Tải bản đầy đủ (.docx) (92 trang)

Giao duc the gioi quan duy vat bien chung cho sinh vieno Tay Nguyen hien nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (395.5 KB, 92 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>MỞ ĐẦU</b>


<b>1. Tính cấp thiết của đề tài</b>


Trong sự nghiệp đổi mới, nhất là trong quá trình đẩy mạnh cơng
nghiệp hố, hiện đại hố đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức nhằm
mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh, từng bước vững
chắc đi lên chủ nghĩa xã hội, nhiệm vụ đào tạo nguồn nhân lực, bồi dưỡng
nhân tài, khai thác và sử dụng tốt nhất mọi tiềm năng về thể chất và trí tuệ,
mọi khả năng sáng tạo của từng người và của toàn thể cộng đồng dân tộc
có ý nghĩa vơ cùng quan trọng. Đặc biệt là việc bồi dưỡng và đào tạo
nguồn nhân lực trẻ lại càng có ý nghĩa quan trọng, vì nó sẽ quyết định mức
độ thành công của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước ta,
quyết định chúng ta có đạt được mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh hay không. Đồng thời, đây cũng là sự chuẩn
bị về mọi mặt cho thế hệ trẻ bước vào thế kỷ XXI một cách vững chắc, tự
tin, sánh vai cùng với tuổi trẻ trên thế giới. Đại hội X của Đảng xác định
rõ: “Đối với thế hệ trẻ, thường xuyên giáo dục chính trị, truyền thống, lý
tưởng, đạo đức và lối sống; tạo điều kiện học tập, lao động, giải trí, phát
triển thể lực, trí tuệ, góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”.


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

Trong bối cảnh kinh tế, chính trị trên thế giới và trong nước có những
diễn biến phức tạp, trên địa bàn Tây Nguyên các thế lực thù địch tiếp tục
chống phá Đảng và Nhà nước ta với nhiều thủ đoạn, âm mưu nhằm chia rẽ
khối đại đồn kết dân tộc, lơi kéo và tha hố thế hệ trẻ, nhằm làm cho thế
hệ trẻ bị phai nhạt lý tưởng xã hội chủ nghĩa. Đồng thời nền kinh tế thị
trường cũng có nhiều tác động tiêu cực đối với sinh viên. Điển hình là các
biểu hiện của lối sống thực dụng, tâm lý trông chờ vào may rủi, một bộ
phận đang chịu ảnh hưởng thế giới quan tôn giáo, duy tâm… Thực tế ở Tây
Nguyên đã xuất hiện một bộ phận khơng nhỏ sinh viên có lối sống mơ hồ
về chính trị, phai nhạt lý tưởng xã hội chủ nghĩa, thậm chí suy thối về đạo


đức… và, họ đang bị các thế lực phản động kích động, lôi kéo. Điều tai hại
là, với “hành trang” tư duy ấy, đang tiềm tàng trong họ những triển vọng
không đáng mong đợi của những người mang vị thế chủ nhân tương lai của
đất nước.


Xây dựng một thế giới quan khoa học cho sinh viên là nhiệm vụ
chiến lược trong quá trình giáo dục đội ngũ lao động dự bị và cũng là
những chủ nhân tương lai của dân tộc, theo đó, lại là cơng việc vơ cùng cần
thiết. Chính vì vậy, giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng cho của đội
ngũ sinh viên ở Tây Nguyên là nhiệm vụ cấp bách hiện nay.


Với ý nghĩa đó, tơi chọn đề tài “<i><b>Giáo dục thế giới quan duy vật biện</b></i>
<i><b>chứng cho sinh viên ở Tây Nguyên hiện nay” làm luận văn Thạc sĩ chuyên</b></i>
ngành Triết học.


<b>2. Tình hình nghiên cứu liên quan đền đề tài</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

Ở một góc độ khác, Lê Xuân Vũ khẳng định <i>“Thế giới quan Mác </i>
<i>-Lênin trong đời sống tinh thần của nhân dân ta”, Tạp chí Cộng sản, 186, số</i>
6. Trong đó tác giả đã có sự lý giải khá thuyết phục tầm quan trọng của thế
giới quan Mác - Lênin trong đời sống xã hội Việt Nam. Hay như tác giả
Nguyễn Trọng Chuẩn đã tiếp cận vấn đề thế giới từ khía cạnh sinh học, trong
bài “Một số khía cạnh về vai trị của sinh học hiện đại đối với sự hình thành
<i>và củng cố thế giới quan khoa học”, đăng ở Tạp chí Triết học 1988, số 3.</i>


Ngồi một số bài viết trên, cịn có một số luận án và luận văn cũng
nghiên cứu vấn đề thế giới quan. Bùi Ỉnh đã nghiên cứu “Vấn đề xây dựng
<i>thế giới quan duy vật biện chứng đối với cán bộ đảng viên là người dân tộc</i>
<i>thiểu số trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta”</i>, Luận án PTS
Triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, 1988. Cịn Trần Thước


tập trung nghiên cứu thế giới quan của riêng đội ngũ trí thức: “Sự hình thành
<i>thế giới quan xã hội chủ nghĩa ở tầng lớp trí thức ở Việt Nam”</i>, Luận án PTS
Triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, 1993.


