Nhơn Thành (Châu Thành A –
Cần Thơ), khu di tích Cạnh ðền (Kiên Giang),… Tuy nhiên, các kết quả
nghiên cứu vẫn cịn khiêm tốn, bởi nó chỉ dừng lại ở việc mô tả – thống kê
khái quát mà chưa ñi sâu vào việc phân tích ñối với từng loại hình hiện vật,
chất liệu,…
Cơng trình đầu tiên nghiên cứu chun sâu về loại hình di chỉ cư trú
trong văn hóa Ĩc Eo đó là: “Di chỉ cư trú văn hóa Óc Eo ở khu di tích Óc Eo
– Ba Thê (An Giang)” (ðào Linh Cơn, năm 2004), phân tích về một số loại
hình hiện vật gốm tiêu biểu tại khu di tích Ba Thê – Ĩc Eo gắn với địa tầng
khảo cổ học và nêu lên những mối liên hệ giữa các loại hình hiện vật gốm ở
khu di tích Óc Eo – Ba Thê với các di tích tiêu biểu thuộc văn hóa Ĩc Eo ở
miền Tây Nam Bộ. Mặc dù vậy, niên ñại cũng như các quan hệ văn hóa vẫn
dựa trên cơ sở so sánh các loại hình hiện vật khác, trong đó hiện vật gốm là
một phần được mơ tả khái qt, vẫn chưa được đi sâu phân tích số liệu, loại
hình cùng những yếu tố kỹ thuật có liên quan.
Tại Gị Tháp, loại hình di chỉ cư trú ñã ñược kết hợp thám sát nhiều
trong các cuộc khai quật những di tích kiến trúc và mộ táng những năm 1980
và 1990 và ñã ñược khai quật lớn vào các năm 2001, 2002 và 2003, song tư
liệu hiện trường và hiện vật ñược chỉnh lý hầu hết dừng lại ở mức ñộ khảo sát,
kiểm tra hay tổng hợp mang tính khái lược (những năm 1980 và 1990) hoặc
ñã ñược xử lý có hệ thống, song vẫn dừng lại ở dạng tư liệu thơ với nhiều vấn
đề cịn ở dạng nhận thức ban ñầu, hoặc nhận ñịnh ngắn gọn trong các cơng bố
khoa học. Nhìn chung, chưa có cơng trình khoa học nào thực hiện tổng hợp và
đi sâu phân tích để rút ra những đặc điểm chung hay các điểm dị biệt từ các di
tích – di vật liên quan đến loại hình di chỉ cư trú trong văn hóa Ĩc Eo, từ đó đi
sâu khai thác để giải thích nhiều vấn đề văn hóa – xã hội từ các số liệu nói
trên. ðây cũng là thực tế chung cho tình hình nghiên cứu văn hóa Ĩc Eo ở
Nam Bộ Việt Nam mà khơng chỉ riêng đối với khu di tích Gị Tháp.
Tuy vậy, các kết quả nghiên cứu tại khu di tích Gị Tháp từ những năm
1980 ñến nay, ñặc biệt là các cuộc khai quật trong những năm 2001, 2002 và
2003 là nền tảng tư liệu quan trọng ñối với việc nghiên cứu và nhận thức loại
hình hiện vật gốm Gị Tháp nói riêng và văn hóa Ĩc Eo nói chung.
Từ thực tế trên cho thấy loại hình di chỉ cư trú và di vật gốm là đối
tượng cịn rất mới mẻ, đầy lý thú nhưng cũng khơng kém phần thử thách và
khó khăn. Song, nếu xác ñịnh hướng ñi ñúng và ñược ñầu tư ñúng mức thì
hiệu quả ñem lại từ việc nghiên cứu di chỉ cư trú và di vật gốm tại khu di tích
Gị Tháp sẽ có rất nhiều ý nghĩa, có tính thiết thực. ðồng thời, nó sẽ góp phần
quan trọng vào việc tìm hiểu và nhận thức về nền văn hóa này. Vấn đề “ðồ
gốm Ĩc Eo trong di chỉ cư trú khu di tích Gị Tháp (Tháp Mười – ðồng
Tháp)” ñược tác giả chọn làm ñề tài nghiên cứu khoa học hướng ñến những
mục tiêu ñề cập ở trên, và thực hiện những mục đích cụ thể:
– Hệ thống và phân loại, xác định các loại hình hiện vật gốm di chỉ cư
thuộc văn hóa Ĩc Eo tại khu di tích Gị Tháp.
