ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
TIỂU LUẬN HỌC PHẦN
DI TÍCH VÀ THẮNG CẢNH VIỆT NAM
ĐỀ TÀI
KHU DI TÍCH CỔ LOA – DI TÍCH QUỐC GIA ĐẶC BIỆT
Giảng viên: TS. Nguyễn Thị Thu Trang
Hà Nội, tháng 04 năm 2021
MỤC LỤC
DANH SÁCH THÀNH VIÊN NHÓM .............................................................. 3
MỞ ĐẦU .............................................................................................................. 4
1. Lý do chọn đề tài ....................................................................................... 4
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ............................................................. 4
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ............................................................ 5
4. Phương pháp nghiên cứu........................................................................... 5
5. Cấu trúc tiểu luận ...................................................................................... 5
NỘI DUNG........................................................................................................... 6
Chương 1: GIỚI THIỆU CHUNG ................................................................ 6
1.1. Khái niệm di tích, thắng cảnh ................................................................ 6
1.2. Vai trị, ý nghĩa của di tích, thắng cảnh trong nền văn hóa dân tộc ....... 6
1.3. Vai trị, ý nghĩa của di tích, thắng cảnh trong sự nghiệp phát triển du
lịch ................................................................................................................. 7
1.4. Di tích Cổ Loa ........................................................................................ 8
Chương 2: NHỮNG GIÁ TRỊ TẠI KHU DI TÍCH CỔ LOA .................. 12
2.1. Giá trị lịch sử - văn hóa – nhân văn ..................................................... 12
2.2. Giá trị kinh tế - du lịch ......................................................................... 31
2.3. Giá trị tự nhiên ..................................................................................... 40
Chương 3: MỐI QUAN HỆ VỚI CÁC THÀNH TỐ KHÁC ................... 43
3.1. Với tín ngưỡng, truyền thuyết và lễ hội ............................................... 43
3.2. Với tài nguyên du lịch .......................................................................... 50
3.3. Với di sản thiên nhiên, di sản văn hóa ................................................. 56
KẾT LUẬN ........................................................................................................ 58
Những giá trị ngàn năm bất biến ................................................................. 58
MỘT SỐ HÌNH ẢNH ĐI THỰC TẾ CỦA NHĨM ....................................... 60
TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................ 64
BẢNG PHÂN CÔNG CÔNG VIỆC ................................................................ 66
DANH SÁCH THÀNH VIÊN NHĨM
Họ và tên
MSSV
Hồng Văn Xn Trường
19032621
Phạm Phương Anh
19032521
Nguyễn Phương Thúy
19032606
Đào Đình Đắc
19032539
Phan Thu Trang
19032614
Nguyễn Thị Khánh Linh
19032563
Hoàng Vân Long
19032566
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Cổ Loa là một địa danh quen thuộc với bất kỳ người dân Việt Nam nào,
ngay từ khi là trẻ nhỏ mới tới trường với bài học đầu tiên về lịch sử dân tộc. Cổ
Loa nay là một xã thuộc huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội. Cổ Loa được biết
đến bởi nơi đây từng là kinh đô của nước Âu Lạc thời An Dương Vương với tòa
thành nổi tiếng. Cổ Loa là kinh đơ của nước Âu Lạc chỉ có mấy chục năm,
nhưng trong suốt hơn hai nghìn năm, cho đến hơm nay và mãi mãi về sau, người
Việt Nam chưa khi nào quên Cổ Loa. Cổ Loa hằng tồn trong tâm thức của người
dân vùng đất này, hằng tồn trong tâm thức của mỗi người Việt Nam. Đó là hình
ảnh nước Âu Lạc buổi đầu dựng nước với biết bao câu chuyện nửa thực nửa hư
mà đến nay vẫn còn đọng lại trong ký ức dân gian, ở từng tên xóm ngõ, ở ừng
tên xứ đồng. Đó là sức sống của bài học lịch sử sớm phải biết tự trưởng thành,
nhưng cũng thấm đượm lịng nhân ái mênh mơng. Có thể nói, ở Việt Nam không
mấy địa phương (trong phạm vi không gian một xã) là đối tượng của hàng loạt
cơng trình nghiên cứu về địa lý, địa chất, khảo cổ học, dân tộc học, lịch sử, ngơn
ngữ văn hóa,… như Cổ Loa. Nhận thức được tầm quan trọng và ý nghĩa của khu
di tích Cổ Loa, đặc biệt là một sinh viên ngành Việt Nam học nhóm tác giả chọn
đề tài Khu di tích Cổ Loa nhằm bổ sung vào vốn hiểu biết về văn hóa lịch sử,
tìm ra được những giá trị, nét đặc sắc nhất của khu di tích Cổ Loa.
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
2.1. Đối tượng nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu, tìm hiểu về khu di tích Cổ Loa, huyện Đơng Anh,
thành phố Hà Nội.
2.2. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu khu di tích Cổ Loa, các giá trị của di tích Cổ
Loa trên địa bàn xã Cổ Loa, huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cở sở tìm hiểu về khu di tích Cổ Loa, thấy được những giá trị của
khu di tích Cổ Loa.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện mục đích trên, đề tài có nhiệm vụ sau:
- Tìm hiểu về khu di tích Cổ Loa thuộc xã Cổ Loa, huyện Đơng
Anh, thành phố Hà Nội
- Phân tích đặc điểm khu di tích Cổ Loa.
4. Phương pháp nghiên cứu
Để triển khai đề tài này, chúng tôi sử dụng các phương pháp nghiên cứu
sau:
- Phương pháp khảo sát thực địa.
- Phương pháp phân tích tài liệu.
5. Cấu trúc tiểu luận
Ngồi phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, mục lục, hình ảnh, bảng
phân công công việc. Tiểu luận chia làm 3 chương:
Chương 1: Giới thiệu chung
Chương 2: Những giá trị tại khu di tích Cổ Loa
Chương 3: Mối quan hệ với các thành tố khác
NỘI DUNG
Chương 1: GIỚI THIỆU CHUNG
1.1. Khái niệm di tích, thắng cảnh
Khái niệm di tích: “Di tích là dấu vết của người hoặc sự việc thời xưa
hoặc thời trước đây cịn để lại”. Di tích là dấu vết của q khứ còn lưu lại trong
lòng đất hoặc trên mặt đất có ý nghĩa về mặt văn hóa và lịch sử
Ví dụ: Hồng thành Thăng Long, cố đơ Huế, thánh địa Mỹ Sơn...