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

Luận văn thạc sĩ Triết học của Bùi Kiến Thưởng, Học viện Chính trị quốc gia
Hồ Chí Minh, 2004.


Tất cả những tác giả trên đã đề cập đến:


- Khái niệm thế giới quan nói chung, thế giới quan khoa học nói riêng,
cấu trúc và chức năng của thế giới quan.


- Tầm quan trọng và tính tất yếu của việc xây dựng thế giới quan duy
vật biện chứng cho các đối tượng như: sinh viên, học viên, cán bộ nói chung
trong cơng cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội.


- Nêu ra những nhân tố cơ bản trong việc hình thành, tác động phát
triển thế giới quan duy vật biện chứng.


- Đưa ra một số giải pháp cụ thể và những quan điểm nhằm bồi dưỡng
và phát triển thế giới quan duy vật biện chứng cho một số đối tượng cụ thể.


Riêng vấn đề giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng cho sinh viên ở
Tây Nguyên hiện chưa có tác giả nào bàn tới.


Xuất phát từ tình hình thực tế biểu hiện thế giới quan của sinh viên các
trường Đại học, Cao đẳng ở Tây Nguyên, từ tầm quan trọng của việc giáo dục
thế giới quan duy vật biện chứng đối với thế hệ trẻ và đối với đội ngũ sinh
viên, với mong muốn đóng góp một phần vào sự nghiệp bồi dưỡng, đào tạo
nguồn nhân lực cho đất nước, tôi chọn đề tài: “Giáo dục thế giới quan duy


<i><b>vật biện chứng cho sinh viên ở Tây Nguyên hiện nay”. </b></i>


<b>3. Mục đích, nhiệm vụ, phạm vi nghiên cứu</b>
<i><b>3.1. Mục đích của luận văn</b></i>


Trên cơ sở phân tích thực trạng của việc giáo dục thế giới duy vật biện
chứng cho sinh viên ở Tây Nguyên hiện nay, tác giả luận văn đưa ra một số
giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả giáo dục thế giới
quan duy vật biện chứng cho tầng lớp này.


<i><b>3.2. Nhiệm vụ của luận văn</b></i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

- Phân tích vai trị, tầm quan trọng của việc giáo dục thế giới quan duy
vật biện chứng; xác định những nhân tố tác động đến thế giới quan và quá
trình giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng cho sinh viên.


- Làm rõ thực trạng, những vấn đề đặt ra trong quá trình giáo dục thế
giới quan duy vật biện chứng và đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng
cao chất lượng và hiệu quả quá trình này cho sinh viên Tây Nguyên.


<b>4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn</b>
<i><b>4.1. Đối tượng nghiên cứu</b></i>


Luận văn nghiên cứu thực trạng và bước đầu đưa ra một số giải pháp
chủ yếu để nâng cao chất lượng, hiệu quả nhằm giáo dục thế giới quan duy
vật biện chứng cho sinh viên ở Tây Nguyên hiện nay.


<i><b>4.2. Phạm vi nghiên cứu </b></i>


Luận văn tập trung nghiên cứu vấn đề giáo dục thế giới quan duy vật


biện chứng cho sinh viên các trường Đại học, Cao Đẳng ở Tây Nguyên trong
giai đoạn 10 năm gần đây (2000 - 2009) từ góc độ triết học.


<b>5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn</b>
<i><b>5.1. Cơ sở lý luận</b></i>


Từ các quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các
văn kiện của Đảng Cộng sản Việt Nam trong lĩnh vực giáo dục thế giới quan,
nhận thức luận…cho thế hệ trẻ và sinh viên, tác giả kế thừa những thành tựu lý
luận của các tác giả về những vấn đề có liên quan đến đề tài.


<i><b>5.2. Phương pháp nghiên cứu</b></i>


Luận văn vận dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện
chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, kết hợp với phương pháp phân tích và
tổng hợp, lơgíc và lịch sử, phương pháp điều tra xã hội học…


<b>6. Những đóng góp về khoa học của luận văn </b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

- Đánh giá đúng thực trạng và bước đầu đề xuất một số giải pháp cơ bản
nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng cho họ.


<b>7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn</b>


- Luận văn góp phần làm sáng tỏ những cơ sở khoa học nhằm nâng cao
hiệu quả giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng cho sinh viên ở Tây Nguyên.


Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho công tác giáo dục
-đào tạo ở các trường Đại học, Cao Đẳng.



