BÀI KIỂM TRA ĐIỀU KIỆN
Mơn: Tơn giáo và tín ngưỡng
Đề bài: Ảnh hưởng của Cơng giáo tới nền văn hóa Việt Nam
Việt Nam là một quốc gia đa tôn giáo, có cả tơn giáo nội sinh và ngoại lai,
việc tiếp nhận các tơn giáo ngoại lai trong đó có Cơng giáo gắn với hồn cảnh
chính trị - xã hội, về lịch sử tiếp nhận và những yếu tố khác.
Trong mấy thế kỷ Việt Nam tiếp xúc và giao lưu với phương Tây, bên cạnh
Cơng giáo, ảnh hưởng của văn hóa phương Tây đã tác động một cách khá sâu rộng
vào nhiều lĩnh vực văn hóa vật chất và tinh thần Việt Nam. Tùy từng lúc từng nơi,
thái độ của người Việt Nam có thể khác nhau, chấp nhận hay chống đối, nhưng
cuối cùng bao giờ cũng là sự thâu hóa linh hoạt, tiếp nhận những gì có ích và biến
đổi cho phù hợp với tính cách Việt Nam và nhu cầu Việt Nam. So với Phật giáo và
Khổng giáo, Công giáo du nhập vào Việt Nam muộn hơn, mang đậm nét văn hóa
phương Tây nhưng cũng đã đóng góp nhiều mặt tích cực tạo nên những nét văn
hóa Cơng giáo rất riêng biệt.
Về thời gian, Việt Nam tiếp xúc với Cơng giáo và văn hóa Cơng giáo từ khá
lâu. Trong đó tính cách quốc tế của việc truyền giáo ở Việt Nam đã dẫn đến những
điều kiện thuận lợi để người Việt Nam tiếp thu văn minh phương Tây và văn hóa
Cơng giáo. Các loại hình văn hóa mới ở Việt Nam tương đối tiêu biểu ở hình loại
và những kết quả trong thực tiễn, từ kiến trúc, nghề in, báo chí, văn học, đến sân
khấu, kịch, điêu khắc, nghệ thuật… đã xuất hiện mhiều nét mới lạ. Cùng với thời
gian dần dần Công giáo đã trở thành mạch sống bên trong bản sắc dân tộc .
Cũng như các tôn giáo khác, Công giáo xem việc truyền đạo là sứ mạng
thiêng liêng và thường trực.Ngay từ rất sớm với lời thúc dục hãy đi khắp trái đất
và giảng phúc âm cho mọi người. Bằng các hoạt động truyền giáo, Công giáo từ
một tơn giáo địa phương nhanh chóng trở thành tơn giáo của đế chế La Mã, và từ
tôn giáo của đế chế La Mã trở thành tôn giáo của châu Âu. Với những phát kiến
địa lý thời kỳ cận đại đã mở ra những triển vọng lớn lao cho việc mở rộng nước
Chúa đến những miền đất ngoại trong đó có Việt Nam.
Về sự hội nhập văn hóa Cơng giáo với văn hóa Việt Nam.Nền văn hố của
một dân tộc được ví như những tấm vải mn màu mà những sợi dọc là những cốt
lõi văn hố của chính dân tộc đó, trong khi những sợi ngang là những đón nhận
qua nhiều thế hệ.Như vậy, tam giáo đã dệt nên những sợi ngang mn màu trong
một q trình phát triển của văn hố Việt Nam.Khi đạo Cơng giáo hiện diện ở Việt
Nam thì đã có một yếu tố mới làm giàu cho văn hố Việt Nam.
Cơng giáo là tơn giáo giúp cho con người cảm nhận thực tại thần thiêng một
cách rõ ràng và hữu lý nhất. Vì thực tại thần thiêng trong Công giáo không là
những giáo thuyết cao siêu, những chân lý trừu tượng, hay những bí nhiệm từ trời
cao, nhưng là một ngôi vị cụ thể, một Thiên Chúa siêu việt nhưng làm người ở
giữa nhân loại, trở nên một con người hữu hình trong lịch sử, trong thời gian. Linh
đạo Công giáo không chỉ dành cho những con người uyên thâm, tài năng, những
nhà tu đức đạo hạnh, hay những học giả tư tưởng thời danh, mà còn là con đường
đến thánh của người nghèo, của tầng lớp lao động chân chất, của thế giới bình dân
đơng đảo mà xã hội nào cũng có. Cơng giáo có khả năng đồng hành với mọi nỗi
niềm của con người, cho dù họ là học giả cao siêu hay kẻ cùng đinh trong xã hội.