Khái niệm di tích lịch sử văn hóa: Ở Việt Nam, theo pháp luật bảo vệ và
sử dụng di tích lịch sử - văn hố và danh lam thắng cảnh (04/04/1984), di tích
lịch sử - văn hố được quy định như sau: "Di tích lịch sử - văn hố là những
cơng trình xây dựng, địa điểm, đồ vật, tài liệu và các tác phẩm có giá trị lịch sử,
khoa học, nghệ thuật, cũng như các giá trị văn hoá khác, hoặc liên quan đến các
sự kiện lịch sử, quá trình phát triển văn hố - xã hội".
Theo Luật Di sản Văn hóa và nghị định hướng dẫn thi hành (Nxb Chính
trị Quốc gia, H, 2002, tr 13), “Di tích lịch sử - văn hóa là cơng trình xây dựng,
địa điểm và các di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia thuộc cơng trình, địa điểm có giá
trị lịch sử, văn hóa, khoa học”.
Ví dụ: di tích Bãi Cọc Bạch Đằng, chùa Một Cột, Thánh địa Mỹ Sơn…
Thắng cảnh: là cảnh quan thiên nhiên tươi đẹp, những cảnh đẹp nổi tiếng
hoặc di tích thắng cảnh, danh lam thắng cảnh có sự kết hợp di tích lịch sử - văn
hóa và cảnh quan thiên nhiên đẹp.
Ví dụ: Thắng cảnh Vịnh Hạ Long, Hương Sơn, bãi biển Nha Trang…
1.2. Vai trò, ý nghĩa của di tích, thắng cảnh trong nền văn hóa dân tộc
• Di tích lịch sử văn hóa với nhiều giá trị có khả năng rất lớn góp phần
vào việc phát triển trí tuệ, tài năng của con người; góp phần vào việc phát triển
KHXH và NV, quảng bá về VN.
• Đó chính là bộ mặt q khứ của mỗi dân tộc, mỗi quốc gia; lưu giữ hình
ảnh và những giá trị văn hóa, giá trị cảnh quan của mỗi địa phương, mỗi quốc
gia.
• Di tích lịch sử văn hóa là những bằng chứng vật chất có ý nghĩa quan
trọng, minh chứng về lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước của dân tộc.
• Di tích lịch sử liên quan tới sự kiện hoặc nhân vật lịch sử có những đóng
góp, ảnh hưởng tới sự tiến bộ của lịch sử dân tộc.
• Di tích giúp cho con người biết được cội nguồn của dân tộc mình, hiểu
về truyền thống lịch sử, đặc trưng văn hoá của đất nước và do đó có tác động
ngược trở lại tới việc hình thành nhân cách con người VN hiện đại, giáo dục cho
con cháu lòng tự hào dân tộc.
1.3. Vai trò, ý nghĩa của di tích, thắng cảnh trong sự nghiệp phát triển
du lịch
Di tích lịch sử văn hóa:
Là di sản văn hóa vật thể do con người sáng tạo ra trong quá trình lịch sử
tồn tại và phát triển của mình, nó là những nguồn lực để phát triển du lịch bền
vững, là những yếu tố cần thiết để xây dựng loại hình du lịch văn hóa, xây dựng
các tuyến, điểm, chương trình du lịch văn hóa.
Là di sản văn hóa vật thể do con người sáng tạo ra trong quá trình lịch sử
tồn tại và phát triển của mình, nó là những nguồn lực để phát triển du lịch bền
vững, là những yếu tố cần thiết để xây dựng loại hình du lịch văn hóa, xây dựng
các tuyến, điểm, chương trình du lịch văn hóa.
Hệ thống cảnh quan thiên nhiên đẹp – thắng cảnh cũng là một nguồn lực
để phát triển du lịch bền vững, là những yếu tố cần thiết để xây dựng loại hình
du lịch 10 cảnh quan thiên nhiên, xây dựng các tuyến, điểm, chương trình du
lịch sinh thái như du lịch biển, du lịch vườn quốc gia, du lịch rừng nguyên sinh,
du lịch hang động...
Hệ thống di tích lịch sử văn hóa và thắng cảnh góp phần thỏa mãn nhu
cầu của du khách, giúp cho du lịch tăng thêm nguồn thu, từ đó nâng cao ý thức
của người dân nhận thức đầy đủ về vai trị quan trọng của di tích thắng cảnh,
góp phần bảo tồn văn hóa vật thể và văn hóa phi vật thể. Để đáp ứng nhu cầu và
sự quan tâm của du khách, các di tích, thắng cảnh gắn với các hoạt động tín
ngưỡng, lễ hội, nghệ thuật biểu diễn, các hình thức văn hóa dân gian truyền
thống được giữ gìn, bảo tồn và phát huy các giá trị.
1.4. Di tích Cổ Loa
1.4.1. Vị trí địa lý
Khu di tích Cổ Loa nằm trên địa phận 3 xã Cổ Loa, Dục Tú và Việt Hùng
thuộc huyện Đông Anh (Hà Nội).
Cổ Loa nằm vào vị trí đỉnh của tam giác Châu thổ sông Hồng, là nơi giao
lưu quan trọng của đường thủy và đường bộ. Từ đây có thể kiểm sốt được cả
vùng đồng bằng lẫn vùng sơn địa. Cổ Loa là một khu đất đồi cao ráo nằm ở tả
ngạn sông Hồng. Con sơng này qua nhiều thế kỷ bị phù sa bồi đắp và nay đã
trở thành một con lạch nhỏ, nhưng xưa kia sơng Hồng là một nhánh lớn quan
trọng của sông Hồng, nối liền sông Hồng với sông Cầu, con sông lớn nhất trong
hệ thống sơng Thái Bình. Như vậy, về phương diện giao thơng đường thủy, Cổ
Loa có vị trí vơ cùng thuận lợi hơn bất kỳ ở đâu tại Đồng bằng Bắc Bộ vào thời
ấy. Đó là vị trí nối liền mạng lưới đường thủy của sông Hồng cùng với mạng
lưới đường thủy của sơng Thái Bình. Hai mạng lưới đường thủy này chi phối
toàn bộ hệ thống đường thủy tại Bắc Bộ Việt Nam. Qua sơng Hồng, thuyền bè
có thể tỏa đi khắp nơi, nếu ngược lên sông Hồng là có thể thâm nhập vào vùng
Bắc hay Tây Bắc của Bắc Bộ, xi sơng Hồng, thuyền có thể ra đến biển cả, cịn
nếu muốn đến vùng phía Đơng Bắc Bộ thì dùng sơng Cầu để thâm nhập vào hệ
thống sơng Thái Bình đến tận sơng Thương và sơng Lục Nam.
