Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (395.13 KB, 84 trang )
<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>
<b>MỞ ĐẦU</b>
<b>1. Mục đích, ý nghĩa chọn đề tài</b>
Nhật Bản là nơi hội tụ rất nhiều giá trị truyền thống văn hoá đặc sắc với các
lễ hội chùa chiền, nghệ thuật cắm hoa, tinh thần võ sĩ đạo, trà đạo…Không chỉ
được mệnh danh là “xứ sở mặt trời mọc”, Nhật Bản còn là xứ sở của hoa anh
đào dịu dàng và quyến rũ như những cô gái Nhật Bản trong trang phục truyền
thống kimônô.
Văn học Nhật Bản đương đại là một sự phát triển tiếp nối những truyền
thống của văn học Nhật Bản của các thế kỷ trước, với tên tuổi của các nhà văn
lớn như Y. Kawabata, Y. Banana…Haruki Murakami được đánh giá là một
trong những “hiện tượng” của văn chương Nhật Bản thế kỉ XXI. Bằng những tác
phẩm, lối viết tưởng chừng như thách đố, thế nhưng vì một lí do nào đó, ơng đã
khiến cho bạn đọc trên khắp thế giới yêu thích và hâm mộ. Phải chăng ông đã
biết xay nhuyễn tất cả những thứ “khó nhằn” để hồ trộn vào một văn bản, với
cách hành văn, những chi tiết, những thắt mở vô cùng điêu luyện và hài hước
mà lại mênh mông buồn.
Haruki Murakami bước vào văn đàn như một quả bom nổ chậm. Bắt đầu từ
những tiểu thuyết như Lắng nghe gió hát, sau đó là những tiểu thuyết đã đưa
ông lên địa vị siêu sao như Rừng Nauy, Kafka bên bờ biển, Biên niên ký chim
<i>vặn dây cót… Không dừng lại ở tiểu thuyết, truyện ngắn của Haruki Murakami</i>
cũng gây xôn xao dư luận. Bởi dư âm những thắc mắc, ám ảnh trong giọng văn
của ơng cịn đọng lại trong lịng độc giả. Trong truyện ngắn của ơng, thực ảo lẫn
lộn, cuộc sống thường nhật và những ẩn dụ mộng tưởng về một thế giới phi thực
đan xen nhau. Con người lạc vào chốn mê cung của những giấc mơ, vô thức và
hoang mang trên con đường đi tìm bản ngã. Trong lời tựa của một tập truyện
ngắn ông viết: “Đối với tôi, viết tiểu thuyết như một thử thách, viết truyện ngắn
như là niềm vui. Nếu ví việc viết tiểu thuyết như trồng một khu rừng thì viết
truyện ngắn như tạo ra một mảnh vườn nhà. Hai cơng trình ấy bổ túc cho nhau,
sáng tạo của ông, cho độc giả thấy rằng ông không chỉ thành công ở loại tiểu
thuyết mà còn thành công ở thể loại truyện ngắn. Với đề tài “<i>Nghệ thuật truyện</i>
<i>ngắn của Haruki Murakami”, chúng tôi hi vọng góp một phần nhỏ trong kho tư</i>
liệu nghiên cứu về truyện ngắn của Haruki Murakami, một nhà văn mà tên tuổi
được đánh giá có thể xứng danh với giải thưởng Nobel văn chương.
<b>2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề</b>
Do những hạn chế khách quan nên đến sau đổi mới, văn học Nhật Bản mới
được giới thiệu một cách rộng rãi với bạn đọc Việt Nam. Ngồi các cơng trình
nghiên cứu về lịch sử văn học Nhật Bản, sáng tác của các tác giả thuộc về vẻ
đẹp truyền thống Nhật Bản, thì mảng nghiên cứu văn chương đương đại Nhật
Bản với những người đại diện như Y.Banana, H.Murakami, R.Murakami…
dường như chỉ mới khai lộ và đang còn mở ngõ cho những nghiên cứu tiếp theo.
Toàn bộ sáng tác của Haruki Murakami ở các thể loại truyện ngắn, truyện
dài, tiểu thuyết được các nhà nghiên cứu phê bình đánh giá rất cao. Thế nhưng,
là một hiện tượng văn học mới, hơn nữa truyện ngắn của ông vừa mới được dịch
và xuất bản gần đây, vì vậy các cơng trình nghiên cứu về truyện ngắn của
Murakami cịn rất ít.
Trên các tạp chí cũng có một số lời nhận xét về sáng tác của Haruki
Murakami. Tạp chí The New York Times - một tạp chí danh tiếng của Mỹ viết:
“Các nhà phê bình cứ so sánh ông với Raymond Carve, Raymond Chandler,
Arthur C.Clarke, Don Delillo, Philip K.Dick, Bret Easton Ellis và Thomas
Pynchon, một tập hợp khơng mấy thuần nhất, chỉ để nói rằng Murakami thực tế
là một cái gì thật độc đáo”. Tính đến nay đã có một vài cuốn sách có giá trị viết
Tác phẩm của Haruki Murakami được bạn đọc Việt Nam đón nhận nồng
nhiệt, và đã có những bài viết về cuộc đời sự nghiệp và phong cách sáng tác của
ông. Một số tập trung tranh luận về các tác phẩm của nhà văn như: “Rừng Nauy
<i>– sex thuần tuý hay nghệ thuật đích thực”, “Tản mạn Rừng Nauy và Haruki</i>
<i>Murakami” (Phạm Xuân Nguyên), “Murakami - hiện tượng cùng thời đại OOI</i>
<i>Kouichi Kí giả” (Ban văn nghệ báo Mainichi), “Tơi là ai” (Ngân Xun), “Cuộc</i>
<i>tìm kiếm bản thể con người hiện đại” (Nguyễn Hoài Nam)…</i>
Một loạt truyện ngắn của Haruki Murakami vừa được xuất bản đã thu hút
sự quan tâm rộng lớn của giới phê bình và độc giả với nhiều bài viết trên các
mặt báo văn nghệ, tạp chí, các trang Web như: Http://www.Evan.com;
Http://www.Google.com.vn; Http://Tienve.org… Tuy nhiên, đa phần chỉ là mới
khai lộ vấn đề chứ chưa đi sâu tìm hiểu các đặc trưng truyện ngắn của
Murakami. Năm 2007, trong hội thảo về Haruki Murakami, tác giả Nhật Chiêu
nhận định: “Giấc mơ và tưởng tượng lôi cuốn chúng ta khi đọc Murakami
Haruki”. Cao Việt Dũng cũng nhận xét: “Bí ẩn là thủ pháp kể chuyện của
Murakami”. Lâm Thiếu Hoa, tác giả người Trung Quốc khẳng định: “Tính ẩn
dụ, tính thần thoại và tính tượng trưng trước sau vẫn là điểm sáng lớn trong tác
phẩm của Murakami”. Hay như Shamenorth nói: “Murakami bắt đầu nơi mà
Camus đã từ bỏ. Các nhân vật của ông theo chủ nghĩa hư vô, nhưng họ chọn lựa
cuộc sống theo màu sắc huyền bí khước từ và xa lánh những suy luận logic
thông thường”.
Bên cạnh những lời nhận định trên, gần đây cũng đã xuất hiện một số cơng
trình nghiên cứu và bài viết về truyện ngắn của Haruki Murakami. “Nghiên cứu
<i>và phê bình truyện ngắn Murakami Haruki” của Hồng Long (Nxb Tổng hợp</i>
Thành phố Hồ Chí Minh, 2006). “Thực và ảo trong truyện ngắn của Haruki
<i>Murakami” (Báo cáo Hội nghị sinh viên Nghiên cứu khoa học lần thứ 6, Đại học</i>
Đà Nẵng, 2008). Đây là những nghiên cứu và bài viết góp phần đưa ra cái nhìn
mới về truyện ngắn của Haruki Murakami.
<b>3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu</b>
<b>3.1. Đối tượng nghiên cứu</b>
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là khảo sát những truyện ngắn của Haruki
Murakami được Phạm Vũ Thịnh dịch, in trong năm tuyển tập truyện ngắn: Đom
<i>đóm, Ngày đẹp trời để xem kangaroo, Sau cơn động đất, Bóng ma ở Lexington,</i>
<i>Người Ti-Vi (Nxb Đà Nẵng), và một số truyện ngắn của Haruki Murakami được</i>
Hoàng Long tuyển chọn và in trong Nghiên cứu và phê bình truyện ngắn
<i>Murakami Haruki (Nxb Tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh, 2006).</i>
<b>3.2. Phạm vi nghiên cứu</b>
Phạm vi nghiên cứu của đề tài là: “Nghệ thuật truyện ngắn của Haruki
Murakami”.
<b>4. Phương pháp nghiên cứu</b>
Để thực hiện đề tài này, chúng tôi sử dụng các phương pháp sau:
- Phương pháp khảo sát - thống kê
- Phương pháp phân tích - tổng hợp
<b>5. Bố cục của khóa luận</b>
Trong giới hạn nghiên cứu của đề tài, ngoài phần mở đầu, kết luận và tài
liệu tham khảo, khóa luận chia làm ba chương với nội dung chủ yếu sau:
<b>Chương 1 : Haruki Murakami và truyện ngắn Nhật Bản hiện đại</b>
<b>Chương 2 : Nghệ thuật xây dựng thời gian, khơng gian và một số mơ típ</b>
nghệ thuật trong truyện ngắn của Haruki Murakami
<b> NỘI DUNG</b>
<b>CHƯƠNG 1</b>
<b>HARUKI MURAKAMI VÀ TRUYỆN NGẮN NHẬT BẢN HIỆN ĐẠI</b>
<b>1.1. Haruki Murakami - Một hiện tượng văn học đặc sắc</b>
<b>1.1.1. Haruki Murakami - Một con người tài năng</b>
Tính từ thị trường sách Việt Nam thịnh hành văn học Nga Xô Viết những
năm 1980 cho tới sự lên ngôi của các tác giả đoạt giải thưởng Nobel văn chương
trong thập kỷ 90 của thế kỷ XX và những năm đầu thế kỷ XXI, chưa bao giờ người
yêu văn chương nước ta lại đón nhận nồng nhiệt một số lượng sách xuất bản lớn
đến thế của một tác giả Châu Á là Haruki Murakami như trong các năm gần đây.
Haruki Murakami là một trong những tác giả nổi tiếng của văn học đương
đại Nhật Bản, đồng thời là ứng cử viên sáng giá cho giải thưởng Nobel văn
chương sắp tới. Ông sinh ngày 12 tháng 01 năm 1949, tại Kyoto - cố đô của
chơi nhạc Jazz có tên là “Peter Cat” tại Kobubunji, Tokyo, và ông quản lý nó từ
năm 1974 đến 1982. Nhiều tiểu thuyết sau này của ông lấy bối cảnh âm nhạc và
tựa đề cũng nói đến một bản nhạc nào đó, gồm có Dance, Dance, Dance (của
ban nhạc The Steve Miller), Rừng Nauy (theo bài hát của Beatles) và Phía Nam
<i>biên giới, phía Tây mặt trời (câu đầu là tựa đề bài hát của Nat King Cole).</i>
Cả việc nghỉ học và kết hôn sớm đã khiến cha mẹ ông thất vọng. Họ chỉ
muốn Murakami có cuộc sống ổn định như bất kỳ viên chức nhà nước Nhật Bản
nào: tốt nghiệp đại học, cơng việc ổn định sau mới lập gia đình. Nhưng đây cũng
là thời kỳ vợ chồng Murakami sống tự lập như những thanh niên hiện đại. Quán
café nhạc Jazz tồn tại trong vòng bảy năm cũng là thời gian vợ chồng Murakami
tốt nghiệp đại học.
Những năm 80 của thế kỷ XX, Nhật Bản trở thành một nước tiêu thụ mạnh,
nhiều thế hệ thanh niên sống phụ thuộc vào gia đình và các giá trị vật chất.
Murakami cảm thấy lạc lõng giữa cuộc sống ấy. Năm 1986, vợ chồng ông sang
dám nói thật lịng mình, khơng né tránh như nhiều nhà văn khác về hiện thực xã
hội Nhật Bản đương đại. Haruki Murakami là một trong những nhà văn hiện đại
kiệt xuất của Nhật Bản.
<b>1.1.2. Haruki Murakami - Con đường sáng tạo nghệ thuật</b>
<i>Từ điển Bách khoa Columbia năm 2001 ghi rằng: “Haruki Murakami là</i>
một trong những tiểu thuyết gia thế kỷ XX quan trọng nhất của Nhật Bản”. Đề
cập đến thời đại lắm bão tố hiện nay, Matsudo Tetsuo của Nhật báo Yomiuri có
số in lớn nhất ở Nhật viết: “Trong bất cứ trận bão lớn nào cũng có những nhà
văn giương cao ngọn đèn soi cho quần chúng. Haruki Murakami đang và sẽ lãnh
vai trị đó”. Báo The Guardian viết: “Khơng có nhiều tác giả cùng thời mà tác
phẩm lôi cuốn được giới độc giả trẻ trực tiếp đến như thế, không chỉ trong nước
ông mà trên khắp thế giới”.
Haruki Murakami bắt đầu sự nghiệp cầm bút từ năm 1978 (tức năm 29
tuổi). Ơng nói rằng, ông đột ngột nảy ra ý tưởng viết bộ tiêu thuyết đầu tay của
mình (Lắng nghe gió hát – 1987) khi đang xem một trận bóng chày. Ngay trong
tác phẩm đầu tay, ông đã dành được sự ủng hộ của bạn đọc. Lắng nghe gió hát
xuất hiện, ngay lập tức đoạt giải thưởng Gunzo dành cho cây bút mới. Thành
cơng này khuyến khích ơng bước vào con đường cầm bút chuyên nghiệp. Một
Haruki Murakami - một tiểu thuyết gia thành đạt khơng dừng lại ở đó. Vào
năm 1994/1995, ơng xuất bản Biên niên ký chim vặn dây cót. Tác phẩm là sự
đan xen các yếu tố huyền ảo, hiện thực, và chứa đựng cả yếu tố bạo lực. Biên
<i>niên ký chim vặn dây cót liên quan đến đề tài nhạy cảm và tội ác chiến tranh ở</i>
Mãn Châu (Mãn Châu Quốc). Đồng thời tác phẩm cũng giúp ông đoạt giải
<i>Yomiuri và trao giải cho ông là một trong những người phê bình ơng gay gắt</i>
nhất - Oe Kenzaburo, (đoạt giải Nobel văn học, 1994).
Năm 1995, trong khi đang hoàn thành Biên niên ký chim vặn dây cót, thì ở
Nhật Bản rung động trong vụ động đất ở Kobe và vụ tấn cơng bằng khí ga của
tín đồ giáo phái chân lý ở Aum Shinrikyo. Điều này thôi thúc ông trở về Nhật
Bản ngay sau đó. Cũng thời gian này, ơng đề cập những sự kiện trên trong tác
phẩm hiện thực Đường xe điện ngầm và tập truyện ngắn Sau cơn động đất. Qua
những trang văn ấy, người đọc sững sốt trước bức tranh xã hội Nhật Bản mà
Murakami vẽ nên. Đến năm 1999, sự xuất hiện của Người tình Sputnik cũng gây
được tiếng vang lớn khi lần đầu tiên Murakami đề cập đến vấn đề tình yêu đồng
giới. Năm 2002, Murakami tiếp tục cho ra mắt cuốn tiểu thuyết Kafka bên bờ
<i>biển, ngay trong tháng phát hành đầu tiên (tháng 9.2002) đã bán được sáu vạn</i>
bản. Giải O’ Conner đã giành cho tuyển tập truyện ngắn được dịch sang tiếng
Anh (Cây liễu mù và người đàn bà ngủ, 2006), tập truyện ông viết rải rác từ năm
1984 - 2005. Gần đây nhất Murakami đã xuất bản một hợp tuyển có tên Những
<i>câu chuyện sinh nhật. Năm 2006, ông đã trở thành nhà văn thứ sáu nhận giải</i>
Sức sống và vẻ đẹp trong tác phẩm của Murakami đã tạo thành một món ăn
lạ với độc giả khơng chỉ ở trong nước mà còn nhiều nước khác trên thế giới.
Mặc dù có nhiều ý kiến khen chê khác nhau, nhưng tựu chung lại Murakami là
một nhà văn hiện đại ăn khách và sáng giá nhất hiện nay của Nhật Bản. Ông đã
tạo cho mình được sự nghiệp và một số lượng lớn độc giả nhất định, u thích
và ln chờ đón những tác phẩm của ơng. Một sự nghiệp văn chương thành
công đã khẳng định được tài năng của Haruki Murakami. Ông cũng được coi là
ứng cử viên hàng đầu trong tương lai gần, giải Nobel văn văn học.
<b>1.2. Vài nét về truyện ngắn Nhật Bản hiện đại</b>
<b>1.2.1. Bức tranh lịch sử xã hội</b>
Sau chiến tranh thế giới thứ hai, Nhật Bản là một nước bại trận và chịu tổn
thất nặng nề. Một xã hội như quay về thời đồ đá. Kinh tế hầu như bị suy giảm
đến mức thậm tệ. Năm 1946, kinh tế phát triển chỉ bằng 1/4 trước chiến tranh
thế giới thứ hai. Từ năm 1945 – 1950, kinh tế Nhật Bản phát triển chậm chạp và
phụ thuộc chặt chẽ vào vịng khn kinh tế Mỹ.
Từ những năm 70 trở đi, Nhật Bản trở thành một trong ba trung tâm kinh
tế, tài chính của thế giới. Trong các nước tư bản chủ nghĩa, Nhật Bản vượt lên
đứng thứ hai, sau Mỹ. Hàng hoá của Nhật Bản mở rộng cạnh tranh ra khắp thị
trường thế giới. Từ một nước chiến bại, đất nước bị tàn phá nặng nề, đời sống
của người dân gặp vô vàn cực khổ nhưng chỉ sau vài thập niên, Nhật Bản đã trở
thành một nước siêu cường quốc tế. Đó là sự phát triển thần kì của Nhật Bản.
Trong mỗi đất nước ln ẩn chứa một nét đẹp văn hố riêng. Nhật Bản
được mọi người biết đến qua thiết bị kinh tế hiện đại, nhưng khơng dừng tại đó,
Nhật Bản cịn được biết dưới cái tên “xứ sở hoa anh đào”, Nhật Bản - đất nước
mang một vẻ đẹp cuốn rủ bởi những đường cong của các quốc đảo. Núi Phú Sĩ
tuyệt đẹp, tượng trưng cho sự hiên ngang ở đất nước Nhật Bản.
Nhật Bản luôn đặt sự phát triển của lịch sử và văn hoá trong sự tương tác
và gắn bó mật thiết với mơi trường văn hố khu vực. Những ảnh hưởng và giao
lưu văn hố đó ln diễn ra một cách đa chiều. Văn hoá Nhật Bản vừa tiếp nhận
nhiều thành tựu tiêu biểu của văn hoá khu vực, vừa tạo cho mình những đặc tính
riêng. Tuy nhiên, du nhập văn hố mà khơng có sự chọn lọc thì hậu quả sẽ rất
khó lường. Lối sống hiện đại Phương Tây du nhập vào Nhật Bản đã tác động
mạnh đến tầng lớp thanh niên.
