Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (230.48 KB, 17 trang )
<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>
( ĐH Huế đã công bố Thứ Sáu, 19/08/2005 )
<i>(Thời gian làm bài: 180 phút, không kể thời gian phát đề)</i>
<b>Câu 1: (2 điểm)</b>
Anh/chị hãy trình bày những nét chính trong sự nghiệp thơ văn của Xuân Diệu.
<b>Câu 2: (5 điểm)</b>
Phân tích vẻ đẹp của tình người và niềm hi vọng vào cuộc sống ở các nhân vật: Tràng, người
vợ nhặt, bà cụ Tứ trong truyện ngắn Vợ nhặt (Kim Lân).
<b>Câu 3: (3 điểm)</b>
Bình giảng đoạn thơ sau trong bài Kính gửi cụ Nguyễn Du của Tố Hữu:
<i>Tiếng thơ ai động đất trời</i>
<i>Nghe như non nước vọng lời ngàn thu</i>
<i>Nghìn năm sau nhớ Nguyễn Du</i>
<i>Tiếng thương như tiếng mẹ ru những ngày</i>
<i>Hỡi người xưa của ta nay</i>
<i>Khúc vui xin lại so dây cùng người!</i>
<b></b>
<b>---HẾT---BÀI LÀM :</b>
<b>Câu 1:</b>
Xuân Diệu (1916 - 1985) - một nghệ sĩ lớn, một nhà văn hóa lớn của dân tộc, đã để lại cho
đời một sự nghiệp sáng tác thật lớn lao và rất có giá trị. Hơn 50 năm lao động miệt mài trong
thế giới nghệ thuật ấy, con người và thơ văn của Xuân Diệu đã có sự chuyển biến rõ nét từ
một nhà thơ lãng mạn thành nhà thơ cách mạng.
Về lĩnh vực thơ ca, chúng ta có thể tìm hiểu qua hai giai đoạn chính: trước và sau Cách mạng
Tháng 8 (CMT8).
Trước CMT8, Xuân Diệu là một nhà thơ lãng mạn. Các tác phẩm chính: tập thơ “Thơ thơ”
(1938) và “Gửi hương cho gió” (1945). Nội dung của thơ Xuân Diệu trong thời kỳ này là:
Niềm say mê ngoại giới, khát khao giao cảm trực tiếp, cháy bỏng, mãnh liệt với cuộc đời
<i>(“Vội vàng”, “Giục giã”).</i>
Nỗi cô đơn rợn ngợp của cái tơi bé nhỏ giữa dịng thời gian vơ biên, giữa không gian vô tận
<i>(“Đời kỹ nữ”).</i>
Nỗi ám ảnh về thời gian khiến nhà thơ nảy sinh một triết lý về nhân sinh: lẽ sống vội vàng
(“Vội vàng”).
Nỗi khát khao đến cháy bỏng được đắm mình trọn vẹn giữa cuộc đời đầy hương sắc và thể
hiện nỗi đau đớn, xót xa trước khát vọng bị lãng quên thật phũ phàng trước cuộc đời (“Dại
<i>khờ”, “Nước đổ lá khoai”).</i>
Sau cách mạng, thơ Xuân Diệu đã vươn tới chân trời nghệ thuật mới, nhà thơ đã đi từ “cái tôi
Cùng với sự đổi mới của đất nước, Xuân Diệu có nhiều biến chuyển trong tâm hồn và thơ ca.
Ý thức của cái Tôi cơng dân, của một nghệ sĩ, một trí thức u nước trước thực tế cuộc sống
Đất nước đã đem đến cho ông những nguồn mạch mới trong cảm hứng sáng tác. Nhà thơ hăng
say viết về Đảng, về Bác Hồ, về Tổ quốc VN, về quá trình xây dựng CNXH miền Bắc và
công cuộc thống nhất nước nhà. Các tác phẩm tiêu biểu: tập “Riêng chung” (1960), “Hai đợt
<i>sóng” (1967), tập “Hồn tơi đơi cánh” (1976)…</i>
Từ những năm 60 trở đi, Xuân Diệu tiếp tục viết thơ tình. Thơ tình Xn Diệu lúc này khơng
vơi cạn mà lại có những nguồn mạch, cảm hứng mới. Trước Cách mạng, tình u trong thơ
ơng hầu hết là những cuộc tình xa cách, cơ đơn, chia lìa, tan vỡ… nhưng sau Cách mạng, tình
yêu của hai con người ấy khơng cịn là hai vũ trụ bé nhỏ nữa mà đã có sự hịa điệu cùng mọi
người. Tình cảm lứa đơi đã quyện cùng tình u Tổ quốc. Xuân Diệu nhắc nhiều đến tình cảm
thủy chung gắn bó, hạnh phúc, sum vầy chứ khơng lẻ loi, đơn cơi nữa (“Dấu nằm”, “Biển”,
“Giọng nói”, “Đứng chờ em”).
Về lĩnh vực văn xi, có thể nói Xn Diệu quả thực tài tình. Bên cạnh tố chất thơ ca bẩm
sinh như thế, Xn Diệu cịn rất thành cơng trong lĩnh vực văn xi. Các tác phẩm chính:
“Trường ca” (1939) và “Phấn thông vàng” (1945). Các tác phẩm này được viết theo bút pháp
lãng mạn nhưng đôi khi ngòi bút lại hướng sang chủ nghĩa hiện thực (“Cái hỏa lị”, “Tỏa nhị
Kiều”).
Ngồi ra, Xn Diệu cịn rất tài tình trong việc phê bình văn học, dịch thuật thơ nước ngồi.
Các tác phẩm tiêu biểu: “Kí sự thăm nước Hung”, “Triều lên”, “Các nhà thơ cổ điển VN”,
“Dao có mài mới sắc”.
VN”. Sự đóng góp của Xuân Diệu diễn ra đều đặn và trọn vẹn trong các thể loại và các giai
đoạn lịch sử của dân tộc. Chính vì thế có thể nói rằng, Xuân Diệu xứng đáng là nhà thơ lớn,
nhà văn hóa lớn.
<b>Câu 2:</b>
Nạn đói khủng khiếp và dữ dội năm 1945 đã hằn in trong tâm trí Kim Lân - một nhà văn hiện
thực, có thể xem là con đẻ của đồng ruộng, một con người một lòng đi về với “thuần hậu
phong thủy” ấy. Ngay sau Cách mạng, ông đã bắt tay viết ngay tiểu thuyết “Xóm ngụ cư”.
Khi hịa bình lặp lại (1954), nỗi trăn trở tiếp tục thôi thúc ông viết tiếp thiên truyện ấy. Và
cuối cùng, truyện ngắn “Vợ nhặt” đã ra đời.
Trong lần này, Kim Lân đã thật sự đem vào thiên truyện của mình một khám phá mới, một
điểm sáng soi chiếu tồn tác phẩm. Đó là vẻ đẹp của tình người và niềm hi vọng vào cuộc
sống của những người nông dân nghèo tiêu biểu như Tràng, người vợ nhặt và bà cụ Tứ. Thiên
truyện thể hiện rất thành công khả năng dựng truyện, dẫn truyện và đặc sắc nhất là Kim Lân
đã khám phá ra diễn biến tâm lý thật bất ngờ.