1.4.2. Kết cấu thành Cổ Loa
Sơ đồ toàn cảnh khu Di tích Cổ Loa (Ảnh chụp tại Nhà trưng bày Di tích)
Cổ Loa được hình thành cùng với thời kỳ An Dương Vương - Thục Phán.
Thời kỳ đó được mở đầu bằng việc xây đắp một toà thành ở Cổ Loa. Đắp thành
ở Cổ Loa, An Dương Vương đã chuyển khu vực Cổ Loa thời tiền Cổ Loa trở
thành Kinh đô nước Âu Lạc.
Về mặt vật chứng, việc nghiên cứu Khảo cổ học thành Cổ Loa đã thể hiện
ra những hình thể của di tích tồ thành cịn lại như sau:
a) Tường thành:
Di tích thành hiện thấy có ba vịng: tường thành ngoại, tường thành trung
và tường thành nội.
Tường thành ngoại là một vịng tường khép kín, lần theo những gị đống
thiên nhiên, nên khơng có hình dáng rõ ràng. Khơng phải tất cả các vòng tường
thành đều do đắp xây, mà nhiều đoạn vốn là gò đất tự nhiên.
Tường thành trung là một vịng khép kín, khơng có hình dáng nhất định,
cũng do đắp nối các gò tự nhiên và men theo đầm hồ mà thành. Theo cố GS
Trần Quốc Vượng, chiều dài thành khoảng 6.500m, theo R.Despierres và
Cl.Madrolle thì thành dài 6.150m. Cao từ 6 đến 12m, mặt thành rộng trung bình
10m, chân thành rộng tới 20m.
Điểm độc đáo là vòng tường thành ngoại và trung được đắp bằng nhau ở
phía Nam, tạo thành một quãng trống làm cửa ra vào. Hiện tượng nối liền hai
vòng tường thành ngoại và trung để tạo lối ra vào và việc cùng thuận theo thế
đất tự nhiên để đắp tường, làm cho hai vịng tường thành ngoại và trung có
chứng cớ để mang một tuổi chung, đồng thời, có dáng vẻ nguyên thuỷ của một
cơng trình qn sự.
Tường thành nội mang dáng vẻ khác hẳn hai vịng tường thành trên, có
hình chữ nhật nghiêm chỉnh, chu vi khoảng 1.650m, mặt thành rộng khoảng
10m, chân thành rộng khoảng 20m, thành cao chừng 5m.
b) Hào ngoài:
Cả ba vịng tường thành đều có hào ngồi. Hào thành ngồi, phía Tây
Nam, lợi dụng con sơng Hồng, chảy gần sát tường thành. Phía Tây Nam, từ gị
Cột Cờ; phía Đơng, từ Đầm Cả, người xưa đã đào khắp ven phía ngồi tường
thành. Như vậy, nước sơng Hồng có thể chảy thông khắp quanh thành. Hào
thành giữa cũng nối với hào thành ngồi ở gị Cột Cờ và Đầm Cả. Hào thành
trong được đào quanh tường thành. Đó là một vịng hào khép kín, nối với sơng
Hồng bằng một trong năm lạch nước ở thành giữa.
c) Cửa thành:
Vòng thành trong được xây dựng theo bốn hướng chính: Nam, Bắc, Đơng,
Tây, nhưng chỉ mở một cửa ở chính giữa tường thành phía Nam. Vịng thành
giữa mở bốn cửa: cửa Trấn Nam, cửa Bắc, cửa Tây Bắc, cửa Tây Nam.
Chương 2: NHỮNG GIÁ TRỊ TẠI KHU DI TÍCH CỔ LOA
2.1. Giá trị lịch sử - văn hóa – nhân văn
2.1.1. Giá trị lịch sử
Một trong những giá trị nổi bật của khu di tích Cổ Loa đó chính là giá trị
lịch sử sâu sắc, được lưu giữ, bảo tồn từ ngàn đời nay. Thành Cổ Loa được xây
dựng trong giai đoạn khai sinh nhà nước thứ hai của lịch sử Việt Nam – nhà
nước Âu Lạc (TK III TCN), do vua An Dương Vương (tức Vua Thục Phán) cai
trị. Trong thời kỳ buổi đầu dựng nước và dự nước của ơng cha ta gặp rất nhiều
khó khăn của giặc trong lẫn thù ngồi, vì lẽ đó sau khi chiến thắng quân Tần sau
10 năm chiến đấu, vua An Dương Vương đưa ra một quyết định táo bạo đó
chính là rời đô và khởi công Thành Cổ Loa (208- 207 TCN). Sự kiện này đã
đánh dấu sự di cư của đồng bào ta từ vùng núi xuống vùng đồng bằng, một
quyết định vô cùng sáng suốt đã mở ra một kỷ nguyên mới cho dân tộc ta.
Trong lịch sử, Thành Cổ Loa là trụ cột vững chắc của nhân dân ta trong
những cuộc chiến tranh xâm lược của Triệu Đà, là nơi sinh sống của các vua,
phi tần, quan viên,…cũng là nơi gắn liền với truyền thuyết vẫn còn được lưu
mãi đến đời nay, cảnh nước mất nhà tan, cảnh chuyện tình oan trái, tất cả tạo ra
một thảm kịch bi thương cho nhà nước Âu Lạc nói chung và số phận của An
Dương Vương, Mỵ Châu, Trọng Thủy nói riêng.
Đến TK X, thành Cổ Loa lại một lần nữa được trở thành kinh đô của nhà
nước Vạn Xuân do Ngơ Quyền cai trị.
Trải qua một q trình dài lịch sử, thành Cổ Loa sau đó đã khơng cịn
được ngun vẹn, cũng phần vì chiến tranh, phần vì sự tác động của thời gian.
Đến năm 1687, dưới thời vua Lê, ngôi đền thờ vua An Dương Vương ngay
trong thành đã được xây dựng, sau đó lần lượt là đình Cổ Loa, Am Mỵ Châu,
chùa Bảo Sơn, đền Cao Lỗ.
