Tải bản đầy đủ (.docx) (10 trang)

Tìm hiểu về lễ hội của nước Lào

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (77.03 KB, 10 trang )

Bàithuyết rình:TìmhiểuvềLễ hộiLào
1


Nhóm 7
1. Nguyễn Thị Hà
2. Trịnh Thị Thảo
3. Nguyễn Thị ánh Đào
4. Nguyễn Thị Xinh
5. Đào Thị Quỳnh
6. Vũ Thị Thúy La
Nội Dung chính
- Lời mở đầu
- Phần 1: Tổng quan về quốc gia Lào
- Phần 2: “ Lào lung linh mùa lễ hội”
- Phần 3: Kết luận
Phần I: Tổng Quan Về Quốc Gia Lào
- Tên đầy đủ: Cộng Hòa Dân Chủ Nhân Dân Lào
- Diện tích: 236.800 km2
- Dân số: 6800.000 người
- Thủ Đơ: Viêng Chăn
- Chính trị: Đảng nhân dân cách mạng Lào
- Ngày quốc khánh: 2 tháng 12 năm 1975
- Tiền tệ: kíp
Lịch Sử
nước Lào trước thế kỷ XIV gắn liền với sự thống trị của Vương quốc Nam
Chiếu. Vào thế kỷ thứ XIV, vua Phà Ngừm lên ngôi đổi tên nước thành Lạn
Xạng (Triệu Voi) Trong nhiều thập kỷ tiếp theo, Lào nhiều lần phải chống các
2



cuộc xâm lược của Miến Điện và Xiêm. Đến thế kỷ XVIII, Thái Lan giành
quyền kiểm soát trên một số tiểu vương quốc còn lại. Các lãnh thổ này nằm
trong phạm vi ảnh hưởng của Pháp trong thế kỷ XIX và bị sáp nhập vào Liên
bang Đông Dương năm 1893. Trong thế chiến thứ 2, Pháp bị Nhật thay chân ở
Đông Dương. Sau khi Nhật đầu hàng quân Đồng minh ngày 12 tháng 10 năm
1945, Lào tuyên bố độc lập. Đầu năm 1946, Pháp quay trở lại xâm lược. Năm
1949, quốc gia này nằm dưới sự lãnh đạo của Vua SisavangVong và mang tên
Vương quốc Lào. Tháng 7 năm 1954, Pháp ký hiệp định Giơnevơ công nhận
nền độc lập và toàn vẹn lãnh thổ của Lào
.Từ 1955 đến 1975, Vương quốc Lào ủng hộ mạnh mẽ Hoa Kỳ trong cuộc chiến
chống lại sức bành trướng của phe Cộng sản tại Đông Dương đã lôi kéo Lào vào
cuộc Chiến tranh Đông Dương lần hai và là yếu tố dẫn đến nội chiến Lào và một
vài cuộc đảo chính.
Sau hơn 30 năm ròng rã đấu tranh, dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng, cuộc
cách mạng Dân tộc Dân chủ Nhân dân Lào đã kết thúc thắng lợi trọn vẹn. Việc
khai sinh nước Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào (02/12/1975) đã kết thúc vẻ
vang cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc của nhân dân các bộ tộc Lào kéo dài
suốt 197 năm
Vị Trí Địa Lý
- L ào giáp trung quốc ở phía bắc với đường biên giới dài 505km
- Lào giáp campuchia ở phía Nam với đường biên giới dài 535km
- Giáp Việt Nam ở phía đơng với đường biên giới dài 2069km
- Giáp với Myanma ở phía tây bắc với đường biên giới dài 236km
- Giáp với Thái Lan ở phía tây với đường biên giới dài 1835km
-