Trong một lần phát biểu, Kim Lân từng nói: “Khi viết về nạn đói người ta thường viết về sự
khốn cùng và bi thảm. Khi viết về con người năm đói người ta hay nghĩ đến những con người
chỉ nghĩ đến cái chết. Tôi muốn viết một truyện ngắn với ý khác. Trong hoàn cảnh khốn cùng,
dù cận kề bên cái chết nhưng những con người ấy không nghĩ đến cái chết mà vẫn hướng tới
sự sống, vẫn hi vọng, tin tưởng ở tương lai. Họ vẫn muốn sống, sống cho ra con người”.
Và điểm sáng mà nhà văn muốn đem vào tác phẩm chính là ở chỗ đó. Đó chính là tình người
và niềm hi vọng về cuộc sống, về tương lai của những con người đang kề cận với cái chết.
Bằng cách dẫn truyện, xây dựng lên tình huống “nhặt vợ” tài tình kết hợp với khả năng phân
tích diễn biến tâm lý nhân vật thật tinh tế và sử dụng thành công ngôn ngữ nông dân, ngôn
ngữ dung dị, đời thường nhưng có sự chọn lọc kĩ lưỡng ấy, nhà văn đã tái hiện lại trước mắt ta
một không gian nạn đói thật thảm hại, thê lương. Trong đó ngổn ngang những kẻ sống, người
chết, những bóng ma vật vờ, lặng lẽ giữa tiếng hờ khóc và tiếng gào thét kinh hồng của đám
Bằng tấm lịng đơn hậu chân thành, nhà văn đã gửi gắm vào trong không gian tối đen như
mực ấy những mầm sống đang cố vươn đến tương lai, những tình cảm chân thành, yêu
thương bình dị nhưng rất đỗi cao quý ấy và nhà văn đã để những số phận như anh Tràng,
người vợ nhặt và bà cụ Tứ được thăng hoa trước ngọn cờ đỏ phất phới cùng đám người đói
phá kho thóc Nhật ở cuối thiên truyện.
Một anh thanh niên của cái xóm ngụ cư ấy như Tràng, một con người - một thân xác vạm vỡ
lực lưỡng mà dường như ngờ nghệch, thơ kệch và xấu xí ấy lại chứa đựng biết bao nghĩa tình
cao đẹp. “Cái đói đã tràn đến xóm này tự lúc nào”, vậy mà Tràng vẫn đèo bịng thêm một cơ
vợ trong khi anh khơng biết cuộc đời mình phía trước ra sao. Tràng thật là liều lĩnh. Và ngay
cô vợ Tràng cũng thế. Hai cái liều ấy gặp nhau kết tụ lại thành một gia đình. Điều ấy thật éo le
và xót thương vơ cùng.
Và dường như lúc ấy trong con người của Tràng kia đã bật lên niềm sống, một khát vọng yêu
thương chân thành. Và dường như hắn đang ngầm chứa đựng một ao ước thiết thực về sự đầm
ấm của tình cảm vợ chồng, của hạnh phúc lứa đơi. Hành động của Tràng dù vơ tình, khơng có
chủ đích, chỉ tầm phờ tầm phào cho vui nhưng điều ấy cũng hé mở cho ta thấy tình cảm của
một con người biết yêu thương, cưu mang, đùm bọc những người đồng cảnh ngộ.
Như một lẽ đương nhiên, Tràng đã rất ngỡ ngàng, hắn đã “sờ sợ”, “ngờ ngợ”, “ngỡ ngàng”
như khơng phải nhưng chính tình cảm vợ chồng ấy lại củng cố và nhen nhóm ngọn lửa yêu
thương và sống có trách nhiệm với gia đình trong hắn. Tình nghĩa vợ chồng ấm áp ấy dường
như làm cho Tràng thay đổi hẳn tâm tính.
Từ một anh chàng ngờ nghệch, thô lỗ, cộc cằn, Tràng đã sớm trở thành một người chồng thật
sự khi đón nhận hạnh phúc của gia đình. Hạnh phúc ấy như một cái gì đó cứ “ấm áp, mơn
man khắp da thịt Tràng tựa hồ như có bàn tay vuốt nhẹ sống lưng”. Tình yêu, hạnh phúc ấy
khiến “Trong một lúc Tràng dường như quên đi tất cả, quên cả đói rét đang đeo đuổi, quên cả
Và Tràng đã ước ao hạnh phúc. Mạch sống của một người đàn ông trong Tràng đã trở dậy.
Hắn có những thay đổi rất bất ngờ nhưng rất hợp lơgich. Những thay đổi ấy khơng gì khác
ngồi tâm hồn đơn hậu, chất phác và giàu tình yêu thương hay sao?
Trong con người của Tràng khi trở dậy sau khi chào đón hạnh phúc ấy thật khác lạ. Tràng
không phải là anh Tràng ngày trước nữa mà giờ đây đã là một con người có hiếu, một người
chồng đầy trách nhiệm dù chỉ trong ý nghĩ. Thấy mẹ chồng nàng dâu quét tước nhà cửa, hắn
đã bừng bừng thèm muốn một cảnh gia đình hạnh phúc, “Hắn thấy hắn yêu thương căn nhà
của hắn đến lạ lùng”, “Hắn thấy mình có trách nhiệm hơn với vợ con sau này”. Hắn cũng xăm
xắn ra sân dọn dẹp nhà cửa.
Hành động, cử chỉ ấy ở Tràng đâu chỉ là câu chuyện bình thường mà đó là sự biến chuyển
lớn. Chính tình u của người vợ, tình mẹ con hịa thuận ấy đã nhen nhóm trong hắn ước
vọng hạnh phúc, niềm tin vào cuộc sống sẽ đổi thay khi hắn nghĩ đến đám người đói và lá cờ
đỏ bay phấp phới. Rồi số phận, cuộc đời của hắn, của vợ hắn và cả người mẹ của hắn nữa sẽ
thay đổi. Hắn tin thế.
Nạn đói ấy khơng thể ngăn cản được ánh sáng của tình người. Đêm tối ấy rồi sẽ qua đi để đón
chờ ánh sáng của cuộc sống tự do đang ở phía trước, trước sức mạnh của cách mạng. Một lần
nữa, Kim Lân không ngần ngại gieo rắc hạnh phúc, niềm tin ấy trong các nhân vật của mình.
Người vợ nhặt khơng phải ngẫu nhiên xuất hiện trong thiên truyện. Thị xuất hiện đã làm thay
đổi cuộc sống của xóm ngụ cư nghèo nàn, tăm tối ấy, đã làm cho những khuôn mặt hốc hác u
tối của mọi người rạng rỡ hẳn lên.
chúng ta không khinh miệt thị. Nếu có trách thì chỉ có thể hướng vào xã hội thực dân phong
kiến kia bóp nghẹt quyền sống con người.
Thị xuất hiện không tên tuổi, quê quán, trong tư thế “vân vê tà áo đã rách bợt”, điệu bộ trơng
Kim Lân cũng thật thành công khi xây dựng nhân vật này để góp thêm tiếng lịng ca ngợi sức
sống của vẻ đẹp tình người, niềm tin ở cuộc đời phía trước trong những con người đói khổ ấy.
Và thật ngạc nhiên, khi nói về ước vọng tương lai, niềm tin vào hạnh phúc, vào cuộc đời,
người ta dễ nghĩ đến tuổi trẻ như Tràng và người vợ. Nhưng Kim Lân lại khám phá ra một nét
độc đáo vô cùng, tình cảm, ước vọng ở cuộc đời ấy lại được tập trung miêu tả khá kĩ ở nhân
vật bà cụ Tứ. Đến nhân vật này, Kim Lân tỏ rõ ngịi bút vững vàng, già dặn của mình trong
bút pháp miêu tả tâm lí nhân vật.