Ngoài ra, theo các nghiên cứu khảo cổ học, thành Cổ Loa cũng là nơi lưu
giữ những văn hóa sơ khai của người Việt, như văn hóa Sơn Vi, văn hóa Phùng
Ngun, văn hóa Đồng Đậu, văn hóa Gị Mun, mà đỉnh cao là Văn hóa Đơng
Sơn, với nhiều di chỉ khảo cổ tiêu biểu: Đồng Vơng, Bãi Mèn, Đình Chiền, Đình
Tràng, Mả Tre, Thành Nội, Thành Ngoại, Thành Trung, Xuân Kiều, xóm Nhồi,
đền Thượng, Tiên Hội, Đường Mây, Cầu Vực... và hàng vạn cơng cụ lao động,
nhạc khí và vũ khí bằng đồng.
2.1.2. Giá trị kiến trúc – điêu khắc
Khu Di tích Cổ Loa gồm 1 cụm các đình đền và các di tích khảo cổ học
tiêu biểu bên cạnh Thành Cổ Loa như Đền Thường (đền thờ An Dương Vương),
Ngự Triều Di Quy (đình Cổ Loa), Am Mỵ Châu (đền thờ Mỵ Châu), Đền thờ
Cao Lỗ (vị tướng giúp vua An Dương Vương chế tạo ra nỏ thần),…
Hình ảnh sưu tầm
Có thể có rằng, Thành Cổ Loa là một cơng trình kiến trúc cổ và vĩ đại của
dân tộc ta, được xây dựng kì cơng và phức tạp, là minh chứng cho sự sáng tạo và
trí tưởng tượng của ông cha ta. Việc xây dựng thành gặp rất nhiều khó khăn, bị
đổ nhiều lần, theo tục truyền rằng Thần Kim Quy đã hiện lên và giúp đỡ vua An
Dương Vương hoàn thành việc xây thành, tạo nên một hệ thống phòng ngự vững
chãi, đẩy lùi những ý đồ xấu xa của quân xâm lược.
Thành Cổ Loa, theo tài liệu khảo cổ học, thành có diện tích 10km2. Trong
thư tịch Trung Hoa có chép, thành có 9 vịng thành hình ốc nhưng hiện tại, cấu
trúc thành Cổ Loa chỉ còn gồm 3 thành do sự tàn phá của thời gian. Theo…
thành Cổ Loa gồm có 2 phần: phần thành lũy và phần hào.
Về phần thành lũy gồm có 3 thành như trên, đó là thành Nội, thành Trung
và thành Ngoại. Thành Nội có diện tích 2km2, hình chữ nhật với 18 ụ hỏa hồi
với chu vi 1650m, cao trung bình 5m so với mặt đất, mặt thành rộng từ 6m-12m,
chân rộng 20-30m, có một cửa quay chính nam. Cũng giống như những thành trì
khác, thành nội chính là cốt lõi trung tâm của thành, là nơi ở của Vua, các phi
tần, quan lại, cung nữ. Thành Trung có chu vi khoảng 6500m, có hình đường
cong tự nhiên, mặt thành rộng trung bình 10m, điểm cao nhất cũng khoảng 10,
có 5 cửa chia đều các hướng bắc, tây bắc, nam, tây nam và đơng(cửa nước).
Thành Ngoại là thành bên ngồi cùng, cũng thành đảm nhận nhiệm vụ chống trả
giặc ngoại xâm. Thành có đường cong tự nhiên, dài 8000m, có 4 cửa, đặc biệt là
phương pháp xây thành Ngoại cũng có nhiều điểm thú vị, đó là đào đất tới đâu,
khoét hào tới đó, đắp thành, xây lũy liền kề.
Về phần hào, hào là từ chỉ con mương, sâu rộng, chứa nhiều nước bao
quanh lâu đài, thành lũy,… nhằm cung cấp tuyến phòng thủ sơ bộ. Nên hệ thống
phần hào của các lũy của thành Cổ Loa cũng có cơng dụng tương tự, các hào tại
thành được nối với nhau thành một mạng lưới sơ bộ và nối với sông Hoàng
Giang. Tuy nhiên hiện nay, do yếu tố thời gian và chiến tranh cũng đã đi qua,
các hào cịn sót lại thành Cổ Loa cịn rất ít, rải rác, đa phần đã bị san lấp. Bên
cạnh đó cịn có các lũy phòng vệ như Gò Dục Nội, dãy lũy Bãi Miễu, đồn trú ở
Bãi Mèn, Đình Tràng. Rải rác trong thành còn một số khu vực khác như: Dọc
Đống Bắn (nơi quân lính tập bắn cung nỏ), Ngự Xạ Đài (một nơi để An Dương
Vương có thể quan sát được tồn bộ binh lính luyện tập), Vườn Thuyền (nơi
luyện tập thủy chiến).
Về chất liệu xây thành Cổ Loa. Chất liệu chủ yếu để xây thành là
đất, đá và gốm vỡ. Để giữ cho chân thành và các đoạn ven sông, đầm lầy được
vững chắc, người ta đã sử dụng đá kè – một loại đá tảng lớn. Ở chân thành và rìa
thành, để tránh tình trạng sụt lở, họ đã dải những lớp gốm dày mỏng xen kẽ lớp
đá. Vào những năm gần đây, những nhà khảo cổ học cịn tìm ra nhiều loại gốm
khác như ngói ống, ngói bản, đầu ngói, đinh ngói ở nhiều độ nung khác nhau.
Có thể thấy rằng An Dương Vương là một vị vua vô cùng tài tình
khi đã xây dựng một thành trì khơng chỉ đẹp, mà cịn là cơng trình qn sự kiên
cố. Ông biết tận dụng gò đất cao để nối liền thành một vịng trịn khép kín, vì
vậy các tường thành có đường nét uốn lượn theo địa hình, điều này đã giúp giảm
thiểu sức lao động của người thi công.
Đền Thượng – nơi thờ vua An Dương Vương, đền có diện tích rộng
khoảng 19.138.6m2, xây theo hướng nam, tương truyền đền được xây dựng nội
trên cung của nhà Vua ngày trước. Trước đền có hồ lớn hình cung trịn, bờ cong
được kè bằng
đá, được gọi là
Giếng
Ngọc,
tương
truyền
rằng đây là nơi
Trọng
Thủy
gieo mình tự
vẫn vì hối hận
bởi hành động
của mình.