Đi đôi với nền kinh tế thị trường ngày càng hiện đại thì đời sống tinh thần
của con người cũng thay đổi theo. Bên cạnh các nét đẹp truyền thống văn hoá
như trà đạo, tinh thần võ sĩ đạo…thì nhu cầu văn chương của người Nhật cũng
được quan tâm. Tiếp xúc với văn học Nhật Bản, độc giả như lạc vào một lâu đài.
Đó là sự đa dạng của phong cách, sự phong phú về thể loại và cách thức thể hiện
tác phẩm.
<b>1.2.2. Truyện ngắn Nhật Bản hiện đại</b>
Do tính cấp thiết của thời đại và nhu cầu thưởng thức của độc giả, truyện
ngắn xuất hiện với tần số ngày càng nhiều. Cùng trào lưu ấy, các nhà văn nhập
cuộc viết những điều trông thấy và tìm thấy trong mỗi con người nỗi cơ đơn và
tự ý thức riêng. Bằng những cách viết khác nhau họ đã tạo nên những tác phẩm
ăn sâu vào tâm hồn độc giả.
Sau những bước thăng trầm, văn chương Nhật Bản nhanh chóng vượt qua
Tanizaki Junichiro (1886 – 1965) lấy cảm hứng đề tài từ các tác phẩm cổ
điển Nhật Bản hoặc từ sự tương khắc tâm hồn giữa Đông – Tây. Tác phẩm của
ông chú trọng đến vẻ đẹp nhục thể của người phụ nữ, những vấn đề thẩm mỹ
theo cảm thức Nhật Bản. Cầu mộng là một tác phẩm đầy trĩu khơng khí hồi
niệm về những vẻ đẹp cổ kính và một thiên đàng vừa ngây thơ vừa tội lỗi. Yếu
tố sắc dục trong truyền thống văn chương Nhật được pha trộn thêm màu sắc tâm
lý và tính chất hiện đại thật hài hồ trong nét bút chấm phá của ông. Ozaki Shiro
(1898 – 1964) truyện ngắn của ơng xuất hiện được độc giả đón nhận rất nhiều ví
dụ như Tổ chim tích linh …
Sau thế chiến thứ hai, văn chương Nhật Bản nở rộ. Y. Kawabata (1899 –
1972) là một con phượng hoàng của giai đoạn đó. Tác phẩm của ơng thấm sâu
tinh thần thiền Tơng, sự cơ đọng trống vắng của thơ Haiku. Ơng nhận giải
thưởng Nobel văn chương năm 1968. Trước chiến tranh ông đã nổi tiếng với
những truyện ngắn như: Cô vũ nữ xứ Izu và các truyện ngắn Trong lòng bàn tay.
Giờ đây hàng loạt kiệt tác của ông ra đời: Xứ tuyết, Trang điểm, Tiếng rền của
<i>núi…cũng được bạn đọc đón nhận nồng nhiệt. Nhà văn nữ chiếm được giải</i>
đường thể nghiệm văn chương của Nhật Bản đã tìm ra tiếng nói của mình và bắt
đầu hồ nhập vào văn học thế giới. Đi từ hoài nghi thất vọng (Akutagawa)
những niềm tin với hồn thiêng núi sông (Kawabata), những cuồng vọng quá đà
(Mishima) tới một chủ nghĩa nhân bản quốc tế (Abe Kobo, Oe Kezaburo), truyện
ngắn Nhật Bản đã thực sự góp tiếng nói chung trên diễn đàn văn học thế giới.
Bên cạnh các nhà văn nổi tiếng cả tiểu thuyết và truyện ngắn, cịn có những
nhà văn được bạn đọc ưa thích, đó là: Banana Yoshimoto (Thằn lằn, Giấc mộng
<i>kim chi, Tân hôn…)… Những năm cuối thế kỉ XX và đầu thế kỷ XXI, một hiện</i>
tượng văn học cũng gây xôn xao trong giới hâm mộ văn chương, đó là nhà văn
Haruki Murakami. Không chỉ siêu sao trong lĩnh vực tiểu thuyết, mà ngay trong
thể loại truyện ngắn, giọng văn độc đáo của ông cũng thu hút sự quan tâm rộng rãi
của giới nghiên cứu phê bình và độc giả.
<b>CHƯƠNG 2</b>
<b>NGHỆ THUẬT XÂY DỰNG THỜI GIAN, KHÔNG GIAN </b>
<b>VÀ MỘT SỐ MƠ TÍP NGHỆ THUẬT TRONG TRUYỆN NGẮN CỦA</b>
<b>HARUKI MURAKAMI</b>
<b>2.1. Thời gian và không gian nghệ thuật</b>
<b>2.1.1. Thời gian nghệ thuật</b>
Thời gian nghệ thuật là một phạm trù của nghệ thuật. Trong triết học người
ta xem thời gian là hình thức tồn tại của vật chất. Đó là hình tức tồn tại có tính
diễn biến của sự kiện thì thời gian trơi nhanh, khi nào dừng lại miêu tả chi tiết
thì thời gian trơi chậm lại” [10, tr.322].
Trong thế giới nghệ thuật truyện ngắn của Haruki Murakami có sự phối
hợp của nhiều yếu tố thời gian. Trong năm tập truyện ngắn: Đom đóm, Ngày đẹp
<i>trời để xem Kangaroo, Sau cơn động đất, Bóng ma ở Lexington, Người Ti-Vi…,</i>
xuất hiện nhiều loại thời gian như: thời gian đồng hiện, thời gian kì ảo, thời gian
hồi ức, thời gian sinh hoạt đời thường, thời gian tâm lý, thời gian thực tại…
Nhưng ở đây, chúng tôi tập trung đi vào tìm hiểu ba kiểu loại thời gian chủ yếu,
đó là thời gian kì ảo, thời gian sinh hoạt đời thường, thời gian tâm lý.
<i><b>2.1.1.1. Thời gian kì ảo</b></i>
Trong tác phẩm văn học hậu hiện đại, thời gian luôn chiếm một ưu thế
quan trọng, nhất là các kiểu thời gian phi logic, kì ảo. Bởi nó có khả năng
chuyển tải dụng ý nghệ thuật cao hơn. Bên cạnh kiểu thời gian hiện thực với
những sự kiện xảy ra theo logic thực tại, cịn có kiểu thời gian kì ảo hoặc thời
gian siêu thực. Là một người rất có ý thức trong sự nghiệp cầm bút, Haruki
Murakami đã sử dụng yếu tố thời gian kì ảo làm phương tiện nghệ thuật phản
Truyện ngắn của Haruki Murakami thu hút giới độc giả khơng chỉ vì nội
dung hấp dẫn, mà cịn bởi hàng trăm điều kì ảo. Ranh giới giữa thực và ảo rất
mong manh. Sự đan cài giữa thời gian quá khứ và hiện tại tạo nên một thế giới
đa chiều kích, đa màu sắc. Sống ở thời điểm hiện thực nhưng không thực, nhân
vật bị cái ảo lôi cuốn đi theo như một mê cung ép buộc ta phải đi vào. Nhưng
dụng ý nghệ thuật không chỉ dừng lại ở việc miêu tả cái ảo, mà nhà văn cho
nhân vật lạc vào thế giới ấy để xố đi nỗi cơ đơn, tuyệt vọng, chán chường, tẻ
nhạt ở đời sống thực. Và đó cũng là sự nổi loạn của con người cô đơn.
phần mềm của đầu tơi, nơi mà kí ức hiện hữu. Nó mắc kẹt sâu trong đó. Nhưng
nó khơng làm tổn thương hay đè nặng lên tơi. Nó chỉ mắc kẹt ở đó. Và tơi đứng
một bên, nhìn vào cảnh tượng đó như thể nó xảy ra với một ai khác. Tơi muốn
người nào đó rút con dao ra, nhưng khơng ai biết con dao mắc kẹt trong đầu tôi.
Tôi nghĩ về việc mình tự kéo nó ra, nhưng tơi khơng thể đưa tay vào trong đầu
mình được. Đó là điều lạ lùng nhất. Tơi có thể chém chính mình nhưng khơng
thể kéo con dao ra được. Và rồi tất cả mọi thứ bắt đầu biến mất. Tôi cũng bắt
đầu phai mờ dần. Chỉ cịn con dao ở lại. Chỉ có con dao là ln ln ở đó - đến
tận lúc cuối cùng. Như xương của một động vật tiền sử trên bãi biển” [16,
tr.187]. Thời gian như ngưng đọng lại trong khoảng không của hồi ức, sự cô đơn
tận cùng khi mình bị lạc lồi giữa lối sống mà vật chất chi phối hồn tồn.
“Giữa ý thức và vơ thức, giữa nghiệm sinh và thần khải, giữa mê cuồng và
giác ngộ chỉ là một biên giới mong manh” [16, tr.161]. Gương soi - một sự đối
Ngòi bút của Murakami lướt qua nhanh nhưng người đọc hiểu được dụng ý
bên trong. Xố nhồ thời gian trong các truyện thực, ghi chú chính xác ngày giờ
trong các truyện ảo nhằm tạo lập một thế giới không thể phân biệt đang ở trạng
thái thực hay ảo. Trong truyện ngắn Người Ti-Vi, nhà văn đã ghi chú rõ ràng
thời gian xuất hiện hành động cũng như biến mất của Người Vi: “Người
Ti-Vi đến phịng tơi lần đầu vào chạng vạng tối chủ nhật” [8, tr.15]. Người Ti-Ti-Vi
xuất hiện trong khoảng thời gian không lâu nhưng đã làm xáo trộn đồ đạc cũng
như cuộc sống của nhân vật “tôi”: “Từ lúc bọn tivi vào phòng cho đến lúc họ ra
khỏi tơi chẳng hề cử động chút nào. Cũng khơng nói một lời nào. Chỉ nằm suốt
trên ghế dài mà nhìn họ làm việc” [8, tr.24]. Người Ti-Vi xuất hiện như một ảo
cách đưa giả thuyết ảo, nhà văn Haruki Murakami như muốn được quay ngược
thời gian để làm ngưng lại thảm hoạ địa chấn này.
Thời gian cứ chuyển động như khơng có sự hiện diện của con người. Con
người khơng cịn cảm giác gì với thời gian thực tại. Bởi thời gian thực tại cứ
trầm lặng đến kỳ lạ: “Đã 7 giờ tối. Bóng đêm xanh thẫm và mùi cần sa ngào
ngạt bao trùm căn phịng. Bóng tối chênh vênh kỳ lạ”. [7, tr.72 – 73]. Thời gian
chênh vênh hay lịng người chênh vênh vơ định. Ngày qua ngày, thời gian chậm
chạp trôi, vẫn từng công việc ấy, từng khoảnh khắc ấy. Đời người sẽ già theo
năm tháng. Nhưng phải có một nơi nào đó ở thế giới khác là điểm trú chân lúc
mệt mỏi của họ. Thời gian kì ảo khuất trong hồi ức và các giấc mơ sẽ là cứu
cánh để nhân vật của Hauruki Murakami thoát thực tại và tìm thấy bản ngã: “Thì
qng đời cịn lại ấy, cứ sống mơ màng như nằm mộng ấy chứ gì. Chẳng cịn lo
lắng, chẳng cịn khổ đau gì nữa. Chẳng cịn phải lo thiếu thì giờ, hay lo bài làm
ở nhà gì nữa cả. Thế đấy, tuyệt vời chứ nhỉ?” [4, tr.200]. Murakami để cho nhân
vật lạc vào cõi mộng tưởng, cõi vơ thức để tìm kiếm hơi ấm ở một thế giới khác.
Thời gian huyền ảo, kì diệu từ giấc mơ đến hồi ức là dụng ý nghệ thuật của nhà
văn Murakami, cuộc sống sẽ hồi sinh và bừng nở trở lại như những bông hoa
anh đào trong tiết xuân. Nỗi cô đơn lui về dĩ vãng, niềm vui và niềm tin có ở
hiện tại và tương lai.
<i><b>2.1.1.2. Thời gian sinh hoạt đời thường</b></i>
“Thời gian sinh hoạt đời thường là thời gian con người thực hiện các hoạt
động sống: thời gian ngủ, thời gian ăn, uống, dạo chơi, đàm đạo, làm việc…Đi
sâu vào lớp thời gian này chúng ta sẽ hiểu được trạng thái sống và tồn tại của
con người” [24, tr.84].
Thời gian sinh hoạt đời thường gắn liền với những gì thuộc về đời sống của
con người trong thực tại. Nhân vật được đưa vào một q trình vận động của
thời gian và khơng thể tách rời sự vận động ấy. Chính thời gian sinh hoạt đời
thường đã tạo nên những tính cách, tâm trạng, hành vi của nhân vật. Thơng qua
đó, tác giả muốn thể hiện cái nhìn hiện thực về cuộc sống.
tưởng ẩn phía sau hình ảnh. Bức tranh của Murakami là thực nhưng sự thực trần
trụi, ngay cả khi ông miêu tả sex, về những con người và đời sống thường nhật,
nhưng không theo chủ nghĩa hiện thực chúng ta vẫn hiểu mà theo lăng kính chủ
nghĩa siêu thực (thực và ảo lẫn lộn). Chuẩn mực của xã hội Nhật Bản truyền
thống đã và đang chết. Lý tưởng thanh niên Nhật, thanh niên Mỹ hiện nay, khi
xã hội bước sang giai đoạn thịnh vượng, khi tồn cầu hố diễn ra trong mọi lĩnh
vực đang bị khủng hoảng. Những sinh hoạt ấy thể hiện trong tình yêu gắn với
tình dục, hay là sự hấp dẫn của nhục thể giữa những người đối diện với nhau.
Những sự việc hằng ngày đang diễn ra liên tục theo một lịch trình lập sẵn.
Một điều dễ nhận thấy là trong tác phẩm của mình, Murakami đã đưa ra
những quan điểm riêng về tính dục, như chính lời ơng nói: “Tơi tự tạo quy tắc
cho mình”. Theo ơng, “tình dục chỉ là một loại thể thao”. Murakami viết về tính
dục nhưng văn phong của ơng khơng nhuốm màu tính dục. Thậm chí ta cịn thấy
vui nữa. Để duy trì cuộc sống tình u - hơn nhân thì con người cần phải ni
dưỡng tâm hồn mình, đặc biệt là đời sống tình dục. Tình dục cũng là khoảng
thời gian sinh hoạt đời thường của con người. Tình dục ni dưỡng cả phương
diện vật chất và tinh thần. “Chiều xuống ở nhà mãi cũng khổ, nên đêm nào cô
cũng mặc quần áo mới mua vào rồi đi ra khỏi nhà, tìm đến các quán rượu, quanh
kỳ lạ, khiến cho con người mất cảm giác vào thực tại: “Tôi vốn ưa thời khắc
chạng vạng tối chủ nhật” [8, tr.15]. “Thế là suốt buổi chiều tôi nằm chường trên
ghế dài, một mình lơ tơ mơ. Chẳng có việc gì làm cả” [8, tr.19]. Ăn sáng đi làm
và lại về nhà vào lúc chiều tối, tắm giặt lại ăn và ngủ. Chuỗi thời gian sinh hoạt
vô vị, cô đơn nhưng đó là sự sống của con người. Như có một nhà triết học nào
đó đã từng nói: “Tơi suy nghĩ nghĩa là tôi tồn tại”. Con người vận động chứng tỏ
con người là một hình thể của vũ trụ.
Hành trình cuộc đời của con người là một vịng trịn khép kín: Sinh –
Lão-Bệnh - Tử. Dù người thường hay người khác thường đều có thời gian sinh hoạt
giống nhau. Kano Creta là một cô gái khác người thường. Hễ đàn ông thấy cô là
muốn cưỡng hiếp: “Bất cứ người đàn ông nào cũng thế, hễ thấy em là đè ngay
xuống sàn, và cởi thắt lưng ra” [8, tr.93]. Nhưng công việc hàng ngày của cô vẫn
diễn ra đều đặn: “Cơng việc của em là gìn giữ nước ấy cẩn thận. Có chút bụi rơi
vào thì vớt ra; mùa đơng phải giữ cho nước đừng đóng băng; mùa hè giữ cho
nước không bị côn trùng rơi vào” [8, tr.92]. Chuyện trong nhà là câu chuyện về
thời gian anh trai và em gái chung sống dưới một mái nhà trọ. Hai anh em bắt
đầu sống từ mùa xuân người anh 22 tuổi, em gái 18 tuổi. Thời gian sinh hoạt của
hai anh em chênh lệch nhau: “Tôi làm việc trong bộ mơn quảng cáo cho một
hãng chế máy móc điện nên buổi sáng đi làm tương đối trễ, và buổi tối về nhà
trễ. Em tơi thì sáng đi học sớm, khoảng chiều là về đến nhà rồi” [7, tr.228]. Khi
đó vơ nghĩa với kiểu thời gian tập thể dục. Thể dục rồi nhảy nhảy, ngày nào
cũng răm rắp với bài hát quốc ca: “Đâu có đoạn nào mà bỏ được. Mười lăm năm
liên tiếp tập thế rồi, cứ bắt đầu là khơng cần suy nghi…nghĩ…nghĩ gì cũng làm
đủ một chuỗi động tác ấy. Bỏ một đoạn là tịt ngay, không sao làm hế… hết…hết
được” [7, tr.26]. Thế nhưng Murakami lại mỉm cười nhân hậu nói với bạn đọc
rằng, bất kỳ một sự kì dị nào cũng có quyền tồn tại và vì thế mà nó có cái lí của
nó chứ, miễn là khơng hại ai. Và rồi cũng chính Murakami chỉ ra cho chúng ta
thấy cái kiểu sống có mục đích và ngun tắc của cái anh chàng mê địa đồ kia
lại nực cười và vô nghĩa. Hay như người yêu của bạn nhân vật “tôi” sống thiếu
định hướng, chẳng quan tâm đến cái gì nhưng thực tế lại có một sức sống rất
mạnh mẽ và đầy tinh thần trách nhiệm: “Em nghĩ một ngày nào đó, ở một nơi
nào đó trên thế giới bấp bênh này, nếu mà em gặp lại được anh thì lúc ấy, có lẽ
em sẽ tỏ bày rõ ràng được với anh rất nhiều điều” [7, tr.47]. Hoặc nhân vật “tôi”
trong Con voi biến mất có sở thích sưu tầm những trang báo có viết về con voi
mà thành phố nhận ni. Trên thực tế nhiều người trong chúng ta có sở thích
sưu tầm tem, tranh ảnh về một ca sĩ hay nhạc sĩ nổi tiếng nào đó…Ai cũng tìm
thấy một chút mình trong cuộc sống thường ngày của các nhân vật trong truyện
ngắn Haruki Murakami là như thế.
Xã hội Nhật Bản hiện đại là một xã hội lắm bão tố phong ba, và trong cái
xã hội đó con người đang từng ngày, từng giờ phải sống trong nỗi cô đơn, cảm
giác bất an. Chính cái xã hội phức tạp, cạnh tranh gay gắt đó đang biến thể xác
và tinh thần con người trở thành những cái máy chỉ biết làm việc và làm việc mà
thôi. Cuộc chạy đua của sự phát triển kinh tế, văn hoá xã hội đã nhào nặn nên
những nhu cầu về tinh thần của con người được lập trình sẵn, và con người chỉ
có thực hiện theo mà thôi. Sống trong thời gian sinh hoạt đời thường luẩn quẩn, con
người bị bó hẹp, đầy đủ tiện nghi nhưng cô đơn, lạc lõng giữa thế giới sôi động.