– Xác định niên đại khu di tích Gị Tháp thơng qua đặc điểm loại hình
hiện vật gốm và một số loại hình hiện vật khác có liên quan.
– Tìm hiểu các đặc điểm tiêu biểu của loại hình, hoa văn, kỹ thuật chế
tác gốm Gị Tháp. Qua đó tìm hiểu mối quan hệ giữa khu di tích Gị Tháp với
các di tích thuộc văn hóa Ĩc Eo ở miền Tây Nam Bộ , nhằm đem đến cái nhìn
rõ nét hơn về khu di tích Gị Tháp nói riêng và đối với văn hóa Ĩc Eo ở đồng
bằng sơng Cửu Long nói chung”.
2. ðối tượng và phạm vi nghiên cứu:
– ðối tượng nghiên cứu: đồ gốm Ĩc Eo trong các địa điểm di chỉ cư trú
thuộc khu di tích Gị Tháp (Tháp Mười, ðồng Tháp) thu ñược từ năm 1975
ñến năm 2003, qua các cuộc khai quật, khảo sát. Tập trung phân tích hiện vật
gốm trong các hố khai quật tại địa điểm Gị Minh Sư của các năm 2001, 2002
và 2003. Riêng các số liệu ñịa tầng và thống kê hiện vật gốm từ cuộc khai
quật năm 2002 ñược chọn làm cơ sở chính để giải quyết các vấn ñề trong nội
dung luận văn. ðồng thời, tư liệu sử dụng có chọn lọc từ các phát hiện khác
nhau tại khu di tích Gị Tháp, kể cả những tư liệu ñược sưu tầm không gắn với
ñịa tầng khảo cổ học, nhưng có vị trí đặc biệt quan trọng đối với nhận thức về
khu di tích này cũng được chọn, để làm cơ sở tham khảo và so sánh.
– Phạm vi nghiên cứu: Hiện vật gốm Óc Eo tại khu di tích Gị Tháp
phát hiện từ trước năm 2005 qua các cuộc khai quật, ñiều tra và sưu tầm.
– Khung thời gian nghiên cứu: đồ gốm thuộc văn hóa Ĩc Eo có niên
đại trong khoảng thế kỷ I đến thế kỷ VII sau Cơng ngun.
– Do điều kiện tư liệu có những hạn chế nhất ñịnh, nên luận văn chỉ
thực so sánh tiếp cận với các tư liệu hiện vật gốm trong các di tích khảo cổ
học thuộc văn hóa Ĩc Eo ở miền Tây Nam Bộ, gồm các di tích Óc Eo - Ba
Thê (An Giang), Cạnh ðền, ðá Nổi (Kiên Giang), Thành Mới (Vĩnh Long),
Nhơn Thành (Cần Thơ), Gò Thành (Tiền Giang),…
3. Phương pháp nghiên cứu.
Những phương pháp nghiên cứu được dùng để tiếp cận và phân tích tư
liệu hiện vật gốm và những nguồn tư liệu có liên quan, gồm:
– Phương pháp ñiền dã và khai quật khảo cổ học được thực hiện trong
q trình thu thập tư liệu hiện trường, hiện vật.
– Phương pháp thống kê, mô tả, phân tích và so sánh.
– ðo vẽ hiện trường, hiện vật.
– Xác định niên đại bằng phương pháp phân tích C14.
– Các phương pháp nghiên cứu dân tộc học, kỹ thuật học.
– Phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử ñược sử dụng
trong việc nghiên cứu nhằm ñem lại kết quả khoa học mang tính khách quan,
với sự phát triển hợp quy luật.