Bắt
đầu
bước vào đền
sẽ có cổng vào
được xây dựng như một cổng thành với tầng trên và tầng dưới bằng gạch khơng
trát, uốm vịm. Tầng trên xây kiểu vọng lâu 2 tầng 8 mái, tầng dưới kiểu uốm
vịng với 3 cửa. Tại lối đi lên có đơi rồng đá được tạo năm 1972, mang phong
cách nghệ thuật thời Lê Mạt.
Kiến trúc bên trong ngơi đền gồm có: tiền tế- 3 gian, 2 chái. Đền
được làm với thiết kế khung kết cấu gỗ. Về phần mái, được lợp kiểu mũi hài,
trên hệ mái thì đắp những đầu đao cong, tượng nghê chầu. Ở đền có một kiến
trúc vơ cùng đặc sắc đó là kiến trúc “chi vồ” , bên trong đặt tượng An Dương
Vương nặng 200kg, đúc bằng đồng năm 1897.
Hiện nay, trong đền còn lưu giữ khoảng 5 tấm bia đá và 53 hiện vật
có giá trị lịch sử, văn hóa,… Trong đợt khai quật khảo cổ cuối năm 2004, đầu
năm 2005 tại phía sau đền thờ An Dương Vương (đền Thượng) lần đầu tiên đã
tìm thấy một lớp có chứa gốm thời Trần. Nhưng đặc biệt, ở "lớp Cổ Loa" đã tìm
được đấu về lị đúc đồng và một số khuân ba mảnh bằng đá để đúc mũi tên đồng
với nhiều mẫu khác nhau cùng với nhiều mẫu khác nhau cùng với một số khuân
đúc mũi lao, mũi giáo.
Đền thờ Cao Lỗ - vị tướng giúp vua An Dương Vương chế tạo nỏ thần.
Theo truyền thuyết, Cao Lỗ đã chế tạo ra một loại vũ khí hiện đại nhất thời Âu
Lạc bấy giờ. Vũ khí có tên là “Linh Quang Thần Cơ” – là sự kết hợp của 1 chiếc
nỏ và cung tên bằng đồng 3 cạnh, có tính sát thương cao, mỗi lần bắn được rất
nhiều phát. Đền thờ Cao Lỗ chỉ cách đền thờ vua An Dương Vương 150m. Với
tấm lịng tơn kính của người đời sau dành cho tướng quân Cao Lỗ, ngay tại
thành Cổ Loa, từ lâu người dân đã lập đền thờ để tưởng nhớ đến ơng. Đền thờ
nhỏ, có dựng tượng Cao Lỗ bắn nỏ giữa ao nước trước đền.
Ngự Triều Di Quy – đình Cổ Loa, đình nằm gần giữa khu thành Nội,
cách đền Thượng 300m. Đình có kiến trúc tương đối lớn, gồm đại đình (gồm 5
gian 2 chái) và hậu cung, tạo nên bố cục mặt bằng hình chữ “Đinh”.
Hình ảnh sưu tầm
Đại đình dài 30m, rộng gần 14m, được làm bằng gỗ lim, mái lợp ngói mũi
hài với 4 góc đao cong. Khơng gian có 6 bộ vì chia làm 5 gian 2 chái, mỗi gian
rộng 4,1m, 2 chái rộng 3,8m, được thiết kế kiểu “giá chiêng, chồng rường”. 6 bộ
tương đương với 6 hàng chân cột, các cột cái cao 5,5m, đường kính 0,5, các cột
quân cao 4m, đường kính 0,38m.
Hậu cung có kích thước 9,5m x 8,5m. Có kết cấu vì nóc theo kiểu chồng
rường đơn giản. Các cột cái có đường kính 0,5m, cột con 0,45m trên các con
rường được chạm bong kênh hình rồng. Mặc dù vẫn sử dụng thân gỗ chịu đựng
nhưng để tăng cờng tính thâm niêm của hậu cung ngời ta đã xây tường gạch bao
kín ba mặt phía trước để hai lối đi thơng với Đại Đình. Chính giữa hậu cung có
một khám thờ khá lớn. Trên khám có ngai thờ An Dương Vương chùm áo
Hồng bào, phía dưới là bài vị thờ tướng Cao Lỗ, người có cơng chế ra “Nỏ
thần”. Ở phía trên có 4 chữ đề “Ngự triều di quy”, với ý nghĩa đây là nơi đã từng
thiết triều của An Dương Vương vì vậy đình cịn được gọi là đình “Ngự triều di
quy”.
Chạm khắc của đình khơng nhiều nhưng tương đối đẹp, tập trung ở các
đầu dư, con rường, kẻ và ván nong. Ở đầu dư các cột cái chạm khắc đầu rồng,
thân rồng bị chìm khuất. Đầu rồng được chạm khắc tinh tế với các ngũ quan
sống động, thời bấy giờ đã có kỹ thuật chạm tách bằng những đường chỉ chìm
kết hợp với kỹ thuật chạm bong kênh, chạm lộng. Ở các con rường, trên kẻ hiên
và ván nong của bộ vì có các đồ án “Phượng hàm thư”, “Lân hí cầu”, “Rồng lân - phượng” và hoa lá kết hợp được thể hiện khá tinh tế và thanh thoát, nhẹ
nhàng khiến ta nhìn vào khơng cịn cảm thấy sự nặng nề của các cấu kiện gỗ to
mập chồng chất lên nhau. Một tác phẩm chạm khắc khá nổi bật trong ngơi đình
là chiếc cửa võng sơn son thiếp vàng với các mảng chạm “Tứ linh” (Long - ly quy - phượng), và “Tứ quý” (thông - trúc - cúc - mai), và các đề tài phổ biến
trong điêu khắc gỗ cổ truyền.