Bà cụ Tứ đến giữa câu chuyện mới xuất hiện nhưng nếu thiếu đi nhân vật này, tác phẩm sẽ
khơng có chiều sâu nhân bản. Đặt nhân vật bà cụ Tứ vào trong tác phẩm, Kim Lân đã cho
chúng ta thấy rõ hơn ánh sáng của tình người trong nạn đói. Bao giờ cũng thế, các nhà văn
muốn nhân vật nổi bật cá tính của mình thường đặt nhân vật vào một tình thế thật căng thẳng.
Ở đó dĩ nhiên phải có sự đấu tranh khơng ngừng khơng những giữa các nhân vật mà độc đáo
hơn là ngay chính trong nội tâm của nhân vật ấy. Bà cụ Tứ là một điển hình.
Việc Tràng lấy vợ đã gây một chấn động lớn trong tâm thức người mẹ nghèo vốn thương con
ấy. Bà ngạc nhiên ngỡ ngàng trước sự xuất hiện của một người đàn bà trong nhà mình mà lâu
nay và có lẽ chưa bao giờ bà nghĩ đến. Hết ngỡ ngàng, ngạc nhiên bà cụ đã "cúi đầu nín lặng".
Cử chỉ, hành động ấy chất chứa bao tâm trạng. Đó là sự đan xen lẫn lộn giữa nỗi tủi cực, nỗi
lo và niềm vui nỗi buồn cứ hòa lẫn vào nhau khiến bà thật căng thẳng.
Sau khi thấu hiểu mọi điều, bà nhìn cô con dâu đang "vân vê tà áo đã rách bợt" mà lịng đầy
thương xót. Bà thiết nghĩ "người ta có gặp bước khó khăn này, người ta mới lấy đến con
Đói khổ đang vây lấy gia đình bà, cuộc sống của bà sẽ ra sao khi mình đang ngấp nghé trước
vực thẳm của cái chết. Nhưng trong tâm thức người mẹ nghèo ấy, đói khổ khơng phải là vật
cản lớn nữa. Đói rét thật nhưng trong lòng mà cụ vẫn sáng lên tấm lòng yêu thương chân
thành. Bà thương con, thương dâu và thương cho chính bản thân mình.
Đặc biệt chi tiết nồi cám ở cuối thiên truyện thể hiện khá rõ ánh sáng của tình người. Nồi chè
cám nghẹn bứ cổ và đắng chát ấy lại là món q của một tấm lịng đơn hậu chất chứa yêu
thương. Bà lão "lễ mễ" bưng nồi chè và vui vẻ giới thiệu: "Chè khoán đây. Ngon đáo để cơ".
Ở đây nụ cười đã xen lẫn nước mắt. Bữa cơm gia đình ngày đói ở cuối thiên truyện khơng
khỏi làm chạnh lịng chúng ta, một nỗi xót thương cay đắng cho số phận của họ song cũng
dung chứa một sự cảm phục lớn ở những con người bình thường và đáng quý ấy.
Kim Lân bằng nghệ thuật viết văn già dặn, vững vàng đã đem đến một chủ đề mới trong đề tài
về nạn đói. Nhà văn đã khẳng định ánh sáng của tình người thật thành công ở ba nhân vật.
Điều làm chúng ta trân trọng nhất chính là vẻ đẹp của tình người và niềm hi vọng vào cuộc
sống một cách mạnh mẽ nhất ở những thân phận nghèo đói, thảm hại kia.
Ba nhân vật: Tràng, vợ Tràng và bà cụ Tứ cùng những tình cảm, lẽ sống cao đẹp của họ chính
là những điểm sáng mà Kim Lân từng trăn trở trong thời gian dài để thể hiện sao cho độc đáo
một đề tài không mới. Tác phẩm đã thể hiện thành công nghệ thuật miêu tả tâm lý nhân vật,
khả năng dựng truyện và dẫn truyện của Kim Lân - một nhà văn được đánh giá là viết ít
nhưng tác phẩm nào cũng có giá trị là vì lẽ đó.
"Cái đẹp cứu vớt con người" (Đơxtơiepki). Vâng, "vợ nhặt" của nhà văn Kim Lân thể hiện rõ
sức mạnh kì diệu ấy. Ánh sáng của tình người, lòng tin yêu vào cuộc sống là con nguồn mạch
giúp Kim Lân hồn thành tác phẩm. Ơng đã đóng góp cho văn học Việt Nam nói chung, về đề
<b>Câu 3:</b>
Tố Hữu, một nhà thơ chiến sĩ, một người thư ký trung thành của thời đại ấy đã cùng hành
trình làm cách mạng tiếp cận với thơ ca. Thơ ca đối với ơng khơng ngồi mục đích chính trị,
phục vụ cho lý tưởng của Đảng, của cách mạng.
Trong nguồn mạch về các đề tài chính trị của Đất nước ấy, Tố Hữu đã tìm về với quá khứ lịch
sử của cha ông, một thế hệ hôm nay vọng về thế hệ cha ông xưa để đồng cảm, thấu hiểu, để
tìm nguồn sinh lực mới cất bước cho cuộc kháng chiến hôm nay. Một trong những bài thơ tiêu
biểu cho đề tài này không thể không kể đến bài thơ "Kính gửi cụ Nguyễn Du", trích trong tập
"Ra trận".
Tháng 11-1965 khi giặc Mỹ bắn phá ác liệt, nhà thơ có dịp qua quê hương của Nguyễn Du và
nhân kỷ niệm đúng hai trăm năm ngày sinh của Người, Tố Hữu xúc động viết lên bài thơ này.
Bài thơ đã thể hiện một cách cảm nhận, suy nghĩ và đánh giá của Tố Hữu tiêu biểu cho thế hệ
hơm nay nhìn về q khứ lịch sử của cha ông xưa để từ đó khẳng định cuộc kháng chiến
chống Mỹ hôm nay của dân tộc.
Trong tiếng vọng của tấc lòng tri âm tri kỷ ấy, Tố Hữu đã thốt lên:
<i>Tiếng thơ ai động đất trời</i>
<i>Nghe như non nước vọng lời ngàn thu</i>
<i>Nghìn năm sau nhớ Nguyễn Du</i>
<i>Tiếng thương như tiếng mẹ ru những ngày</i>
Bài thơ trừ bốn câu thơ đầu và cuối, tất cả có năm khổ thơ với ba cặp lục bát tương xứng.
Bằng hình thức tập Kiều nhuần nhuyễn, sáng tạo, ngơn ngữ trong sáng, giản dị, giàu hình ảnh,
<i>Tiếng thơ ai động đất trời</i>
<i>Nghe như non nước vọng lời ngàn thu</i>
Tố Hữu đã ca ngợi giá trị nhân bản của tiếng thơ Nguyễn Du, một tiếng thơ vang động đến
hồn thiêng sông núi, đến tạo vật mn lồi. Bằng cách sử dụng lối so sánh, ẩn dụ tài tình, nhà
thơ đã nâng cao tầm vóc, giá trị của thơ ca Nguyễn Du. Ơng đã ví tiếng thơ ấy là "non nước"
vọng về từ ngàn năm trước, của thời gian xa xưa, của quá khứ.
Tiếng thơ ấy vọng về đây trong niềm tự hào, hân hoan, đón nhận của một tấm lịng hậu thế
muốn đền đáp tấm lịng cha ơng xưa. Nỗi niềm ấy, tình cảm ấy thật đáng ngưỡng vọng. Hai
câu thơ khơng những khái qt được tầm vóc, giá trị to lớn của tài năng Nguyễn Du mà còn
thể hiện sâu sắc tình cảm cao đẹp của Tố Hữu - thế hệ hôm nay ngưỡng vọng về quá khá của
cha ơng.