<i><b>2.1.1.3. Thời gian tâm lý</b></i>
Văn xuôi hậu hiện đại thường mang dấu ấn phủ định lại những gì thuộc
hiện đại. Để tiếp cận hiện thực và đối tượng được phản ánh, các nhà văn thường
sử dụng những thuật ngữ như mã kép, đảo lộn trật tự thời gian, thời gian tâm lý,
lắp ghép…, đó cũng là cách làm nên phong cách riêng của người nghệ sĩ.
thức và tâm trạng của nhân vật trong tác phẩm. Đan xen giữa quá khứ, hiện tại
và tương lai làm cho thị giác và hồi ức của nhân vật được dung hợp. Người thứ
<i>bảy là câu chuyện của nhân vật “tôi” ám ảnh về cơn sóng thần gần bốn mươi</i>
năm trời. Đó là khoảng thời gian cơn sóng thần cuốn trơi đi người bạn thân thiết
nhất: “Vào một chiều tháng chín, năm tơi lên mười tuổi, ngọn sóng đó suýt nữa
kết liễu cuộc đời tơi” [16, tr.69]. “ Nhưng thay vì vậy, nó đã tháo sạch phần tinh
tuý nhất của tôi để trút vào một thế giới khác. Phải mất nhiều năm sau tôi mới
hồn tồn bình phục. Phải mất bao nhiêu thời gian quý báu của đời tôi” [16,
tr.69]. Thời gian cuộc sống đời thường của mọi người cứ diễn ra liên tục, riêng
của anh, thời gian như lắng đọng sống trong ám ảnh về thời gian tuổi ấu thơ, nơi
đó đau thương và cú sốc tâm lý đã đánh gục ngã anh. Sau khi cơn sóng thần
cướp đi người bạn, người anh em tốt, nhân vật “tôi” luôn sống trong tâm trạng
bất an, mỗi đêm là một ác mộng: “Dù cố gắng bao nhiêu đi nữa tôi cũng chẳng
Haruki Murakami luôn để cho cái “tôi” của các nhân vật tự do kể và kể.
Chính vì thế, thời gian ở đây tuỳ thuộc vào trạng thái tâm lý của nhân vật. Thời
gian diễn ra có lúc chậm, có lúc nhanh, có lúc được dồn nén trong một khoảnh
khắc. Gương soi là dịng hồi ức của nhân vật “tơi” với kí ức của hơn mười năm
về trước với nỗi sợ hãi tận đáy lòng: “Chuyện xảy ra cách đây hơn mười năm và
tôi chưa kể cho ai nghe” [16, tr.162]. Truyện Cái nghèo của tơi hình miếng bánh
<i>pho mát bắt đầu bằng thời gian đôi vợ chồng trẻ sống trên khu đất Vùng Tam</i>
<i>Giác: “Vợ chồng tơi đã có thời sống trên “Vùng Tam Giác” ấy. Chuyện đâu</i>
khoảng năm 1973 hoặc 1974” [4, tr.137]. Từ thời gian quá khứ quay ngược về
thời hiện tại, đó là một kỉ niệm, một thời điểm để rèn luyện lòng quyết tâm vươn
lên cuộc sống giàu có của con người: “Ngày nay, mỗi lần nghe ai nói chữ
“nghèo”, tơi lại nhớ đến khu đất hình tam giác dài mà hẹp ấy” [4, tr.144]. Trải
qua khó khăn và sự nỗ lực phấn đấu đã giúp họ tự tin hơn, mạnh mẽ hơn, vững
vàng hơn trong cuộc sống.
J.Tanizaki hay cái đẹp bạo liệt như Y.Mishima, mà ông tạo dựng một cái đẹp
mới: cái đẹp của đời sống thường ngày và tự nhiên. Theo dòng thời gian tâm lý
của nhân vật, người đọc khám phá được nhiều nét đẹp dành riêng cho mình. Mỗi
con người dù muốn hay khơng, đều có những mối gắn kết với những người xung
quanh bằng những sợi dây vơ hình. “Ngày xa xưa, hồi tơi cịn trẻ thì tất nhiên
khơng hề suy nghĩ như thế. Thời ấy tơi chỉ hồn nhiên nghĩ rằng tính dục là miễn
phí” [8, tr.240 – 241]. Nhưng khi đã đến tuổi trưởng thành thì suy nghĩ dần dần
có khác đi: “Chúng ta lao động, kiếm tiền, đọc sách mình thích, bỏ phiếu bầu cử,
đi xem đá bóng, ngủ với đàn bà…, mỗi một thao tác như thế đâu có vận hành
người em, kí ức lại hiện về với người anh: “Mùa xuân năm ấy đã có nhiều
chuyện xảy ra. Chia tay với bạn gái, tổ mẫu mất vì ung thư đường ruột” [7,
tr.125]. Lúc cùng em họ đến bệnh viện thì người anh lại hồi tưởng về tám năm
trước: “Tám năm trước, tôi đã đến bệnh viện kia, một bệnh viện nhỏ bên bờ
biển” [7, tr.130]. 11 giờ 45 phút, đứa em họ chưa quay trở lại: “Tơi trở lại với trí
nhớ một lần nữa, nghĩ đến cây bút bi nhỏ màu hồng kim trong túi áo trên ngực
cơ ấy” [7, tr.132]. 12 giờ 20 phút, người anh quay về trạng thái thực tại. Thực tại
như đang chìm trong thời gian của quá khứ. Chuẩn bị lên xe buýt trở về, người
anh lại nhớ về kỉ niệm cùng người bạn đi thăm người yêu của bạn nằm trong
bệnh viện. Và rồi người anh cũng mang ý thức quay về với thực tại. Murakami rất
tài tình trong việc xây dựng dịng thời gian tâm lý của nhân vật, đưa nhân vật từ
hiện tại về quá khứ, từ giấc mơ đến hiện tại để nhận ra cái tốt đẹp của cuộc sống.
Quá khứ nuôi dưỡng hiện tại, nhân vật khơng hồ hợp được với thời gian hiện tại,
do đó họ quay trở về thời gian quá khứ - thời gian mà họ có nhiều kỉ niệm đẹp.
Thời gian tâm lý được bắt gặp trong những giấc mơ và mộng tưởng: “Khi tôi
đâm vào không khí, tơi chợt nhớ người phụ nữ mập mạp - cựu tiếp viên của hãng
hàng không Hoa Kỳ…Tôi thử chém họ làm hai, nhưng viễn cảnh biến mất, và tất
cả lại hiện diện ở xa tầm lưỡi dao tôi. Tất cả đều là ảo ảnh hay chính tơi là ảo ảnh”
[16, tr.187]. Mỗi sự kiện trôi qua đều gắn với một câu hỏi tự vấn lương tâm. Con
dao là hình ảnh của thời gian và thời gian ăn sâu vào lớp da thịt nhưng không thấy
đau. “Thời gian trước ta và sau ta vĩnh viễn không thuộc về ta” [16, tr.170].
Thời gian đồng hiện đan xen cuộc đời nhân vật tạo thành một chuỗi thông
điểm quá khứ và hiện tại, hay thực và ảo, ống kính của Murakami cũng soi chiếu
tận cùng tâm lý, tâm trạng và tâm hồn của con người trong vô thức lẫn ý thức.
Kết hợp ba loại thời gian kì ảo, thời gian sinh hoạt đời thường, thời gian tâm lý,
một lần nữa Murakami đã vẻ nên một bức tranh đời sống thanh niên Nhật Bản
đa màu. Mỗi con người là một phác thảo để làm nên làm nên diện mạo của một
tầng lớp. Những dụng ý nghệ thuật này đã góp phần làm tăng sức hấp dẫn của
truyện ngắn Haruki Murakami.
<b>2.1.2. Không gian nghệ thuật</b>
Theo Từ điển thuật ngữ văn học: “Khơng gian nghệ thuật là hình thức bên
trong của hình tượng nghệ thuật thể hiện tính chỉnh thể của nó. Sự miêu tả, trần
thuật trong nghệ thuật bao giờ cũng xuất phát từ một điểm nhìn, diễn ra trong
trường nhất định, qua đó thế giới nghệ thuật cụ thể, cảm tính bộc lộ tồn bộ
quảng tính của nó: cái này bên cạnh cái kia, liên tục, cách quãng, tiếp nối, cao
thấp, xa gần, rộng, dài tạo thành viễn cảnh nghệ thuật. Không gian nghệ thuật
gắn với cảm thụ về khơng gian, mang tính chủ quan. Ngồi khơng gian vật thể,
có khơng gian tâm tưởng. Do vậy, khơng gian nghệ thuật có tính độc lập tương
đối, khơng được quy định vào không gian địa lý. Không gian nghệ thuật trong
“Cũng như thời gian nghệ thuật, khơng gian nghệ thuật là hình thức tồn tại
của thế giới nghệ thuật. Nếu như mọi vật trong thế giới đều tồn tại trong không
gian ba chiều: cao, rộng, xa và chiều thời gian, thì khơng có hình tượng nghệ
thuật nào khơng có khơng gian, khơng có nhân vật nào khơng có một nền cảnh
nào đó” [24, tr.107]. Trong truyện ngắn của Haruki Murakami, nổi bật ba kiểu
không gian: không gian ám ảnh, không gian thiên nhiên, không gian thực và ảo.
<i><b>2.1.2.1. Không gian ám ảnh</b></i>
Trong thế kỷ XX, sự phát triển của các lý thuyết văn chương, các quan
niệm mỹ học, một trong những điều bị đẩy đến mức độ tận cùng của sự khủng
hoảng chính là mối quan hệ giữa văn học và hiện thực. Những truyện ngắn của
Murakami mang đến một hình ảnh về nước Nhật đương đại, dẫu là dưới dạng
một ẩn dụ. Đó là một xã hội mà quá khứ vẫn không ngừng hiện diện và ám ảnh.
Hơn thế nữa, đó là một ẩn dụ về con người và bản sắc dân tộc Nhật. Trong sự
vận động của một thế giới đang dần trở thành một thế giới phẳng, nhiều người
hay ám ảnh bởi những việc bảo tồn, gìn giữ cho một bản sắc văn hố. Liệu
chàng trai trong Người thứ bảy có trưởng thành thật sự được không nếu như
không trải qua một khoảng khơng gian ám ảnh về cơn sóng thần năm anh mười
bốn tuổi: “Tơi chợt nhận ra bóng tối dày đặc vây quanh tôi bỗng nhiên biến mất.
Cũng đột ngột như khi xuất hiện, bóng tối đột ngột biến đi khơng để lại dấu vết”
[16, tr.85]. “Quá khứ và hiện tại trộn lẫn vào nhau, như căn nhà cũ kỹ của tơi bị
phá huỷ rồi tất cả mảnh vỡ cuộn trịn trong dịng xốy của thời gian. Tất cả
những âm thanh xung quanh ngừng lại, và ánh sáng chập chờn hư ảo… Nhưng
Ám ảnh là điều không hay, lởn vởn trong trí, làm cho ta phải băn khoăn lo
lắng, mà không sao xua đi được. Murakami tạo ra những khơng gian ám ảnh về
những kí ức đau thương của các nhân vật. Người thanh niên trong Lưỡi dao săn
ám ảnh về con dao xuất hiện trong giấc mơ của mình. Khơng gian của vườn trí
nhớ đầy sương mù cứ luẩn quẩn xung quanh anh ta. Đó là những nỗi niềm
không thể chia sẻ cho người khác biết nhưng nó lại làm nên cuộc đời ta. Ai cũng
bị thương cả. Cùng một con dao sắc chém vào phần mềm của đầu nhưng vết
thương của mỗi người lại khác nhau. Kí ức lơi ta vào những biển hồi nhớ, và
chỉ có thời gian mới chấm dứt được thời gian: “Đêm sâu thẳm và thời gian dễ bị
uốn cong. Ánh sáng tròn đầy của mặt trăng càng làm tăng thêm chiều sâu thẳm
đó và dễ uốn đó” [16, tr.187].
phịng dưới hầm thư viện ấy” [4, tr.226]. Một khơng gian chứa nhiều bí ẩn, ở đó
có người cừu, có ông già hung tợn, có thiếu nữ tuyệt đẹp với nhan sắc mà ai
cũng mơ mộng. Nhưng chính khơng gian dưới căn hầm ấy đã dạy cho anh ta
nhiều bài học về cuộc đời. Gương soi lại có khơng gian ám ảnh kiểu khác. Đó là
khơng gian của đêm gác ở một trường trung học vào tháng 11 lộng gió. Gió hú
suốt đêm, các cánh cửa hồ bơi bị gió va đập mạnh. Không gian đêm ấy sởn gai
ốc khiến người canh gác khơng tập trung suy nghĩ được gì. Lối vào trường nằm
khoảng giữa chiều dài hành lang. Và đó cũng chính là khoảng khơng mà tấm
gương xuất hiện, soi rọi cái tơi bên ngồi của chính người bảo vệ: “Nhưng nó là
một cái tơi bên ngồi tơi. Hình dạng tôi mà không phải là tôi” [16, tr.166]. “Và
tôi chẳng bao giờ quên được nỗi sợ hãi tối hôm đó” [16, tr.167]. Nỗi ám ảnh của
đêm tối gió lớn ấy đi suốt trong kí ức của người bảo vệ.
xác ướp cùng đêm đi trên con đường qua nghĩa địa làm cho cô gái như bừng tỉnh
một cái gì đó, như mình cũng có những điều xấu chứ khơng phải hồn hảo.
Cùng với thời gian hồi tưởng, bằng văn phong độc đáo, Haruki Murakami
đã tạo dựng nên những không gian về nỗi cô đơn, cái chết…ám ảnh suốt hành
trình cuộc đời của các nhân vật. Hai thế giới thực và ảo luôn đan cài trong hầu hết
các tác phẩm, những tình tiết bất ngờ, những cuộc săn đuổi đầy hồi hộp trong bóng
tối nhưng lại rất đỗi thuần t nhân văn, đi tìm ánh sáng chính nghĩa cuộc đời.
<i><b>2.1.2.2. Không gian thiên nhiên</b></i>
Không gian trong văn học chính là khơng gian tâm hồn con người, những
sân trường, mái ngói, con đường nhỏ…tượng trưng không gian thân thuộc.
Ngọn suối, núi vắng…tượng trưng khơng gian ẩn dật vắng vẻ. Chân trời góc bể
tượng trưng sự xa cách, chốn tha hương lạnh lẽo. Đó là không gian đậm màu
quan niệm và lý tưởng, khác xa với không gian thực tại đời thường.
Truyện ngắn của Haruki Murakami xuất hiện nhiều tầng không gian về
thiên nhiên. Không gian thiên nhiên bao bọc lấy con người, làm cho họ phơi trải
lịng mình. Mở đầu tác phẩm Đom đóm ta bắt gặp một khơng gian thiên nhiên
nhè nhẹ trơi dạt trong miền kí ức của chàng sinh viên. Xung quanh cư xá có một
tầm nhìn thống đẹp: “Khn viên rộng rãi, có tường xi măng cao bao quanh.
Bước qua cổng thì ngay chính diện là một cây cử to tướng, xoè cành lá bao sân.
Tuổi cây đâu chừng 750 năm, có khi cịn xưa hơn thế nữa. Đứng ở gốc cây nhìn
lên khơng thấy nổi khoảng trời bị che khuất bởi đám lá cành chi chít” [7, tr.17].
Thiên nhiên thi vị khiến tâm hồn con người bay bổng thăng hoa. Gió mát trăng
thanh tạo dựng khung cảnh lãng mạn cho những đơi trai gái trẻ đang hẹn hị
nhau: “Tôi cùng nàng rời vũ trường, bước dọc theo bờ sơng. Đến một con dốc
thoai thoải, khắp trong khơng khí có mùi hương vị ngọt ngào của lồi hoa trắng
người để lại như một kỷ niệm. Khung cảnh thiên nhiên quá đẹp làm cho con
người có cảm giác nó chỉ là ảo giác: “Vẻ như thực ấy thật là sống động mãnh
liệt, nhưng tôi biết đấy là ảo giác” [7, tr.129]. “Bên ngoài khung cửa sổ, vườn cỏ
rộng thênh thang. Đây đó có những vịi xoay vịng phun nước thành tiếng, tung
toé những ánh trắng lên thảm cỏ xanh… Khỏi đám sân quần vợt là một dãy
những cây cử, qua những cành cây nhìn thấy biển. Những đợt sóng nhỏ loang
lống phản chiều rực rỡ ánh mặt trời đầu mùa hạ” [7, tr.129]. Thiên nhiên thơ
mộng kết hợp hài hoà khung cảnh nhân tạo vẽ nên bức tranh muôn màu cho
cuộc sống.
Không gian thiên nhiên trong truyện ngắn của Murakami mang đậm màu
sắc tự nhiên của nó. Đó là sự chuyển mùa và giao mùa theo dịng thời gian trơi
đi vơ định. Mùa xuân cây cỏ xanh tươi, mùa hạ ta bắt gặp những cơn mưa ngắn
ngủi, mùa thu khơng khí lạnh như thức tỉnh cảm giác của con người. “Bên ngồi
cửa sổ, khoảng khơng mây mờ của tháng Tư năm 1974 đang dàn trải mênh
mông. Tầng mây phẳng rộng không một vết nối trông như một cái vung khổng
lồ màu tro đậy lên cả bầu trời. Những tia nắng vàng nhạt của hồng hơn sắp tắt
chầm chậm phiêu du trên khơng như những hạt bụi trong dịng nước, rồi đọng
lại âm thầm ở những thung lũng nơi đáy biển” [7, tr.270]. “Mưa tạt vào khung
cửa sổ, luồng nước biển tối đen rửa lên dãy núi bị lãng quên” [7, tr.291]. Một
đêm mưa tháng 11 đánh thức con người thoát khỏi mộng mị. Khơng gian mùa
trơi qua và tình cảm con người cứ thế thay đổi theo thời gian, theo hướng tích
có mùi đời sống” [4, tr.109]. Thiên nhiên yên lặng, tiếp tục nhịp thở nhỏ nhoi
trong một khơng khí sơi động của nền kinh tế thị trường. Vì lẽ đó con người càng
thấy cô đơn, tuyệt vọng: “Không biết khi mở mắt ra mình sẽ ở nơi nào”.
Haruki Murakami đúc kết các bức tường khơng gian thiên nhiên với một
mục đích là tìm hướng giải quyết những vấn đề sinh tồn mà thời đại họ đang
sống tạo ra. Ước mơ hiểu hết cuộc đời, hiểu mình của tầng lớp thanh niên là một
con đường đi mờ mịt. Trong không gian thiên nhiên, mỗi người lại có một tâm
trạng khác nhau. Hồ vào thiên nhiên cũng là cách mà nhà văn để cho nhân vật
của mình cảm nhận được sự ấm áp: “Ngay cả mặt trời đã lặn, hay đêm đã về
khuya, người băng vẫn ngồi trên ghế, im lặng như quang cảnh mùa đơng ngồi
cửa sổ” [16, tr.34]. Hay như tâm trạng lo lắng, sợ hãi của người thứ bảy trước
không gian của trời biển sau cơn bão: “Màu của trời, sắc của biển, tiếng thét gào
của sóng, hương vị mặn mà của muối và sự hùng vĩ của phong cảnh thiên
nhiên…Tất cả những cảnh quan ven bờ biển đã thay đổi hết…Ngay cả khi thuỷ
triều xuống, mực nước cũng không rút quá xa như vậy. Bờ biển trông giống như
một căn phòng lớn sau khi người ta đã di chuyển hết đồ đạc, trống vắng không
thể chịu nổi” [16, tr.74]. Thiên nhiên có lúc hiền dịu nhưng có lúc hung dữ vơ
cùng: “Đơi khi chúng ta khơng thể dự đốn trước được hậu quả khủng khiếp mà
mà những con sóng gây ra” [16, tr.75]. Thiên nhiên náo nhiệt với những tiếng
chim hót: “Khu vườn giống như cả một cánh rừng mênh mông, những con chim
giẻ cùi xanh biếc chuyển từ cành này sang cành khác, khơng ngừng cất tiếng hót
cao vút, vui tươi” [16, tr.130]. Âm thanh mà thiên nhiên ban tặng cho con người
như một bản nhạc không lời tuyệt hay. Thiên nhiên là cái phơng nền bên ngồi,
nhưng bên trong là bao điều bí ẩn.
