Tải bản đầy đủ (.docx) (3 trang)

De khong chet vi stress

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (137.28 KB, 3 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>Để khơng chết vì stress </b>


Căng thẳng tâm lý (stress) được cho là yếu tố quan trọng gây bệnh xơ vữa động
mạch.


Những người có sức khoẻ và tâm lý vững vàng sẽ dễ dàng vượt qua những tác
động của stress. Ngược lại, người có cơ thể ốm yếu, suy sụp, khơng thích ứng nổi
thì dễ phát sinh bệnh tật và thậm chí đột tử khi gặp cú sốc quá lớn.


<i>Ảnh minh họa.</i>
<b>Các giai đoạn stress</b>


Có hai dạng: “stress cơ thể” được dùng để chỉ các hiện tượng mất sức hoặc kiệt
quệ sau một thời gian lao động nặng nhọc kéo dài, hay cơ thể bị nhiễm lạnh, say
nắng, say nóng, hay bị nhiễm khuẩn nặng, bị mất máu nhiều...; còn “stress tâm lý”
xảy ra sau những cơn sợ hãi, căng thẳng, lo âu hoặc những niềm vui, phấn chấn
quá mức.


Mặc dù nguyên nhân gây stress rất khác nhau, song phản ứng của cơ thể đối với
chúng lại giống nhau, đều qua ba giai đoạn:


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

trương lực cơ bắp... khi tiếp xúc các yếu tố gây stress. Giai đoạn này xảy ra nhanh,
từ vài phút đến vài giờ. Bệnh nhân có thể chết trong giai đoạn này nếu yếu tố gây
stress quá mạnh, quá phức tạp. Nếu vượt qua được, các phản ứng ban đầu chuyển
sang giai đoạn thích nghi.


Giai đoạn thích nghi: sức đề kháng của cơ thể tăng lên, con người có thể làm chủ
tình huống stress. Nếu khả năng thích ứng cao, các chức năng tâm sinh lý của cơ
thể được phục hồi. Ngược lại, cơ thể chuyển sang giai đoạn kiệt quệ.


Giai đoạn kiệt quệ: phản ứng với stress trở thành bệnh lý khi tình huống stress bất


ngờ, dữ dội vượt quá khả năng thích nghi của cơ thể. Trong giai đoạn này, các biến
đổi tâm sinh lý tập trung ở giai đoạn báo động xuất hiện trở lại.


Về lâm sàng, phản ứng với stress cấp tính làm người bệnh hưng phấn quá mức cả
về tâm lý lẫn cơ thể với các biểu hiện: tăng trương lực cơ làm cho nét mặt căng
thẳng, cử chỉ cứng nhắc, có cảm giác đau bên trong cơ thể; rối loạn thần kinh thực
vật như nhịp tim nhanh, có cơn đau vùng trước tim, huyết áp tăng, khó thở, ngất
xỉu, vã mồ hôi, nhức đầu, đau nhiều nơi, nhất là các cơ bắp. Bệnh nhân tăng cảm
giác, nhất là thính giác, vì vậy tiếng động bình thường cũng trở nên khó chịu, dễ
nổi cáu, bất an, kích động, rối loạn hành vi...


<b>Vì sao stress có thể gây đột tử?</b>


Theo tổ chức Y tế thế giới (WHO), sức khoẻ của những người có cơng ăn việc làm
thường tốt hơn người thất nghiệp. Tuy nhiên, sự tổ chức công việc của xã hội, kiểu
quản lý và những mối quan hệ xã hội tại nơi làm việc đều ảnh hưởng đến sức khoẻ
của họ. Kiểm sốt cơng việc kém có liên quan trực tiếp, rõ ràng với đau thắt lưng,
nghỉ ốm và bệnh tim mạch. Kiểm sốt tốt cơng việc làm giảm hai đến ba lần nguy
cơ bị các bệnh tim mạch.


Bên cạnh ba yếu tố nguy cơ chủ yếu gây vữa xơ động mạch là tăng cholesterol
máu, tăng huyết áp và hút thuốc lá; căng thẳng tâm lý cũng được xác định là một
yếu tố quan trọng. Căng thẳng tâm lý gây tăng hoạt động của hệ thần kinh giao
cảm gây ảnh hưởng xấu đến thành mạch, làm rối loạn tuần hoàn và tăng nguy cơ
tổn thương các tế bào nội mạc, làm tăng tính thấm của tế bào nội mạc và do vậy
làm tăng nguy cơ lắng đọng LDL-C gây hình thành và phát triển xơ vữa động
mạch, một yếu tố dẫn đến đột tử.


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

huyết áp tâm thu và gây thiếu máu cơ tim ở các bệnh nhân có vữa xơ động mạch
vành, làm tăng nguy cơ bị rung thất và đột tử.



<b>Nâng cao đề kháng chế ngự stress</b>


Dự đoán được một sự kiện có hại xảy ra vào lúc nào thì tốt hơn là khơng có thơng
tin gì về sự kiện này. Một sự kiện đe dọa sẽ ít gây ra những hậu quả tai hại nếu
chúng ta dự liệu được khi nào nó xảy ra, nếu chúng ta làm được một việc gì đó
trước sự kiện ấy và nhận được phản hồi về hiệu quả của hành động ấy. Tầm quan
trọng của khả năng tiên đoán và kiểm soát cũng được thấy trong các đáp ứng của
con người đối với tác nhân gây stress.


Cùng một sự kiện nhưng mức độ stress phụ thuộc vào ý nghĩa và những tiềm năng
sẵn có của mỗi người, cũng như kỹ năng từng người trong việc ứng phó với sự
kiện. Khi một sự kiện được nhận định là lành tính, những cảm xúc tích cực như vui
vẻ, yêu thương, hạnh phúc, phấn khởi, thanh thản sẽ diễn ra. Nếu sự kiện được
đánh giá là tiêu cực, những cảm xúc như lo âu, sợ hãi, tội lỗi, thất vọng hoặc trầm
uất sẽ xuất hiện. Cả việc nhận định sự kiện là tiêu cực cũng như việc xem xét các
khả năng ứng phó khơng đầy đủ và không hiệu quả đều là những yếu tố làm stress
xuất hiện.


Chúng ta càng đầu tư nhiều vào một mục đích hoặc một hoạt động nào đó, thì
stress càng nặng nề khi mục đích đó, hoạt động đó bị đe doạ. Ngược lại, ý thức về
khả năng kiểm soát sự kiện sẽ làm giảm stress. Sự nhận thức về khả năng kiểm
sốt có ảnh hưởng lên tác động của stress với mỗi người.


Thời gian và tần số xuất hiện tác nhân gây stress cũng được xem là có vai trị trung
tâm trong việc xác định những hậu quả tiêu cực với sức khoẻ. Yếu tố nhân cách
đóng vai trị quan trọng trong cách ứng phó với stress của từng cá nhân.


Khi đối đầu với một sự kiện gây stress, con người cần cố gắng hoá giải sự nguy hại
và chế ngự sự đe doạ bằng những hành động có nhận thức. Mỗi người sẽ lựa chọn:


hoặc thích nghi để phù hợp tốt hơn với mơi trường, hoặc thay đổi mơi trường để
thích hợp với nhu cầu bản thân. Một kiểu cách đáp ứng phải có sẵn trong “vốn
sống” mỗi người, đó chính là bản lĩnh được sử dụng để ứng phó với tác nhân gây
stress.


</div>

<!--links-->

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×