Lối thơ ấy, tiếng lịng hân hoan Tố Hữu lại tiếp tục rộng mở vươn tới những giá trị vĩnh hằng
khác:
<i>Nghìn năm sau nhớ Nguyễn Du</i>
<i>Tiếng thương như tiếng mẹ ru những ngày</i>
Nghìn năm là khoảng thời gian của hồi tưởng, của ngưỡng vọng, của khát vọng mãnh liệt, của
tấc lòng tri kỷ biết ơn của thế hệ hơm nay. Đó cịn là khoảng thời gian của thế hệ hôm nay trả
lời cho nỗi đau lịch sử của cha ông trong quá khứ. Một lần nữa cảm hứng ngợi ca chấp bút
cho Tố Hữu cất tiếng lòng tự hào trong khúc hát tràn đầy hân hoan, hứng khởi, trong sự
Tiếng thơ của Nguyễn Du được ví như "tiếng mẹ", mà "tiếng mẹ" thì gần gũi, thiết tha q.
Đó là lời ru nhẹ nhàng ân tình, chan chứa tình yêu thương và trong ấy gửi gắm bao mơ ước
thật cao đẹp. Và vì thế tiếng thơ của Nguyễn Du là tiếng ru của mẹ ân tình, ngọt ngào thổi vào
lịng bao thế hệ có sức mạnh thật lớn lao. Tình cảm ấy, khúc hát ru ân tình ấy là lời nhắc nhở,
thủ thỉ cho con - thế hệ hơm nay vững bước trưởng thành.
Tiếng lịng đồng vọng của cõi xưa nhập cùng thế hệ hôm nay để con lại vang lên lời ca tự hào:
<i>Hỡi người xưa của ta nay</i>
<i>Khúc vui xin lại so dây cùng Người!</i>
Sáu câu thơ, ba cặp lục bát song hành ấy là tình cảm, tiếng lịng của chúng con thế hệ hôm
nay đáp lời quá khứ. Đó cũng là lời hứa chân thành nhất của thế hệ hôm nay cùng ngân vang
theo nhịp đập của quá khứ.
Bằng lối tập Kiều nhuần nhuyễn, sử dụng hình ảnh có tính gợi hình, giọng điệu ân tình, ngọt
ngào, đậm chất dân tộc, khổ thơ đã thể hiện trọn vẹn phong cách thơ Tố Hữu: khuynh hướng
thơ trữ tình - chính trị, một giọng điệu tâm tình ngọt ngào và đậm đà tính dân tộc. Khổ thơ
khép lại nhưng lại mở ra một chân trời mới, tương lai mới trong hành trình chống Mỹ hơm
nay:
<i>Sơng Lam nước chảy bên đồi</i>
<i>Bỗng nghe trống giục ba hồi gọi quân</i>
NGUYỄN THỊ THU TRANG
<b>Bài văn bài thi đạt điểm 10 mơn Văn_ năm 2006 của bạn Hồng Thùy Nhi</b>
<b>Câu 1.</b>
Hoàn cảnh ra đời của bài thơ “Việt Bắc” - Tố Hữu:
Cuộc kháng chiến chống Pháp kết thúc thắng lợi, hiệp định Giơ-ne-vơ được ký kết. Tháng 10
năm 1954 cơ quan Trung ương của Đảng và Chính phủ rời căn cứ Việt Bắc về thủ đô Hà Nội.
Trong khơng khí buổi tiễn đưa mang tầm vóc lịch sử ấy, Tố Hữu đã xúc động viết bài thơ
“Việt Bắc”. “Việt Bắc” trở thành khúc hát ân tình thuỷ chung giữa người miền ngược với
người miền xuôi, giữa nhân dân với Đảng, giữa cách mạng với Bác Hồ. “Việt Bắc” là bài thơ
có giá trị, để viết nên một bài thơ hay như thế, Tố Hữu đã sử dụng những hình thức nghệ
thuật:
- Sử dụng thể thơ dân tộc, thơ lục bát.
- Những hình ảnh so sánh ví von, gần với lời ăn tiếng nói của dân tộc.
- Giọng văn tâm tình, ngọt ngào, tha thiết.
- Ngôn ngữ giàu nhạc điệu như những câu hát giao duyên. Câu hỏi lời đáp giữa hai nhân vật
Ta và Mình trong bài thơ thực chất chỉ là một. Đó là sự phân thân, hố thân của tác giả để
cảm xúc được thể hiện một cách tự nhiên, tha thiết.
<b>Câu 2:</b>
“Sóng” được in trong tập “Hoa dọc chiến hào”, xuất bản năm 1968 của nữ nhà thơ tình nổi
tiếng Xuân Quỳnh. Bài thơ nói về tâm trạng, tình yêu mãnh liệt của người con gái khi yêu.
Hãy đến với bài thơ bằng nhạc điệu, bài thơ là âm điệu của một cõi lịng bị sóng khuấy động,
đang rung lên đồng điệu đồng nhịp với sóng biển. Rạo rực đến xôn xao, khát khao đến khắc
khoải, có một hình tượng sóng được vẽ lên bằng âm điệu, một âm điệu dập dồn, chìm nổi,
miên man như hơi thở chạy suốt cả bài.
sóng, Xuân Quỳnh đã có một cách nói rất hay để diễn tả tâm trạng của người con gái.
“Dữ dội và dịu êm
Ồn ào và lặng lẽ”
trạng thái của sóng cũng là tâm trạng khi yêu, là khát vọng to lớn, mạnh mẽ về một tình yêu
chân thành. Hành trình của sóng từ sơng ra đại dương:
“Sơng khơng hiểu nổi mình
Sóng tìm ra tận bể”
nơi mênh mơng dạt dào, có đến nơi biển rộng trời cao sóng mới được vẫy vùng, mới thực sự
tìm thấy mình trong sức sống mạnh mẽ với những khát khao to lớn. Sóng được làm biểu
tượng của tình u. Miêu tả sóng biến hố là cũng để nói lên cái phức tạp, đa dạng, khó hiểu
của tình u. Cũng giống như sóng biển, tình u là một hiện tượng kỳ diệu của con người.
Con sóng “ngày xưa” và con sóng “ngày sau” vẫn thế - triền miên, bất tận. Cũng như tình yêu
mãi mãi là khát vọng của tuổi trẻ, của đơi lứa, cuả anh và em:
“Ơi con sóng ngày xưa
Và ngày sau vẫn thế
Nỗi khát vọng tình u
Bồi hồi trong ngực trẻ”.
Con sóng tìm đến biển, đến đại dương là để tự hiểu mình. Cũng như em “khát” được đến bên
anh, đến với một tình yêu đẹp để hiểu rõ hơn về tâm hồn em về con người đích thực của em.