Bằng cách khám phá một không gian mênh mông, lạnh lùng, nhà văn đã
khắc hoạ nên những tâm hồn cô đơn, u uẩn. Trong bầu không gian như vậy con
<i><b>2.1.1.3. Không gian thực và ảo</b></i>
đường địa ngục nào khác, mà nó xảy ra ngay trong chính đời sống thường ngày.
Bằng lối viết và lối tạo dựng khung cảnh tân kỳ, sử dụng nhiều yếu tố mới lạ,
truyện ngắn của Murakami đã thực sự lôi cuốn độc giả. Ranh giới giữa thực và
ảo nằm lẩn khuất ở trong từng trang sách.
Không gian ảo, siêu thực là đặc trưng cơ bản trong truyện ngắn
Murakami. Và là nơi tính biểu tượng của tác phẩm được thể hiện rất rõ. Có
những khơng gian ảo hồn tồn, có những khơng gian nửa thực nửa ảo. Tiếp xúc
truyện ngắn của ông, bạn đọc sẽ như lạc vào một thế giới với nhiều điều kỳ ảo,
mà trước tiên phải nói đến những khơng gian vừa như thực, vừa như hư xen lẫn
nhau. Qua không gian siêu thực ấy cuộc sống của các nhân vật sinh động muôn
màu, đa tâm hồn.
Cuộc sống luôn tồn tại không gian hư ảo và khơng ai trong chúng ta có
thể dễ dàng nắm bắt được nó, như một cái gì đó nằm sâu thẳm trong tiềm thức
của mỗi con người. Thế giới ấy có thực trong tưởng tượng để rồi tan biến trong
khoảnh khắc, chỉ cịn đọng lại trong cái nhìn của độc giả. Không gian thực và ảo
lẫn lộn trong truyện ngắn Murakami thường được thể hiện qua những giấc mơ,
cái giếng, căn hầm… Ở đó nhân vật đối diện với ảo để hiểu thực. Tồn tại trong
một thế giới của mình mà như lạc vào thế giới của người khác. Cảm giác thực
-ảo đã xố nhồ ranh giới mơ tưởng và hiện thực. Cư xá là nơi mà nhân vật “tơi”
trong Đom đóm theo học và ở trọ, được mô tả rất thực, thực đến nỗi cứ theo chỉ
đường đi lại như một mê cung: “Một hành lang quái dị, bước một hồi thì rẽ ra
hai ngã trái phải. Ơng già rẽ phải. Ngay sau đó, cứ như là trong ổ kiến, hai bên
hành lang hiện ra vô số những hẻm nhỏ…Tôi bước đi mà chẳng biết mình đã đi
vào hẻm thứ mấy nữa. Đi một hồi lại đến một chỗ nhiều hẻm khác. Rồi lại đến
ngã rẽ. Đầu óc tơi rối loạn hồn tồn rồi. Dưới hầm thư viện mà lại có thứ mê
cung rộng lớn đến mức như thế này chắc chắn là chuyện xuẩn ngốc quá rồi” [4,
tr.184]. Không gian ảo nhưng lại tạo cho độc giả cảm giác như đang bước đi qua
các ngã rẽ thực của hành lang.
những nhân vật chỉ có trong cổ tích. Nhưng nơi đó cũng là khơng gian hố giải
nỗi cơ đơn của Người Cừu.
Mang màu sắc kỳ ảo, liêu trai, truyện ngắn của Murakami đã thu hút độc
giả trên thế giới với số lượng lớn. Không gian ảo mà thực, thực mà ảo. Cái trừu
tượng đầy mơ hồ ấy chính là một thủ pháp nghệ thuật của Murakami. Khơng
gian có thể xuất hiện trong mộng tưởng, cũng có khi khơng gian tồn tại trong
đời thực nhưng bản chất của nó vốn mơ hồ. Khơng gian ảo giúp con người thốt
khỏi thực tại, đồng thời rời xa cuộc sống thực là để chiêm nghiệm bản thân. Từ
thực đến ảo là một ranh giới vốn rất xa nhưng qua ngòi bút và tài nghệ biến hoá
của Murakami mà ranh giới ấy thu ngắn, đan xen vào nhau, xây dựng một niềm
tin vào tương lai tươi đẹp.
Qua những câu chuyện nửa thực nửa ảo trong năm tập truyện ngắn của
Murakami, người đọc như lạc vào một thiên đường. Nơi đó thực và ảo của thời
<b>2.2. Sự đan xen yếu tố thực và ảo </b>
<b>2.2.1. Yếu tố thực</b>
Trong quá trình sáng tạo nghệ thuật, mỗi nhà văn đều tạo cho mình một bút
pháp nghệ thuật riêng. Bút pháp ấy có khi tồn tại ở dạng tiềm ẩn, có khi ở dạng
một tun ngơn. Truyện ngắn của Haruki Murakami đã vẽ lên một bức tranh hiện
thực về xã hội Nhật Bản ở những năm cuối thế kỷ XX đầu thế kỷ XXI.
thả neo ngoài khơi xa nhìn như hai hịn đảo sinh đơi. Một khoảng cách lý tưởng
nếu từ bờ bơi ra – chính xác là năm mươi feet tính từ bờ và khoảng ba mươi feet
giữa hai bè gỗ. Bề ngang 35 cm, mỗi bè đều có thanh sắt và thảm cỏ nhân tạo
phủ trên bề mặt. Mực nước sâu 25 đến 30 cm, trong suốt đến mức ta có thể nhìn
thấy sợi dây xích nối giữa hai chiếc bè kéo tận xuống đáy chiếc neo bê tông.
Khu vực bơi được một tảng đá ngầm san hơ vây quanh. Và ít khi có sóng lớn
nên những chiếc bè cứ dập dềnh nhẹ nhàng trên mặt nước” [16, tr.171]. Quang
cảnh xung quanh làm phông nền tơn lên nét đẹp của những chiếc bè ngồi khơi
xa. Truyện ngắn của Haruki Murakami còn phản ánh hiện thực bức tranh xã hội
Nhật Bản hiện đại, tác động của thiên nhiên đến con người. Thảm kịch trận động
đất ở phía Tây Nhật Bản gần Kobe (nơi sinh ra của tác giả), hay các tuyến xe
điện ngầm bị tấn cơng… Tất cả đều thể hiện q trình tìm kiếm lại bản ngã của
người dân Nhật Bản. Đặc biệt, trào lưu tự vẫn để thốt khỏi đau đớn, cơ đơn
trong cuộc đời cũng được ngòi bút hiện thực Murakami khắc hoạ rõ nét. Đó là
những cơ, cậu sống mãi ở tuổi mười bảy. Lang thang, đặt câu hỏi mình là ai, các
nhân vật trong truyện ngắn Haruki Murakami thấy mình lạc lõng trong thế giới
thực ảm đạm và buồn tẻ.
Thế giới hiện thực mà Haruki Murakami tạo ra trong các tác phẩm thuộc
về một trường phái văn hoá duy nhất: nền văn hố tiêu dùng chiếm lĩnh tồn
cầu. Nhân loại múa may yêu đương, giận hờn, sinh sống trên nhạc jazz với
những tiện nghi hiện đại như tivi, tàu shinkansen…Con người bị ngủ mê trong
đời sống tối trầm lặng. Đi làm, về nhà, ăn ngủ…, thỉnh thoảng đi nhậu, đi chơi
gái hay lâu lâu đi xem kangaroo cho đỡ buồn. Như Bùi Giáng đã nói: “Ta cịn gì
trên dịng năm tháng trầm luân? Còn nguyên phố thị hội đàm, với trăng châu thổ
muôn vàn dưới kia”[16, tr.27].
Yếu tố cuộc sống và hưởng thụ cuộc sống cũng được Haruki Murakami
miêu tả rất thực. Tận hưởng những gì của thời đại ban cho: ăn mặc thời trang,
uống rượu ở những quán bar nổi tiếng... Họ lao động và biết tận hưởng thành
quả lao động của mình. Thượng lưu nhưng hết sức đại chúng. Qua sự miêu tả
thực trong tác phẩm của Haruki Murakami, bạn đọc trẻ tuổi sẽ tìm thấy chính
mình cùng với nhiều sở thích đam mê về thế giới hiện đại.
<b>2.2.2. Yếu tố ảo</b>
bao trùm một bầu khơng khí đậm chất kỳ ảo, phi lý, siêu thực, tưởng tượng
không biên giới. Caste trong Truyện kể kỳ ảo ở Pháp viết: “Cái kỳ ảo được đặc
trưng bởi một sự xâm nhập đường đột của cái bí ẩn vào khuôn khổ của cuộc
sống thực”. Tuy nhiên, sử dụng yếu tố ảo trong văn chương cũng là cách thể
hiện hiện thực cuộc sống. Trong phương thức kỳ ảo, các nhà văn thường sử dụng
các dạng thức khác nhau tạo sắc màu phong phú đa dạng và hấp dẫn cho tác phẩm.
Cái ảo cũng là yếu tố làm nên phong cách nghệ thuật cho tác phẩm văn học.
Sử dụng yếu tố ảo, Haruki Murakami xây dựng những không gian vô
hướng, thời gian vơ định và những kí hiệu. Cũng giống như Y.Kawabata, Haruki
Murakami sử dụng yếu tố ảo như một hình thức đặc biệt để chuyển tải các thơng
điệp trong tác phẩm. Bởi cái ảo của Haruki Murakami ngoài phản ánh hiện thực,
Trong truyện ngắn của nhà văn xứ Phù Tang này cịn có vết tích của F.
Kafka, A. Camus. Báo Independent on Sunday đã từng nhận xét: “Murakami
viết về Nhật Bản hôm nay, về sự cô độc nơi đô thị và những chuyến du hành
khám phá. Ông đã kết hợp những hồi ức chiến tranh và suy tư siêu hình, những
giấc mơ và ảo giác vào một tác phẩm ấn tượng và tràn đầy sức mạnh”. Truyện
ngắn Người Ti-Vi, Giấc ngủ, Bóng ma ở Lexingtơn, Chuyện quái đản trong thư
<i>viện…chính là bức hoạ phản quang đầy suy nghiệm của Harruki Murakami về</i>
xã hội Nhật Bản hiện đại.
dùng để mã hoá những bí ẩn trong cuộc sống con người và cả trong những điều
thiêng liêng.
Yếu tố ảo mà nhà văn Haruki Murakami sử dụng khơng hồn tồn vơ căn
cứ. Nó xuất hiện do sự kích thích của một hiện thực cụ thể thường có tính chất
kỳ lạ, siêu phàm và trung thành với cái bóng hiện thực. Cái ảo trong truyện ngắn
Murakami được xem là một phạm trù tư duy nghệ thuật, một phương diện để
nhận thức và phản ánh cuộc sống. Đồng thời nó mang lại cho tác phẩm những
giá trị thẩm mĩ nhất định.
<b>2.2.3. Sự đan xen thực và ảo</b>
Truyện ngắn Haruki Murakami là sự đan xen hài hoà giữa thực và ảo. Cái
thực làm phông nền cho cái ảo, ngược lại cái ảo giải mã cái ẩn chứa sau phơng
Không – thời gian kỳ ảo và khơng – thời gian hiện thực hồ trộn nhau xây
dựng nên tính cách con người và xã hội Nhật Bản trong truyện ngắn Murakami.
Bên cạnh những yếu tố thực có sẵn trong tâm thức của con người thì ơng lại biến
hố nó thành thế giới kỳ qi với khơng gian xã hội Nhật Bản đầy rẫy những
toan tính, nhạc Jazz, sex, những món ăn u thích…Khơng dừng lại ở đó, trong
thế giới kỳ lạ ấy cịn có những người lùn, xác ướp, những người cịng queo,
những cơ gái mang mã số 208, 209, những bóng ma…Những cái kỳ ảo đó xuất
hiện làm đảo lộn cuộc sống bình thường của con người. Không gian ảo, thời
gian không xác định cụ thể. Nhưng giữa cái ảo đó cái thực hiện lên sinh động.
Cả hai có mối quan hệ biện chứng với nhau: “Cả ba đều coi như tơi khơng có
mặt trong phịng. Họ mở cửa khn tivi vào phịng. Hai người đặt tivi lên tủ
chưng. Người thứ ba cắm dây nối vào ổ điện…Người Ti-Vi lôi đồng hồ ấy
xuống, đặt trên sàn…Lại nữa, đồng hồ ấy mà để trên sàn, đêm tối chân tôi thế
nào cũng động phải. Đêm nào, khoảng 2 giờ tơi cũng thức dậy đi tiểu, đầu óc
cịn mơ màng, không vấp phải vật này cũng đụng phải vật kia thôi” [8, tr.20].
Không thời gian kỳ ảo xuất hiện trong giấc mơ và khơng thời gian hiện thực có
sự trùng khít đến kỳ lạ. Cái ảo làm nên cái hư - thực trong truyện ngắn
Murakami.
được Nhật Chiêu nhận định: “Yếu tố ma ảo của ơng có nguồn gốc Phương
Đơng, ngay chính trong văn học cổ điển”. Thiên nhiên và cuộc sống trong
truyện của Y.Kawabata đẹp khi nhìn từ góc quay “ảo”. Trong Xứ tuyết, nhân vật
của ơng từng nói: “Một nửa thuộc về chính thiên nhiên, một nửa kia thuộc về
một thế giới xa xơi nào đó. Một vũ trụ tồn tại ở nơi khác”. Trong văn học Nhật
Bản, đa số cái đẹp đều gắn liền với cái ảo. Trong truyện ngắn Haruki Murakami
ông không tạo nên những nỗi sợ hãi bản năng mà để lại những nỗi kinh hồng
cứ ám ảnh ta, nó như khơng tưởng đến khó tin. Với Người lùn nhảy múa, nhà
khơng mang tính chất “huyền” như bút pháp hiện thực huyền ảo của Mĩ-Latinh.
Những tác phẩm mang dấu ấn hậu hiện đại của Murakami mang tính phi lý,
nguỵ tạo, được giễu nhại trong kỹ thuật sử dụng yếu tố ảo. Lấy xúc cảm từ một
thời kỳ hậu công nghiệp, cái ảo trong văn phong của ông không xa rời thực tế.
Ngược lại ảo - thực hoà quyện vào nhau. Từ bối cảnh là căn hầm dành nơi đọc
sách trong thư viện, nhà văn lắp ghép và đẩy những tình tiết ấy lên mức kỳ ảo.
Ảo để con người nhận thức được chân lý cuộc đời. Hay như người đàn ông băng
và thế giới băng trong Người đàn ông băng nói lên sự xa cách giữa con người và
tha nhân. Trong vấn đề tình dục, ở Đĩa bay đáp xuống Kushiro nhà văn cho hai
người vừa làm tình vừa lắc chng keng keng vì sợ gấu đến. Sự cơ đơn của các
nhân vật trong truyện ngắn Murakami không mới nhưng khác ở cách thể hiện.
Thực và hư, hư và thực trộn đều với nhau.
Murakami dùng cái ảo để giải mã cái thực. Hiện thực là mạch nguồn để
nuôi dưỡng yếu tố kỳ ảo, bởi “không xuất phát từ cuộc sống, không tham gia
vào cuộc sống của nhân loại, yếu tố kỳ ảo sẽ trở nên leo lét như ngọn đèn trước
gió” (Alejo Carpentier). Khám phá những điều kỳ lạ, bí ẩn trong cuộc sống cùng
những trí tưởng tượng phong phú là mảnh đất phù sa phát triển sự nghiệp văn
chương của Haruki Murakami.
<b>2.3. Một số mơ típ nghệ thuật </b>
<b>2.3.1. Mơ típ phân thân giấc mơ </b>
Mỗi tác phẩm của Murakami là một dạ yến linh đình của sự phân thân và
những giấc mơ đầy ma ảo. Cuộc sống đi sau những giấc mơ. Mơ để thoát ra
khỏi bế tắc hiện thực. Nhờ vào tưởng tượng và giấc mơ mà thế giới trong truyện
ngắn của Murakami lại rất thật, thật hơn nhiều nhà văn khác. Trong nghệ thuật
cũng vậy, thiếu giấc mơ, phân thân, tưởng tượng, tác phẩm trở nên rỗng tuếch.
Thế nên Donald Barthelme cho rằng: “Phúc cho chúng ta là có thể tưởng tượng
những thực tại khác, những khả tính khác”. Nghệ thuật là thế giới của “nghìn lẻ
một đêm”. Để sống sót ta phải tưởng tượng, phải mơ. Phải mơ ra mọi thứ, mơ ra
cả những con người thực của mình. Nghệ thuật là thế giới của chơi đùa và tự do,
không thể nhốt vào một cái nào.
vào nhân vật mình)” [22, tr.957]. Mơ típ phân thân được Murakami ảo hố qua
hình tượng tơi hay là cái bóng của cái bóng tơi. Nó là sự phân tách và gặp gỡ
giữa hai cái tôi trong hiện thực. Hai cái tôi gặp nhau để cái tôi đích thực được
hồn thiện.
Tác phẩm Gương soi là câu chuyện ma quái gợi mở một nghi vấn siêu
hình. Bởi: “Người tưởng tượng và chất liệu tưởng tượng không thể đến từ tưởng
tượng, nên khả năng tưởng tượng có thể làm mờ xố đi một ranh giới của một
biên thuỳ. Giữa ý thức và vô thức, giữa nghiệm sinh và thần khải, giữa mê
cuồng và giác ngộ chỉ là một biên giới mong manh” [16, tr.161]. Nhưng đằng
sau đó là một sự đối diện lương tâm. Phân thân từ một người thành hai người
thơng qua tấm gương: “Bóng hình trong gương khơng phải là tơi. Diện mạo bên
ngồi thì đúng là tơi. Khơng cần phải nghi hoặc về điều ấy. Nhưng nó là một cái
tơi bên ngồi tơi. Hình dạng là tơi mà khơng phải là tơi” [16, tr.166]. Một đêm
trời chuyển giông bão, người gác trường trung học đã nhận ra cái bóng khác của
mình: “Đó chính là tơi. Điều tơi muốn nói là có một tấm gương. Khơng ai khác
ngồi tơi phản chiếu bóng mình trên tường” [16, tr.166]. Hai hình ảnh cái tơi
thực và ảo đối diện nhau, nhìn thấy nhau: “Chúng tơi cùng nhìn nhau…Cuối
Mơ típ phân thân được hư cấu thông qua cuộc dạo chơi bên bờ tưởng
tượng trong Nàng Ipanema 1963/1982. Nhân vật “tôi” tưởng tượng được gặp và
trị chuyện với nàng Ipanema: “Thân hình thon gọn, da rám nắng tươi trẻ, xinh
đẹp, nàng Ipanema bước đi trên bãi cát” [4, tr.82]. Chàng trai chìm đắm trong
sắc đẹp, giọng nói dịu dàng của thiếu nữ ấy. Một thế giới khác được thiết lập,
thế giới ấy tinh khôi và lãng mạn. Tuy nhiên nàng Ipanema chỉ là một nhân vật
được nói đến trong một bản nhạc: “Trong tiếng kèn Tenor sax êm như nhung
của Stan Getz, nàng mãi là nàng Ipanema 18 tuổi, thanh tú, hiền dịu” [4, tr.83].
