Tải bản đầy đủ (.docx) (2 trang)

vai suy nghi ve viec doc sach hien nay cua hoc sinh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (38.72 KB, 2 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b> Vài suy nghĩ về việc đọc sách của học sinh </b>


Hoàng Minh Đức


<b> Hiện nay tình hình giáo viên và học sinh ở nhiều trờng phổ thông còn</b>
quá thờ ơ với việc đọc thêm sách tham khảo, nâng cao. Tiêu chí của một
tr-ờng tiên tiến, một trtr-ờng chuẩn quốc gia là th viện có "Tủ sách dùng chung",
phịng đọc phải có đầy đủ bàn ghế, hệ thống chiếu sáng, học sinh chỉ cần
chìa thẻ bạn đọc ra là có thể mợn đợc. Thử hỏi trong nớc ta có bao nhiêu
tr-ờng thực hiện nghiêm túc vấn đề này.


Đọc sách là một trong những phơng pháp bổ trợ kiến thức tốt nhất, nó
chắp cánh thêm cho bài giảng của thầy. Các lớp bồi dỡng học sinh giỏi, các
lớp chọn, các trờng chuyên, trờng ở thành phố, phong trào đọc sách tham
khảo, sách bồi dỡng, nâng cao khá phát triển. Sách khơng chỉ có ở trong th
viện, trong hiệu sách và ngay cả trên mạng Internet. Những học sinh thành
đạt, giành đợc nhiều giải thởng trong các kì thi chọn học sinh giỏi quốc gia,
quốc tế, đạt điểm cao trong các kì thi đại học đều nói rằng thành quả của họ
đạt đợc một phần nhờ vào việc đọc và giải các bài trong sách.


Là một ngời có tâm huyết với nghề, tơi rất băn khoăn với tình hình đọc
sách của giáo viên và học sinh hiện nay. Nhiều ngời đặt giá sách ở phịng
khách để trang trí, "khoe" với mọi ngời mình là ngời có học nhng khơng biết
trong sách đó viết gì. Nhiều em học sinh sợ thầy cơ kiểm tra vở soạn ở nhà,
mua sách "Hớng dẫn giải bài tập" về rồi chép vội vàng vào vở bài tập ở nhà
trớc lúc đến lớp, chứ không phải xem bài mình giải đã đúng với sách hay
ch-a. Tơi đã từng gặp hàng trăm trờng hợp, các em lên bảng làm đúng kết quả
nhng hỏi lại các bớc trung gian thì "bó tay". Nhiều em lên bảng kiểm tra bài
cũ lại nhìn vào bài viết trong lịng bàn tay hay những dòng chữ nhỏ li ti viết
xen kẽ vào giữa các hàng chữ của sách giáo khoa để chép bài giải lên bảng.
Giáo viên không tinh ý lại cứ tởng các em đó "làm tắt" chứ thực ra những em
đó khơng hiểu. Nhiều phụ huynh nói "Tơi khơng mua sách bài giải cho con


cái, nó làm h các cháu". Sách hớng dẫn bài giải không bao giờ làm h học
sinh, trái lại nó là "ngời thầy thứ hai" có tác dụng rất tốt cho các em. Khi các
em làm không ra mới giở bài giải ra để xem phơng pháp. Sách hớng dẫn chỉ
ghi gợi ý cách giải chứ khơng trình bày một mạch thẳng tuột ra từng câu chữ,
bởi vậy nó khơng làm giảm khả năng t duy của các em. Tác dụng này thay
cho câu hỏi gợi mở của ngời thầy khi học sinh bí. ứng dụng công nghệ thông
tin và sử dụng biểu đồ t duy nó hỗ trợ cho việc đổi mới phơng pháp, cải thiện
đợc tình trạng "nói nhiều" của ngời thầy nhng nhiều giáo viên đã lạm dụng
vấn đề này để "biểu diễn" bài dạy. Việc trình chiếu hồn hảo về các bớc lên
màn hình chỉ cung cấp thơng tin một chiều thơi thì làm sao phát huy đợc khả
năng t duy của học sinh. Ban đầu nghe một số giáo viên trao đổi với tơi điều
đó tơi cịn nghi ngờ nhng kiểm chứng lại thấy đúng. Tôi đã dự một tiết Hình
học lớp 8 của một giáo viên thao giảng. Có bài tập cho biết hai đờng tròn cắt
nhau mà đờng tròn này đi qua tâm của đờng tròn kia. Hỏi tứ giác tạo bởi hai
tâm và hai điểm giao nhau của hai đờng trịn có phải là hình thoi hay khơng.
Một học sinh xung phong trả lời là hình thoi, cơ chiếu đáp án lên màn hình
cũng là hình thoi. Tơi hỏi em học sinh đó "Em cho biết vì sao nó là hình
thoi". Em chìa cuốn "bảo bối" ra: "Tha thầy đáp án của cơ là hình thoi mà
sách bài giải cũng viết nh thế".