Người con gái hỏi sóng hay đang tự hỏi chính mình:
“Sóng bắt đầu từ gió
Gió bắt đầu từ đâu
Em cũng khơng biết nữa
Khi nào ta yêu nhau”
cái giây phút giao duyên của đôi lứa. “Khi nào ta yêu nhau” tìm được một câu trả lời thật khó,
bởi tình u là một hiện tượng, một thứ tình cảm khó có thể cắt nghĩa được. Bởi vậy trong bài
thơ tình số 21 của thi hào Tagor đã viết rằng:
“Trái tim anh cũng ở gần em như chính đời em vậy
Nhưng chẳng bao giờ em biết trọn nó đâu”
Câu thơ “khi nào ta yêu nhau” đã diễn tả đúng nỗi niềm điển hình của những trai gái đang
sống trong tình u đẹp. Sóng vỗ “dữ dội - dịu êm” , “ồn ào - lặng lẽ”, sóng “dưói lịng sâu”
“sóng” trên mặt nước”, sóng nhớ bờ, đó là biểu hiện của tình u và nỗi nhớ. Yêu chân thành
tha thiết, nhớ bồi hồi triền miên. Nỗi nhớ ấy day dứt, dày vị, chốn đầy cả không gian, thấm
trong chiều sâu, bề rộng, trải trong chiều dài thời gian:
“Con sóng dưới lịng sâu
Con sóng trên mặt nước
Ơi con sóng nhớ bờ
Ngày đêm khơng ngủ được”
Thật tự nhiên và thơ mộng, con sóng nhớ bờ nên ngày đêm sóng vỗ, sóng thao thức với thời
gian và đại dương. Cũng giống như bên đợi thuyền, thuyền nhớ bến, lúc nào lòng người con
gái cũng bồi hồi nhớ thương:
“Lòng em nhớ đến anh
Cả trong mơ còn thức”
“Hôn thật khẽ thật êm
(Xuân Diệu)
Cũng như “em” muốn được gần bên anh, được hồ nhịp vào trong tình u với anh. Tình yêu
của người con gái thật mãnh liệt, nồng nàn. Sóng xa vời cách trở vẫn tìm được tới bờ, cũng
như anh và em sẽ vượt qua mọi khó khăn để đến với nhau, để sống trong hạnh phúc trọn vẹn
của lứa đơi.
“Ở ngồi kia đại dương
Trăm ngàn con sóng nhỏ
Con nào cũng tới bờ
Dù mn vời cách trở”
Người con gái đã bày tỏ lịng mình một cách chân thành, say đắm, thắm thiết. Chân thật và
thuỷ chung là đặc tính của tình u:
“Dẫu xi về phương Bắc ...
Hướng về anh một phương”.
Sóng đã bày tỏ nỗi lòng của người con gái, khát vọng được sống hết mình trong một tình yêu
đẹp, sắt son thuỷ chung. Người ta thường nói xi vào Nam, ngược ra Bắc; nhưng ở đây,
trong nỗi nhớ chất đầy nhà thơ lại dùng ngược lại. Từ đó nhà thơ đã nói đến nỗi nhớ bất chấp
vạn vật, khoảng cách, tình yêu là sự gặp gỡ giữa hai tâm hồn không có giới hạn.
Cuối cùng sóng đã nói hộ nhà thơ nỗi khát vọng được sống trọn vẹn trong tình yêu. Tình u
lứa đơi đẹp đẽ, nồng nàn như trăm ngàn con sóng nhỏ giữa đại dương mênh mơng, muốn
được hồ nhịp vào biển lớn của tình u cộng đồng:
“Làm sao được tan ra
Thành trăm con sóng nhỏ
Giữa biển lớn tình u
Để ngàn năm cịn vỗ”.
Cả bài thơ, nếu kể đến nhan đề, thì tác giả đã mười một lần nhắc đến từ “sóng”. Sóng vỗ như
tâm tình xơn xao. Sóng cho ta nhiều ấn tượng về âm điệu của sóng, cũng như giọng điệu tâm
tình, nhịp điệu của bài thơ. Thơ hồn nhiên, liền mạch về cảm xúc, trong sáng trong cách diễn
đạt của tác giả. Sóng vỗ trên đại dương mênh mơng cũng chính là sóng vỗ trong lịng người
con gái.
Từ hình tượng “sóng” Xuân Quỳnh cho ta thấy rõ vẻ đẹp tâm hồn người phụ nữ trong tình
yêu. Với tình yêu chân thành, thắm thiết, người phụ nữ muốn sống hết mình, sống trọn vẹn
trong tình yêu đẹp. Yêu là nhớ ngày mong đêm, người phụ nữ khát khao được hồ nhập gần
gũi trong tình u ấy. Họ u thật nồng nàn, say đắm, thủy chung!
Xuân Quỳnh viết bài thơ này vào những năm 1967, khi cuộc kháng chiến của nhân dân miền
Nam ở vào giai đoạn ác liệt, khi thanh niên trai gái ào ào ra trận “xẻ dọc Trường Sơn đi cứu
nước”, khi sân ga, bến nước, gốc đa, sân trường diễn ra những cuộc chia ly màu đỏ. Cho nên
có đặt bài thơ vào trong hoàn cảnh ấy ta mới càng thấy rõ nỗi khát khao của người con gái
trong tình yêu.
Đọc xong bài thơ “Sóng” ta càng ngưỡng mộ hơn những con người phụ nữ Việt Nam, những
con người ln thuỷ chung, ln sống hết mình vì một tình yêu. Xuân Quỳnh xứng đáng là
một nhà thơ nữ của tình u lứa đơi, bà đã làm phong phú hơn cho nền thơ nước nhà.
<b>Phần tự chọn:</b>
<b>Câu 3. a:</b>
Nguyễn Trung Thành là nhà văn có duyên nợ gắn bó với mảnh đất Tây Nguyên. Qua hai cuộc
kháng chiến cùng vào sinh ra tử với những người dân nơi đây đã cung cấp cho Nguyễn Trung
Thành một vốn hiểu biết vô cùng sâu rộng về mảnh đất âm vang rộn tiếng cồng chiêng trong
mùa lễ hội, nơi có những người con trung dũng, kiên cường. Nếu trong kháng chiến chống
Pháp, Nguyễn Trung Thành - bút danh Nguyên Ngọc nổi tiếng cùng “Đất nước đứng lên”; thì
trong những năm kháng chiến chống Mỹ, đặc biệt là những năm 1965 khi cuộc kháng chiến
của nhân dân miền Nam đang diễn ra gay go ác liệt thì Nguyễn Trung Thành cho ra mắt
người đọc truyện ngắn “Rừng xà nu”. Tác phẩm này đã là một bản hùng ca, ca ngợi cuộc sống
và con người Tây Nguyên trong cuộc chiến tranh vĩ đại. Và nổi bật hơn cả trong tác phẩm
chính là hình tượng cây xà nu.
Cây xà nu là một hình tượng nhân vật trung tâm trong truyện ngắn “Rừng xà nu” của Nguyễn
Trung Thành. Xuyên suốt trong tác phẩm ta bắt gặp những cánh rừng xà nu nối tiếp nhau
chạy đến chân trời. Cây xà nu là một loài cây quen thuộc, có mặt trong cuộc sống hàng ngày
của người dân Tây Nguyên. “Củi xà nu cháy trong mỗi bếp lửa gia đình, khói xà nu nhuộm
bảng đen cho con trẻ học chữ, đuốc xà nu rọi sáng sân nhà Ưng trong những đêm lễ hội...”.