Địa thế Lào có nhiều núi non bao phủ bởi rừng xanh đỉnh cao nhất là

Phoubia cao 2.817m diện tích cịn lại là bình ngun và cao ngun
- Khí hậu: trong khu vực là khí hậu nhiệt đới của khu vực gió mùa với hai

mùa rõ rệt mưa và khô
3


- Ngôn ngữ: tiếng Lào
- Tỷ lệ niết đọc biết viết: 68,7%
- Các dân tộc: Người H’Mông(mèo), Dao, Thái Đen, một số người gốc Tây
Tạng- Miến Điện
- Tôn giáo: phật giáo nam tông, hồi giáo, phật giáo đại thừa,
Kinh Tế
- Kinh tế Lào là nền kinh tế phát triển theo đường lối xã hội chủ nghĩa
- Có sự can thiệp lớn của chính phủ vào nền kinh tế
- Lào có 800.000ha đất canh tác nông nghiệp với 85% dân số sống bằng
nghề nơng
- Thu nhập bình qn đầu người đạt: 841USD/ người/năm
- Xuất khẩu đặc biệt là: khoáng sản và gỗ
- Trong những năm gần đây nền kinh tế của Lào đã có nhiều tiến bộ Lào
phấn đấu tới năm 2020 đạt GDP bình quân đầu người tăng gấp 2-3 lần
hiện nay khoảng 1200-1500USD/ năm
Tôn giáo và các Lễ Hội
- Là sứ sở của phật giáo tiểu thừa( phật giáo chiếm 85%)
-

Người cơng giáo tin lành chiếm số ít, các nhóm thiểu số theo Hồi giáo,
phật giáo đại thừa và nho giáo chính vì vậy nơi đây cũng có rất nhiều lễ
hội tơn giáo đầy màu sắc

- Có 1.400 ngơi chùa lớn nhỏ có giá trị lịch sử văn hóa
- Người Lào cũng ăn mừng lễ phục sinh
Một số tập tục văn hóa

- Quốc Hoa: Hoa Đại là một lồi hoa biểu tượng của đất nước và con người
Lào. Mang đậm một bản sắc riêng biệt, hương sắc ngào ngạt của hoa
chăm pa phản ảnh rõ tính cách, tâm hồn của dân tộc Lào, với những con
người có một vẻ đẹp giản dị, chan hồ, gìn giữ và chất phác, thật thà
- Trang Phục truyền thống: ở Lào, phụ nữ phải mặc “Phaa sin”, một kiểu
váy dài có các mảng hoa văn đặc trưng, mặc dù nhóm các bộ tộc thường
4


có trang phục riêng của họ. Đàn ơng thì mặc “phaa biang sash” vào
những dịp lễ hội. Ngày nay phụ nữ thường mặc trang phục kiểu phương
Tây, nhưng “phaa sin” vẫn là trang phục bắt buộc.
- Âm Nhạc: của Lào chịu ảnh hưởng lớn của các nhạc cụ dân tộc như khèn
(một dạng của ống tre. Một dàn nhạc (mor lam) điển hình bao gồm người
thổi khèn (mor khaen) cùng với biểu diễn múa bởi nghệ sĩ khác.
Múa Lăm vông (Lam saravane) là thể loại phổ biến nhất của âm nhạc
Lào, những người Lào ở Thái Lan đã phát triển và phổ biến rộng rãi trên
thế giới gọi là mor lam sing.
-

ẩm thực: Ẩm thực Lào mang phong cách tương tự các quốc gia láng giềng
là Campuchia và Thái Lan: cay, chua và ngọt

- Tục cưới xin: Lễ buộc chỉ cổ tay là một phong tục lâu đời mang đậm nét
văn hóa của đất nước “Triệu Voi” để cầu phúc lành cho người được nhận
lễ và thặt chặt hơn nữa tình cảm giữa hai bên.
- Đây là loại lễ thường được người Lào tiến hành trong các dịp như năm
mới, cưới, cho người đi xa hoặc trở về sau một thời gian xa nhà, lên nhà
mới hoặc sau khi khỏi ốm
Phần 2: Lào – Lung Linh mùa Lễ Hội

- Tết Té Nước: Tết té nước ở Lào còn được gọi là Bunpimay, diễn ra từ 1314/4 hàng năm, là ngày tết lớn nhất ở lào đây là tết theo phật lịch vì ở Lào
đạo phật từ lâu đã trở thành quốc đạo.
- Vào ngày đầu tiên của Tết Lào, người ta quét dọn, lau chùi nhà cửa sạch
sẽ, chuẩn bị nước thơm và hoa. Nước thơm là một hỗn hợp gồm nước,
nghệ, bồ kết nướng, hoa và dầu thơm. Nước được ướp hương hoa hoặc
hương liệu thiên nhiên.
-