PHẦN 2:
CHƯƠNG I
NỘI DUNG
TỔNG QUAN VỀ KHU DI TÍCH GỊ THÁP
1. Vị trí địa lý – điều kiện tự nhiên môi trường
* Khái quát cảnh quan môi trường vùng ðồng Tháp Mười:
ðồng Tháp Mười là một vùng ñất trũng thấp nằm về phía bắc – tây bắc
của miền Tây Nam Bộ (Việt Nam), phạm vi phân bố khoảng 8.000 km2 (dài
130km, rộng từ 60 – 70km), trong đó vùng trũng ngập nước chiếm 4.560km2,
ñộ cao tuyệt ñối từ 0,5 – 3m. Vị trí của nó trực thuộc phạm vi hành chính của
các tỉnh: Long An, Tiền Giang và ðồng Tháp, thuộc khu vực đồng bằng tích
tụ – xâm thực nằm ở vùng thượng lưu châu thổ sông Cửu Long (miền hạ lưu
của hệ thống sơng Mékong). Phía đơng tiếp giáp Thành phố Hồ Chí Minh với
đường ranh Chợ Lớn – Bến Lức – Tân An, giới hạn phía tây nam là tả ngạn
sơng Tiền, phía bắc là dải đất chuyển tiếp giữa hai vùng phù sa cổ và phù
sa mới.
Trước kia, ðồng Tháp Mười, Tứ Giác Long Xuyên và vùng U Minh là
ba khu vực trũng tích tụ trầm tích biển. Riêng khu vực ðồng Tháp Mười này
là một vịnh biển ăn sâu về phía Tây Ninh và xa hơn nữa. Vịnh này nối với
một ñầm lầy rộng lớn là nơi thốt nước của sơng Cửu Long mà bây giờ là lưu
vực của hai sông Vàm Cỏ ðông và Vàm Cỏ Tây. Về sau, ñất phù sa bồi ñắp
dần lên nên ñã tạo ñã biến vịnh và ñầm lầy thành ðồng Tháp Mười cho ñến
như ngày nay (46, tr. 4 – 5).
Cảnh quan thung lũng phù sa có thể quan sát ở những dải đất dọc theo
sơng Tiền và trục Mỹ Tho – Chợ Lớn: đất thấp nhưng khơng q lầy lội, làng
mạc tập trung trên những thế ñất cao và dọc theo bờ kinh.
Nhìn tồn bộ vùng đất này hầu như hồn tồn phẳng. Từ thành phố Hồ
Chí Minh đến Sồi Riêng, lớp phù sa mới phủ trên phù sa cổ ngày càng dầy,
đến gần Mỹ Tho thì đã dầy lên đến vài mét. Phần lớn phù sa này ñã bị lắng
ñọng trong môi trường nước lợ và sét. Dưới lớp phù sa mới, các nhà ñịa chất
cho rằng các con rạch trong vùng trũng đã đổi dịng nhiều lần. Các thấu kính
đất có thành phần cấu tạo nhẹ hơn phân bố theo những tuyến nhất định, đánh
dấu các dịng rạch cổ.
Vùng đất này chịu ảnh hưởng trực tiếp từ dòng chảy của con sơng Tiền
và sơng Vàm Cỏ Tây. Ở phần phía tây là vùng tràn bờ của sơng Tiền, phía
đơng tiếp giáp với khu vực phù sa cổ thuộc lưu vực sơng Vàm Cỏ Tây trải dài
từ Mỹ Tho đến Bến Lức và Tân An. Khu vực này tạo thành một bờ ngăn cách
và giữ nước cùng với những giồng ñất lớn – nhỏ ven sơng ở phía nam. Quan
sát khơng ảnh, ta thấy từ những ñiểm sáng tỏa ra những dịng nước nhỏ: đó là
những trung tâm phân thủy của những thế đất cao. Cánh đồng tuy phẳng
nhưng khơng đơn ñiệu, ñây ñó nổi lên những giồng cát nối tiếp, theo hướng
gần song song với dịng chảy sơng Tiền. ðặc điểm của tồn bộ vùng đồng
bằng song Cửu Long có ñộ dốc nhỏ làm cho tốc ñộ thoát nước vào mùa lũ rất
chậm, vì vậy vào mùa mưa (tháng 6 ñến tháng 10 hằng năm), nước từ sông
Vàm Cỏ Tây và sông Tiền tràn bờ làm ngập vùng thấp từ 2 – 3m, biến ðồng
Tháp Mười thành một biển nước mênh mơng, ở đó rải rác nhơ lên những đỉnh
gị nhỏ, những cụm cây tràm và một vài ñám lúa nổi, toàn bộ vùng ðồng
Tháp Mười và một phần lớn miền Tây Nam Bộ bị chìm ngập dưới biển nước.
Mùa khơ, nước rút xuống thấp, ðồng Tháp Mười cịn lại những khu vực ñầm
lầy ngập nước và những cánh ñồng rộng lớn trên một bình diện gần như
bằng phẳng.