Tất cả mọi hoạt động dù lớn dù nhỏ của người dân Tây Nguyên đều có sự góp mặt của cây xà
nu. Sự sống của dân làng Xô Man đều gắn liền với những cánh rừng xà nu. Khi Nguyễn
Trung Thành viết : “Làng ở trong tầm đại bác của đồn giặc, chúng nó bắn đã thành lệ, ngày
hai lần, hoặc buổi sáng sớm và xế chiều, hoặc đứng bóng và xẩm tối, hoặc nửa đêm và trở gà
gáy. Hầu hết đạn đại bác của đồn giặc đều rơi vào những ngọn đồi xà nu, cạnh con nước lớn”,
nhà văn đã phản ảnh khơng khí căng thẳng của thời đại, gợi lên sự đối mặt quyết liệt giữa sự
sống và cái chết. Nổi bật trên nền bối cảnh ấy, Nguyễn Trung Thành đã đi sâu miêu tả những
đặc điểm nổi bật của câu xà nu. Cũng như bao loài cây khác, cây xà nu là một loài cây ham
ánh sáng và khí trời “trong rừng ít có lồi cây nào sinh sơi nảy nở khoẻ đến vậy... ít có lồi
cây nào ham ánh sáng đến thế” cũng có nghĩa là ham sống, khao khát muốn được vươn lên
giữa bầu trời cao rộng.
mặt trời. Nếu cây xà nu bị tàn phá, huỷ diệt bởi đạn bom, khói lửa thì những người dân Tây
Nguyên phải chịu bao đau thương mất mát do chính kẻ thù gây ra. Bao nhiêu người bị giặc
“Gươm nào chia được dòng Bến Hải
Lửa nào thiêu được dãy Trường Sơn
Căm hờn lại giục căm hờn
Máu kêu trả máu đầu van trả đầu”
Các thế hệ nhân dân Tây Nguyên đã thay nhau tiếp nối đứng lên. ánh sáng của niềm tin
“Đảng cịn thì núi nước này cịn” đã soi đường chỉ lối cho những bước chân đến với cách
mạng. Thế hệ này ngã xuống, thế hệ sau tiếp nối đứng lên; anh Sút bà Nhan bị giặc giết, đi
thay họ tiếp tế ni qn đã có T Nú và Mai. Cứ như thế, các thế hệ người Tây Nguyên đã
thay nhau giữ vững ngọn lửa truyền thống, thay nhau giữ vững ý chí đánh giặc kiên cường, để
giữ làng, giữ nước của dân làng Xơ man nói riêng và của người Tây Ngun nói chung.
Dưới ngịi bút miêu tả của Nguyễn Trung Thành, cây xà nu hiện lên sừng sững, đồng hành với
những bước đi, cuộc sống của dân làng Xơ man. Gắn bó với cánh rừng anh dũng, kiêu hùng,
những người dân Tây Nguyên như được tiếp thêm sức mạnh để đứng lên chiến đấu. Và gắn
bó với con người Tây Ngun ân tình, thuỷ chung, trung dũng như thế. Cây xà nu cũng luôn
ln sánh bước cùng họ để họ có cuộc sống bình yên hơn; để “hầu hết đạn đại bác của đồn
giặc đều rơi vào những ngọn đồi xà nu, cạnh con nước lớn” chứ không nhằm vào những
người dân vơ tội lầm than.
Cây xà nu là hình tượng mang đậm chất lý tưởng, tiêu biểu cho phẩm chất, số phận của người
dân Tây Nguyên. Hình tượng cây xà nu trong tác phẩm mang đậm chất sử thi, tính hào hùng,
nó làm rõ chủ đề tư tưởng của truyện ngắn “Rừng xà nu”. Để xây dựng một hình tượng xà nu
Có đọc “Rừng xà nu” của Nguyễn Trung Thành ta mới cảm nhận hết vẻ đẹp hình tượng cây
xà nu. Hình tượng này đã góp phần tạo nên một “Rừng xà nu” trọn vẹn, mang đậm giá trị văn
học. Nguyễn Trung Thành đã góp phần làm phong phú thêm cho nền văn học dân tộc./.
“Cuộc sống không có thất bại, có chăng là cách chúng ta nhìn mọi việc. Với tơi, thành cơng là
khi ai đó đọc được bài viết nhỏ này. Có thể sẽ chẳng được điểm cao, nhưng gửi gắm được
những suy nghĩ của mình vào trang viết, với tơi đó là một thành cơng" đó là một đoạn trong
bài văn điểm 9 + xơn xao dư luận.
Hà Minh Ngọc học lớp 10 Văn, khối chuyên THPT trường ĐH
Sư phạm <b>Hà Nội</b> là tác giả của bài văn này. Điều vui mừng nhất
toát lên từ cơ học trị này là bài văn ấy khơng chỉ dừng lại ở việc
học mà là kết quả từ những gì chắt chiu, cảm thụ được những giá trị đích thực từ chính cuộc
sống.
Bài tập làm văn đạt điểm 9+ này là bài kiểm tra đầu tiên của Minh Ngọc cũng như học sinh
lớp 10 Văn ngay sau ngày khai giảng (6/9). Để kiểm tra kỹ năng viết và kiến thức của học trị,
cơ giáo dạy văn, kiêm chủ nhiệm lớp Nguyễn Bích Thảo đã ra đề bài mở: “Một bài học sâu
sắc, ý nghĩa của cuộc sống đã tặng cho em”.
Là một học trò học khá đều các môn (trước khi quyết định học chuyên Văn, Ngọc đã từng cân
nhắc thi vào lớp chuyên Hoá và học khối A), Ngọc bị lơi cuốn và tìm kiếm sự sáng tạo.
“Em cũng đã nghĩ đến nhiều phương án như chọn hình thức viết thư cho một người thân để
Ngọc đã lục những tư liệu “lưu giữ’ trong trí nhớ, sắp xếp lại và viết bằng lập luận, suy nghĩ
của mình.
Ngọc là con cả trong gia đình có 2 chị em. Người có vai trị giúp Ngọc say mê học hành chính
là người mẹ Nguyễn Song Hà, giảng viên ĐH Dược Hà Nội. Bố Ngọc, ông Hà Văn Thúy
công tác ở Ban quản lý các dự án Tây Nguyên (Bộ Y tế) thực sự khâm phục bài viết của con
gái nên đã tự hào mang đi khoe với bạn bè.
Một người bạn ông là Việt kiều ở Mỹ về đã vội post bài viết của Ngọc lên <b>blog</b> của mình và
nhanh chóng được các công dân mạng chuyển cho nhau.
Bài viết của Ngọc được đánh giá cao và có người cịn ví “giống như là nước, len lỏi tới từng
ngóc ngách của tâm hồn. Nó như lời an ủi, động viên đầy xúc động bằng chính những gì nhỏ
bé nhất đang hiện hữu xung quanh mỗi con người”.
Cô Thảo kể: “Qua bài kiểm tra này, mình muốn biết các học trị nhận thức như thế nào về
cuộc sống. Và bài của Ngọc đã thực sự làm mình sửng sốt và ngạc nhiên. Mình khơng giấu
nổi cảm xúc và sự tự hào khi phê vào bài làm của Ngọc. Bài viết đúng với hoàn cảnh, tâm
trạng của mình trong thời gian gặp nhiều khó khăn. Chính bản thân mình phải cám ơn em học
trị đã có bài viết đầy tình người và sâu sắc. Mỗi lúc mình nản trí lại nhớ tới từng câu, từng
chữ trong bài viết để thấy rằng thành công là những gì nhỏ bé thơi mà mình đang làm được”.
Và cô giáo cũng không quên phê rằng: "Cảm ơn em đã tặng cô một bài học, một lời động viên
vào lúc cơ cần nó nhất. Em đã thực sự thành công đấy. Mong em tiếp tục thành công".
<b>Đề bài: Một bài học sâu sắc, ý nghĩa mà cuộc sống đã tặng cho em</b>
<b>Bài làm : </b>
<b>Bản chất của thành công</b>
Đã bao giờ bạn tự hỏi thành cơng là gì mà bao kẻ bỏ cả cuộc đời mình theo đuổi? Phải chăng
đó là kết quả hồn hảo trong cơng việc, sự chính xác đến từng chi tiết? Hay đó là cách nói
khác của từ thành đạt, nghĩa là có được một cuộc sống giàu sang, được mọi người nể phục?