Người ta cho rằng đức tin luôn luôn xuất hiện trong một bộ áo văn hố và nhờ
đó người đón nhận có cơ may và tự do dựa theo bản sắc dân tộc mình mà tự khám
phá ra những phương cách thích hợp cho việc thâu nhập đức tin. Nếu Ngôi Lời đã
trở thành nhục thể trong Ðức Giêsu thì việc hội nhập văn hố là điều tất yếu. Trong
ý hướng ấy nhiều học giả cho rằng phải đưa tinh thần và biểu hiệu chính yếu Cơng
giáo vào trong văn chương, tư tưởng, nghệ thuật Việt Nam, nghĩa là được tư duy
và diễn tả bằng các phạm trù và các biểu hiện Việt Nam, trước hết là Công giáo
hữu Việt Nam, thí dụ như việc cổ vũ thiết lập bàn thờ gia tiên, áp dụng những phần
tinh túy của hôn lễ, tang lễ và lễ giỗ theo truyền thống.
Niềm tin Cơng giáo có thể tháp nhập được vào trong nền văn hóa Việt Nam.
Vì cảm thức "cái thiêng" của người dân Việt phù hợp với bản chất "dung dị" của
Tin mừng. Cái thiêng ở đây rất cụ thể trong cuộc sống thường ngày của người dân
Việt.Có gì cụ thể hơn cây đa, bến nước, bờ tre, mảnh vườn; có gì thân thương hơn
tình làng nghĩa nước, và thắm thiết hơn tương quan máu mủ, ruột thịt trong văn
hóa Việt Nam. Cũng vậy, có gì rõ ràng hơn, thiết thực hơn hình ảnh một cánh huệ
ngồi đồng, dáng chim sẻ đang bay, một mẻ cá lớn, những hạt giống gieo vãi trên
đường mòn, giữa bụi gai, trên đá sỏi, mưa đổ, sơng tràn, gió thổi... trong lời rao
giảng của Ðức Giêsu. Và có gì thắm thiết hơn một tình u cho đi cả mạng sống
mình của Ðức Giêsu. Nếu trong đạo Cơng giáo, bí tích Rửa tội là cửa ngõ đầu tiên
của người tín hữu gia nhập vào cộng đồn dân Chúa, thì nghi lễ Cáo gia tiên trong
văn hố Việt Nam là cửa ngõ cho những thành viên mới gia nhập vào cộng đồng
gia tộc, làng nước. Nếu trong đạo Công giáo, một chút bánh, chút rượu và lời
truyền phép của vị linh mục làm nên thực tại Thiên Chúa hiện diện nơi bí tích
Thánh Thể, thì trong phong tục cúng bái Việt Nam, một nén hương, đĩa xôi, chút
rượu trước hương án ông bà tổ tiên thiết lập được tương quan linh thiêng giữa cõi
dương và âm. Qua bí tích Hơn nhân Cơng giáo, đơi nam nữ được chính thức cơng
nhận là vợ chồng trước mặt Giáo hội và Thiên Chúa, thì qua những tục lệ cưới hỏi
Việt Nam, họ cũng được gia tộc, xã hội, làng nước cơng nhận là đơi vợ chồng. Có
thể nói, chính nhờ cảm thức về "cái thiêng" mà văn hoá Việt Nam có những sự
tương đồng rất gần gũi với những thực tại Công giáo.