Trên vùng ñồng bằng trũng thấp này có quần thực vật và ñộng vật tiêu
biểu của vùng ñồng bằng thấp ngập nước (ñiên ñiển, cỏ năn, lác, ñế,…) cùng
với những loại cây rất ñặc thù như tràm, tre gai, trâm bầu và các loại cây
ñưng, da,… ở ñây. Quần thể động vật rất phong phú với các lồi chim, cá, thú
nhỏ quen thuộc của miền Tây. Trước ñây, ðồng Tháp Mười nổi tiếng là vùng
nhiều tôm, cá, rắn, rùa, cá sấu,… nhưng ngày nay, với sự biến ñổi của mơi
sinh dưới sự tác động của con người đã khiến số lượng nhiều lồi thảo mộc và
động vật thổ sản bị giảm sút, nhiều lồi đã mất hẳn trong vùng. Vùng ñồng
bằng trũng này cũng ñang bị ñe dọa về mặt môi sinh nghiêm trọng bởi sự
“xâm lăng” của những loài nhập cư mới như cá trê Amazon, cây ma vương
(nguồn gốc từ Mã Lai ?), một loại cây bụi gai phát triển rất mạnh có xu hướng
lấn át và chiếm dần không gian sinh trưởng của các loại thực vật bản địa vốn
có trong vùng.
* Vị trí địa lý và mơi trường khu di tích Gị Tháp:
Gị Tháp ngày nay thuộc xã Tân Kiều, huyện Tháp Mười, tỉnh ðồng
Tháp, cách huyện lỵ Tháp Mười 10,7 km về phía bắc, cách thị xã Cao Lãnh
khoảng 27 km về hướng đơng bắc. Trước đây, địa danh hành chính của Gị
Tháp có nhiều thay đổi. Theo những tài liệu xưa, địa ñiểm Gò Tháp thuộc ấp
Tháp Mười, xã Mỹ Thọ, tổng Phong Nam, tỉnh Sa ðéc, tên của khu vực ñơn
vị hành chính tiếp theo mà Gị Tháp trực thuộc (cho ñến trước tháng 4 – 1984)
là xã Mỹ Hòa (52, tr. 1). Gò Tháp ngày nay là tên gọi chung cho khu di tích
khảo cổ học tập hợp nhiều gị nhỏ, thấp nằm trên một giồng đất pha cát, có
các thế đất uốn lượn nhẹ nhàng. Tồn bộ gị có chiều dài khoảng 1km, chiều
rộng nhất là 300m (ở phía nam), theo hướng đơng bắc – tây nam. Khu giồng
cát này có độ cao tuyệt đối của đỉnh gị cao nhất (Gò Tháp Mười) là 5,047m
so với mực nước biển chuẩn Hà Tiên. Mặt gò là tập hợp một số gị nhỏ và
những thế đất uốn lượn nhẹ nhàng (Gị Tháp Mười, Gò Minh Sư, Gò Bà Chúa
Xứ, Tháp Mười Cổ Tự,…) (51, tr. 1), cao độ trung bình khoảng 1,3m so với
mực nước biển chuẩn Hà Tiên.
Khu di tích Gị Tháp có tọa độ 100 36’ 0,6” vĩ bắc – 1050 49’ 32,3” kinh
đơng, ở khu vực trung tâm của vùng trũng ðồng Tháp Mười có hệ thống kênh
rạch chằng chịt thuộc hệ sinh thái rừng tràm phát triển mạnh. Mùa khơ, nước
rút đi, đất đai khơ cằn với các cánh đồng rộng lớn mọc tồn các loại cỏ năng,
lác, ñế và các loại cây bụi thấp. Vào mùa mưa, ñặc biệt từ tháng 9 (Dương
lịch) hằng năm, khi dịng nước sơng Mékong bắt nguồn từ những núi băng tan
của dãy Hymalaya, chảy qua lãnh thổ các nước: Myanma, Lào, Campuchia,
Thái Lan mang theo lượng phù sa lớn ñổ dồn xuống vùng ñồng bằng hạ lưu
châu thổ sơng Cửu Long, theo đó mực nước dâng lên khiến hầu như tồn bộ
vùng đồng bằng châu thổ bị chìm ngập và một quá trình bồi lắng mới lại diễn
ra. Có thể nói, đồng bằng châu thổ sơng Cửu Long và ðồng Tháp Mười nói
riêng chính là “túi nước lớn” có tác dụng làm giảm tốc độ dịng chảy, là
“trạm” điều tiết của dịng nước sơng Mékong trước khi theo các dịng chảy đổ
ra biển ðơng.