Am Bà Chúa – đền thờ Mỵ Châu, nằm bên cạnh đình cổ Loa, dưới gốc
cây đa cổ thụ, đền nằm ở khu vực rộng khoảng 925,4m2. Kiến trúc của đền được
bố trí theo dạng “tiền Nhất, hậu Đinh”, gồm các tòa tiền tế, trung đường và hậu
cung. Tiền tế là một ngôi nhà được xây dựng bằng gỗ 3 gian, tường hồi bít đốc,
mái lợp ngói ta. Các bộ vì được làm theo kiểu “thượng giá chiêng, hạ chồng
rường, kẻ bẩy”. Tất cả các cấu kiện đều khơng có chạm khắc hoa văn gì mà chỉ
bào soi. Hậu cung là 1 toà nhà xoay dọc, kết cấu chịu lực chính là các bức tường
xây bao 3 mặt chỉ để 2 cửa bên thông với tiền tế. Đây là nơi thờ cơng chúa Mỵ
Châu, có đặt bàn thờ, đi vào trong có thêm tượng đá Mỵ Châu. Truyền thuyết về
tượng đá của nàng Mỵ Châu vẫn được lưu truyền cho tới ngày nay, rằng sau khi
chết dưới lưỡi kiếm của cha, thân của nàng biến thành một tượng đá cụt đầu trơi
dạt về đất Cổ Loa, đó người dân làng đã làm lễ xin rước tượng về thờ, thể hiện
sự xót thương trước cái chết của một nàng cơng chúa nhân hậu, đáng thương.
Trước hậu cung có ban thờ “thập nhị cô” - những người hầu cận của công chúa.
Chùa Bảo Sơn (chùa Cổ Loa), nằm trên khu đất rộng gần 10.000m2, gần
giữa thành Nội. Kiến trúc chùa vẫn theo truyền thống với bộ khung gỗ và mái
lợp ngói kiểu “mũi hài”. Chùa Bảo Sơn có bố cục mặt bằng tổng thể theo kiểu
“Nội cơng ngoại quốc” gồm nhiều tồ nhà có sự liên kết với nhau, theo thứ tự từ
trước đến sau là: tiền đường, điện thờ Phật, khu nhà Tổ. Tiền đường liên kết với
Thượng điện tạo thành kiến trúc kiểu chữ “Đinh”.
Tịa tiền đường có 5 gian, 2 dĩ, phần khung mái đấu nối với Thượng điện
ở đoạn giữa, mặt trước các gian chính là dãy cửa bức bàn được làm theo kiểu
“Thượng song, hạ bản”.
Tại tồn Thượng điện có 134 pho tượng, được chia làm 7 lớp tượng, theo
thứ tự từ cao xuống thấp lần lượt là: Tam thế (hiện đại, quá khứ, vị lai), Di đà
Tam Tôn (A di đà, Quan âm Bồ tát, Đại thế trí bồ tát), Quan âm chuẩn đề (có 2
pho Thị giả đẩu), Hoa nghiêm Tam thánh (Bồ tát và Kim Đồng, Ngọc nữ 2 bên),
Ngọc hồng, 2 bên có Nam Tào, Bắc Đẩu, Cửu Long, Thích ca sơ sinh và Đế
Thiên, Đế Thích, Ngồi ra có 2 tượng phật ngồi tồ sen ở 2 bên.
Tại điện thờ Phật cũng có những pho tượng được đặt đối xứng nhau từ
trong ra ngoài. Các tượng gồm : Quan Âm Nam Hải, Quan Âm Thị Kính; Thổ
địa, Địa Tạng; 4 tượng Tứ Trấn (2 tượng 1 bên); Thập điện Diêm Vương (5
tượng 1 bên). Các pho đối xứng nhau gồm: Đức Ông, Đức Thánh tăng; Khuyến
thiện, Trừng ác; 8 pho Hộ pháp (mỗi bên 4 pho) - “Bát Bộ Kim cương”. Đây
đều là những pho tượng được tạc trong những tư thế rất sáng tạo, thể hiện sức
mạnh tâm linh. Ngoài ra tại dãy hành lang cịn có 24 pho tượng phật khác.
Tại nhà thờ Tổ, tượng được đặt ở 3 gian chính. Ban thờ gian chính giữa
thờ mẫu Liễu Hạnh - vị Thánh mẫu được thờ ở nhiều nơi theo tục thờ Mẫu ở
nước ta, ngay cả trong các chùa làng. Ban thờ gian phía đơng thờ Đức thánh
Trần (Trần Hưng Đạo) nhân vật chống giặc ngoại xâm nổi tiếng trong lịch sử và
tại gian thờ thứ 3 là gian thờ phía tây, nơi thờ Sư tổ và các vị sư từng tu tại chùa.
Gác chng – Tam Quan nằm ở phía ao sau Chùa, được xây dựng cách
đây 50 năm, gồm có 2 tầng 4 mái, tường xây kít đốc, 4 cột cái bằng gỗ chịu lực
cho cả sản lầu và mái trên.
2.1.3. Giá trị về văn hóa tâm linh
Những giá trị về văn hóa tâm linh của Khu di tích Cổ Loa được thể hiện
nổi bật và rõ nét qua tập tục, tín ngưỡng, thờ cúng của người dân từ việc xây
dựng các di tích đình, đền, am, chùa,…
Có thể nói rằng, văn hóa tâm linh là một yếu tố vô cùng quan trọng trong
đời sống của người dân Việt dù là trong quá khứ hay thời hiện đại.
Đền thờ An Dương Vương, Am Mỵ Châu, Đền Cao Lỗ,... đều được xây
dựng lên với quan niệm tín ngưỡng thờ thần, những người có cơng với đất nước.
Hằng năm vào ngày 6 tháng Giêng người dân Đông Anh đều tổ chức những lễ
hội tại các đình, đền, chùa,…tại khu di tích Cổ Loa, nổi bật có thể kể đến như
Hội Bát Xã (Hội Cổ Loa), không chỉ là nơi giao lưu giữa những người dân bản
địa mà còn là điểm đến thu hút khách du lịch. Với truyền thống “Uống nước nhớ
nguồn”, “Ăn quả nhớ kẻ trồng cây”, người dân thể hiện sự biết ơn của mình qua
các nghi lễ, khói hương vào những dịp ngày rằm tháng chạp. Ngồi ra bên trong
của các di tích đền, am, đình,... này cịn có các di vật như tượng vua An Dương
Vương, tượng cơng chúa Mỵ Châu (chỉ có phần thân), nỏ thần, tấm bia ghi lại
những cột mốc lịch sử quan trọng. Cũng giống như những nhân vật lịch sử khác
dù là trong truyền thuyết như Thánh Gióng hay những anh hùng đứng lên đấu
tranh cứu nước có thật thì những người dân Việt Nam ln bày tỏ lịng thành
kính, coi đây là một giá trị văn hóa tinh thần khơng thể thiếu.