Trong việc hội nhập Cơng giáo vào nền văn hóa Việt Nam, một trong những
yếu tố quan trọng và nền tảng của nền văn hóa này đó là đạo hiếu, hay tinh thần
hiếu thảo đối với cha mẹ, ông bà tổ tiên. Tại sao?Vì người Việt cũng như các dân
tộc vùng Á Đông này luôn luôn đặt nặng tinh thần hiếu thảo đối với cha mẹ, ông
bà, tổ tiên. Từ nguồn cội, đạo hiếu luôn luôn là một nền tảng căn bản cho đạo làm
người của người Việt, và nằm trong bản chất văn hóa của người Việt. Vì thế, việc
hội nhập văn hóa Cơng giáo vào Việt Nam nên khởi đầu từ đạo hiếu, và lấy đạo
hiếu làm nền tảng. Ta thấy có sự phù hợp giữa sứ điệp Cơng giáo và văn hóa Việt
Nam trong chủ trương thảo hiếu với cha mẹ, tổ tiên. Thật vậy, đạo hiếu trong Công
giáo thật rõ ràng và được coi là quan trọng.
Đồng thời dân tộc Việt Nam không chỉ đặt nặng đạo hiếu đối với cha mẹ hay
ông bà tổ tiên ở dưới đất này mà con người cịn có cha mẹ ở một cấp cao hơn, đó là
cha mẹ ở trên trời, hay là cha mẹ sinh ra vũ trụ vạn vật, mà con người cũng có bổn
phận phải thảo hiếu. Niềm tin có Trời là Ðấng tạo dựng vũ trụ rất phù hợp với
niềm tin chung của dân tộc. Ðây là một điểm nổi bật khác của nền văn hóa Á
Ðơng, rất thuận lợi cho việc hội nhập văn hóa Cơng giáo, đó là người ta tin rằng
trên đầu mình cịn có một Ðấng thiêng liêng, tạo dựng nên vũ trụ. Tuy nhiên, ý
niệm về Ðấng thiêng liêng này cịn rất mơ hồ, chưa rõ rệt, và Cơng giáo có thể đưa
ra một ý niệm rõ rệt hơn.Cơng giáo đặt rất nặng việc thảo hiếu với Ðấng thiêng
liêng này, cũng là cha mẹ của chúng ta, nhưng ở cấp độ cao và rộng hơn cha mẹ ở
dưới đất này.
Công giáo chú trọng về đạo hiếu và coi đạo hiếu như nền tảng của mình, nên
Cơng giáo phù hợp với tinh thần hiếu thảo của dân tộc ta.Nhưng đạo Công giáo
cịn cho thấy một chiều kích rộng lớn hơn của đạo hiếu, giúp quan niệm về đạo
hiếu của dân tộc trở nên rộng rãi và hoàn chỉnh hơn. Vì đạo Cơng giáo quan niệm
vũ trụ như một đại gia đình, trong đại gia đình đó, Thiên Chúa là cha mẹ sinh ra tất
cả, và tất cả mọi tạo vật là anh em.
Như vậy, khi đưa quan niệm về đạo hiếu của mình vào nền văn hóa dân tộc,
thì người Cơng giáo đã hồn chỉnh quan niệm thảo hiếu đối với cha mẹ vốn sẵn có
trong nền văn hóa Việt Nam, làm cho quan niệm về đạo hiếu của dân tộc trở nên
rộng rãi và đầy đủ hơn.
Tiếp nhận văn hóa Cơng giáo, văn hóa Việt Nam cũng được làm giàu thêm
bởi những yếu tố văn hóa phương Tây, và đặc biệt thành công trong vấn đề chữ
viết.Khi truyền đạo cho người Việt Nam, khó khăn đầu tiên mà các giáo sĩ vấp
phải là sự khác biệt về ngơn ngữ và văn tự; các giáo sĩ có thể học tiếng Việt được,
nhưng học chữ Nơm thì q khó. Bởi vậy họ đã dùng bộ chữ cái Latinh quen thuộc
có bổ sung thêm các dấu phụ (mà một số ngôn ngữ phương Tây như chữ Bồ Đào
Nha đã từng làm) để ghi âm tiếng Việt – thứ chữ này về sau được gọi là chữ Quốc
ngữ. Chữ Quốc ngữ là thành quả công sức tập thể của các giáo sĩ người Bồ Đào
Nha, Ý, Pháp… và những người Việt Nam đã từng giúp họ học tiếng Việt.