Tuy vậy, khu vực di tích Gị Tháp chưa bao giờ bị ngập chìm trong
nước ở mùa lũ, đỉnh gị ln cao hơn mực nước cực ñại khoảng 0,5 – 1m. Các
hố khai quật và thám sát ñều xác nhận dấu vết cư trú, hoạt ñộng của con
người tại ñây ñều bắt ñầu trên cùng cao trình tương đương nhau phía trên bề
mặt của tầng sét màu xám xanh, gồm có:
+ Khu vực xung quanh các chân gò và vùng trũng thấp trong khu di tích
đã phát hiện được dấu vết của những di chỉ cư trú với các chân cột nhà sàn
cắm sâu vào tầng sét, dấu vết mộ táng…
+ Trên các khu vực có địa hình gị nổi cao, hầu hết đều có dấu vết của
nhiều di tích kiến trúc gạch cổ như: Gò Tháp Mười, Gò Bà Chúa Xứ, Gò
Minh Sư,… Các kiến trúc này có phần móng được gia cố rất quy mơ, gồm các
lớp đất sét – hỗn hợp gạch – ñất sét, gạch – ñá – cát và cả chất kết dính, dưới
cùng là những cây tràm lớn xếp nằm ngang tạo thành một “tấm phên” kè
vững chắc cho phần nền móng kiến trúc.
Những cấu trúc này ñã chứng tỏ các khu gị được hình thành và cao lên
dần cùng với q trình định cư và cải tạo đắp đất và gia cố nền – móng và xây
dựng các kiến trúc ở những giai ñoạn khác nhau các thế hệ của cư dân
Gị Tháp.
Về mặt vị trí địa lý – mơi trường, ðồng Tháp Mười còn là nơi tiếp nhận
thủy lưu từ sơng Mékong, để từ đây chuyển sang một hình thái mới cho tồn
vùng hạ lưu, tạo sự thay đổi căn bản về ñặc ñiểm vận hành cùng cảnh quan
ñịa lý mà ðồng Tháp Mười là “trung tâm”. “Trung tâm” này là tạo nên một
vùng ñịa lý ñặc trưng của khu vực Tây Nam Bộ có mối quan hệ kết nối với
các khu vực xung quanh của tồn vùng, đặc biệt là qua hệ thống thủy lộ dày
ñặc của khu vực này. ðây cũng là một trong những ñiều kiện thuận lợi song
cũng chứa đựng nhiều khó khăn cho việc sinh tụ, cải tạo tự nhiên của con
người trên vùng ñất này. ðồng thời, đó cũng là yếu tố tác động mạnh nhiều
đến đặc trưng văn hóa – xã hội của cư dân sinh sống tại ñây trong những thời
kỳ khác nhau, trong đó có giai đoạn khai phá, chinh phục và phát triển của cư
dân thuộc văn hóa Ĩc Eo trong thời khoảng thời gian từ thế kỷ I ñến thế kỷ
VII AD.
2. Lịch sử phát hiện và nghiên cứu vấn đề
2.1. Giai đoạn trước năm 1975
Khu di tích khảo cổ học Gị Tháp được biết đến vào khoảng cuối thế
kỷ XIX với tên gọi Prásat Pream Loven (Chùa Năm Gian) (25, tr. 81). Vào
những năm 1878 – 1879 (25, tr. 82), một số minh văn bằng tiếng Phạn cổ
khắc trên ñá ñược phát hiện trong khu vực này và ñưa về trụ sở chính quyền
thuộc ñịa Pháp ở Sa ðéc, một số khác sau đó được đưa về Sài Gịn. Trong số
tám bản minh văn đã được dịch và nghiên cứu có một bản được xem là quan
trọng nhất hiện ñang lưu giữ và trưng bày tại Bảo tàng Lịch sử Việt Nam –
Thành phố Hồ Chí Minh. Bản minh văn này nói về việc khai khẩn và xây
dựng trên vùng ðồng Tháp Mười một trung tâm hành chính nó được cai quản
bởi một chính quyền Trung ương có tổ chức của một quốc gia… Các minh
văn này là ñối tượng ñầu tiên ñược quan tâm nghiên cứu và công bố bởi các
nhà khảo cổ học người Pháp như Aymonier, G.Coedes, L.Malleret…
Q trình nghiên cứu di tích Gò Tháp từ năm 1878 của các học giả
người Pháp ñã ñem ñến nhận thức quan trọng về vị trí và quy mơ của khu di
tích Gị Tháp, họ đã khẳng định “Gị Tháp là một khu di tích khảo cổ học có
quy mơ lớn, rất phong phú về mặt di vật và có một vị trí quan trọng trong
q trình lịch sử hình thành – phát triển của văn hóa Ĩc Eo và vương quốc
Phù Nam”,Di tích Gị Tháp ñã ñược coi là “một trong những trung tâm tôn
giáo khá quan trọng” của văn hóa Ĩc Eo” (46, tr. 16).