Vào buổi chiều, người dân trong làng tập trung ở chùa để làm lễ
cúng Phật, cầu nguyện, nghe các nhà sư giảng đạo. Sau đó, người ta rước
tượng Phật ra một gian riêng trong ba ngày và mở cửa để mọi người có
thể vào tắm Phật. Nước thơm sau khi tưới lên các tượng Phật sẽ được
5


hứng lại đem về nhà để sức vào người làm phước. Người ta còn té nước
vào các nhà sư, chùa và cây cối xung quanh chùa. Để tỏ lịng tơn kính
người trẻ tuổi té nước những người lớn tuổi để chúc sống lâu và thịnh
vượng. Bạn bè té nước vào nhau. Họ khơng chỉ té nước vào người mà cịn
vào nhà cửa, đồ thờ cúng, súc vật và công cụ sản xuất. Người Lào tin rằng
nước sẽ giúp gột rửa điều xấu xa, bệnh tật và cầu chúc năm mới sống lâu,
sạch sẽ và mạnh khỏe. Ai bị ướt nhiều là hạnh phúc nhiều.
Lễ Hội Thạt Lng
Ngày lễ chính bắt đầu từ chiều ngày 31/10 và kéo dài liên tục cho tới hết
ngày 2/11 (15/12 Phật lịch)
. Phần lễ
Lễ là nghi thức tế tự do chính con người tưởng tượng ra để giao cảm với thần
linh. Ngồi tính cách tín ngưỡng dân gian như nghi thức rước Phí Mương (thần
bảo hộ tỉnh) từ Chùa Si Muong đến That Luang, lễ trong Boun That Luang cịn
mang ý nghĩa chính trị của Một Ngày Hội Thề. Từ thời vua Fa Ngum (thế kỷ 14)

cho đến 1975, lễ nầy do quốc vương Lào làm chủ tế. Trong lễ Hội Thề người ta
thấy có mặt đầy đủ chức sắc, đại biểu, tỉnh mường, làng bản trưởng được mời về
bàn việc nước... và mỗi vị có một cái kiệu bằng sáp ong (hó phợng), xếp thành
hàng ngang trước nơi hành lễ. Nhà sư chủ trì cầm một cuộn dây bằng sợi vải
trắng đi vòng nối các tỉnh mường, làng bản lại với nhau. Biểu tượng nầy phản
ánh sự cam kết trung thành, thống nhất, đoàn kết quốc gia, cấm chia rẽ.
Phần hội
- Câu cửa miệng của người Lào là "Khôn Lao mặc muồn" (người Lào thích
vui) được thể hiện rõ nét trong phần hội. Hội chủ yếu là vui chơi, giải trí
dưới nhiều hình thức từ ẩm thực đến văn nghệ, văn hoá, thể thao, mua
bán, triển lãm. Đặc biệt Bun That Luang cũng là thời điểm của Hội Chợ
triển lãm tầm vóc quốc tế, kéo dài ba ngày, ba đêm.

6


-

nhằm cầu phước an lành cho tất cả mọi người, sự giao hịa giữa trời đất,
núi sơng và thần thánh.

Lễ hội Đua Thuyền (Bun Shanghua)
- Lễ hội này được tổ chức hàng năm vào dịp giữa tháng 10 dương lịch gắn với
quan niệm Phật giáo.
Ngày 13/10, người dân Lào khắp mọi miền đất nước đổ về Thủ đô Vientian
tham dự Lễ hội đua thuyền. Đây là lễ hội cấp nhà nước được Chính phủ và
Ngành Văn hóa Lào rất quan tâm. Hàng năm, Thủ đô Vientiane luôn là đơn vị
đăng cai tổ chức lễ hội trên đoạn sông Kêkong.
Theo quan niệm của người Lào, sau 3 tháng tu tâm tích đức, mọi người đã xua
hết những ưu phiền để lại bắt đầu những ngày mới của cuộc đời. Hội đua thuyền