Như vậy là từ khi truyền vào Việt Nam, đạo Công giáo đã có những đóng góp
đáng kể cho nền văn hóa Việt Nam.Hội nhập Công giáo vào Việt Nam đã làm cho
nền văn hóa ấy trở nên phong phú, đa dạng. Cũng giống như Khổng giáo, Lão
giáo, Phật giáo đã làm trước kia. Trong sự hội nhập này khơng có gì mất đi, trái lại
cả văn hóa Việt Nam lẫn các tơn giáo, đặc biệt là Cơng giáo đều có thêm những nét
độc đáo của riêng mình.
Về bản địa hóa văn hóa Cơng giáo. Trong cuộc giao lưu và tiếp xúc với Cơng
giáo, văn hóa Việt Nam không chỉ giành được quyền tôn trọng, mà trong một số
trường hợp nó cịn khiến cho đạo Cơng giáo khi vào Việt Nam đã được bản địa
hóa, tiếp nhận những dấu ấn của văn hóa Việt Nam.
Việc thờ cúng tổ tiên là một tín ngưỡng truyền thống ăn sâu trong tâm thức
tôn giáo của người Việt. Đạo Công Giáo trước cơng đồng Vatican II loại bỏ tín
ngưỡng này đã để lại khơng ít những trằn trọc day dứt cho những tín hữu theo đạo.
Nhưng nay tín hữu Cơng giáo đã thực hiện được những nghi lễ tưởng niệm tổ tiên
ngày càng phong phú và đa dạng.Ngày nay các gia đình Cơng giáo đều đặt bàn thờ
tổ tiên ngay cạnh (thấp hơn một chút) bàn thờ Chúa, cũng đặt để bát hương và hai
chân nến hai bên. Vào những ngày giỗ trong gia đình, người Cơng giáo cũng tổ
chức theo phong tục địa phương như thắp hương kính nhớ tổ tiên, dâng hoa quả để
tỏ lòng thành…
Với truyền thống trọng nữ, truyền thống thờ Mẫu của người dân Việt, thì hình
tượng đức Mẹ Maria trong đạo cơng giáo thật gần gũi với người Việt Nam. Bà trở
thành nhân vật được nhắc đến rất nhiều trong đạo Công giáo Việt Nam, tên Bà
được đặt cho rất nhiều thánh đường. Thậm chí đã hình thành cả một truyền thuyết
về đức Mẹ Maria Việt Nam, Đức Mẹ La Vang.Chúng ta cũng dễ dàng nhận
thấynơi đâu, hay bất cứ gia đình nào cũng đặt để tượng Đức Mẹ để Mẹ ban ơn phù
giúp. Đặc biệt vào tháng hoa kính Đức Mẹ, người Cơng giáo Việt Nam tổ chức
dâng hoa tỏ lịng sùng kính Đức Maria, nó trở thành một tập tục, một truyền thống
tốt đẹp và thiêng liêng. Một buổi dâng hoa mang đậm nét văn hóa Việt Nam thể
hiện qua cung nhạc, cử điệu, đội hình di chuyển…. Ở những vùng quê miềnBắc,
những buổi dâng hoa lại càng phù hợp với tâm thức người Việt trong việc thích lễ
hội, thích màu sắc và nhộn nhịp, giáo dân ở các khu trong họ đạo lo đi hái hoa, kết
hoa, thật là một nét đẹp văn hóa mà có lẽ ta chỉ cảm nhận ý nghĩa của nó chứ khó
mà diễn đạt bằng lời.
Bên cạnh đó cịn có những hình ảnh khác cũng độc đáo khơng kém, tạo nên
những nét đặc trưng cho Công giáo Việt Nam: những tiếng chuông nhà thờ hai
buổi sớm chiều đã tạo nên những nguồn cảm hứng cho thơ ca và âm nhạc, rồi từ
những lời kinh phụng vụ được dịch sang tiếng Việt theo một thể thơ vần Việt Nam
rất tài tình mà mỗi khi đọc lên ta đều có một rung cảm hồn Việt. Có lẽ, khơng một
người Cơng giáo nào lại không thuộc lấy một kinh quen thuộc như Kinh Lạy Cha,
Kinh Kính Mừng hoặc Kinh sáng danh…lối cầu nguyện bằng kinh dường như trở
thành máu thịt trong đời sống đức tin của người Việt, tuy bây giờ những vị phụ
trách giáo lý khơng cịn chủ trương dạy học kinh một cách máy móc như trước đây,
nhưng khơng ai phủ nhận những giá trị tích cực của nó.
