Tải bản đầy đủ (.docx) (6 trang)

Tim hieu quan he huu nghi Viet Nam Lao

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (317.48 KB, 6 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

Cùng tựa lưng vào dãy Trường Sơn hùng vĩ, cùng uống chung dịng nước Mê
Cơng, từ rất sớm, Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại và Chủ tịch Cayson Phonvihan đã đặt
nền móng cho mối quan hệ hữu nghị truyền thống, đoàn kết đặc biệt và hợp tác toàn
diện giữa hai nước Việt Nam - Lào. Trải qua năm tháng, mối quan hệ gắn bó thủy
chung lâu đời đó đã trở thành tài sản vơ giá của hai dân tộc và luôn được truyền tiếp
cho các thế hệ mai sau.


Việt Nam và Lào nằm ở trung tâm bán đảo Ấn - Trung, thuộc vùng Đông Nam
Á lục địa. Trong phạm vi bán đảo Đông Dương, Việt Nam nằm ở phía đơng Trường
Sơn như một bao lơn nhìn ra biển, Lào nằm ở sườn tây dãy Trường Sơn, lọt sâu vào
đất liền của bán đảo. Như vậy dãy Trường Sơn được ví như cột sống của hai nước, tạo
thành biên giới tự nhiên trên đất liền giữa Việt Nam và Lào.


Việt Nam và Lào là những nước thuộc loại “vừa” và “tương đối nhỏ” sống bên
cạnh nhau chiếm vị trí địa chiến lược quan trọng ở vùng Đông Nam Á do nằm kề con
đường giao thương hàng hải hàng đầu thế giới, nối liền Đông Bắc Á, Nam Á qua Tây
Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương.


Về quốc phịng: bờ biển Việt Nam ở phía đơng tương đối dài nên việc bố phòng
về mặt biển gặp khơng ít trở ngại. Trong khi đó dựa vào địa hình hiểm trở, nhất là với
dãy Trường Sơn - một “lá chắn chiến tranh” hùng vĩ, một lợi thế tự nhiên che chắn
cho cả Việt Nam và Lào, nên chẳng những hai nước có thể khắc phục được những
điểm yếu “hở sườn” ở phía đơng mà cịn phát huy được sự cần thiết dựa lưng vào nhau
tạo ra vô vàn cách đánh của chiến tranh du kích, chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc.


Về các nhân tố dân cư, xã hội: Việt Nam và Lào đều là những quốc gia đa dân
tộc, đa ngôn ngữ. Hiện tượng một tộc người sống xuyên biên giới quốc gia của hai
nước, hoặc nhiều nước là đặc điểm tự nhiên của sự phân bố tộc người ở khu vực
Đơng Nam Á nói chung, ở Việt Nam và Lào nói riêng. Đặc điểm này đã chi phối
mạnh mẽ các mối quan hệ khác trên đường biên giới quốc gia Việt Nam-Lào. Chính
q trình cộng cư, hoặc sinh sống xen cài của những cư dân Việt Nam và cư dân Lào


trên địa bàn biên giới của hai nước đã dẫn đến việc cùng khai thác và chia sẻ nguồn
lợi tự nhiên, đặc biệt là nguồn lợi sinh thủy. Điều này, thêm một lần nữa khẳng định
các quan hệ cội nguồn và quan hệ tiếp xúc chính là những điều kiện lịch sử và xã hội
đầu tiên, tạo ra những mối dây liên hệ và sự giao thoa văn hoá nhiều tầng nấc giữa cư
dân hai nước.


Chính những điều kiện tự nhiên, dân cư, xã hội, văn hoá, lịch sử, truyền thống
chống giặc ngoại xâm đó của nhân dân hai nước Việt Nam và Lào đã đặt ra yêu cầu
tất yếu về sự hợp tác và hỗ trợ lẫn nhau giữa hai dân tộc trong lịch sử chống ngoại
xâm, xây dựng và bảo vệ đất nước.