ðến năm 1931, H. Parmentier và J.Y.Claeys ñã tiến hành ñào một vài
hố thám sát trong khu vực mà hiện nay là ngơi chùa Bà Chúa Xứ, qua đó đã
ghi nhận dấu tích một vỉa gạch xây nằm về sườn phía tây của gị. Tiếp đó là
những cuộc khảo sát và thăm dị khảo cổ đã phát hiện nhiều dấu tích kiến trúc
cổ (các cấu kiện kiến trúc bằng đá, những tấm ñan ñá, các sàn gạch, cọc
gỗ,…), các loại hình hiện vật gốm trong các hố thám sát chưa ñược ñề cập
ñến (26, tr. 20).
Tuy nhiên, từ năm 1945 trở đi, do tình hình chiến tranh diễn ra ác liệt
ngày càng ác liệt trong một thời gian dài từ năm 1960 cho đến năm 1975 đã
hồn tồn làm cho q trình nghiên cứu cứu bị gián đoạn. ðây cũng là thời kỳ
khu di tích này chịu những tổn hại nặng nề bởi các hoạt ñộng quân sự.
2.2. Giai ñoạn từ sau năm 1975 đến nay
Từ sau năm 1975, cơng tác nghiên cứu khảo cổ học vùng đất phía Nam
được khởi ñộng trở lại bởi các nhà khảo cổ học thuộc Viện Khoa học Xã hội
tại Thành phố Hồ Chí Minh. Các nhà khảo cổ học đã thực hiện các chương
trình điều tra khảo sát lại tồn bộ khu di tích Gị Tháp để thống kê, thu thập,
ñánh giá và hệ thống lại tư liệu về khu di tích này nhằm tiếp tục cơng việc mà
những người Pháp đã khởi đầu. Tuy nhiên, vì những ñiều kiện khách quan
nên ñến năm 1983 công việc này mới ñược thực hiện.
Từ năm 1983 ñến năm 2003, khu di tích Gị Tháp đã được Bảo tàng
Tổng hợp tỉnh ðồng Tháp và Trung tâm Nghiên cứu Khảo cổ – Viện Khoa
học Xã hội tại Thành phố Hồ Chí Minh (các năm 1983 – 1984, 1993, 1996,
1998) và Viện Khảo cổ học – Hà Nội (các năm 2001 – 2002 – 2003) tiến hành
nhiều ñợt khảo sát, ñào thám sát và khai quật nghiên cứu. Kết quả đã tìm thấy
nhiều vết tích di chỉ cư trú cùng với hàng chục di chỉ kiến trúc, di chỉ mộ táng
xây bằng gạch, cùng với nhiều hiện vật ñã ñược phát hiện, thu thập và
nghiên cứu.
Giai đoạn nghiên cứu này có thể được chia thành hai giai ñoạn nhỏ:
– Giai ñoạn 1: Từ năm 1983 ñến năm 1998 với các cuộc ñiều tra, thám
sát và khai quật trên tồn diện khu di tích Gị Tháp.
– Giai đoạn 2: Từ năm 2000 đến năm 2003 là giai ñoạn các cuộc khai
quật khảo cổ học, đối tượng nghiên cứu chính là loại hình di chỉ cư trú.
* Giai ñoạn từ năm 1983 ñến năm 1998:
Năm 1983, dưới sự phối hợp giữa Trung tâm Nghiên cứu Khảo cổ cùng
Bảo tàng Tổng hợp tỉnh ðồng Tháp thực hiện một đợt khảo sát tồn diện tại
khu di tích Gị Tháp và đến đầu năm 1984, cuộc khai quật ñầu tiên ñược thực
hiện ở ñịa ñiểm Gò Tháp Mười.