Nhất là trong xã hội phần lớn dân trí cịn chưa cao. Đặc biệt, các nhà tri thức
Công giáo đã phát huy cùng với cái hay của Nho gia và Phật tử, nên họ cũng soạn
ra những tác phẩm diễn ca để truyền bá giáo lý gia đình, nổi bật nhất là cuốn “Ca
Vè Cụ Sáu” của Linh mục Trần Lục, nguyên là cha xứ giáo xứ Phát Diệm. Linh
mục đã viết những câu vè theo thể thơ song thất lục bát, hoặc lục bát, một thể thơ
bình dân rất quen thuộc với làng quê Việt Nam như :
Phần hồn thì Chúa sinh ra.
Xác này Chúa phó mẹ cha sinh thành
Phụ tình mẫu huyết đúc hình
Cho ta tồn vẹn mà sinh làm người
Đạo Công giáo vào Việt Nam mang theo cả kiến trúc phương Tây theo vào.
Các tòa nhà kiểu phương Tây dần mọc lên, song điều đáng chú ý là phần lớn các
cơng trình này đều khơng rập khn theo lối kiến trúc phương Tây thích hợp cho
xứ lạnh, mà đã biến đổi rất linh hoạt phù hợp với môi trường khí hậu và thời tiết
Việt Nam, do vậy mà dấu ấn Việt Nam hóa đã để lại rất rõ. Các tịa nhà khơng làm
cao như nhà phương Tây mà chiều cao tối đa thường chỉ giới hạn ở hai tầng để
ngơi nhà hịa mình vào thiên nhiên.Các phịng ốc trong nhà thì khơng thấp và kín
để giữ hơi ấm như phòng phương Tây mà ngược lại đều cao ráo và thoáng mát.
Cửa sổ được mở nhiều theo lối Việt Nam, các mái hiên, mái che cửa sổ được làm
rộng đưa ra xa để tránh nắng chiếu và mưa hắt. Các kiến trúc sư còn chú ý sử dụng
hệ thống mái ngói, bố cục kiểu tam quan, lầu hình bát giác,v.v. để làm nổi bật tính
dân tộc…
Các nhà thờ Cơng giáo vốn nổi tiếng khắp nơi về sự rập khuôn cứng nhắc
theo lối kiến trúc gơ-tích cao vút có đỉnh tháp nhọn hoắt, thì ở Việt Nam, từ thế kỷ
XIX cũng đã có những ngơi nhà thờ được xây dựng với lối kiến trúc và trang trí
hồn tồn độc đáo theo kiểu Việt Nam, nhìn thống qua chẳng khác gì những ngơi
chùa, mà nhà thờ Phát Diệm là một điển hình với tháp thấp trải rộng có mái cong.
Ngồi cây thánh giá để phân biệt giữa ngôi chùa và ngôi thánh đường, ta cũng phải
nhìn nhận đến những nét hoa văn, những bức phù điêu hay những pho tượng… tất
cả đều hài hòa, tạo nên một nét rất riêng biệt trong sự thánh thiện trang nghiêm của
đạo Công giáo.
Nhà thờ Phát Diệm (Ninh Bình) là một trong những cơng trình kiến trúc độc
đáo của Việt Nam và đồng thời cũng là một trong những nhà thờ Công giáo vào
loại cổ nhất ở Đông Nam Á. Đây là một quần thể kiến trúc gồm một nhà thờ lớn ở
chính giữa và năm nhà thờ nhỏ bao quanh trên một khu đất rộng hơn hai hecta.
Khác hẳn với hình ảnh phổ biến của nhà thờ theo kiểu châu Âu, nhà thờ lớn Phát
Diệm mang dáng dấp của một ngôi chùa với kiến trúc thấp trải rộng, mái cong
mang tính dân tộc rõ nét.