<i><b>Tình cảm gắn bó keo sơn giữa hai dân tộc Việt Nam - Lào:</b></i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

<i>dân tộc trong những năm tháng chiến tranh trước đây cũng như trong sự nghiệp xây</i>
<i>dựng đất nước hiện nay.</i>


Những năm 1930 - 1939, các cuộc đấu tranh của nhân dân Việt Nam và Lào đã
hỗ trợ lẫn nhau, góp phần thúc đẩy sự phát triển phong trào cách mạng mỗi nước; tiếp
đến là giúp nhau tiến hành cuộc vận động khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền
thắng lợi (1939 - 1945) và liên minh Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam chiến đấu
chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược (1954-1975).


<i>Liên quân Việt - Lào trước giờ xuất trận năm 1946</i>


Sau năm 1975, quan hệ Việt Nam và Lào bước sang trang mới, từ liên minh
chiến đấu chung một chiến hào sang hợp tác toàn diện giữa hai quốc gia có độc lập
chủ quyền. Đây là thời kỳ Đảng Cộng sản Việt Nam và Đảng Nhân dân cách mạng
Lào trở thành đảng cầm quyền ở mỗi nước. Cả hai nước càng có điều kiện phát huy
truyền thống tốt đẹp đã từng gắn bó keo sơn trong cuộc đấu tranh chống kẻ thù xâm
lược, xây dựng và tăng cường quan hệ liên minh, liên kết và hợp tác tồn diện về


chính trị, quốc phịng - an ninh, kinh tế, văn hố, giáo dục...


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

Từ đó đến nay, trung bình mỗi năm, hai Đảng, hai Nhà nước đã cử trên 30
đoàn từ cấp trung ương đến cấp tỉnh sang trao đổi với nhau những kinh nghiệm về giữ
vững định hướng xã hội chủ nghĩa, về công tác tư tưởng, lý luận, dân vận. Quan hệ
giữa các bộ, ban, ngành, đoàn thể, địa phương, nhất là các tỉnh biên giới kết nghĩa đều
có những trao đổi hợp tác và mối quan hệ đó ngày càng đi vào chiều sâu với nội dung
thiết thực và có hiệu quả.


Đặc biệt, hai bên phối hợp nghiên cứu, biên soạn cơng trình “Lịch sử quan hệ
đặc biệt Việt Nam- Lào, Lào- Việt Nam từ 1930 - 2007” nhằm tổng kết quá trình liên
minh chiến đấu và hợp tác toàn diện Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam, đúc kết những
bài học kinh nghiệm phục vụ cho việc tiếp tục xây dựng và phát triển quan hệ đặc biệt
Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam lên một tầm cao mới.


<i><b>Chủ tịch Hồ Chí Minh và quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào:</b></i><b> “Việt - Lào hai</b>
<b>nước chúng ta, Tình sâu hơn nước Hồng Hà - Cửu Long” (Hồ Chí Minh).</b>


<i>Chủ tịch Hồ Chí Minh và Hồng thân Souphanouvong tại chiến khu Việt Bắc năm 1951</i>


Khi nói về mối quan hệ nghĩa tình giữa hai Đảng, hai nước, hai dân tộc Việt
Nam và Lào, Bác Hồ kính yêu của chúng ta - Người đã dày công vun đắp cho mối
quan hệ Việt - Lào đã nhấn mạnh, đó là mối “quan hệ đặc biệt”. Và đúng như vậy, để
nói cho hết về mối “quan hệ đặc biệt” ấy cần phải ngược dòng lịch sử, để lịch sử
chứng minh cái nghĩa, cái tình và tấm lịng thủy chung, son sắt, sát cánh bên nhau của
hai Đảng, hai dân tộc Việt - Lào trong cuộc đấu tranh chống kẻ thù chung, giành độc
lập cho dân tộc và cùng nhau xây dựng hịa bình, hướng tới tương lai hạnh phúc.