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

chiếu" một chiều nh thế chỉ có tác dụng tránh đợc "bệnh nói nhiều", chỉ "làm
đẹp" bài giảng thơi chứ học sinh khơng thu đợc kết quả gì mấy.


Gần đây nhiều em học sinh THCS mua sách bài tập trắc nghiệm về không
sử dụng. Nhiều trờng cho rằng phơng pháp trắc nghiệm, học sinh chỉ việc trả
lời có, khơng, đúng, sai sẽ khơng tập cho học sinh có kĩ năng làm bài tập tự
luận. Trừ các mơn nh Anh văn (địi hỏi kiểm tra nhiều về vốn từ) là họ cho ra
đề trắc nghiệm còn các mơn khác, bài kiểm tra có thời gian từ một tiết trở lên
nh bài khảo sát giữa kì, cuối kì, rất hạn chế ra. Thực ra phơng pháp dạy trắc
nghiệm không phải là "thủ phạm" làm cho các em khơng biết làm bài tự


luận. "Thủ phạm" chính là giáo viên chỉ truyền thụ kiến thức một chiều,
không biết phối hợp các phơng pháp khác. Cái "tội" của giáo viên khơng
chữa bài tập để học sinh biết vì sao có đáp án <i><b>đúng, sai, có, khơng. Hiện nay</b></i>
trong các kì thi đại học và trung học chuyên nghiệp có rất nhiều mơn áp
dụng hồn tồn bằng trắc nghiệm. Trắc nghiệm là khuynh hớng chung của
các nớc tiên tiến nh Mĩ, Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc .... Trắc nghiệm là
phơng pháp kiểm tra đánh giá học sinh một cách khách quan và chính xác,
gây đợc sự hào hứng và thúc đẩy học sinh học tập tích cực hơn.


Sách bài tập trắc nghiệm gồm 4 dạng cơ bản:
1- Trả lời các câu hỏi, bài tập có nhiều lựa chọn.


2- Câu hỏi, bài tập trắc nghiệm đúng sai.


3- Các câu hỏi và bài tập dạng ghép đôi (thờng dùng mũi tên).
4- Các câu hỏi và bài tập trắc nghiệm điền khuyết.


Bốn dạng trên bổ khuyết cho nhau giúp cho học sinh tự đánh giá kiến
thức của mình thơng qua đáp án đằng sau sách. Dạy trắc nghiệm, ngời thầy
giáo phải giải thích, chứng minh cho học sinh hiểu vì sao có đáp án đó. Phải
biết hỏi ngợc lại học sinh các kết quả mà các em đã trả lời. Khi các em đọc
mà vẫn khơng hiểu thì ngời thầy phải giảng cho các em hiểu thật kĩ càng,
cặn kẻ.


ë n«ng th«n, một số phụ huynh hiểu biết phơng pháp dạy con còn hạn
chế. Họ hoàn toàn giao khoán con mình cho các thầy cô. Họ không biết mua
thêm sách và hớng dẫn con tham khảo thêm kiến thức trong sách.


Đã từng bồi dỡng đội tuyển học sinh giỏi nhiều năm, tôi thấy ngời thầy
muốn có học sinh giỏi thì phải biết hớng dẫn cho học sinh đọc sách. Thầy


giáo có thể phơ tơ tất cả các tài liệu bồi dỡng, nâng cao mà thầy đang dạy
cho học trò cùng nghiên cứu.


</div>

<!--links-->

×