Như vậy, phần lớn trong mọi lĩnh vực sinh hoạt, Công giáo đã có đóng góp rất
nhiều cho nền văn hóa Việt Nam, đồng thời cũng tạo cho mình nét văn hóa đặc
thù, ăn sâu vào mọi phạm vi của đời sống.
Công giáo tại Việt Nam, nơi chịu ảnh hưởng của ba tôn giáo lớn (Phật,
Khổng, Lão), thường bị phê phán là ngoại lai với dân tộc, vì ảnh hưởng của Cơng
giáo đối với văn hóa Việt Nam cịn rất hạn chế, nhưng cùng với thời gian đạo Cơng
giáo đã có những ảnh hưởng và đóng góp nhất định vào nên văn hóa Việt
Nam. Đạo Công giáo đến Việt Nam giai đoạn đầu cũng được đón tiếp nồng nhiệt.
Gặp được Cơng giáo và nghe những lời giảng của các linh mục trong hội truyền
giáo, đông đảo những nông dân nghèo đã hồ hởi tiếp đón Tin Mừng, vì Tin Mừng
làm sáng tỏ và nổi bật lên những yếu tố vốn tiềm tàng trong tâm thức tín ngưỡng
dân gian, là chất liệu sống của thôn làng cả ngàn năm. Họ đã tin theo và trở thành
những tín hữu nhiệt thành đến mức phải chịu nhưng sự khủng bố, bắt đạo ngặt
nghèo của vua quan. Một thời gian dài đạo Công giáo đã không phát triển mạnh,
khơng hội nhập được vào văn hóa Việt Nam do những tín điều đi ngược lại tập
quán, đạo lý của dân tộc. Những người theo đạo Chúa bị coi là Tả đạo vì khơng
cho phép thờ cúng ơng bà tổ tiên, khơng gắn bó với tổ tiên làng mạc. Bất cứ người
Việt Nam nào đều không thể chấp nhận được một người theo đạo lại không chịu
thắp nén nhang trước bàn thờ gia tiên. Đến ngày nay những tín điều đó đã khơng
cịn trong đời sống của đồng bào theo đạo Công giáo ở Việt Nam, mà thay vào đó
là hình ảnh bàn thờ gia tiên được đặt ngay dưới bàn thờ chúa trong nhà của mỗi
giáo dân hay nói cách khác văn hóa Cơng giáo đã dung hịa với phong tục tập qn
tín ngưỡng người Việt, đã được bản địa hóa
Ngày nay, lễ Noel, Valentin khơng cịn dành riêng cho người Cơng giáo mà
nó đã thành ngày hội cho nhiều người nhất là giới trẻ. Ở Việt Nam, đặc biệt ở
thành phố gần đến ngày lễ có rất nhiều các cửa hàng bán đồ lưu niệm Giáng sinh
và lễ hội tình yêu làm náo nhiệt khắp phố phường và đã lan tỏa xuống cả các làng
q…
Bên cạnh đó, giáo lý Cơng giáo góp phần xây dựng lối sống lành mạnh trong
xã hội.Cũng như nhiều tôn giáo khác, đạo Cơng giáo cũng ln buộc các tín hữu
phải sống lành mạnh, hướng thiện. Giáo lý Công giáo không chỉ cấm giáo dân làm
điều ác mà cấm cả suy nghĩ không lành mạnh, trong sáng như ước ao chiếm dụng
của cải, vợ chồng của người khác ( điều răn thứ 9). Có nghiã là ngăn chặn tội ác từ
trong ý nghĩ.Hôn nhân một vợ một chồng cũng là tiến bộ của xã hội và của giáo lý
Công giáo. Theo số liệu của Toà án nhân dân tối cao, mỗi năm trước 1982 nước ta
có trung bình 5672 vụ ly hôn. Năm 1991 tăng lên 22000 vụ, năm 1994 có 34376
vụ.Năm 1995 có 35684 vụ. Trong khi đó, ở làng Công giáo Trung Thành ( Hải
Vân Hải Hậu, Nam Định), nơi có 6000 giáo dân sinh sống mà suốt 5 năm 19901995 chỉ có 2 cặp ly thân. Đây là yếu tố hấp dẫn đối với người ngồi Cơng giáo
đến với tôn giáo này.
