Tải bản đầy đủ (.docx) (2 trang)

Gap Hoang Sa o Ly Son Ky 3 Nhung hinh nhan chetthe

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (173.8 KB, 2 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>Gặp Hoàng Sa ở Lý Sơn - Kỳ 3: Những hình nhân chết thế</b>



“Lệnh vua sai phải quyết lòng ra đi”. Để vững lòng người đi, người dân Lý Sơn đã nghĩ ra một cách: bắt hình nhân phải “chết
thế”, bắt các thuyền bằng giấy phải “chìm thay”!


Những thầy pháp ở Lý Sơn giữ vai trị rất quan trọng trong việc bắt hình nhân phải “chết thế - chìm thay” này. Thầy pháp như
điểm tựa tâm linh của lính Hồng Sa trong mỗi đợt xuất quân. Ở Lý Sơn hiện nay có hai thầy pháp, một là ông Võ Văn Toại ở
thôn Đông, xã An Vĩnh; hai là ông Nguyễn Trung Thành, tục gọi là Nữ, quê thôn Tây, xã An Hải. Cả hai ơng hiện đã ngồi 75
tuổi nhưng cịn rất minh mẫn và tráng kiện. Ông Toại đang sinh sống ở Lý Sơn, cịn ơng Thành thì đã vào Đồng Nai từ hơn 30
năm nay nhưng hễ đến dịp Lễ khao lề thế lính Hồng Sa, ơng lại lên tàu về q tham gia “hâm nóng” bầu khơng khí của buổi tế
lễ rất quan trọng trong đời sống tâm linh của hơn hai vạn dân trên hòn đảo này.


<b>“Cứ lên thuyền, đã có người chết thế rồi!”</b>


Ơng Nữ mặc áo lụa đỏ, có khi lụa xanh, đầu đội mũ tam sơn, tay cầm mõ và một thanh kiếm bằng… nhung, mắt quắc, miệng
lầm rầm câu thần chú, rồi chợt hét vang những tiếng “gọi hồn”. Một bên là đám quân sĩ, đầu đội khăn điều, tay cầm mác có
quấn cờ đi nheo, mặt rất căng thẳng, tập trung cao độ để nghe câu chú của thầy pháp; một bên là tiếng ốc u vang lên từ một
“nghệ nhân” của làng. Âm thanh réo rắt phát ra từ ốc u, vừa như “gọi bầy”, lại vừa như thúc quân ra trận. Tất cả hòa quyện
trong một khơng gian cơ đặc đầy huyền nhiệm. Ơng Nữ giải thích một phần nội dung của câu chuyện gọi hồn: “Trước hết là
“mời” các ơng ấy (vong hồn lính Hồng Sa) về dự bữa với con cháu hơm nay. Trong phần “thế lính” cịn có câu chuyện “yểm”
vào các hình nhân, mỗi hình nhân tương ứng với một người lính ra đi, mỗi chiếc thuyền bằng giấy tương ứng với một thuyền
câu.


Các hình nhân và thuyền giấy này được xem như là người (vật) sẽ chết thay, chìm thay cho số binh phu chuẩn bị lên đường”.
Nhìn khn mặt ơng Nữ khi đọc thần chú rồi tay ơng cầm bó nhang “vẽ” lên khơng trung, có cảm giác như ông đang làm một
công việc nặng nhọc là trút đi nỗi lo toan sợ hãi của những binh phu sắp lên đường ra Hồng Sa vì phải luôn đối mặt với những
bất an suốt trong suốt chuyến hải hành. Vì vậy, nhìn vào điệu bộ và những câu “chú” của thầy pháp, những người lính ra
Hồng Sa có thể rất an lịng vì đã có người chết thế cho mình rồi! Cũng là một “liệu pháp tinh thần” thế thơi, vì hơn ai hết, dân
Lý Sơn cảm nhận được những gì mà con em họ phải nếm trải mỗi khi lên đường. “Hoàng Sa trời nước mênh mơng/Người đi thì
<i>có mà khơng thấy về” </i>

là vậy.




Thầy pháp Nguyễn Trung Thành tại lễ khao lề năm 2010 - Ảnh: Trần Đăng


<b>Những gì cịn lại</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

của các vua triều Nguyễn đối với những binh phu ra Hoàng Sa là con thứ và chưa lập gia đình mới được đi, con trưởng phải ở
nhà để lo thờ phụng tổ tiên. Ngay trong nội dung của quy định này đã hàm chứa những tiên báo về một sự rủi ro rất lớn cho
người ra đi. Người ta không muốn nỗi đau mất mát trùm thêm lên cả vợ con của người xấu số nên phải chọn những chàng trai
chưa lập gia đình là vì thế.