Không chỉ nàng Ipanema hiện ra trong bản nhạc mà nhân vật tơi cịn nhớ đến
hành lang trường trung học, nhớ đến món xà lách trộn đủ thứ rau. Món xà lách
gợi nhớ đến người bạn gái mà nhân vật “tôi” quen ngày trước. Sự tưởng tượng
đưa con người thoát khỏi cuộc sống chật chội, tầm thường đến một cuộc sống
lãng mạn, tươi trẻ.
Cái tơi hay hình bóng của cái tôi được triển khai theo hướng kỳ ảo - giả
tưởng qua Quái thú màu lục. Nhân vật “tôi” ngồi đó cho đến khi bất chợt nghe
tiếng thì thào mơ hồ kì dị có vẻ như ảo giác. Qi thú màu lục dần dần xuất hiện
với đôi mắt hệt như mắt người: “Bởi đơi mắt ấy có thứ gì như tình cảm thật chứa
đựng bên trong. Khơng khác gì mắt tôi hay mắt người nào khác” [5, tr.219]. Qua
những lời nói và tâm trạng bày tỏ trên nét mặt của quái thú, nhân vật “tôi” sợ
chuyện tâm tư của mình bị kẻ khác đọc được. Qi thú khơng có ý đối đầu với cô
nhưng trong thâm tâm cô cũng không dám đối diện với con người thực bên trong
của mình. Hai cái tơi cùng xuất hiện cùng một lần thông qua nhân vật trung gian
nói… Có một con dao sắc chém vào phần mềm của đầu tơi, nơi mà kí ức hiện
hữu. Nó mắc kẹt sâu trong đó. Nhưng nó không làm tổn thương hay đè nặng lên
tôi” [16, tr.187]. Mỗi người ai cũng có một thế giới riêng. Trong đó, thời gian bị
uốn cong. Chỉ cần bắt chuyện với một người là ta biết thêm một thế giới: “Làm
sao biết từng nỗi đời riêng, để yêu thêm, yêu cho nồng nàn” (Trịnh Cơng Sơn).
Hoặc như giấc mơ kinh hồng của cơ gái trong Xác ướp. Chuyện cơ có nốt ruồi
trong tai, hay hơi nách, chân đi vịng kiềng…tất cả ám ảnh, dằn vặt cô. Cô mơ
thấy vị hôn phu của cô nhục mạ và chê bai những khiếm khuyết của cơ: “Chân
vịng kiềng, hơi nách, tay áo bẩn, tai có nốt ruồi, chỉ là một phần nhỏ thơi đấy. Ừ
tại sao lại đeo hoa tai chẳng hợp tí nào cả thế? Cứ như là gái đĩ ấy. Không, gái đĩ
còn sang hơn nhiều kia” [8, tr.102]. “Còn chỗ ấy của em, ấy à. Rõ thật là tàn tệ.
Phải nhắm mắt mà làm, chứ đã dãn ra hết mức rồi, cứ như là đồ cao su rẻ tiền
ấy. Mang phải thứ ấy như thế thà chết còn hơn” [8, tr.102 – 103]. Những ám ảnh
trong giấc mơ không lớn nhưng đủ để ám ảnh trong lòng người đọc. Người lùn
<i>nhảy múa là một giấc mơ lớn và có tác động mạnh đến cuộc sống của nhân vật</i>
“tôi”. Người lùn vừa có trong giấc mơ vừa có trong hiện thực. Người lùn như thử
thách sự kiên trì vượt qua khó khăn của nhân vật “tôi”. Điều này chứng tỏ, giấc
mơ và hiện thực khơng cách xa nhau mà nó ln hiện hữu trong mỗi con người.
Nhân vật “tôi” trong Giấc ngủ cũng có những giấc mơ kì lạ: “Lúc ấy tơi
mộng thấy một chuyện ghê rợn. Giấc mộng thật tối ám, nhơn nhớt” [8, tr.117].
“Tơi muốn nhìn đồng hồ bên gối, nhưng sao không nghẹo cổ lại được. Lúc ấy
chợt cảm thấy có thứ gì dưới chân mình. Giống như bóng đen mờ mờ. Tơi nín
thở. Tim, phổi, tất cả mọi thứ ấy trong người tôi ngưng đọng tức khắc như đơng
đã có những giấc mơ khủng khiếp. Anh mơ mình và Cậu Ếch đánh nhau với Cậu
Trùn, mơ Cậu Ếch bị bung ra thành những cục u, giòi bọ đủ cỡ lớn nhỏ lúc nhúc
chui ra: “Những con giòi ú na ú nần bò lổn nhổn. Tiếp theo là những con rết đen
nhỏ, vơ số chân bị đi, tạo nên âm thanh rào rạo ghê người. Giòi và rết rồi trùn
liên tục bò ra từ các lỗ hổng ấy. Thân thể Cậu Ếch, nói đúng hơn là khối bầy
nhầy. Đây là thân thể Cậu Ếch đã bị bao kín bởi lũ giòi, rết, trùn, tối ám ấy” [6,
tr.173]. Nhân vật trong tác phẩm của Murakami đảm nhiệm hoàn thành giấc mơ
của nhà văn qua những giấc mơ của chính mình .
Y.Kawabata sử dụng yếu tố giấc mơ để làm nổi bật những yếu tố kì ảo
trong tác phẩm. Hầu hết các giấc mơ trong tác phẩm của Y. Kawabata đều là của
người già, và chủ yếu là ông già. Các giấc mơ đó đều liên quan đến những điều
khủng khiếp như: ngôi nhà đổ, phụ nữ bốn chân, con tàu, chiếc mặt nạ biến
thành cô gái, quái thai…Ngược lại, các giấc mơ trong truyện ngắn của Haruki
Murakami, nhân vật chủ yếu là giới trẻ, đều là chàng và nàng thanh niên…Với
những điều khủng khiếp như: khuôn mặt con người và con vật bị thối rữa, xác
ướp, quái thú…, và giấc mơ là sự giải phóng ức chế của cuộc sống thường ngày,
giải toả tâm lý của con người. Tuy nhiên giữa hai nhà văn này đều sử dụng giấc
mơ như một biện pháp nghệ thuật để khai thác tâm lý nhân vật.
Mơ típ phân thân và giấc mơ là cánh cửa hé mở để độc giả thâm nhập vào
thế giới kì ảo của tác phẩm. Với cuộc sống bề bộn, giả tạo, con người cần phải có
<b>2.3.2. Mơ típ hố thân, đội lốt </b>
Bên cạnh sử dụng mơ típ phân thân, giấc mơ, Haruki Murakami cịn sử
dụng mơ típ hố thân, đội lốt. Chính mơ típ này làm sinh động bức tranh nhận
thức về cuộc đời. Mang dấu ấn hậu hiện đại, truyện ngắn của Murakami thường
lấy các mơ típ làm biện pháp nghệ thuật, điều này làm cho tác phẩm khơng
nhàm chán, ngược lại cịn tạo hứng thú cho người đọc.
bí hiểm: “Người lùn lợi dụng quyền lực mà làm chuyện xằng bậy nơi cung điện
vì thế mà cách mệnh đã nổi dậy” [7, tr.98]. Tài nhảy của người lùn không chỉ
thu hút sự ngạc nhiên, hâm mộ của mọi người, mà còn lọt vào tầm mắt của nhà
vua. Và người lùn có tài thuyết phục anh chàng chế tạo đầu voi cho người lùn
xâm nhập vào thân thể của mình. Nhưng những hành động qúa đà ấy đã gây ra
rất nhiều hậu quả. Con người làm gì cũng phải ý thức được hành động của mình.
Tuy nhiên, biến thành những con người khác cũng là cách làm mới cuộc sống
vốn tẻ nhạt, giảm bớt đi nỗi buồn và cô đơn của con người.
Cái thực và ảo đan xen trong cách sử dụng mơ típ hố thân. Người Ti-Vi
xuất hiện làm tê liệt và ngưng đọng cuộc sống của nhân vật “tôi: “Từ lúc bọn
người tivi vào phịng đến lúc họ ra khỏi, tơi chẳng hề cử động chút nào. Cũng
khơng nói một lời nào. Chỉ nằm trên ghế dài mà nhìn họ làm việc” [8, tr.24].
Hình dáng bên ngồi của Người Ti-Vi khơng có điểm gì là của cá nhân nên phân
biệt được từng người là chuyện vơ cùng khó khăn. Sự hố thân của Người Ti-Vi
đã nhập sâu vào cuộc sống của nhân vật “tôi”. Kim đồng hồ thời gian không
quay, cảnh vật xung quanh bị xáo trộn càng làm cho cuộc sống con người trong
thời đại hậu công nghiệp cô đơn và lạc lõng hơn.
làm mới hình thể và cách nhìn nhận khác về bản thân. Dù muốn ở thế giới ảo lâu
hơn nữa nhưng con người cũng như quái thú phải quay trở lại thực tại để hồn
thiện phần cịn thiếu mà ta chưa làm được.
Trong truyện ngắn Đại nhạc hội của sư tử biển và Giáng sinh của người
<i>cừu, mơ típ đội lốt xuất hiện suốt trong tác phẩm. Đội lốt là Người Cừu, con</i>
người lạc vào một khơng gian kì ảo để gặp những con người kì qi. Dù là kì
qi nhưng ở họ có một tâm hồn cao quý, thân thiện. Không giống như con
người hiện đại, mối quan hệ giữa người và người ngày càng xa dần, chạy theo
cuộc sống đơ thị hố con người cũng cô đơn như thường. Tiện nghi đầy đủ
nhưng tinh thần thì thiếu. Người Cừu đi sang thế giới kì ảo bên kia quen và thích
hai người cong queo, hai cô gái sinh đôi 208 và 209, phu nhân ngài mịng biển...
Ở họ yếu tố vật chất khơng bị chi phối. Đội lốt dưới dạng đại nhạc hội của sư tử
biển, người đọc sẽ cảm nhận được điều thiếu sót của mình với những lồi vật
xung quanh. Lịng người hẹp hòi hơn những con vật. Đại nhạc hội của sư tử biển
là một sự hồi sinh của thế giới: “Cuộc sống là sự dọn mình cho lễ hội bởi vì lễ
hội giúp chúng tơi nhận thức được chân tính của bản sắc loài sư tử biển - những
lễ hội xác nhận bản sắc của chúng tôi - bản sắc của sư tử biển, có thể nói như
vậy” [16, tr.58].
Dẫu sống trong các mối quan hệ xã hội, nhưng con người cảm thấy xa lạ
với cuộc sống, thậm chí xa lạ với chính bản thân mình. Từ đó nảy sinh tâm trạng
bất an, vì vậy con người xuất hiện dưới nhiều hình thức nhằm tìm niềm vui,
cuộc sống trong thế giới thực - ảo lẫn lộn. Sáng tác của Murakami là sản phẩm
của thời đại với niềm tin “dương cao ngọn đèn soi cho dân chúng giữa trận bão
lớn”. ( Báo Yomiuri Shimbun)
<b>2.3.3. Mơ típ kí hiệu, đồ vật, biểu tượng</b>
Kí hiệu là: “Dấu hiệu vật chất đơn giản, do quan hệ tư nhân hay do quy
ước, được coi như thay cho một thực tế phức tạp hơn”. Hay: “Kí hiệu là cái có
thể nhận biết trực tiếp, cho phép kết luận về sự tồn tại hoặc về tính chân thực
của một cái khác liên hệ với nó” [22, tr.644]. Mơ típ kí hiệu là những hiện tượng
trừu tượng được kí hiệu hố thành cái cụ thể, cịn những cái cụ thể thì lại được
kí hiệu hố thành sản phẩm của trí tưởng tượng.
tranh này do một hoạ sĩ nghèo Thỗ Nhĩ Kỳ vẽ. Nữ họa sĩ (nhân vật chính trong
tác phẩm) mua và tặng thưởng cho mình. Bức tranh xét về mặt nghệ thuật thì
khơng có gì nổi trội. Nhưng đối với cô, anh chàng trong tranh đẹp, cơ cảm nhận
được sự bó buộc của người đàn ông ngồi trong chiếc taxi như sự lo lắng thường
ngày của cuộc sống. Mười năm sau khi cô đốt bức tranh, trong một lần đi du lịch
cơ gặp chính người đàn ông đi xe taxi. Cảm giác chênh vênh đưa cô vào hai thế
giới khác nhau. Người đàn ông đi xe taxi là một dạng kí hiệu, biểu tượng cho
những khát khao và đam mê của con người.
Sex là một kí hiệu để con người xác nhận sự tồn tại của nhau. Trong
<i>Folklore của thời đại chúng ta, chàng và nàng dùng cách sờ soạng nhau để nhận</i>
ra nhau sau bao năm xa cách. Cuộc sống bây giờ của mỗi người đã khác, nhưng
khi gặp lại nhau họ vẫn dùng cách xưa: “Chúng tôi vuốt ve nhau rất lâu, lâu lắm.
Khơng ai nói lời nào. Có gì để chúng tơi nói? Đó là cách duy nhất để chúng tơi
nhận ra nhau sau những năm xa cách. Như khi chúng tơi cịn học ở trường. Tất
nhiên, mọi thứ giờ đã khác có lẽ tình dục bình thường tự nhiên đơn giản sẽ giúp chúng
tơi hiểu nhau hơn. Và có lẽ nó sẽ làm cho chúng tơi cùng vui vẻ, hạnh phúc” [16,
tr.127]. Đó là cách họ khẳng định sự tồn tại tình yêu của nhau.
Con người cũng là một dạng siêu kí hiệu trong truyện ngắn của Haruki
Murakami. Nhân vật của ơng thường được kí hiệu hố thành những chàng và
nàng, tôi, cô gái trăm phần trăm, chàng Clean, nàng Clean, người đàn ông thứ
bảy…Anh Clean, chị Clean (sạch sẽ) như trong quảng cáo kem đánh răng. Tình
sở” [8, tr.29]. Hình ảnh trong tivi là Người Ti-Vi xuất hiện trong ngôi nhà của
nhân vật “tôi”. Đồ vật hố làm cuộc sống con người lắng đọng. Nó như báo hiệu
một sự việc khác thường sắp xảy ra trong cuộc sống. Spaghetti hoá, biểu hiện sự
lẻ loi của kiếp người: “Năm 1971, tôi mải miết luộc Spaghetti để sống, và mải
miết sống để luộc Spaghetti” [4, tr.146]. “Năm ấy, quả thật làn hơi nước ngào
ngạt bốc lên từ nồi nhơm chính là niềm tự hào của tơi, và nước sốt cà chua sôi
thành tiếng sục sục trong chảo đã cho tôi niềm hi vọng” [4, tr.146]. Cuộc sống
hiện đại sơi động nhưng các nhân vật của Murakami khơng tìm thấy được niềm
vui. Ngược lại, họ thấy được an ủi thông qua những công việc đơn giản, cụ thể ở
đây là hoạt động nấu món Spaghetti.
Văn học hậu hiện đại được xem là văn học của các ẩn dụ, biểu tượng,
huyền thoại… Nói như vậy, dĩ nhiên biểu tượng khơng phải là đặc sản duy nhất
chỉ có ở văn học hiện đại, hậu hiện đại. Guy Schoeller nói: “Sẽ là q ít, nếu nói
rằng, chúng ta sống trong một thế giới biểu tượng, một thế giới biểu tượng sống
trong chúng ta”. Truyện ngắn Murakami đậm chất siêu thực, huyền ảo nhưng
bên cạnh đó cũng đậm dấu ấn biểu tượng. Biểu tượng người đàn ông và thế giới
băng trong truyện ngắn Người đàn ơng băng là một ví dụ. Đây là biểu tượng lớn
nhất của câu chuyện, nói lên sự xa cách của con người với con người trong xã
hội. Người đàn ơng băng có cái nhìn câm lặng và trong suốt. Anh khơng để ý
những gì đang diễn ra xung quanh mình, khơng nhìn thấy tương lai và khơng
<b>CHƯƠNG 3</b>
<b>NGHỆ THUẬT KỂ CHUYỆN VÀ XÂY DỰNG NHÂN VẬT </b>
<b>TRONG TRUYỆN NGẮN CỦA HARUKI MURAKAMI</b>
<b>3.1. Nghệ thuật kể chuyện</b>
<b>3.1.1. Điểm nhìn người trần thuật</b>
<i><b>3.1.1.1.Vài nét về điểm nhìn người trần thuật</b></i>
Theo Từ điển thuật ngữ văn học, điểm nhìn trần thuật là “vị trí từ đó
người trần thuật nhìn ra và miêu tả sự vật trong tác phẩm. Khơng thể khơng có
nghệ thuật nếu như khơng có điểm nhìn, bởi nó thể hiện sự chú ý, quan tâm và
đặc điểm của chủ thể trong việc tạo ra cái nhìn trong nghệ thuật. Giá trị của sáng
tạo nghệ thuật một phần không nhỏ là do đem lại cho người thưởng thức một cái
nhìn mới đối với đời sống. Sự đổi thay của nghệ thuật bắt đầu từ sự đổi thay của
điểm nhìn” [10, tr.113].
Điểm nhìn nghệ thuật có thể phân chia thành điểm nhìn của khơng gian,
thời gian. Từ điểm nhìn của mình, người kể chuyện đóng vai trò người dẫn
truyện để dẫn dắt người đọc từ sự kiện, nhân vật, hành động này đến sự kiện,
thuần túy mà đi từ ngoại cảnh đến tâm hồn, từ tâm hồn đến ngoại cảnh nhằm
móc nối các sự kiện một cách tự nhiên và logic, hợp lý.
Trong quá trình kể chuyện, người kể chuyện trao điểm nhìn cho nhân vật
để tạo tính sinh động, hấp dẫn cho câu chuyện. Tác giả để nhân vật tự nói lên
tiếng nói của mình. Đi vào điểm nhìn của nhân vật, thời gian có thể quay ngược
lại q khứ thơng qua hồi tưởng, kí ức của nhân vật hay hướng đến tương lai
trong thế giới tưởng tượng của nhân vật đó.
Trong tác phẩm văn học, mọi sự biểu hiện, miêu tả đều đi từ phía tác giả
mà ra. Song để có hình tượng nghệ thuật, tác giả thường tạo ra những kẻ môi
giới đứng ra kể chuyện, quan sát, miêu tả. Người kể chuyện có khi kể bằng cái
nhìn của mình nhưng để đi sâu vào con người tâm trạng, khám phá thế giới nội
tâm bên trong của con người thì buộc người kể chuyện phải thơng qua điểm nhìn
nhân vật. Vì vậy việc gắn kết điểm nhìn với vấn đề người kể chuyện là vô cùng
cần thiết để khám phá sâu quan điểm, cách nhìn, cách nghĩ của tác giả trong vai
trị người kể chuyện dưới bất kì hình thức hóa thân nào.