Đạo Công giáo cũng cổ vũ cho các hoạt động bác ái, từ thiện nên các tấm
gương của các nữ tu ở các trại phong cùi, chăm sóc bệnh nhân HIV/AIDS, chất độc
màu da cam đã được xã hội tôn vinh như nữ tu Nguyễn Thị Mậu 40 năm ở trại
phong Di Linh ( Lâm Đồng) đã được phong anh hùng lao động. Chị Nguyễn Thị
Mai ( Quảng Bình) dũng cảm cứu người trong trận lũ lịch sử ngày 26-4-2004 và hy
sinh đã được Nhà nước truy tặng danh hiệu liệt sĩ. Còn vợ chồng anh Tống Phước
Phúc ở Nha Trang đã giúp đỡ nhiều cô gái lỡ mang thai được mẹ trịn con vng
và làm hẳn nghĩa trang cho hàng ngàn thai nhi đã được Chủ tịch nước Nguyễn
Minh Triết gửi thư khen…Nếu trước đây, giáo hội cấm đốn giáo dân khơng được
rượu chè, cờ bạc, dâm dật thì ngày nay lại ra sức mời gọi mọi người ngăn chặn nạn
nghiện hút, sự đổ vỡ của gia đình cũng như phải chăm lo giáo dục con cái. Chính
điều này đã làm cho cuộc sống ở những vùng đơng giáo dân an bình, đỡ tội phạm
hình sự hơn. Người Cơng giáo khơng chỉ tích cực tham gia các hoạt động bác ái
mà con số cũng khơng nhỏ (Ví dụ Uỷ ban bác ái xã hội của HĐGMVN từ 20012007 đã trợ giúp 24,5 tỷ đồng cho các chương trình từ thiện) mà cịn chủ động góp
cơng của xây dựng q hương như xã Quỳnh Thanh ( Nghệ An) nơi có hơn 11.300
người Cơng giáo sinh sống thì 26,2% kinh phí xây dựng cơ bản tại địa phương (
làm trường, đường, trạm y tế, nhà máy nước…) là của các linh mục . Thủ tướng
Nguyễn Tấn Dũng trong cuộc hội kiến với Giáo hoàng Benedicto XVI tại Vatican
ngày 25-1-2007 đã nhận xét: “ ở Việt Nam, cộng đồng những người Công giáo là
một cộng đồng năng động, kính Chúa, u nước và có những đóng góp tích cực
trong việc xây dựng và phát triển đất nước”.
Rõ ràng, đạo Công giáo đã để lại nhiều dấu ấn trên văn hoá nước ta và đây là
điều người Cơng giáo Việt Nam có thể tự hào. Dĩ nhiên, khơng có sự tác động nào
đơn phương một chiều cả. Giống như lửa thiêu cháy củi thì củi cháy lại làm cho
ngọn lửa bốc cao hơn nên Công giáo ảnh hưởng đến văn hố Việt Nam thì văn hố
Việt Nam cũng biến đổi tôn giáo này ngày càng gần gũi với văn hố Việt.
Do vậy, ta khơng thể phủ nhận được những đóng góp to lớn của đạo Cơng
giáo đối với nền văn hóa dân tộc. Việc ra đời chữ quốc ngữ đã giúp cho người Việt
dễ dàng hơn trong việc học tập, giao tiếp và bảo tồn những dữ liệu dưới dạng văn
bản. Đồng thời khi đạo Công giáo vào Việt Nam cũng đã mang theo nhiều yếu tố
văn hóa phương Tây du nhập vào, làm cho văn hóa Việt Nam trở nên phong phú
hơn, phát triển thêm nhiều loại hình văn hóa nghệ thuật mới. Cho đến nay đạo
Cơng giáo đã có được một nền móng tương đối vững chắc nhờ từng bước hội nhập
vào trong văn hoá Việt Nam theo đánh giá của các nhà khoa học về tôn giáo này./.