Ngồi việc thờ cúng tổ tiên, thờ thần, những người có cơng với đất nước,
những nhân vật trong lịch sử. Là một đất nước Đông Nam Á, văn hóa tâm linh
cũng có sự giao thoa, minh chứng đó chính là sự du nhập của Đạo Phật. Chùa
Cổ Loa thuộc khu di tích Cổ Loa là nơi dành cho những tín đồ Phật giáo, nhưng
nét độc đáo ở ngơi chùa này đó chính là sự hội tụ của nhiều tơn giáo, tín
ngưỡng… thể hiện qua việc thờ Ngọc Hồng, Nam Tào - Bắc Đẩu, Thập Điện
Diêm Vương, thờ Mẫu, thờ Thánh. Có thể nói nơi đây là nơi con người có thể
tĩnh tâm, tránh xa cái tiêu cực, thả lỏng cơ thể và là chỗ dựa tinh thần vững chãi.
2.1.4. Giá trị nhân văn
Khu di tích thành Cổ Loa khơng chỉ là nơi lưu giữ những giá trị lịch sử,
kiến trúc điêu khắc, văn hóa tâm linh,…mà cịn là nơi gắn liền với truyền thuyết
An Dương Vương và câu chuyện đầy bi ai của Mỵ Châu và Trọng Thủy, đồng
thời cũng là bài học về tinh thần cảnh giác đối với việc giữ nước cho cả thế hệ
trước và nay.
Khu di tích là nơi dừng chân của những nền văn hóa qua các thời kỳ dựng
nước, giữ nước của nhân dân ta như Văn hóa Sa Huỳnh, Đồng Đậu, Gị Mun,
Chăm Pa,… và hơn cả, đó là nơi ta trân trọng hơn những giá trị về con người, về
tài đức của vị vua Thục Phán, về tấm lòng hiếu thảo của nàng Mỵ Châu, về
những vị tướng quân trung thành như Cao Lỗ và hàng ngàn những người anh
hùng không kể nam nữ đã đổ máu và hy sinh khác.
2.1.5. Giá trị văn hóa vật chất và tinh thần
2.1.5.1. Giá trị văn hóa vật chất
Mặc dù đã trải qua hàng ngàn năm xây dựng và bị đánh phá qua các cuộc
xâm lăng, những hiện vật đã khơng cịn ngun vẹn, một số phải phục chế, phục
dựng (như giếng Ngọc, đền thờ vua An Dương Vương – 2016) nhưng Thành Cổ
Loa hiện nay vẫn được Nhà nước ưu tiên bảo tồn và phát huy giá trị, hướng đến
“Di sản sống” trong thời kì hiện đại.
Hiện nay, khu di tích Cổ Loa đang là nơi lưu giữ và tơn vinh một hệ thống
di tích bao gồm Đền thờ An Dương Vương, Đình Ngự Triều Di Quy, Am Mỵ
Châu, Điếm Xóm Chùa, Giếng Ngọc, di tích Mả Tre, di tích Cầu Vực… Ở mỗi
di tích sẽ có những di vật khác nhau được tìm thấy. Ví dụ, tại di tích Mả Tre
(khu nghĩa địa, nằm phía Tây Nam Cửa Nam thành Cổ Loa, sát bên trái là
đường nhựa mở từ Chợ Sa vào đền thờ An Dương Vương, lọt giữa 2 vòng
Thành Trung và Thành Nội), đã khai quật được hơn 200 hiện vật đồng thau các
loại.
Không kể những hiện vật bị phân tán, tổng số hiện vật chứa trong trống
đồng thu hồi được đến nay là 247 chiếc gồm các loại sau: công cụ sản xuất 194
chiếc (143 lưỡi cày, 8 cuốc, 4 xẻng, 2 đục, 34 rìu, 2 dao gặt, 1 dao), vũ khí 29
chiếc (16 giáo, năm dao găm, 8 mũi tên), đồ dùng sinh hoạt 7 chiếc (2 thố, 3
mảnh thạp, 1 chậu, 1 khay), nhạc khí 3 chiếc (1 trống nguyên vẹn, 1 mảnh trống,
1 lục lạc), 15 hiện vật không xác định được công dụng và 19,5kg mảnh đồng
vụn. Qua nghiên cứu Bộ sưu tập đồ đồng Mả tre cho thấy ở đây vừa có những
hiện vật tiêu biểu đặc trưng của văn hóa Đơng Sơn như trống, thố, thạp, rìu xéo,
dao găm, giáo vừa có những hiện vật mang đặc trưng địa phương như rìu xéo
gót cao mũi chúc, giáo có lỗ ở cánh của loại hình Đơng Sơn vùng sơng Mã. Rìu
gót vng (rìu hình hia), lưỡi cày hình tim là đặc trưng của văn hóa Đơng Sơn
lưu vực sông Hồng và một số hiện vật do giao lưu trao đổi mà có như xẻng, giáo
họng đi cá. Những di vật ấy đang được lưu giữ tại Nhà trưng bày khu di tích
Cổ Loa trong khu di tích Thành Cổ Loa.
(Ảnh: Chụp tại Nhà trưng bày Khu di tích Quốc gia đặc biệt Cổ Loa)
Không những vậy, Cổ Loa được coi là “vùng đất đặc biệt”, bởi cịn lưu
giữ được nét đặc trưng nơng thôn truyền thống Việt Nam với nhiều sản vật quý
như: bún Mạch Tràng (món ăn có gốc tích từ truyền thuyết An Dương Vương),
bỏng Chủ - một loại bánh được làm từ thóc nếp rang trộn với mật, gừng, cùng
với mít, trám đen, chè xanh là những món ngon nổi tiếng.
Nói về những sản vật ấy, đã có những tích truyện được truyền miệng cả
ngàn năm qua. Bún Mạch Tràng gắn liền với truyền thuyết ngày “sêu” công
chúa Mỵ Châu. Nhắc đến bún Mạch Tràng, người dân nơi đây không ngừng tự
hào về món ăn ngàn năm tuổi của quê hương. Truyền thuyết kể rằng: “Từ ngàn
năm trước, trong lúc chuẩn bị yến tiệc cho lễ dạm hỏi công chúa Mỵ Châu,
người đầu bếp nọ chẳng may làm đổ bột gạo vào chiếc rổ đặt trong vạc nước sôi.