Để tạo nên một tác phẩm cần rất nhiều yếu tố như lựa chọn đề tài, nghệ
thuật tổ chức cốt truyện và xây dựng nhân vật, những vấn đề về thể loại và tổ
chức lời văn nghệ thuật…, bao hàm cả việc lựa chọn ngơi trần thuật, điểm nhìn
trần thuật. Tất cả để làm nỗi bật lên sự cảm nhận riêng độc đáo của nhà văn về
<i><b>3.1.1.2. Người trần thuật trong truyện ngắn của Haruki Murakami</b></i>
Haruki Murakami đã có những cách tân trong nghệ thuật trần thuật trong
truyện ngắn của mình, thể hiện cách nhìn cuộc sống, năng lực và thái độ của nhà
văn với chính cơng việc lao động sáng tạo nghệ thuật. Điều đó chứng tỏ
Murakami là một cây bút có bản lĩnh và đầy ý thức trách nhiệm, nỗ lực trong
việc tìm tịi đổi mới nghệ thuật trần thuật, nhất là việc lựa chọn vai kể và điểm
nhìn trần thuật, phối hợp với giọng điệu và ngôn ngữ kể chuyện một cách hợp
lý, tạo hiệu quả nghệ thuật cao.
cảnh khác nhau đối với chủ thể mà “cùng một lúc có thể vừa là tác giả, vừa là
người kể chuyện, vừa chính là nhân vật, đường phân giới giữa ba chủ thể này bị
xóa mờ một cách có chủ ý” (Mihazaloics). Chính hệ thống điểm nhìn là điều
kiện để Murakami hiểu một cách sâu sắc nhiều chiều của quá trình vận động,
phát triển tâm lý của các nhân vật mà mình hư cấu, và người đọc có thể cảm
nhận từ nhân vật ý nghĩa của cuộc sống.
Đa số trong truyện ngắn của Haruki Murakami, điểm nhìn được trao cho
nhân vật, và cuộc sống được nhìn dưới nhiều góc độ khác nhau, với từng nhân
vật, ở nhiều thời điểm khác nhau. Các nhân vật như chiếc gương soi chiếu vào
nhau, người này phản chiếu người kia, nhiều khi chúng ta có thể nhận ra một
nhân vật bằng cách đặt nhân vật đó vào một nhóm nhân vật khác, với sự đánh
giá qua cái nhìn của mọi người.
Ở Chuyện bà cơ nghèo khó cũng có những điểm nhìn khác nhau của mọi
người về việc nhân vật “tơi” mang một bà cơ nghèo khó trên lưng. Một người
bạn của nhân vật ‘tơi” trong lúc uống Wishky đã nhìn ra người dính sau lưng
Trong Chuyện trong nhà, chàng kĩ sư máy tính – vị hơn phu tương lai của
người em gái, trong cái nhìn của người anh trai cũng có những thay đổi theo
từng thời điểm. Lúc mới xem ảnh thì nhân vật “tơi” phản cảm với chàng kĩ sư
ấy: “Nếu trên đời này có mẫu gương mặt mà tơi chỉ nhìn qua là có phản cảm, thì
đấy là gương mặt đầu tiên. Thêm vào đấy, trơng chàng này tốt lên vẻ gì giống
hệt như tên đàn anh mà tơi ghét nhất trong nhóm sinh hoạt hồi trung học” [7,
tr.232]. Đối với người anh trai thì chàng trai đó là một người kì quặc mà anh
chẳng ưa chút nào. Khi tiếp xúc với gia đình chàng kĩ sư ấy, anh lại phát hiện ra
một cái lạ, “chỉ nhìn thống qua cũng biết dưới mái nhà này, cậu ta phải chịu
phép ông bố rồi”[7, tr.236]. Nhưng khi nói chuyện với nhau, nhân vật “tơi” thấy
chàng trai đó cũng là “người đàng hồng” [7, tr.238], và rất có tài trong việc
mày mò và sữa các thiết bị liên quan đến máy thu thanh…Đó là một cách nhìn
nhận con người đa diện, nhiều chiều thơng qua điểm nhìn của các cá thể khác
nhau mà Haruki Murakami muốn diễn đạt. Nhờ đó nhân vật hiện lên một cách
sinh động và chân thực.
Mặt khác, các sự việc cũng được nhìn ở các góc độ khác nhau, đối thoại,
độc thoại, hay những trang nhật kí, bức thư…Có khi điểm nhìn được đặt ở
khoảng thời gian xa đến gần, từ hiện tại quay về quá khứ một cách linh hoạt.
Chẳng hạn trong Tái tập kích tiệm bánh mì, người chồng kể cho người vợ nghe
về chuyện tập kích tiệm bánh mì. Diễn ra ngay mở đầu tác phẩm nhưng phải mất
Điểm nhìn thay đổi liên tục, đan xen, có lúc được kể từ lời trực tiếp sang
lời gian tiếp của dòng chảy nội tâm, xóa nhịa ranh giới giữa các vai kể, khiến
chúng nhập vào nhau với dòng nội tâm của nhân vật. “Bước xuống hết bậc xi
măng thì vào một hành lang dài và thẳng tắp” [4, tr.156]. Sự miêu tả ban đầu
điểm qua như của người trần thuật bên ngồi nhưng thực ra là lời kể của nhân vật
“tơi”: “Tôi đã âm thầm bước đi như thế chừng 200 thước, hay 300 thước, mà
cũng có thể là một cây số rồi” [4, tr.156]. Hoặc như trong truyện Ngang tàng ở
<i>South Bay, lời mô tả ban đầu cũng làm cho người đọc hiểu nhầm là của tác giả,</i>
nhưng thực chất lại không phải: “Cũng như các vùng đất khác ở Nam California,
South Bay hầu như chẳng có mưa” [4, tr.168], mà đó là điểm nhìn của nhân vật
“tơi”: “Dĩ nhiên tôi không đến thành phố South Bay này với mục đích du lịch” [4,
tr.169].
Tuy nhiên, có một số truyện ngắn của Haruki Murakami, từ điểm nhìn ở
ngơi thứ nhất chuyển sang điểm nhìn ngơi thứ ba: “Vào chiều tháng chín năm tơi
lên mười tuổi, ngọn sóng đó st nữa kết liễu cuộc đời tôi” [16, tr.69]. Mở đầu
tác phẩm là lời của nhân vật “tơi”, nhưng sau câu nói ấy là những lời bình luận
và dẫn dắt câu chuyện của nhà văn. Nhà văn đứng bên ngoài, sự hiểu biết của
nhà văn phụ thuộc vào điểm nhìn trần thuật của nhân vật: “Người thứ bảy bắt
đầu câu chuyện bằng một giọng trầm lắng. Anh ta là người kể chuyện cuối cùng
trong bóng tối hơm đó…” [16, tr.69]. Nhà văn chỉ quan sát, nhìn khách quan đối
với sự việc mà nhân vật kể: “Katagiri trở về phịng thì thấy một con ếch khổng
lồ đang đợi anh. Con ếch đứng thẳng trên hai chân sau, tồn thân cịn cao hơn
đánh người nào chưa. Anh Osawa nhíu mắt nhìn tơi, cứ như là đang nhìn vào
ánh sáng chói lọi” [5, tr.224]. Từ việc tạo ra điểm nhìn ấy, người đọc cũng có
thể lựa chọn điểm nhìn để khám phá câu chuyện. Họ có thể hóa thân vào nhân
vật, sống cùng cuộc sống của nhân vật để tự cảm nhận thế giới bằng con mắt của
nhân vật. Đồng thời họ đứng ngoài chứng kiến mọi câu chuyện xảy ra một cách
tự nhiên và nắm bắt cuộc sống đa dạng và phức tạp.
Nhà văn trao điểm nhìn cho nhân vật “tôi” để nhân vật tự bộc lộ cảm xúc, suy
nghĩ của mình, làm tăng giá trị hiện thực cho tác phẩm.
Bên cạnh đó, điểm nhìn của người kể chuyện ngơi thứ ba cũng di chuyển
linh hoạt. Điểm nhìn khách quan, nhưng nhà văn vẫn để người đọc di chuyển
theo mạch tâm trạng, cảm xúc của nhân vật. Từ đó, người đọc như bị hút vào thế
giới thiên nhiên và con người đầy thú vị và bí ẩn. Đồng thời người đọc nhận ra
chân lý của cuộc sống và thông điệp của nhà văn. Những vấn đề nêu lên trong
<i>Folklore của thời đại chúng ta là có thật vào những năm 60 thời của Haruki</i>
Murakami. Qua một chuyện tình buồn, tác giả khơng lên án gì quan niệm trinh
tiết, cũng không lên án giá trị đạo đức của những năm 60. Nhưng ơng viết: “Và
chỉ có một điều tơi muốn bạn hiểu, tơi chẳng có chút tự hào gì về thời đại của
mình” [16, tr.23]. Nhân vật chính là một cặp tình nhân hồn hảo thời đó. Nàng
muốn giữ trinh tiết cho đến khi lập gia đình, cịn chàng thì muốn chiếm thân xác
Mỗi truyện ngắn của Murakami đều có điểm nhìn khác nhau. Với lối nhìn
đa chiều, nhà văn có thể phân tích tâm lý của nhân vật một cách chân thực và
sinh động. Từ đó, người đọc cảm nhận được cuộc sống thực đang diễn ra và
khơng có sự hồn tất. Sự lựa chọn và di động điểm nhìn đã giúp nhà văn có cái
nhìn bao quát hơn về đời sống, đi sâu khai thác những vấn đề tưởng như nhỏ
nhặt nhưng lại rất có ý nghĩa. Quan sát từ nhiều góc độ, Murakami đã đem đến
một cái nhìn khái quát về xã hội Nhật Bản trong thời kì hậu cơng nghiệp. Hơn
nữa, chính từ những khám phá có chiều sâu về con người đã chứng tỏ Haruki
Murakami là nhà văn có vốn văn hóa sâu rộng, lối kể chuyện hài hước cùng với
những tìm tòi sáng tạo nghệ thuật đặc sắc.
<b>3.1.2. Giọng điệu trần thuật</b>
người, thì trong văn học cũng vậy. Giọng điệu giúp nhận ra tác giả” [24, tr.132].
Giọng điệu là “thái độ, tình cảm, lập trường tư tưởng, đạo đức của nhà văn đối
với hiện tượng được miêu tả thể hiện trong lời văn, quy định cách xưng hô gọi
tên, dùng từ, sắc điệu tình cảm, cách cảm thụ xa gần, thân sơ, thành kính hay
suồng sã, ngợi ca hay châm biếm” [10, tr.134]. Giọng điệu là cơ sở để phân biệt
nhà văn này với nhà văn khác, đồng thời có vai trị rất lớn tạo nên phong cách
của nhà văn. Khi trần thuật tác giả tạo ra những sắc thái giọng điệu khác nhau,
cái mà M. Bakhtin gọi là “tính đa thanh trong giọng điệu”. Vì vậy, việc “nghiên
Trong truyện ngắn của Haruki Murakami, giọng điệu trần thuật của tác
giả hòa lẫn với giọng điệu của nhân vật, hóa thân vào từng nhân vật. Điều này
thể hiện một tinh thần dân chủ và nhu cầu đối thoại, tranh biện nhằm nhìn lại các
giá trị truyền thống cũng như các giá trị hiện đại. Để nhận ra cuộc sống đời
thường vơ vị, chỉ có lối thốt duy nhất là tìm những cái vơ lý, kì ảo, khó tin ở
thực tại. Phối hợp nhiều giọng điệu, nhà văn “dường như trao nhòi bút cho nhân
vật, để nhân vật tự viết lấy giọng điệu riêng của nó” (Antonov).
<i><b>3.1.2.1. Giọng hài hước, châm biếm</b></i>
Có khi tác giả tạo ra hai sự đối lập đứng cạnh nhau để làm nỗi bật sự khác
biệt của chúng. Tác giả châm biếm thói đạo đức giả xuất hiện nhan nhản trong
cuộc sống. Đó là anh chàng nói lắp mỗi khi nói đến hai chữ địa đồ mà lại nuôi
ước vọng làm việc trong Viện Địa lý Quốc gia: “Đã thế, một anh chàng cứ nói
đến hai chữ địa đồ thì lắp ba lắp bắp, mà lại ni chí vào làm trong viện địa lý
quốc gia, thì quả là trớ trêu thật” [7, tr.22]. Ông già trong Chuyện quái đản
<i>trong thư viện, bên ngồi rất tử tế: “Giờ đóng thư viện thì chẳng vấn đề gì. Tơi</i>
bảo được là được thơi” [4, tr.183]. Nhưng bên trong, ông là một người rất hiểm
độc: “Câm mồm lại mà bước vào trong đi. Rồi đọc thuộc lòng cả ba cuốn sách.
Đúng một tháng sau, chính ta sẽ kiểm sốt. Nếu thuộc lịng được ta sẽ thả ra” [4,
tr.190]. Ở Người lùn nhảy múa, sự giả dối được ngụy biện tinh vi. Lợi dụng
quyền lực và lòng yêu mến của mọi người mà người lùn làm những chuyện vô
lương tâm. Làm cho cách mệnh nổi dậy, làm cho nhân vật “tôi” phải chạy trốn
cảnh sát: “Cứ thế, đã gần một tháng nay, tôi trốn chui trốn nhủi từ rừng này sang
rừng kia, núi này qua núi nọ. Đào củ mà ăn, ăn cả côn trùng, uống nước sông mà
sống qua ngày” [7, tr.117].
nhà văn để nhân vật “tôi”phê phán các mối quan hệ trong gia đình, “gia đình là
một thứ lạnh lùng” [16, tr.183], hoặc “một trong những đặc điểm của chính hệ
thống này là sự thiếu hụt sẽ bị hút về cái thiếu hụt lớn và sự thừa mứa sẽ bị hút
về cái thừa mứa lớn hơn” [16, tr.184]. Sự lạnh nhạt về tình cảm kéo con người
đến những thiếu thốn về tinh thần. Giọng châm biếm, hài hước của nhà văn và
nhân vật phủ định cái lỗi thời, căm ghét sâu sắc sự dối trá, tiêu cực, đồi bại. Đó
cũng là cách khẳng định cá tính riêng của mỗi nhà văn.
<i><b>3.1.2.2. Giọng trữ tình</b></i>
Một trong những giọng điệu làm nên phong cách của nhà văn Haruki
Muruakami đó là giọng trữ tình. Giọng kể mượt mà, sâu lắng, trữ tình đan xen
yếu tố siêu thực của người kể chuyện đã đưa người đọc lắng sâu vào từng chi tiết,
sự kiện, đồng thời cùng nhà văn và nhân vật suy ngẫm về cuộc đời. Lấy bối cảnh
từ những bài hát nhạc Jazz, những truyện ngắn của ông mang âm điệu như những
trang thơ. Trong một lần trả lời phỏng vấn, Haruki Muruakami nói: “Tơi băn
khoăn liệu mình có thể chuyển thứ âm nhạc đó vào việc viết lách. Đây chính là
điểm khởi đầu phong cách của tôi. Cho dù âm nhạc hay văn chương, điều cơ bản
nhất là nhịp điệu… Tôi học được tầm quan trọng của nhịp điệu chính từ âm nhạc,
chủ yếu là nhạc Jazz. Tiếp theo là giai điệu (melody), có nghĩa là sự sắp xếp từ
ngữ một cách phù hợp để làm sao ăn khớp với nhịp điệu”
( vn).
tình của em đang khóc bận trên bến xa” [5, tr.46]. Đây là lời ca của bài On slow
<i>Boatb to china nhạc và lời của Frank Loesser, mà Murakami mượn để nói hàm</i>
ý, thuyền hàng đi Trung Quốc là một chuyến đi chậm rãi, sau thời gian thật dài
mới đến được nơi thật xa xơi. Vượt qua chặng đường gian khó ấy, con người phải
kiên nhẫn, “hãy mơ tưởng đến những mái nhà chói sáng của phố phường Trung
Quốc, hãy mơ tưởng đến những cánh đồng cỏ xanh tươi…” [5, tr.45]. Giọng văn
mượt mà, nhẹ nhàng, bay bỗng cũng là cách miêu tả nỗi bật tính cách nhân vật.
Ở truyện Nàng Ipanema năm 1963/1982, nhân vật hóa thân vào lời bài hát
để tìm niềm vui, muốn được u, và tình cảm đó duy trì mãi mãi. “Thân hình
thon gọn, da rám nắng tươi trẻ, xinh đẹp, nàng Ipanema bước đi trên bãi cát.
Nàng bước theo nhịp Samba uốn éo thanh tú uyển chuyển mềm mại. Tơi muốn
nói u nàng. Tơi muốn dâng nàng trái tim tôi. Nhưng nàng chẳng để ý đến tơi
chỉ nhìn ra biển xa mà thơi” [5, tr.82]. Giọng nuối tiếc, trách móc, giận hờn kết
hợp cùng giọng trữ tình tạo nên âm điệu đa thanh trong văn phong của
Murakami. Hiện thực có phũ phàng nhưng đối với họ vẫn vơ cùng thơ mộng.
<i><b>3.1.2.3. Giọng triết lý</b></i>
Nhu cầu khám phá và phản ánh chiều sâu hiện thực, trong văn Haruki
Murakami xuất hiện giọng triết lý, có thể hiểu một cách khái quát là những suy
tư đậm màu sắc chủ quan về các vấn đề của đời sống, thể hiện cái nhìn sắc sảo
về nhân sinh quan. Nhân vật rất hay triết lý, họ thể hiện và nhìn đời bằng kinh
nghiệm riêng và mạnh dạn bày tỏ quan niệm của mình trước cuộc sống. Mỗi vấn
đề, mỗi nhân vật của Murakami đều có một quan niệm riêng, một chính kiến
khơng ai giống ai. Đó cũng là cách mà nhà văn cho người đọc thấy nhân vật của
ơng là lớp trẻ ln có nhu cầu khẳng định mình. Họ khơng chấp nhận sự thật dễ
dàng mà ln hồi nghi, tranh biện để nhìn ra bản chất của cuộc sống.
chết “như đánh mất lạc trong dòng thời gian, cái chết dần dần chậm cuốn theo
sóng biển ngày nào đấy, đã giạt vào bờ biển của khu phố yên tĩnh này” [4,
tr.108]. Đây là triết lý của một người chứng kiến cái chết quá nhiều trên bờ biển.
Số phận của mỗi người đã được định, nên phải chấp nhận mà sống: “Mỗi người
ai cũng có quan niệm riêng mà suy nghĩ. Cho đến ngày đã định của mình, ai
cũng tiếp tục sống theo phận ấy” [4, tr.210 – 211].
Chất triết lý khơng tập trung ở một tầng lớp, mà có thể tìm thấy ở trong
Giọng triết lý có lúc trầm lắng, đầy trải nghiệm: “Trên đời này có những
người, khi q một mức tuổi nào đó thì ngoại hình khơng cịn thay đổi theo tuổi
tác nữa” [7, tr.193]. “Người ta chỉ có cảm giác đích xác là đã mất đi vật gì
khơng phải ở ngay thời điểm đánh mất, mà chính ở thời điểm người ta để ý đến
sự mất mát” [7, tr.292]. Và “tôi bắt đầu lý giả được tâm tình của những người dù
có bị hút hết óc não đi cũng vẫn chịu, để kiếm cho bằng được những tri thức
mới, dù chỉ giữ trong một tháng nữa thơi” [4, tr.199].
ln có những chuyện buồn, chuyện vui, nhưng chuyện buồn vẫn ẩn chứa cái
cười bên trong: “Tôi nghĩ, chuyện buồn sâu đậm nào cũng có chút gì đấy thật
buồn cười, hàm chứa bên trong” [8, tr.90].