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

<i>"Quan hệ đặc biệt” trên tinh thần “giúp bạn là tự giúp mình”, coi trọng quyền</i>
<i>dân tộc tự quyết cũng như tính độc lập, tự chủ cách mạng của mỗi nước. </i>



<i>Bệnh viện Hồng Thập Tự của Việt Nam tại Xiêng Khoảng (Lào) được xây dựng theo hiệp định ký</i>
<i>kết giữa Chính phủ Việt Nam và Chính phủ Vương quốc Lào năm 1960.</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

<i><b>Lịch sử quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam (1930 - 2007):</b></i>
Từ giữa thập kỷ 80 thế kỷ XX, tình hình quốc tế và khu vực có những biến đổi
chưa từng thấy, xu thế tồn cầu hóa và khu vực hóa tiếp tục tác động sâu sắc đến mọi
quốc gia. Để hội nhập với khu vực và quốc tế, hai nước Việt Nam và Lào đứng trước
một yêu cầu tất yếu phải tiến hành đổi mới, nhằm hoàn thiện chế độ xã hội của mình
và từng bước quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội. Việc Việt Nam và Lào xác định chiến
lược phát triển kinh tế - xã hội dài hạn chơ mỗi nước đã tạo điều kiện thúc đẩy quan
hệ hợp tác toàn diện Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam bước vào giai đoạn phát triển
mới cao hơn. Căn cứ vào thoả thuận giữa Bộ Chính trị Trung ương Đảng Cộng sản
Việt Nam và Bộ Chính trị Trung ương Đảng Nhân dân cách mạng Lào tháng 10 năm
1991 và thực hiện Hiệp định hợp tác giữa hai Chính phủ ký ngày 15/02/1992, Ủy ban
Kế hoạch nhà nước Việt Nam và Ủy ban Kế hoạch và Hợp tác Lào cùng phối hợp đề
ra Chiến lược hợp tác về kinh tế, văn hoá, khoa học kỹ thuật giữa Việt Nam và Lào.
Chiến lược này là cơ sở để hai bên phối hợp xây dựng và quyết định các chương trình
và dự án kế hoạch hợp tác trong thời gian tới.


Như vậy, với những điều kiện mới của quốc tế và khu vực, Việt Nam và Lào
đang có cơ hội khai thác vị trí địa lý, tiềm năng và lợi thế của mình nhằm bổ sung cho
nhau cùng phát triển. Việt Nam với thế mạnh về kinh tế biển và vận tải biển, có thể
phát huy vai trị là “cửa ngõ” ngắn nhất ra biển của Lào, để Lào có điều kiện lưu
thông thương mại quá cảnh với khu vực và quốc tế. Tương tự như vậy, với tư cách
“một trạm trung chuyển” trong nền kinh tế tiểu vùng Mê Cơng mở rộng, có lợi thế về
vận tải và thương mại quá cảnh, Lào có thể giúp Việt Nam mở rộng thị trường vào nội
địa Đông Nam Á, châu Á và thế giới.


Từ khi hai nước tiến hành đổi mới vào năm 1986, quan hệ hợp tác toàn diện


Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam tiếp tục được củng cố, tăng cường và đã đạt được
những thành tựu lớn lao trong các lĩnh vực: chính trị và đối ngoại; quốc phịng, an
ninh; kinh tế, văn hóa, khoa học - kỹ thuật; giáo dục và đào tạo; giao thông vận tải;
thương mại; đầu tư…


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

Bước sang thế kỷ XXI, toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế diễn ra ngày
càng mạnh mẽ, sâu sắc trong thế giới hiện đại trên tất cả các lĩnh vực, đặc biệt là kinh
tế, khoa học, cơng nghệ, thương mại... Đó là xu thế khách quan lôi cuốn ngày càng
nhiều nước tham gia, vừa có mặt tích cực, vừa có mặt tiêu cực, vừa có hợp tác, vừa có
đấu tranh. Thế giới đứng trước những vấn đề tồn cầu mà khơng một quốc gia riêng lẻ
nào có thể tự giải quyết nếu khơng có sự hợp tác đa phương.


<i>Hát mừng tình hữu nghị Việt - Lào</i>


</div>

<!--links-->

×