Hốt hoảng, anh vội vàng nhấc chiếc rổ lên thì thấy bột gạo đã kết thành những
sợi dây dài màu trắng. Tiếc của, lại khơng biết làm gì với những sợi bột trắng
kia, sẵn có rau cần, anh bèn xào trộn cả hai lại với nhau.
Khi yến tiệc được bày lên, vua An Dương Vương lấy làm thích thú khi
nhìn thấy thức ăn lạ, với những sợi nhỏ màu sắc trang nhã, mang hương đồng cỏ
nội. Món bún xào rau cần ngẫu nhiên trở thành món ăn đặc biệt trong thực đơn
đãi khách của nhà vua”.
Nguồn gốc của bún Mạch Tràng là vậy, bún Mạch Tràng cịn được xào
với cần, khơng chỉ là món ăn sêu bà Chúa (ngày 13 tháng tám)
“Mười ba tháng Tám cả thành Loa
Ăn sêu chúa Mỵ chọn chồng Tần
Cầm sắt đương nồng, dây đứt nhịp
Vui buồn sáo trộn cổ kinh Loa”
mà cịn là món bún tiến vua. Nhiều thế kỷ đã trôi qua, dân làng ở Cổ Loa vẫn
giữ tục lệ: dâng cúng vua An Dương Vương tại đình với lễ vật là mâm bún cổ
truyền Mạch Tràng - sản vật của làng vào ngày mùng 6 tháng Giêng. Đó là
truyền thống tốt đẹp đã được ghi vào hương ước nhằm tưởng nhớ công đức
người đã cho hạt giống dạy nghề, chăm lo giúp dân gìn giữ cuộc sống yên bình.
Từ truyền thuyết cho đến một tinh hoa ẩm thực, sản vật bún Mạch Tràng vẫn
đang được người dân nơi đây cố gắng gìn giữ, bảo tồn để nối dài lịch sử oai
hùng của dân tộc.
Cùng với bún Mạch Tràng, bỏng Chủ là một sản vật không thể không
nhắc đến khi nói về Cổ Loa, về một thời kỳ lịch sử của nhân dân ta – thời kì An
Dương Vương trị vì. Bỏng Chủ tức là bỏng làng Chủ, nghề làm bỏng Chủ ở Cổ
Loa có từ lâu đời và tồn tại cho đến ngày nay. Theo truyền thuyết, để đối phó
với quân xâm lược Triệu Đà, song song với việc chế tạo vũ khí, Thục Phán đã
truyền lệnh chế biến một loại lương thực cho quân đội sao cho phù hợp với thời
chiến. Được nhân dân góp sức, bộ phận quân lương bấy giờ đã tạo ra được một
loại bánh đặc biệt có đặc tính gọn nhẹ, để được lâu, bảo quản dễ dàng và dùng
lúc nào cũng được, đó là bỏng. Bỏng Chủ là đồ lễ khơng thể thiếu được trong lễ
hội Cổ Loa mùng 6 tháng Giêng dâng lên vua để tưởng nhớ cơng ơn của ngài.
Vì là lễ vật dâng cúng nên người làm bỏng phải trai giới sạch sẽ trước khi vào
rang và nén bỏng. Bỏng không làm quanh năm, mà thường chỉ rộ trước và sau
tháng Giêng để phục vụ lễ hội sau đó để bán. Bỏng được làm từ nếp cái hoa
vàng, hạt nếp phải tròn, hạt mọng, trước khi rang phải đổ xuống nền đất 5 ngày
khi rang thóc mới nổ to và đều. Trước kia Cổ Loa dành hẳn một khu ruộng công
để cày cấy lấy gạo làm bỏng. Ngày nay thóc nếp làm bỏng chủ yếu mua từ làng
Dục Tú hoặc vùng Bắc Ninh, Bắc Giang. Ngun liệu cịn có thảo quả, vừng,
lạc, trong đó thảo quả là vị rất đặc trưng của bỏng Chủ. Dụng cụ nghề làm bỏng
gồm chảo gang cỡ lớn (thường khoảng 1m), bên dưới có tráng một lớp mỡ mỏng
giúp thóc rang khơng bị cháy và nhanh nổ, đặt trên một bếp lò to tự đắp, lửa
ln được điều chỉnh. Sử dụng bó que tre hoặc đũa rang đảo liên tục đều tay
trong suốt quá trình rang. Khi đã nổ đều, thóc được đem xảo bỏ lớp trấu bên
ngoài bằng ba loại xảo, xảo hoa to, xảo hoa vừa và xảo cụm. Tương ứng với ba
loại xảo sẽ được sản phẩm là hoa 1, hoa 2, hoa 3. Ba loại hoa bỏng sau khi đã
sạch vỏ trấu sẽ được trộn đều cùng hỗn hợp nước đường mật đun chảy để nguội,
vừng, lạc, thảo quả đã rang chín, nghiền nhỏ. Nghiền đường sao cho khéo để khi
trộn vẫn cịn một ít hạt đường nhỏ. Sau khi trộn bỏng được cho vào khuôn nén.
Rang, xào bỏng thường được làm trước lễ hội một tháng, nhưng trộn và đặc biệt
là nén bỏng chỉ được làm trước lễ hội khoảng 5 ngày đến 1 tuần. Bánh bỏng có
hình chữ nhật kích thước 25x30cm, chiều dài tùy ý hoặc có kích thước
khoảng37x10x10cm.
Dụng cụ làm bỏng Chủ
(Ảnh: Chụp tại Nhà trưng bày Khu di tích Quốc gia đặc biệt Cổ Loa)
Bỏng sau khi ra khuôn được xoa một lớp áo bột được làm từ một phần
hoa bỏng nghiền nhỏ để khoảng một đêm mới đem cắt nhỏ. Mỗi khuôn bánh
bỏng chia làm đôi, mỗi nửa khuôn cắt thành 5 miếng được gói trong hai lớp
giấy. Lớp giấy trong dùng giấy báo giúp chống ổm, lớp giấy ngoài là giấy đỏ
trong đẹp mắt và dùng lạt buộc chặt. Người Cổ Loa làm được ba loại bỏng khác
nhau tùy thuộc vào cách thức, tỷ lệ trộn mật: bỏng thừa, bỏng nặng và bỏng nhẹ.
Ngồi số lượng khơng lớn thường làm theo đơn đặt hàng hay bán ngay tại chợ