Từ triết lý của các nhân vật trong truyện ngắn của Haruki Murakami, cho
thấy họ là những con người có cá tính, nhìn cuộc sống bằng triết lý chủ quan của
mình. Chính điều này đã làm cho truyện ngắn của Murakami có chiều sâu và
mang ý nghĩa khái quát hơn. Đồng thời, giọng triết lý cũng góp phần bộc lộ tài
năng phân tích và khả năng phản ánh hiện thực của nhà văn, khai thác mổ xẻ
bản chất của cuộc sống.
Các giọng điệu kết hợp như dàn đồng ca, tung hứng, bè đệm ăn nhịp với
nhau tạo nên một cái mới trong văn phong của Haruki Murakami. Thể hiện ở
nhiều cấp độ khác nhau, các giọng điệu giúp người đọc hiểu ra một phần cuộc
<b>3.1.3. Ngôn ngữ trần thuật</b>
Trên con đường hội nhập với tiến trình văn chương thế giới, “tác phẩm
cùng với những giá trị và sự tỏa sáng của câu chữ là bảo hiểm tối cao cho tư
cách nhà văn của nghệ sĩ và là nơi hồn vía của anh ta hiện lên một cách đầy đủ
nhất” (Nguyễn Đăng Điệp). Và sáng tạo nghệ thuật cần một tiếng nói riêng mà
ngơn ngữ là yếu tố thể hiện tiếng nói riêng ấy. Ngơn ngữ “là nơi giao hòa các
dấu hiệu nỗi bật nhất diễn đạt phong cách của nhà văn, biểu hiện tập trung nhất
nét độc đáo trong cá tính của nhà văn” (Hà Minh Đức).
Ngơn ngữ trần thuật là “phần lời văn độc thoại thể hiện quan điểm của tác
giả hay quan điểm người kể chuyện (sản phẩm sáng tạo của tác giả) đối với cuộc
sống được miêu tả, có những nguyên tắc thống nhất trong việc lựa chọn và sử
dụng các phương tiện tạo hình và biểu hiện ngơn ngữ” [10, tr.212 – 213]. Nó
“chẳng những có vai trị then chốt trong phương thức tự sự mà còn là yếu tố cơ
bản thể hiện phong cách của nhà văn, truyền đạt cái nhìn, giọng điệu, cái nhìn
của tác giả” [10, tr.213]. Ngơn ngữ người trần thuật dưới hình thức lời người kể
chuyện ngồi đặc điểm trên còn mang thêm sắc thái, quan điểm bổ sung cho lập
trường, đặc điểm tâm lý, cá tính của nhà văn – người kể chuyện mang lại.
ngôn ngữ kể chuyện của tác giả. Với lối kể chuyện thú vị, tình tiết ngơn ngữ
chảy theo dịng tâm trạng khác nhau của các nhà văn làm cho độc giả bị cuốn
hút vào thế giới mà tác giả dựng nên.
Trong văn phong của mình, Haruki Murakami cũng đã tạo được dấu ấn
đặc biệt. Chính bản thân Murakami là một tấm gương về những nỗ lực, tìm tịi
sáng tạo khơng ngừng. Ngôn ngữ của Murakami sáng tỏ, sống động, gần gũi với
- Đừng lo, đã bắt lửa rồi đó. Bây chừ chỉ cần chuẩn bị cho bốc lửa lên thơi. Khói
lên liên tục rồi đó, thấy khơng? Người ta nói: Khơng có lửa, răng có khói, rứa đó.
- Người ta cũng nói: khơng có máu thì khỏi có cương, nữa đấy.
- Ơng Miyake chán ngán: - Mi khơng có chuyện chi để suy nghĩ ngồi
chuyện nớ răng mi?” [6, tr.54].
Murakami sinh ra trong một gia đình mà cả cha lẫn mẹ đều là những giáo
viên dạy văn chương cổ điển Nhật Bản. Nhưng, ông lại ham mê văn học nước
ngoài, đặc biệt là văn học Mỹ. Thứ âm nhạc mà ơng u thích là nhạc Jazz và
Rock. Vì thế trong ngơn ngữ văn chương, ngơn ngữ âm nhạc hịa trộn tạo một
phong cách riêng Murakami. Ngơn ngữ mượt mà như một bản tình ca: “Chàng
trai ấy đang đi đâu? Chàng trai ấy đang về đâu?” [8, tr.175]. “Rồi brandy cũng
hết. Tôi đã uống hết nguyên một chai brandy rồi đấy. Tơi đến tiệm bách hóa
mua một chai Remy Martin mới. Mua luôn một chai rượu vang đỏ. Cả một ly
pha lê thượng hạng để uống brandy nữa. Và socola với bánh quy” [8, tr.140].
Ngay cả món Spaghetti được nhắc đi nhắc lại như một bài hát:
“Spaghetti Bolognese
Spaghetti basirico,
Spaghetti pesi
Spaghetti carbonara,
Spaghetti nghêu, nước sốt cà chua
Spaghetti tỏi” [4, tr.149].
khách, mà sex ở đây cũng chính là một ngơn ngữ khác của Murakami. Sex trong
tác phẩm của ơng thường mang tính ẩn dụ hơn là trần trụi tính giao. Ngơn ngữ
của ông nói lên sự tương quan giữa con người với nhau trong một thế giới mà
người ta đã quá chán chường và mệt mỏi với vật chất. Ngòi bút của Murakami
khi miêu tả tình dục, cái ác… thường tự nhiên và sắc lạnh. Kĩ thuật xử lý ngôn
từ của ông rất tinh xảo: “Hai người trần truồng, ôm nhau dịu dàng. Vụng về sờ
sẫm khắp những vùng thân thể của người yêu như đôi thiếu niên thiếu nữ trong
lần giao hợp đầu tiên trong đời. Xác nhận nhau một hồi thật lâu xong, Junpei
nhẹ nhàng vào trong Sayoko. Cơ đón nhận anh như mời gọi vào sâu thêm…
Junpei không nghĩ là chuyện thật đang xảy ra. Anh như đang bước đi trong ánh
sáng mờ nhạt trên một chiếc cầu vắng khơng có bóng người, kéo dài miên man
khơng dứt. Junpei chuyển động thân mình đến đâu, Sayoko đáp ứng đến đấy.
Vài lần đã muốn xuất tinh nhưng Junpei gắng kềm lại được. Anh sợ rằng khi đã
xuất tinh thì giấc mộng sẽ dứt, tất cả sẽ tan biến đi” [6, tr.219]. Đó là khát vọng
tương quan với đồng loại, khát vọng tình u, tình bạn: “Đơi vú cơ càng áp chặt
lên ngực tôi, và dương vật của tôi lại áp vào phần bụng dưới mềm mại của cô”
[8, tr.213]. Và “suốt từ khi mang thư cô về nhà, tôi chỉ nghĩ đến chuyện ăn nằm
với cơ. Nằm lên giường thì có cơ nằm bên cạnh, sáng mở mắt dậy thì cũng có cơ
bên mình. Khi tơi mở mắt dậy thì cơ đã trở dậy rồi, nghe có tiếng kéo khóa áo
đầm lên” [5, tr.101].
Haruki Murakami chủ yếu sử dụng ngôn ngữ độc thoại nội tâm. Nhiều
đoạn ông kết hợp ngơn ngữ hình sự lẫn trinh thám. Nhịp điệu biến ảo rất khó
đọc. Tuy nhiên bằng những cách dùng ngôn từ mới lạ, ông đã để cho mọi sự vật,
sự việc xoay trộn vào nhau tạo thành một mớ hỗn mang. Nhưng xuyên suốt
Những câu thoại của ông đặc biệt lơi cuốn, nó cho người đọc những cảm nhận
trực tiếp nhất. Câu đối thoại tưng tửng nhưng hấp dẫn:
“- Komura nói: Mà nầy, cái hộp tơi mang đến ấy mà, khơng biết có gì bên
trong khơng nhỉ?
- Anh thắc mắc hả?
- Mãi khơng quan tâm đến nó, nhưng bây giờ tự dưng lại đâm ra thắc mắc
lạ lùng.
- Từ lúc nào?
- Mới ngay đây thôi.
- Đột nhiên chăng?
- Sực nhớ lại thì thắc mắc ấy mà.
- Sao mà lại đâm ra thắc mắc nhanh thế nhỉ?” [6, tr.44].
Hoặc:
“Tôi cần thám tử tư. Người Cừu nói.
- Thế ạ. Tơi nói.
- Thế nhưng đến đâu thì gặp thám tử tư, tơi lại chẳng biết.
- Ừm, ừm.
- Thế rồi, thì tơi nói chuyện trong qn pizza ở góc đường, cơ gái ở đấy
mách là cứ đến đây thì gặp được.
- Cơ gái ấy là Charlie rồi.
- Vậy thì ơng là Người Cừu ạ. Tơi nói: - Tơi sẵn sàng nghe đây” [5,
tr.183].
Haruki Murakami không gọt giũa từ ngữ mà để cho ngôn ngữ tự thể hiện
qua cách ứng xử giao tiếp của nhân vật, tạo ra một thứ ngôn ngữ đa thanh, luôn
chứa đầy tâm trạng, cất lên từ một trái tim đầy trách nhiệm với cuộc đời. Cùng
với cách trần thuật giản dị, chân thực, giàu tính biểu cảm, tác phẩm của
Murakami đi vào lịng người và đã đạt được những thành cơng nhất định. Ngơn
ngữ chính là phương tiện giao tiếp, thúc đẩy q trình giao lưu văn hóa của các
quốc gia. Murakami đã đóng góp tích cực cho q trình bảo tồn, phát huy văn
hóa dân tộc, làm phong phú thêm hệ thống ngôn ngữ của người Nhật Bản.
<b>3.2. Nghệ thuật xây dựng nhân vật</b>
bởi các mối quan hệ giữa các nhân vật, giữa tác giả và nhân vật. Do vậy, nhân
vật này sẽ không giống nhân vật kia, mọi nhân vật đều có nét đặc thù riêng.
Thời gian và độc giả là những giám khảo công bằng nhất đối với tác phẩm
văn học. Xét ở những phương diện cơ bản xây dựng nhân vật thông qua: ngoại
hình, hành động, đối thoại và độc thoại…là hướng đi không mới đối với một tác
phẩm nhưng nó mang tính ổn định và bền vững trong truyện ngắn của
Murakami.
<b>3.2.1. Mơ tả ngoại hình</b>
Hariki Murakami xây dựng ngoại hình nhân vật với bút pháp vừa thực
vừa ảo, tạo ấn tượng đặc biệt. Chú trọng ấn tượng hơn là chi tiết, chỉ bằng một
vài nét phác họa mà nhà văn đã lột tả được cái thần của đối tượng được miêu tả.
Phần lớn các nhân vật trong truyện ngắn của Haruki Murakami là những
người bạn, những người quen biết đối với ơng. Vì thế, những chuyện mà ơng
viết cũng chính là những chuyện đời tư, những tâm sự, những hồi ức của những
người quen biết đó. Chính vì vậy, đây là điều kiện thuận lợi để Murakami miêu
phẩm của Murakami. Mỗi nhân vật hiện ra như một mảnh ghép của một bức
tranh tồn bích: “Người đàn ơng băng cao lớn, có vẻ như cịn trẻ trung nhưng mớ
tóc đinh rậm ngắn lại có những mảng trắng như những cái túi tuyết đơng. Xương
gị má nhơ ra nhọn hoắt giống như tảng băng. Nhưng ngón tay sương muối giá
lạnh như thể chẳng bao giờ tan. Tuy nhiên, ngồi những cái đó ra, người băng
trơng có vẻ bình thường. Anh ta khơng thể gọi là đẹp trai nhưng trơng hấp dẫn,
cái đó tùy cách nhìn của bạn” [16, tr.33]. Người đàn ơng băng, riêng miêu tả
ngoại hình bên ngồi đã là một biểu tượng nói lên sự xa cách của con người.
<i>Người thứ bảy là một câu chuyện đầy tính nhân văn. Bản thân người đọc</i>
hầu như ai cũng luôn bị ám ảnh bởi những tình tiết và nhân vật trong tác phẩm.
Ngoại hình như thể đã nói lên tất cả tâm trạng bên trong của con người thứ bảy:
“Người đàn ông thứ bảy có vẻ đã ngồi năm mươi. Anh ta cao, gầy guộc và râu
ria tua tủa. Một vết sẹo nhỏ nhưng sâu hoắm ngay mắt phải. Chắc hẳn đó là do
một vết dao chém. Tóc anh ta ngắn và đã điểm hoa râm. Gương mặt anh có vẻ
như của một người đột nhiên chẳng phải biết nói gì, trừ phi dường như anh ta
thường vậy, tất cả các phần trong thân thể họ đều đã rút nhỏ thật quy tắc, thật
máy móc theo cùng tỉ lệ. Nếu chiều cao rút nhỏ cỡ 0.7 thì chiều ngang cũng rút
nhỏ 0.7, mà bàn chân, đầu, tai… cho đến cả chiều ngón tay cũng rút nhỏ theo
đúng kích cỡ 0.7 đấy. Cứ như là một mơ hình chất dẻo chế tạo tinh vi theo kích
thước rút nhỏ của người thật” [8, tr.17]. So về ngọai hình tuy nhỏ nhưng nguồn
tri thức sáng tạo bên trong không nhỏ. Chính vì nhỏ mà họ thấy cơ đơn hiu quạnh
trong xã hội con người. Bởi sự xa cách trong lòng người tuy nhỏ nhưng khơng
hàn gắn được, huống gì là một sinh linh bé nhỏ tồn tại trong một xã hội rộng lớn.
Miêu tả ngoại hình tỉ mỉ, nhưng cũng có lúc ngòi bút miêu tả của
Murakami chỉ miêu tả khái quát về một đặc điểm nào đó. Khi thấy một đơi trai
gái nhà văn viết: “Có một thiếu niên và một thiếu nữ. Thiếu niên 18 tuổi và thiếu
nữ 16. Chàng không đặc biệt đẹp trai. Nàng cũng không phải là cô gái đặc biệt
xinh đẹp. Họ là những thiếu niên thiếu nữ bình thường cơ đơn, ở đâu cũng có”
[4, tr.29]. Đâu đó trong xã hội này, những chàng và nàng thuộc tầng lớp trẻ cảm
thấy cô đơn, cô đơn ngay trong chính bản thân. Hoặc như chỉ miêu tả đơi mắt
một cục u vỡ ra, phát ra một tiếng nổ làm bắn tung chỗ da ấy, vung vãi những tia
nước nhơn nhớt, tỏa mùi khó ngửi. Rồi liên tiếp dễ đến 20, 30 cục u khác vỡ
theo, bắn đầy những mảng da và nước nhờn lên tường… Từ lỗ hổng tối sâu của
các cục u đã vỡ, những con giòi đủ cỡ lớn nhỏ lúc nhúc chui ra. Những con giòi
ú na ú nần bò lổn nhổn. Tiếp theo là những con rết đen nhỏ, vô số chân bò đi,
tạo nên âm thanh rào rạo ghê người” [6, tr.173]. Trong một con người, cái ác,
cái xấu xa luôn tồn tại bên cạnh cái thiện, khi không ý thức được bản thân thì cái
ác trỗi dậy và sức mạnh của nó lúc ấy là rất lớn.
Mơ tả ngoại hình khác thường cũng là một thủ pháp nghệ thuật của
Murakami. Những hình ảnh kì dị, rùng rợn tạo nên sức hấp dẫn lơi cuốn trong
tác pẩm của ơng. Ngoại hình được miêu tả rất ấn tượng và ám ảnh người đọc.
Qua ngoại hình phần nào đã nói lên được tâm lý, tính cách của nhân vật ấy tiếp
biến như thế nào.
<b>3.2.2. Thế giới nội tâm</b>
Thế giới nội tâm các nhân vật trong truyện ngắn của Murakami rất phong
phú, đa dạng. Mỗi người có một thế giới sống riêng của mình. Nghệ thuật xây
dựng đối thoại linh động với lối dẫn từ lời trần thuật sang đối thoại, đối thoại
như độc thoại, đối thoại qua thư. Trong nghệ thuật xây dựng đối thoại,
Murakami khơng có những điểm đột phá nhưng tài năng của ông thể hiện ở chỗ
đã kế thừa một cách sáng tạo từ các nhà văn đi trước và tạo cho đối thoại hay
nhân. Cụ thể là muốn chia sẻ những suy nghĩ riêng của mình: “Bởi lẽ…bởi lẽ
nhân viên quản lý thương phẩm của tiệm bách hóa mà lại trả lời thư than phiền
của khách hàng bằng cách thu vào băng nhựa mà lại là thơng báo có tính cách cá
nhân rồi gửi đi thì quả là chuyện cực kì khác thường, tùy cách suy nghĩ còn cho
là điên khùng nữa” [5, tr.95]. Qua bức thư, cảm giác thực của nhân vật “tơi”
hiện lên rõ nét: “Tơi muốn làm tình với cô” [5, tr.102]. Hoặc “khát khao thực
hiện được đồng thời hiện hữu ở hai nơi mà thơi. Tơi muốn mình vừa nghe giàn
nhạc giao hưởng diễn tấu ở thính đường trình tấu âm nhạc, vừa chơi trượt giày
bánh xe. Tơi muốn là nhân viên quản lý thương phẩm của tiệm bách hóa, đồng thời
là bánh mì kẹp hamburger phần tư “pao”ở tiệm McDonald. Muốn vừa ngủ với
người yêu vừa làm tình với cơ. Tơi muốn vừa là cá thể vừa là quy luật” [5, tr.105].
tr.34]. Quen thuộc với những gì diễn ra hằng ngày, nên giờ có sự xuất hiện của
một cái mới cũng không làm suy nghĩ và cuộc sống của họ xáo trộn.
Có khi độc thoại nội tâm đan xen vào giữa những đoạn đối thoại: “Có lần
ngồi bên cạnh tơi là một cơ gái 18 tuổi. Tôi ngồi ghế gần cửa sổ, cô ngồi ở gần
lối đi ở giữa xe.
- Cơ có muốn đổi sang ghế này không? Tôi hỏi.
- Cảm ơn ông. Nàng nói. – Ơng tử tế q nhỉ” [4, tr.126]).
Hay như :
“Tơi là chủ nhà nên bắt đầu rót rượu vang vào ly của hai người xong, cả
ba cụng ly. Loại rượu vang có vị đặc biệt càng uống càng thấy ngon:
- Em quay đĩa nhạc nghe nhé? Nàng hỏi.
- Cứ tự nhiên tôi đáp” [7, tr.63].
Độc thoại đan xen phá vỡ khơng khí buồn tẻ của cuộc sống. Giao tiếp là
để cùng hiểu về nhau nhiều hơn.
Lúc độc thoại nội tâm, trong tâm tưởng của người độc thoại ln có sự
hiện diện hình ảnh của người khác: “Vậy hả? Tiếc quá. Chủ hãng (người trự ra
dáng nhà chun mơn trồng tỉa) nói. Rồi thở dài, ngồi xuống ghế mà hút thở ra
khói thuốc” [4, tr.112]. Có khi là khát khao tìm hiểu về các nhân vật trong tác
phẩm văn học “Anna và Vronsky đã đắm nhìn nhau ở tiệc khiêu vũ, rồi rơi vào
tình yêu định mệnh. Ở trường đua ngựa (quả thật có trường đua ngựa trong
truyện này) Anna thấy Vronsky ngã ngựa, bấn loạn mà thú thật việc ngoại tình
với chồng. Tơi như cùng được Vronsky cỡi ngựa vào rào cản, nghe tiếng người
xem hoan hô” [8, tr.126].
con người ấy thiên về quá khứ hơn hiện tại. Từ đó thấy được nhân vật trong
truyện ngắn của Murakami luôn cô đơn, bế tắc trong cuộc sống thực tại.