Vậy thì bạn hãy dành chút thời gian để lặng mình suy ngẫm. Cuộc sống sẽ chỉ cho bạn có
những người đạt được thành cơng theo một cách giản dị đến bất ngờ.
màu… đen cháy. Nhưng nhìn mâm cơm, mẹ vẫn cười. Bởi vì hai bố con không thể thành
công trên “chiến trường” bếp núc, nhưng lại thành cơng khi tặng mẹ “đố hồng” của tình u.
Một món q ý nghĩa hơn cả những món quà quý giá, hạnh phúc ấy long lanh in trong mắt
mẹ.
Thành cơng cịn là hình ảnh một cậu bé bị dị tật ở chân, không bao giờ đi lại bình thường
được. Từ nhỏ cậu đã ni ước mơ trở thành cầu thủ bóng đá. Sau bao nỗ lực khổ luyện, cậu
bé trở thành cầu thủ dự bị trong một đội bóng nhỏ, và chưa bao giờ được chính thức ra sân.
Nhưng đó khơng phải là thất bại. Trái lại, thành công đã nở hoa khi cậu bé năm xưa, với bao
nghị lực và quyết tâm, đã chiến thắng hoàn cảnh để theo đuổi ước mơ từ ngày thơ bé. Thành
công ấy, liệu có mấy người đạt được?
Sau mỗi mùa thi đại học, có bao “sĩ tử” buồn rầu khi biết mình trở thành “tử sĩ”. Hai bảy
điểm, cao thật đấy. Nhưng cao mà làm gì khi NV1 lấy tới hai bảy phẩy năm? Đó thật ra khơng
phải là thất bại, chỉ là khi thành cơng - bị - trì - hỗn mà thơi. Cuộc sống vẫn chào đón họ với
NV2, NV3. Quan trọng là họ đã nỗ lực hết sức để khẳng định mình. Đó là ý nghĩa vẹn ngun
của các kỳ thi, và cũng là bản chất của thành cơng.
Ngày cịn nhỏ, tơi đã được đọc một câu chuyện rất xúc động. Truyện kể về một cậu bé nghèo
Nhiều năm trước, <b>báo chí</b> từng vinh danh một cậu học trò nghèo thi đậu đại học với vị trí thủ
khoa. Đối với cậu, đó là một thành cơng lớn. Nhưng có một thành cơng khác, lặng thầm mà
lớn lao, đó là chiến thắng của một người cha gần 20 năm trời đạp xích lơ ni con ăn học.
Bao niềm tin và hi vọng hiện lên trên gương mặt vốn đã chịu nhiều khắc khổ. Và ngày con
trai đậu đại học cũng là ngày tốt nghiệp khoá - học - của - một- người – cha.
Tơi biết có một nữ sinh tốt nghiệp đại học với tấm bằng loại ưu gần hai mươi năm trước. Với
tài năng của mình, cơ có thể gặt hái thành công trên con đường sự nghiệp và danh vọng.
Nhưng cô sinh viên năm ấy đã chấp nhận hi sinh những cơ hội của đời mình để trở thành một
người vợ đảm đang, một người mẹ dịu hiền của hai cô công chúa nhỏ. Cho tới bây giờ, khi đã
là một phụ nữ trung niên, Người vẫn nói với tơi rằng: “Chăm sóc bố và hai con chu đáo, đối
với mẹ đã là một thành công lớn”. Mỗi khi nghe câu nói ấy, tơi lại rơi nước mắt. Gia đình là
hạnh phúc, là thành quả đẹp đẽ của đời mẹ, và chúng tôi phải cảm ơn mẹ vì điều đó.
Con người ln khát khao thành cơng, nhưng mù qng theo đuổi thành cơng thì thật là vơ
nghĩa. Bạn muốn mình giàu có, muốn trở thành tỷ phú như Bill Gates? Vậy thì hãy gấp đồng
tiền một cách cẩn thận rồi trao nó cho bà cụ ăn xin bên đường. Với việc làm đẹp đẽ ấy, bạn sẽ
cho mọi người hiểu được bạn khơng chỉ giàu có về vật chất mà cịn giàu có tâm hồn. Khi đó,
bạn đã thực sự thành công.
Thành công là khi bố và <b>con trai</b> có dũng khí bước vào bếp, nấu những món ăn mẹ thích nhân
ngày 8-3. Món canh có thể hơi mặn, món cá sốt đáng lẽ phải có màu đỏ sậm thì lại ngả sang
màu… đen cháy. Nhưng nhìn mâm cơm, mẹ vẫn cười. Bởi vì hai bố con không thể thành
Bạn được sinh ra, đó là một thành cơng vĩ đại của cha và mẹ. Trách nhiệm của bạn là phải gìn
giữ cho vẻ đẹp hồn thiện của thành cơng ấy. Đừng bao giờ ủ ê nghĩ rằng cuộc sống là một
chuỗi của thất bại, bởi như một giáo sư người Anh từng nói: “Cuộc sống này khơng có thất
bại, có chăng là cách chúng ta nhìn nhận mọi việc mà thơi”. Cịn đối với tơi, thành cơng là khi
ai đó đọc được bài viết nhỏ này. Có thể sẽ chẳng được điểm cao, nhưng gửi gắm được những
suy nghĩ của mình vào trang viết, với tơi, đó là một thành công.
<b>Hà Minh Ngọc (6/9/2006)(Theo Tiền Phong)</b>
<b>Trong buổi lễ chào cờ đầu tuần (6/11), thầy Lê Trần Bân, Hiệu phó THPT </b>
<b>Huỳnh Thúc Kháng (thành phố Vinh, Nghệ An) đã đọc bài văn viết về bố </b>
<b>của học sinh Nguyễn Thị Hậu. Thày ngân ngấn nước mắt, cả sân trường xúc</b>
<b>động lặng im. Sau hơm đó, người dân thành phố Vinh photo bài văn, chuyền</b>
<b>tay nhau đọc. </b>
<b>Đề bài: “Em hãy phát biểu cảm nghĩ về một người thân yêu nhất”</b>
<b>Bài làm:</b>
Trong cuộc sống hàng ngày, có biết bao nhiêu người đáng để chúng ta thương yêu và dành
nhiều tình cảm. Nhưng đã bao giờ bạn nghĩ rằng, người thân yêu nhất của bạn là ai chưa? Với
mọi người câu trả lời ấy có thể là ông bà, là mẹ, là anh chị hoặc cũng có thể là bạn bè chẳng
hạn. Cịn riêng tơi, hình ảnh người bố sẽ mãi mãi là ngọn lửa thiêng liêng, sưởi ấm tâm hồn
tôi mãi tận sau này.
Bố tôi không may mắn như những người đàn ông khác. Trong suốt cuộc đời bố có lẽ khơng
bao giờ được sống trong sự sung sướng, vui vẻ. Bốn mươi tuổi khi chưa đi được nửa chặng
đời người, bố đã phải sống chung với bao nhiêu bệnh tật: Đầu tiên đó chỉ là những cơn đau dạ
dày, rồi tiếp đến lại xuất hiện thêm nhiều biến chứng. Trước đây, khi còn khỏe mạnh, bao giờ
bố cũng rất phong độ.