Dù đã được “trấn an” bằng một buổi “thế lính” đượm chất bi hùng và huyền hoặc, dù đã được các hình nhân thế mạng cho
mình trong lễ khao lề rồi nhưng phần lớn những chàng trai ra đi ngày ấy đều không trở lại. 6 tháng phải đương đầu với thời tiết
khắc nghiệt ở Hoàng Sa, lại phải thường xuyên chống chọi với gió bão bất thường trong quá trình lênh đênh trên biển, câu
chuyện được trở về đồn tụ với gia đình đã trở nên quá xa vời với họ. Phần lớn trong số họ, hoặc là gửi xác giữa biển khơi,
hoặc là nằm lại với Hoàng Sa. Thời mà quần đảo này cịn chưa “nổi sóng” như hiện nay, ngư dân Lý Sơn đi đánh bắt hải sản
ngoài ấy đã phát hiện rất nhiều ngôi mộ bằng đất nằm rải rác trên các đảo. Chính những binh phu xấu số ấy đã hóa thân thành
những cột mốc biên cương nơi Hoàng Sa từ thuở nào rồi.


Tưởng nhớ những binh phu đã hy sinh vì nghĩa lớn mà khơng tìm thấy xác, người dân Lý Sơn đã nghĩ ra việc đắp các ngơi mộ
gió để tưởng vọng họ. Hàng trăm ngơi mộ gió đã tồn tại trên đất đảo như một phần máu thịt không thể thiếu của người dân trên
hịn đảo này. Như đã nói ở trên, các thầy pháp giữ một vai trò quan trọng trong việc trấn an quân sĩ trong lễ khao lề. Tuy nhiên,
nhiệm vụ của họ chưa phải đã kết thúc sau buổi lễ mà sẽ còn được tiếp tục với nhiều nghi thức đậm màu bi ai khi phải “an
táng” những hình nhân bằng đất sét trong các ngơi mộ gió.


Sau 6 tháng mà khơng thấy con em mình trở về, người nhà đi rước thầy pháp và tiến hành các thủ tục cho người xấu số.
Trước tiên là lên núi Giếng Tiền để lấy đất sét về trộn với bơng gịn, bỏ vơ cối giã thật nhuyễn để nặn hình nhân. Bơng gịn có
tác dụng “kết nối” đất sét lại với nhau mà khơng làm cho hình nhân bị nứt. Thầy pháp lấy thân cây dâu làm xương, lấy hạt cây
đu đủ tía làm tim, gan cho hình nhân. Xong các cơng đoạn, hình nhân được bỏ vào một chiếc quách nhỏ, thầy pháp bắt đầu gọi
hồn về để hồn “nhập” vào xác hình nhân. Hồn nhập xong, hình nhân được mang ra nghĩa địa.


Ơng Võ Văn Toại là đời thứ 8 của dòng họ Võ ở thơn Đơng, xã An Vĩnh chun nặn hình nhân trong các ngơi mộ gió. Nghe ơng
lý giải ý nghĩa của từng “nguyên liệu” để đưa vào “nội tạng” của hình nhân, chúng tơi chợt nhận ra rằng vì sao cây dâu vẫn tồn


tại và song hành với người dân Lý Sơn hàng trăm năm qua dù nghề nuôi tằm dệt vải khơng có ở hịn đảo này; bỗng hiểu vì sao
Lý Sơn đất chật người đơng như thế mà người dân vẫn dành một phần ít ỏi của quỹ đất để cho các ngơi mộ gió tồn tại. Với họ,
đó như là nghĩa trang liệt sĩ dành riêng cho những binh phu đi Hoàng Sa thuở trước, con cháu hơm nay cần phải chăm sóc và
giữ gìn.


Mộ gió là những gì cịn lại sau mỗi chuyến đi của những binh phu xấu số. Nhưng không hẳn vậy, ở phía xanh mờ nơi Hồng
Sa kia, những cột mốc chủ quyền của Tổ quốc đã được chính những binh phu ấy dựng lên bằng xương máu của mình. Có lẽ,
đó mới là những gì cịn lại để chúng ta suốt đời ơn nghĩa họ.


</div>

<!--links-->

×