được coi là dịp vui chơi để xả hết những ưu tư khổ ải và đón nhận những điều
tốt lành may mắn sẽ đến.
Hội đua thuyền có ý nghĩa rất quan trọng đối với bất cứ một người Lào nào và
đây cũng là ý nghĩa của những người theo đạo Phật. Hội ở đây không chỉ là tâm
linh và văn hóa mà cịn là một hình thức thể thao của dân tộc Lào đã có truyền
thống từ xa xưa. Sau hội này, người ta cũng bắt đầu vào vụ gặt mới, chuẩn bị tư
thế để vào mùa.
Lễ hội tên lửa ở Lào( Bun BangPhay)
- Theo truyền thống, lễ hội tên lửa được tổ chức trong tháng 6 âm lịch
(khoảng tháng năm hoặc tháng sáu) và là một buổi lễ sẽ mang lại những
cơn mưa để trồng lúa có thể bắt đầu. Lễ kỷ niệm thông thường phải mất từ
2-3 ngày và bao gồm âm nhạc và khiêu vũ biểu diễn , diễu cạnh tranh của
phao, vũ công và nhạc sĩ , và lên đến đỉnh cao vào ngày thứ ba trong sa
thải cạnh tranh của sản xuất tên lửa.
7


- Tên lửa tre lớn được xây dựng và trang trí bởi các nhà sư và dân làng và
rước trước khi là skywards thổi để cho mưa thần Phaya Thaen biết đó là
thời gian để gửi những cơn mưa. Một tên lửa cao hơn sẽ có, lớn hơn các
lời khen ngợi cho xây dựng của nó. Thiết kế của tên lửa không được ném
trong bùn lầy, ao.
- Một trong những câu chuyện gắn liền với tên lửa lễ hội là Phaya
Khankhak , vua Toad.
Lễ hội Khao Phansa(Mùa Chay)
Lễ hội Khao Phansa thường được tổ chức ở các Chùa mở đầu cho 3 tháng an cư
của các nhà tu hành Phật giáo, bắt đầu từ ngày rằm tháng 6 hoặc tháng 7 kéo dài
cho đến ngày rằm tháng 11.

Mùa an cư thanh tịnh được người dân Lào nói chung và các thầy tu nói riêng

xem như thời gian để nhìn lại quá trình tu hành của mình trong năm và cũng là
đá tiến cho cả năm sau và hơn thế nữa là cả cuộc đời. Đây cũng là thời gian tốt
lành cho những người đàn ông Lào bước vào giai đoạn tu hành.
Mùa Chay là mùa “nhập hạ,” mùa tịnh tâm của Giáo Hội. Mùa Chay bắt đầu
khoảng một tháng rưỡi sau Mùa Giáng Sinh. Đây là một cuộc tĩnh tâm thường
niên, cuộc canh tân tinh thần để đón mừng mầu nhiệm nền tảng nhất của Kitô
giáo: Chúa Giêsu được Phục Sinh từ cõi chết và hôm nay Ngài đang là Đấng
Kitơ, Chúa chúng ta. Vì thế, nếu khơng hướng tới Lễ Phục Sinh, tới cuộc sống
mới, Mùa Chay sẽ mất ý nghĩa. Từ những thế kỷ đầu, Kitô giáo đã hình thành
nhiều tập tục, truyền thống sống động về Mùa Chay để thể hiện những ý nghĩa
chính yếu này:

8


Lễ Tắm Phật
- lễ tắm Phật xuất phát từ sự kiện đản sanh của Thái tử Tất-đạt-đa tại vườn
Lâm-tỳ-ni
- Lễ tắm Phật là một trong những nghi thức phổ biến của lễ hội Phật
đản hằng năm trong nhiều truyền thống Phật giáo khác nhau
- Nghi thức này vốn đã xuất hiện khá lâu tại Ấn Độ, Trung Á và Trung Hoa,
và ngày nay được duy trì trong hầu hết các cộng động Phật giáo khắp nơi
như là một cử chỉ, một hành động để tỏ lịng tơn kính, hân hoan của người
con Phật đối với sự xuất hiện của đấng Giác Ngộ trên cuộc đời này
Lễ Hội Voi
- Từ 18 đến 20/2, tỉnh Xayaboury của Lào đã tổ chức Lễ hội Voi lần thứ
7. Đây là lễ hội hàng năm, được khởi xướng từ năm 2007 nhằm góp phần
bảo tồn nét đẹp văn hóa truyền thống, thể hiện mối quan hệ mật thiết giữa
người và voi.
- Lễ hội Voi còn nhằm khuyến khích người dân địa phương bảo vệ đàn voi

vốn là một phần di sản thiên nhiên của Lào, góp phần vào việc phát triển
kinh tế và du lịch của tỉnh Xayaboury nói riêng và và nước Lào nói
chung. Ngồi ra cịn nhiều hoạt động văn hóa, nghệ thuật phong phú và đa
sắc màu khác như các cuộc diễu hành của 7 nhóm dân tộc khác thể hiện
sự đa dạng văn hóa của tỉnh và các cuộc hịa nhạc của nghệ sỹ Lào và
Thái Lan…
Lễ hội mãn chay
- Theo tập tục người Lào, trong mùa chay kéo dài ba tháng từ rằm tháng 8
đến rằm tháng 11 Phật lịch
- gia đình bày tiệc trước nhà ăn mừng vui vẻ, quây quần chúc nhau những
điều tốt đẹp dưới ánh nến lung linh
- Một hoạt động rất quan trọng trong ngày chính của lễ mãn chay là thả
thuyền đèn trên sơng Mê-công vào thời khắc sập tối trở về đêm
9


Lễ Khuất Thực
Mỗi buổi sáng, khoảng 6h, các nhà sư tập trung tại ngôi chùa lớn Wat Luang ở
đầu cầu Pakse. Sau khi ổn định vị trí, các nhà sư bắt đầu khuất thực quanh phố.
Đi đầu là các “hủa chua” (những sư tu lâu năm) và các “a chang” (sư thầy), sau
đó là các sư trẻ, tì kheo, sa di. Tất cả đều khơng mang dép, đi bình thường,
khơng nhanh khơng chậm. Đến mỗi ngã tư, ngã ba, đồn khất thực lại chia nhỏ
để tỏa về các xóm. Theo truyền thống của Phật giáo Nam tông, mỗi buổi khuất
thực các sư không đi quá bảy nhà, lần lượt thứ tự mà đi, không phân biệt khu
vực giàu nghèo, thức ăn ngon dở; khơng bỏ sót nhà nào, khơng ngó qua ngó lại,
khơng được mở miệng nói chuyện, khơng đứng trước cửa chợ. Bình bát thường
làm bằng gốm sứ tráng men, không được làm bằng các kim loại quá như vàng
bạc. Người dân quỳ bên đường chờ sẵn hoặc đặt lễ vật lên một chiếc bàn nhỏ
trước cửa mỗi nhà để dâng lễ vật (gọi là “xăng cà vai”). Họ thường khoác “cà
piêng” (một tấm vải mang chéo qua người, thêu hoa văn rất đẹp) và không mang

dép để thể hiện lịng thành kính. Lễ vật thường là xơi, trái cây bánh các loại,
nước lọc, hoặc các thức ăn chín để các sư độ nhật trong ngày. Không được dâng
các lễ vật sống, các thức ăn chiên xào và tiền. Các sư thầy đến nhận đồ khất thực
và không quên cầu nguyện, ban phước cho mọi người. Nước dâng lễ được tạt
xuống đất hoặc vào cây cối như gửi tới người đã khuất những lời thỉnh nguyện
an lành. Đi đủ một vòng quanh phố, các sư tập trung về các chùa dùng bữa sáng.
Vật phẩm khất thực thường được chia ra làm bốn phần: một phần nhường cho
các sư đồng tu nếu họ khơng có hay ít có, một phần dành cho người nghèo, một
phần dành cho con vật sống chung như chó, mèo và phần cịn lại của người khất
thực dùng.

10



×