Kết quả khảo sát và khai quật cho thấy so với những mơ tả của L.
Malleret từ những năm 1940, thì bề mặt của di tích đã bị xáo trộn và biến ñổi
nhiều do chiến tranh (trước năm 1975) và việc ñào tìm vàng của người dân
(trong những năm 1980).
Kết quả nghiên cứu khảo sát, khai quật tại khu di tích Gị Tháp trong
khoảng thời gian này có thể ñược ñiểm lại gắn với từng khu vực di tích (hay
địa điểm khảo cổ học trong khu di tích Gị Tháp) có địa hình là các gị đất nổi
cao nằm trên khu vực Gị Tháp như sau:
– ðịa điểm Gị Bà Chúa Xứ (còn gọi là Linh Miếu Bà), ở đầu phía bắc
của Gị Tháp, là một gị rộng khoảng 3.500m2, cao hơn mặt ruộng xung quanh
khoảng 1,5m. Tại ñây, nhiều mảnh tượng vỡ ñược gom lại thành ñống dưới
một gốc cây mọc cạnh miếu làm nơi thờ Ông Tà. Vào các năm 1984, 1996
khu vực này ñã ñược khai quật và làm rõ một di tích kiến trúc bằng phẳng có
quy mơ lớn (61, tr. 46 – 47).
Trong khu vực địa điểm miếu Bà Chúa Xứ, năm 1984 có triển khai ñào
một loạt các hố thám sát ký hiệu 84GT.TS2, nằm ở vị trí có cao độ từ 1,6 –
2,2m ở sườn bắc của một gò thấp, gồm một hệ thống hố thám sát nhỏ (2 x
2m), trong đó có hố tìm thấy tầng văn hóa di chỉ cư trú từ ñộ sâu 2,2 – 2,5m
(50, tr. 8). Trong hố thám sát 84GT.TS2M1 ñã phát hiện dấu vết cư trú nằm
bên dưới một nền ñất ñắp dầy khoảng 1,7m, dầy khoảng 0,2 – 0,3m ñến ñộ
sâu 2,2m từ bề mặt. Dấu vết cư trú là các vết tích bếp lửa, mảnh nồi gốm có
bám muội than, xương động vật,… (50, tr. 4) (25, tr. 161).
– ðịa điểm Gị Minh Sư: có dạng hình trịn nằm ở khoảng giữa của khu
di tích, rộng khoảng 1.250m2, có đỉnh cao hơn mặt ruộng xung quanh khoảng
3,1m. Trên đó có một số đá cấu kiện của kiến trúc, mảnh đá có khắc chữ
Phạn, mảnh tượng,… được gom lại thành đống ở đỉnh gị làm nơi thờ Ơng Tà.
ðịa điểm Gị Minh Sư đã ñược tiến hành ñào thám sát trên ñỉnh gò và xác
định được một kiến trúc gạch có quy mơ khá lớn, có phần móng được gia cố
chắc chắn bằng nhiều lớp gỗ, sét, ñá, cát và hỗn hợp gạch vụn, cùng chất kết
dính (50, tr. 4).
– ðịa điểm Gị Tháp Mười: là gị chính và cao nhất trong tồn bộ khu
di tích. Gị có dạng tứ diện gần vng, diện tích khoảng 4.500m2, cao hơn mặt
ruộng xung quanh khoảng 3,8m.
Trên đỉnh gị, vào những năm 1956 – 1959, dưới chế độ Ngơ ðình
Diệm đã cho xây trên đỉnh Gị Tháp Mười một ngơi tháp mười tầng (cao
42m), làm đài quan sát qn sự. Khơng lâu sau khi hồn tất, tháp này đã bị
đặc cơng của Tiểu đồn 502 đánh sập hồn tồn (năm 1959). Hiện nay trên
đỉnh gị vẫn cịn giữ lại một sàn gạch tương đối ngun vẹn và phế tích ngơi
tháp bằng bê tơng cốt thép nằm theo hướng đơng – tây.