Mỗi nhân vật là một chủ thể độc lập, mỗi tiếng nói của họ khơng bị khống
chế hoặc bị lấn át bởi chủ thể sáng tạo. Lời đối thoại của nhân vật cũng là một
hình thức thông báo về cuộc sống hiện tại:
“- Anh này, khơng biết bé kangaroo mới sinh cịn sống khơng nhỉ? Nàng
hỏi tơi trong tàu điện.
- Anh nghĩ là cịn sống. Chứ có thấy báo đăng nó chết đâu.
- Nhưng có khi bé ấy bệnh phải vào bệnh viện nữa chứ.
- Nếu thì cũng có báo đăng” [4, tr.17].
Hoặc:
- Nhưng mà tơi thì chẳng viết lách được gì cả. Nàng nói.
- Bắt đầu viết từ bấy giờ vẫn chưa muộn mà. Tơi nói.
- Chứ anh là người đã cho biết là tơi chẳng viết lách được gì cả đấy thơi.
Nàng cười, nói.
- Nhưng mà văn chương của chị có sự chân thành lắm chứ” [4, tr.97].
Tính cách nhân vật được thể hiện qua các hành động, giao tiếp, suy nghĩ
của nhân vật. Nhân vật có tính cách phức tạp bao nhiêu thì càng khó hiểu bấy
nhiêu. Khi giao tiếp với nhau, giọng điệu của họ biến đổi linh hoạt: “Ngày xưa
em có một con chó giống Maltese. Nàng nói. – Lúc còn bé kia. Xin bố em mua
cho đấy. Em là con một, ít nói, khơng có bạn bè, nên thèm bạn chơi lắm. Thế
ơng có anh em gì?
- Có một người anh
- Người anh tuyệt vời chứ?
- Xà, chẳng biết. Chứ bảy năm rồi, có gặp nhau đâu” [5, tr.166].
Bằng cách đối thoại như thế, Murakami để con người thực của các nhân
vật bộc lộ ra một cách tự nhiên, khơng gị ép hay bị đóng khung trong một
khuôn mẫu nào.
thuyết Clarence Darrow mà lập chí trở thành luật sư đấy. Thành tích học tập
cũng khơng tệ. Trong cuộc bầu phiếu người có triển vọng thành cơng nhất trong
lớp 12, tơi đã đứng hạng nhì cơ mà. Rồi vào được khoa luật của một trường đại
học khá nổi tiếng nữa” [7, tr.132 – 133]. Nhưng cuộc sống của anh giờ đây vô
Trong Vương quốc đã băng hoại, qua lời kể của nhân vật ‘tôi”, con người
anh Q hiện lên sắc nét: “Anh Q bằng tuổi với tôi, nhưng đẹp trai gấp 570 lần tơi,
tính tình cũng tốt hơn, chưa hề thấy anh ra vào làm phách với ai. Cũng chẳng tự
cao tự đại dù ai làm thất bại đến phiền lụi cả anh đi nữa, anh cũng khơng hề giận
dữ, anh nói: “Chẳng làm sao hơn. Ta cùng chịu vậy”, thế thôi” [4, tr.113]. Qua
sự mô tả người đọc cảm nhận được anh Q là một con người hịa nhã, vơ tư đối
với mọi người xung quanh. Cịn cơ gái trong Cây liễu mù và cơ gái ngủ là một
con người thích sự n tĩnh, lãng mạn: “Cơ đã vẽ hình ngọn đồi, trên đỉnh đồi có
ngơi nhà nhỏ, trong nhà có mỗi một cô gái đang ngủ. Quanh nhà là đám liễu mù.
Đám liễu mù đã ru cô gái ngủ say” [7, tr.113]. Tâm trạng cơ đơn, cơ muốn tìm
một nơi n tĩnh làm điểm dừng chân, sống thực đối với con người mình. Thiên
nhiên ln nâng đỡ con người trong mọi hoàn cảnh.
các giá trị bền vững trong cuộc sống của con người (tình yêu, tình bạn, sự sống,
cái chết), do vậy tạo nên sự đồng cảm sâu sắc với bạn đọc.
<b>3.2.3. Thế giới thiên nhiên</b>
Xuyên suốt trong các truyện ngắn của Haruki Murakami là thiên nhiên
bao bọc lấy con người, làm cho con người có thể phơi trải lịng mình. Thiên
nhiên hiện ra làm say đắm lịng người, nuôi dưỡng tâm hồn của các nhân vật. Cỏ
cây, hoa lá, khơng khí trong lành…là khơng gian để các nhân vật của ông gửi
gắm tâm sự và cảm nhận được sự ấm áp.
Thế giới thiên nhiên đa khung cảnh, đa màu sắc. Một nền nhạc Jazz, Rock
trộn lẫn nét đẹp thiên nhiên đưa con người phiêu du lãng quên thực tại cô đơn,
buồn tẻ: “Bãi cát rộng mênh mông, những đợt sóng trắng bạc êm đềm mơn trớn
khơng ngừng. Hầu như hồn tồn lặng gió. Chẳng nhìn thấy gì trên đường chân
trời cả. Chỉ có mùi nồng mặn của biển. Mặt trời nóng gay gắt” [6, tr.85]. Thiên
nhiên có lúc dịu dàng, có lúc nóng gắt. Đó cũng là một dấu hiệu thức tỉnh cảm
giác con người trước thế giới thực tại. Thiên nhiên thẩm thấu vào thân thể của
nhân vật “tôi”: “Mang giày như thế mà nằm trên giường, ngắm trần phong một
hồi, tôi lại cảm thấy mùi biển. Cịn đậm đà rõ ràng hơn trước nữa. Gió mặn bay
trên mặt biển, đám rong biển bị sóng bỏ quên trong bóng khuất của các tảng đá,
bờ cát ẩm…Tất cả những thứ ấy trộn chung trong mùi biển nồng mặn. Biển
tháng Năm làm một nữa thân thể con người như trở thành trong suốt” [4, tr.100].
“Nhưng biển chỉ biến mất một giờ sau, để lại những ánh nắng của những ngày
đầu hạ chiếu xuống mặt đất. Thay không gian biển là những cánh đồng hoang
bao la lót xi măng, trên đó vài chục dãy bin dựng đứng lên như những bia mộ,
nối tiếp nhau đến tận chân trời” [4, tr.105]. Biển đẹp bao nhiêu thì những ngơi
nhà cao tầng kia lại gây cảm giác tẻ nhạt bấy nhiêu.
tr.74]. Thiên nhiên nuôi dưỡng tuổi thơ, đồng thời tác động mạnh đến những sự
kiện, tình huống có liên quan đến nhân vật. Với người thứ bảy, biển là nơi vui
thú của tuổi thơ, nhưng nó cũng cướp đi người bạn thân nhất của anh: “Ngọn
sóng thần cao hơn cả tịa nhà ba tầng (hầu như nó khơng gây một tiếng động
nào, hay ít ra trong kí ức của tơi, nó khơng vang lên một âm thanh nào hết, đó là
một ngọn sóng vơ thanh). Nó dâng cao như che lấp cả bầu trời xanh phía sau
Ngòi bút siêu thực của Murakami di chuyển linh hoạt. Thiên nhiên rùng
rợn hay hiền dịu đều làm nên những xúc cảm cho con người: “Gió gào càng lúc
càng mạnh, khơng khí càng lúc càng ẩm ướt. Tơi sởn gai ốc và khơng tập trung
vào bất cứ cái gì…Tơi biết thật là kì quặc khi diễn tả như thế, nhưng đó là cảm
giác thực của tơi vào lúc ấy” [16, tr.165]. Và cũng chính nó đưa con người đối
diện, nhận thức được bản ngã đích thực của mình.
Cơ đơn, buồn chán, con người muốn được sống trong một thế giới với
những khung cảnh trữ tình của ban mai giữa rừng vắng. Hay là chờ được một
ngày đẹp trời để làm việc mà mình đã dự tính. Khám phá thiên nhiên, mở ra một
chân trời mới, đồng thời thiên nhiên có sức mạnh thanh lọc tâm hồn của con
người: “Trời hè, mà lại những ngày hè tuyệt đẹp đến mê tơi. Trên nền trời xanh
có những cụm mây trắng lơ lửng như những hồi niệm cũ” [5, tr.114]. “Khơng
khí mát mẻ. Khơng phải là cái máy điều hịa của khơng khí, mà là cái mát do
khơng khí lay động. Như có gió lọt vào từ đâu đó, và thốt từ đâu đó” [5,
tr.125]. “Thống chốc, ánh nắng rực rỡ chống mắt và gió nam mát rượi chan
hịa tràn vào trong phịng” [5, tr.126]. Ánh nắng của thiên nhiên xóa tan “khơng
khí hầm nóng tù hãm” [5, 126]. Thiên nhiên làm dịu nhẹ bầu khơng khí căng
thẳng, nỗi buồn, cơ đơn của con người.
<b> KẾT LUẬN</b>
Truyện ngắn là một thể loại tự sự cỡ nhỏ, nhưng nội dung của truyện bao
trùm hầu hết các phương diện của đời sống: đời tư, thế sự hay sử thi. Truyện
ngắn cổ xưa rút đề tài từ những vấn đề siêu nhiên và tự nhiên, lãng mạn và hiện
thực, qi dị và bình thường. Nó khắc hoạ cái bình thường lẫn khơng bình
thường. Khác với nó, truyện ngắn hiện đại là một kiểu tư duy mới, một cách
nhìn cuộc đời mới, nắm bắt đời sống rất riêng. Nhân vật trong truyện ngắn
Murakami Haruki sử dụng thể loại truyện ngắn để triển khai những khía
cạnh mới mẻ, linh hoạt trong quan niệm về con người, thời đại và văn hóa Nhật
Bản hiện đại. Ơng đã khẳng định tài năng của mình ngay trong tác phẩm đầu
tiên. Sự nghiệp sáng tạo văn chương của ông tiếp diễn theo thăng trầm của cuộc
sống. Nghĩa là ông quan tâm đến hiện thực cuộc sống, với những điều tưởng
chừng như không ai quan tâm đến. Truyện ngắn của ông là một sự sáng tạo tìm
tịi đổi mới cả phương diện nội dung và hình thức biểu hiện. Những biến động
phức tạp của đời sống kinh tế, sự ảnh hưởng của các trào lưu văn học Phương
Tây, đang gây xáo trộn trong cuộc sống của con người Nhật Bản hiện nay. Sống
trong một xã hội đầy đủ tiện nghi nhưng họ cảm giác bất an, thiếu thốn về mặt
tinh thần. Kết hợp giữa dấu ấn văn hóa Phương Tây và Phương Đông, trong mỗi
tác phẩm của Murakami là một bức tranh đời sống của con người Nhật Bản hiện
đại. Họ được tác giả quan tâm với những vẻ đẹp khác nhau. Đằng sau con người
bình thường ấy ẩn chứa một tâm hồn đa cảm nhưng rất đẹp. Các tác phẩm của
nhà văn cung cấp cho bạn đọc những điều mới lạ, là việc cảm thụ cái đẹp của
thời đại soi chiếu qua cái ảo. Truyện ngắn của Murakami đan xen các yếu tố
thực và ảo. Và nó góp phần làm phong phú văn xuôi Nhật Bản hiện đại, không
chỉ ở thể loại tiểu thuyết mà còn ở thể loại truyện ngắn.
định, nơi các thần thoại và huyền thoại được làm mới, nơi niềm tin và hạnh phúc
trong đời sống thực của con người khơng cịn. Haruki Murakami thích đọc tiểu
thuyết, nghe âm nhạc cổ điển châu Âu, tiểu thuyết trinh thám, hình sự Mỹ và rất
mê các loại văn hóa đại chúng như phim ảnh Hollywood, nhạc Jazz…Vì thế,
trong truyện ngắn của ơng ln tràn ngập các hình ảnh, biểu tượng của văn hóa
đại chúng cũng như ơng luôn sử dụng thủ pháp, lối kể chuyện, cách sử dụng các
Qua năm tập truyện ngắn Đom đóm, Ngày đẹp trời để xem kangaroo, Sau
<i>cơn động đất, Bóng ma ở Lexington, Người Ti-Vi, độc giả thấy được tài năng</i>
của Haruki Murakami. Ơng khơng chỉ trở thành siêu sao trong làng tiểu thuyết
mà ngay cả trong thể loại truyện ngắn, tên tuổi của ông cũng được khẳng định.
Tất cả như một bản kí sự ghi chép lại những gì xảy ra trong xã hội Nhật Bản
hiện đại. Nghệ thuật truyện ngắn của ông lặn sâu trong từng câu chữ, được ẩn
dấu trong xây dựng tính cách nhân vật – với thế giới ngoại hình và nội tâm đa
màu. Kết hợp những yếu tố trên tác phẩm của ông tạo được ấn tượng mạnh mẽ,
có sức lơi cuốn, thu hút tính tò mò của giới bạn đọc.
<b>TÀI LIỆU THAM KHẢO</b>
1. Nguyễn Thục Anh (2008), “Chân dung tuổi trẻ Nhật Bản qua tiểu thuyết
<i>Rừng Nauy của Haruki Murakami”, Khoa Ngữ văn, Đại học sư phạm </i>
-Đại học Đà Nẵng.
2. Nhật Chiêu (2007), Văn học Nhật Bản từ khởi thuỷ đến 1868, NXB Giáo
Dục.
3. Nhật Chiêu (Chủ biên, 1996), Tuyển tập truyện ngắn hiện đại Nhật Bản,
4. Haruki Murakami (2006), Ngày đẹp trời để xem Kangaroo, Phạm Vũ
Thịnh dịch, NXB Đà Nẵng.
5. Haruki Murakami (2006), Bóng ma ở Lexington, Phạm Vũ Thịnh dịch,
NXB Đà Nẵng.
6. Haruki Murakami (2006), Sau cơn động đất, Phạm Vũ Thịnh dịch, NXB
Đà Nẵng.
7. Haruki Murakami (2006), Đom đóm, Phạm Vũ Thịnh dịch, NXB Đà Nẵng.
8. Haruki Murakami (2007), Người Ti-Vi, Phạm Vũ Thịnh dịch, NXB Đà
Nẵng.
9. Haruki Murakami (2006), Biên niên ký chim vặn dây cót, Trần Tiễn Cao
Đăng dịch, NXB Hội nhà văn, Nhã Nam, Hà Nội.
10. Lê Bá Hán - Trần Đình Sử - Nguyễn Khắc Phi (đồng chủ biên, 2009), Từ
<i>điển thuật ngữ Văn học, NXB Giáo Dục, Hà Nội.</i>
11. Võ Thị Thu Hà (2008), “Phản ứng của giới trẻ về yếu tố sex trong tiểu
thuyết Rừng Na Uy của tác giả Haruki Murakami”, Tạp chí Nghiên cứu
<i>văn học, số 12/2008, tr.86 – 103.</i>
12. Đào Thị Thu Hằng (2009), “Murakami Haruki - Một hiện tượng văn học
tại Việt Nam”, Tạp chí Nghiên cứu Đông Bắc Á, số 5/2009, tr.69 – 76.
13. Đỗ Đức Hiểu (2000), Thi pháp hiện đại, NXB Hội nhà văn, Hà Nội.
14. Phong Lê (1997), Văn học trên hành trình của thế kỷ XX, NXB Đại học
Quốc gia, Hà Nội.
15. Phan Ngọc Liên (Chủ biên, 1997), Lịch sử Nhật Bản, NXB Văn hóa thơng
tin, Hà Nội.
17. Hà Văn Lưỡng (2007), “Đặc điểm truyện ngắn của Yasunari Kawabata –
Nhìn từ góc độ thi pháp”, Tạp chí Nghiên cứu Đông Bắc Á, số 5/2007,
tr.60 - 67.
18. Hà Văn Lưỡng (2009), “Những yếu tố kỳ ảo và giấc mơ trong sáng tác
của Y.Kawabata”, Tạp chí Nghiên cứu Đơng Bắc Á, số 7/2009, tr.64 – 67.
19. Phương Lựu (Chủ biên, 2006), Lý luận văn học, NXB Giáo Dục, Hà Nội.
20.Vũ Thị Tố Nga (2006), “Khả năng của truyện ngắn trong việc thể hiện con
người”, Tạp chí Nghiên cứu văn học, số 5/2006, tr.124 – 129.
21. Manfred Jahn (2005), Trần thuật học, Nguyễn Thị Như Trang dịch, Hà
Nội.
22. Hoàng Phê (Chủ biên, 2009), Từ điển văn học, NXB Đà Nẵng, Trung tâm
từ điển Hà Nội.
23. Sigmund Freud (2008), Phân tâm học nhập mơn, Huế.
24. Trần Đình Sử (2005), Giáo trình Dẫn luận thi pháp học, NXB Giáo Dục.
25. Trần Đình Sử (Chủ biên, 2007), Tự sự học phần I, NXB Đại học Sư phạm,
Hà Nội.
26. Trần Đình Sử (Chủ biên, 2008), Tự sự học phần II, NXB Đại học Sư
phạm, Hà Nội.
27. Trần Quang Thái (2006), Chủ nghĩa hậu hiện đại, NXB Tp. Hồ Chí Minh.
28. Lưu Thị Thu Thuỷ (2008), “Nhà văn Murakami Haruki: Cuộc đời và sự
nghiệp”, Tạp chí Nghiên cứu Đơng Bắc Á, số 6/2008, tr.61 – 66.
29. Tư liệu tham khảo từ các trang web:
Trang
MỞ ĐẦU...1
1. Mục đích, ý nghĩa chọn đề tài...1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề...2
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu...4
3.1. Đối tượng nghiên cứu...4
3.2. Phạm vi nghiên cứu...4
4. Phương pháp nghiên cứu...4
5. Bố cục của khóa luận...4
NỘI DUNG...5
CHƯƠNG 1: HARUKI MURAKAMI VÀ TRUYỆN NGẮN NHẬT BẢN
HIỆN ĐẠI...5
1.1. Haruki Murakami - Một hiện tượng văn học đặc sắc...5
1.1.1. Haruki Murakami - Một con người tài năng...5
1.1.2. Haruki Murakami - Con đường sáng tạo nghệ thuật...7
1.2. Vài nét về truyện ngắn Nhật Bản hiện đại...9
1.2.1. Bức tranh lịch sử xã hội...9
1.2.2. Truyện ngắn Nhật Bản hiện đại...10
CHƯƠNG 2: NGHỆ THUẬT XÂY DỰNG THỜI GIAN, KHƠNG GIAN VÀ
MỘT SỐ MƠ TÍP NGHỆ THUẬT TRONG TRUYỆN NGẮN CỦA HARUKI
MURAKAMI...13
2.1. Thời gian và không gian nghệ thuật...13
2.1.1. Thời gian nghệ thuật...13
2.1.1.1. Thời gian kì ảo...14
2.1.1.2. Thời gian sinh hoạt đời thường...18
2.1.1.3. Thời gian tâm lý...22
2.1.2. Không gian nghệ thuật...26
2.1.2.1. Không gian ám ảnh...26
2.1.2.2. Không gian thiên nhiên...29