Thế nhưng bây giờ, vẻ đẹp ấy dường như đã dần đổi thay: Thay vì những cánh tay cuồn cuộn
bắp, giờ đây chỉ còn là một dáng người gầy gầy, teo teo. Đôi mắt sâu dưới hàng lông mày
rậm, hai gò má cao cao lại dần nổi lên trên khn mặt sạm đen vì sương gió. Tuy vậy, bệnh
tật khơng thể làm mất đi tính cách bên trong của bố, bố luôn là một người đầy nghị lực, giàu
tự tin và hết lòng thương yêu gia đình.
Gia đình tơi khơng khá giả, mọi chi tiêu trong gia đình đều phụ thuộc vào đồng tiền bố mẹ
kiếm được hàng ngày. Dù bệnh tật, ốm đau nhưng bố chưa bao giờ chịu đầu hàng số mệnh.
Bố cố gắng vượt lên những cơn đau quằn quại để làm n lịng mọi người trong gia đình, cố
gắng kiếm tiền bằng sức lao động của mình từ nghề xe lai.
Hàng ngày, bố phải đi làm từ khi sáng sớm cho tới lúc mặt trời đã ngã bóng từ lâu. Mái tóc bố
đã dần bạc đi trong sương sớm. Công việc ấy rất dễ dàng với những người bình thường nhưng
với bố nó rất khó khăn và gian khổ. Bây giờ có những lúc phải chở khách đi đường xa, đường
sốc thì những cơn đau dạ dạy của bố lại tái phát.
Và cả những ngày thời tiết thay đổi, có những trưa hè nắng to nhiệt độ tới 38-48 độ C, hay
những ngày mưa ngâu rả rích cả tháng 7, tháng 8, rồi cả những tối mùa đông lạnh giá, bố vẫn
cố gắng đứng dưới những bóng cây kia mong khách qua đường. Tơi luôn tự hào và hãnh diện
với mọi người khi có được một người bố giàu đức hy sinh, chịu thương, chịu khó như vậy.
Nhưng có phải đâu như vậy là xong. Mỗi ngày bố đứng như vậy thì khi trở về những cơn đau
quằn quại lại hành hạ bố. Nhìn khn mặt bố nhăn nhó lại, những cơn đau vật vã mà bố phải
chịu đựng, tôi chỉ biết ịa lên mà khóc. Nhìn thấy bố như vậy, lịng tơi như quặn đau hơn gấp
trăm ngàn lần. Bố ơi, giá như con có thể mang những cơn đau đó vào mình thay cho bố, giá
như con có thể giúp bố kiếm tiền thì hay biết mấy? Nếu làm được gì cho bố vào lúc này để bố
được vui hơn, con sẽ làm tất cả, bố hãy nói cho con được khơng?
Những lúc ấy, tơi chỉ biết ôm bố, xoa dầu cho bố, tôi chỉ muốn với bố đừng đi làm nữa, tơi có
thể nghỉ học, như vậy sẽ tiết kiệm được chi tiêu cho gia đình, tơi có thể kiếm được tiền và
chữa bệnh cho bố. Nhưng nếu nhắc đến điều đó chắc chắn là bố sẽ buồn và thất vọng ở tôi
nhiều lắm.
Bố ln nói rằng bố sẽ ln chiến đấu. Chiến đấu cho tới những chút sức lực cuối cùng để có
thể ni chúng tơi ăn học thành người. Bố rất quan tâm đến việc học của chúng tôi. Ngày xưa
bố học rất giỏi nhưng nhà nghèo bố phải nghỉ học. Vào mỗi tối, khi còn cố gắng đi lại được,
nổi tiếng…
Chính vì vậy, tôi luôn cố gắng tự giác học tập. Tôi sẽ làm một bác sĩ và sẽ chữa bệnh cho bố,
sẽ kiếm tiền để phụng dưỡng bố và đi tiếp những bước đường dở dang trong tuổi trẻ của bố.
Tôi luôn biết ơn bố rất nhiều, bố đã dành cho tơi một con đường sáng ngời, bởi đó là con
đường của học vấn, chứ không phải là con đường đen tối của tiền bạc. Tôi sẽ luôn lấy những
lời bố dạy để sống, lấy bố là gương sáng để noi theo.
Và tôi khâm phục không chỉ bởi bố là một người giỏi giang, là một người cao cả, đứng đắn,
lịng kiên trì chịu khó mà cịn bởi cách sống lạc quan, vơ tư của bố. Mặc dù những thời gian
rảnh rỗi của bố còn lại rất ít nhưng bố vẫn trồng và chăm sóc khu vườn trước nhà để cho nó
bao giờ cũng xanh tươi.
Những giỏ phong lan có bao giờ bố quên cho uống nước vào mỗi buổi sáng; những cây thiết
ngọc lan có bao giờ mang trên mình một cái lá héo nào? Những cây hoa lan, hoa nhài có bao
giờ khơng tỏa hương thơm ngát đâu? Bởi đằng sau nó ln có một bàn tay ấm áp chở che,
chăm sóc, khơng những u hoa mà bố cịn rất thích ni động vật.
Tuy nhà tơi bao giờ cũng có hai chú chó con và một chú mèo và có lúc bố cịn mang về những
chiếc lồng chim đẹp nữa. Và hơn thế, trong suốt hơn năm năm trời chung sống với bệnh tật,
tôi chưa bao giờ nghe bố nhắc đến cái chết, nhưng điều đó không đồng nghĩa với việc trốn
tránh sự thật, bố luôn đối mặt với “tử thần”, bố luôn dành thời gian để có thể làm được tất cả
mọi việc khi chưa quá muộn.
Nhưng cuộc đời bố bao giờ cũng đầy đau khổ, khi mà cả gia đình đã dần khá lên, khi các chị
tơi đã có thể kiếm tiền, thì bố lại bỏ chị em tơi, bỏ mẹ, bỏ gia đình này để ra đi về thế giới bên
kia. Bố đi về một nơi rất xa mà không bao giờ được gặp lại. Giờ đây khi tôi vấp ngã, tôi sẽ
phải tự đứng dậy và đi tiếp bằng đơi chân của mình, bởi bố đi xa, sẽ khơng cịn ai nâng đỡ,
Bố có biết chăng nơi đây con cơ đơn buồn tủi một mình khơng? Tại sao nỡ bỏ con ở lại mà đi
hả bố? Nhưng con cũng cảm ơn bố, bố đã cho con thêm một bài học nữa, đó chính là trong
cuộc sống hàng ngày, chúng ta hãy trân trọng những gì đang có, hãy yêu thương những người
xung quanh mình hơn, và đặc biệt hãy quan tâm, chăm sóc cho bố của mình, tha thứ cho bố,
khi bố nóng giận và nỡ mắng mình bởi bố ln là người u thương nhất của chúng ta.
Bố ra đi, đi đến một thế giới khác, ở nơi đó bố sẽ khơng cịn bệnh tật, sẽ thoát khỏi cuộc sống
thương đau này. Và bố hãy yên tâm, con sẽ luôn nhớ những lời dạy của bố, sẽ ln thương
u, kính trọng biết ơn bố, sẽ sống theo gương sáng mà bố đã rọi đường cho con đi. Hình ảnh
của bố sẽ ln ấp ủ trong lịng con. Những kỷ niệm, những tình cảm bố dành cho con, con sẽ
ôm ấp, trân trọng, nó như chính linh hồn của mình.
<b>NGUYỄN THỊ HẬU</b>
<i>(Lớp 10A2, Trường THPT Huỳnh Thúc Kháng, TP Vinh, Nghệ An</i>
<b>Lời phê của cô giáo Phan Thị Thanh Vân:</b>