Bề mặt và chân gị có rất nhiều khối đá cấu kiện kiến trúc lớn, cột ñá,
vật thờ và gạch cổ. Tại ñây, vào năm 1984, Trung tâm Nghiên cứu Khảo cổ
phối hợp với Bảo tàng Tổng hợp tỉnh ðồng Tháp ñào thám sát và xác ñịnh
ñược một ñoạn tường gạch của một kiến trúc cổ. Vào các năm tiếp sau, năm
1996, 1998 Trung tâm Nghiên cứu Khảo cổ và Bảo tàng Tổng hợp tỉnh ðồng
Tháp ñã tiến hành khai quật di tích này và làm xuất lộ một phần của kiến trúc
tơn giáo bằng gạch có quy mơ rất lớn (chiều dài đơng – tây 17,3m, rộng bắc –
nam 12m) và hai tượng thần Vishnu bằng ñá (62, tr. 49).
– Năm 1984, các dấu tích di chỉ cư trú được tìm thấy trong ñịa tầng các
hố thám sát tại khu vực xung quanh ñịa ñiểm ðốc Binh Kiều, hoặc trong lớp
cư trú bên dưới di chỉ mộ táng, và kiến trúc như Gò Minh Sư, Bà Chúa Xứ
(25, tr. 86).
– Năm 1993, ở khu vực quanh khu mộ ðốc Binh Kiều và khu trại cải
tạo mạn đơng miếu Bà Chúa Xứ ñã tiến hành ñào nhiều hố thám sát nhỏ, tại
ñây ñã phát hiện ñược nhiều mảnh gốm, xương răng ñộng vật ở ñộ sâu 2,1m
(7, tr. 363).
Khu vực cách miếu Bà Chúa Xứ 1 km về phía bắc đã phát hiện những
cọc gỗ chạy thành hàng cùng với nhiều mảnh gốm thơ, gốm mịn, vịi bình,
mảnh cà ràng,… với đầy đủ các loại hình miệng, hoa văn, chân đế đặc trưng
của đồ gốm văn hóa Ĩc Eo (7, tr. 363).
Tại địa điểm ðìa Vàng và ðìa Phật đã phát hiện dấu vết di chỉ cư trú
trên nhà sàn với tầng văn hóa dầy 0,1 – 0,2m có chứa nhiều mảnh gốm cổ.
Riêng tại địa điểm ðìa Vàng cũng đã tìm thấy dấu vết nền nhà ñắp bằng ñất
lẫn gạch vỡ với nhiều hàng cột gỗ chạy dài theo hướng bắc – nam (46, tr. 14).
Tại ñây (ðìa vàng hay ðìa Phật, năm nào?) cũng tìm thấy hai pho tượng
Phật bằng gỗ .
– Năm 1998, một cuộc khảo sát ñược thực hiện tại ñây ñã thu được một
số tiêu bản gốm văn hóa Ĩc Eo trong khu vực khu di tích Gị Tháp với các
loại hình vật dụng sinh hoạt như bình, vị, vịi bình,…
Như vậy, kết quả thám sát và khai quật khu di tích Gò Tháp vào các
năm 1983, 1984, 1993, 1996 và 1998 (Gị Tháp Mười, ðốc Binh Kiều, Gị
Minh Sư, ðìa Vàng, ðìa Phật và các gị đất thấp trong khu vực), đã xác định
Gị Tháp là một phức thể di tích lớn gồm các loại hình di chỉ cư trú, kiến trúc
và mộ táng thuộc văn hóa Ĩc Eo với những yếu tố sinh hoạt sớm – muộn.
ðồng thời, ñã phát hiện một khối lượng hiện vật rất phong phú bao gồm
tượng gỗ, tượng ñá, các loại vật dụng gốm, trang sức thủy tinh, vàng có chạm
khắc hình,…
ðiểm qua các địa ñiểm khảo cổ học trên ñây cùng với các cuộc ñiền dã
khảo cổ học cho thấy việc nghiên cứu tại khu di tích Gị Tháp trong những
năm 1983 đến năm 1998 được triển khai trên tồn diện khu di tích Gị Tháp,
đối tượng khảo sát và nghiên cứu gồm tất cả các loại hình di tích, di vật, song
chủ yếu tập trung vào loại hình di tích kiến trúc, di tích mộ táng và các hiện
vật tượng đá, tượng gỗ. Loại hình di chỉ cư trú được đề cập đến trong những
hố thám sát chủ yếu mang tính chất kiểm tra ñịa tầng. Hiện vật trong di chỉ cư
trú, chủ yếu là hiện vật gốm, chỉ ñược thống kê sơ bộ trên một số tiêu bản