<b>8. Kết cấu của luận văn</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

<b>Chương 1</b>


<b>THẾ GIỚI QUAN DUY VẬT BIỆN CHỨNG VÀ </b>


<b>TẦM QUAN TRỌNG CỦA VIỆC GIÁO DỤC THẾ GIỚI QUAN DUY</b>
<b>VẬT BIỆN CHỨNG CHO SINH VIÊN Ở TÂY NGUYÊN HIỆN NAY</b>


<b>1.1. THẾ GIỚI QUAN VÀ THẾ GIỚI QUAN DUY VẬT BIỆN CHỨNG </b>


<b>1.1.1. Thế giới quan</b>


Do yêu cầu tự nhiên và tất yếu của cuộc sống, con người khơng chỉ
thích nghi với hồn cảnh bên ngồi một cách thụ động mà ln ln phải
tìm cách biến đổi nó nhằm phục vụ cho nhu cầu cuộc sống của mình. Để
đạt được mục đích đó, con người nảy sinh nhu cầu tìm hiểu giới tự nhiên
cũng như chính bản thân mình. Từ đó một loạt vấn đề xuất hiện: Thế giới
quanh ta là gì? Bản chất của nó ra sao? Sức mạnh nào chi phối sự tồn tại và
biến đổi của nó? Con người là gì? Con người có vị trí như thế nào trong thế
giới đó? Cuộc sống con người có ý nghĩa gì?... Trả lời những câu hỏi này
sẽ hình thành ở con người những quan điểm, quan niệm nhất định về thế
giới, về vị trí con người trong thế giới ấy. Đó là cơ sở để hình thành thế
giới quan của con người.


Thế giới quan xuất hiện từ thời nguyên thuỷ, song với tư cách là một
khái niệm khoa học thì được nghiên cứu và xuất hiện vào thế kỷ XVIII, do
Kant - nhà triết học cổ điển Đức nêu ra. Các nhà triết học người Đức nửa đầu
thế kỷ XIX và các nhà triết học sau này đã tiếp tục sử dụng khái niệm trên
trong các học thuyết của mình. Tiếp nối truyền thống đó, C.Mác và


Ph.Ăngghen, đã kế thừa và phát triển thành một thế giới quan khoa học trên
lập trường duy vật biện chứng.


</div>
<span class='text_page_counter'>(8)</span><div class='page_container' data-page=8>

quan là: “toàn bộ những nguyên tắc, quan điểm và niềm tin quy định hướng
hoạt động và quan hệ của từng người, của tập đoàn xã hội, của một giai cấp
hay xã hội nói chung đối với thực tại”[56, tr.539].


Theo một tác giả khác, thế giới quan là “một hệ thống nhất định những
lời giải đáp những vấn đề cội nguồn của thế giới và nguồn gốc của tri thức, về
vị trí của con người trong thế giới, về ý nghĩa của cuộc sống và đặc trưng của
tiến bộ xã hội”[25, tr.42].


Hay một quan niệm khác:


Thế giới quan là hệ thống những quan điểm của một chủ thể về
thế giới, về những hiện tượng về tự nhiên và xã hội và các quy luật
phát triển của chúng, về bản thân con người, về vị trí, vai trị của
con người trước thế giới. Nói một cách khác, thế giới quan là phản
ánh tồn tại vật chất và xã hội của con người [53, tr.10].


Từ những quan điểm về thế giới quan ở trên chúng tôi quan niệm
rằng: Thế giới quan là hệ thống những quan điểm của một người hoặc
<i>một tập đoàn người, một giai cấp hay toàn xã hội về thế giới và về vị trí,</i>
<i>vai trị của con người trong thế giới đó, về chính bản thân cuộc sống con</i>
<i>người và lồi người trong mỗi giai đoạn lịch sử nhất định. </i>Trên cơ sở đó,
thế giới quan định hướng cho hoạt động nhận thức, hoạt động cải tạo thế
giới của họ, điều chỉnh hành vi của con người trong cuộc sống hàng ngày.


</div>
<span class='text_page_counter'>(9)</span><div class='page_container' data-page=9>

Cũng theo cách hiểu thế giới quan như trên, thì thế giới quan gồm có
thế giới quan cá nhân, thế giới quan giai cấp và thế giới quan xã hội.



<i>Thế giới quan cá nhân là những kinh nghiệm sống, những tri thức của</i>
cá nhân nhất định về tự nhiên, xã hội và con người xung quanh. Tri thức tích
luỹ được giúp cá nhân có lập trường để bảo vệ những quan điểm của riêng
mình. Tri thức và niềm tin của mỗi người được phát triển đến một mức độ nào
đó sẽ tạo nên lý tưởng sống của người đó. Như vậy, sự hình thành thế giới
quan cá nhân là một quá trình lâu dài và phụ thuộc nhiều yếu tố, nhiều điều
kiện khác nhau. Chẳng hạn như: trình độ hiểu biết của từng người, chế độ xã
hội, địa bàn sinh sống, điều kiện vật chất và tinh thần của cá nhân, và nhất là
yếu tố giáo dục. Chính vì vậy, phẩm chất của thế giới quan cá nhân có thể thể
thay đổi theo những yếu tố và điều kiện đó. Do đó, việc giáo dục thế giới
quan đúng đắn, khoa học cho cá nhân là rất cần thiết cho một xã hội tiến bộ.


<i>Thế giới quan giai cấp là hệ thống những quan điểm của một giai cấp</i>
về thế giới, về con người và về vị trí, vai trị, lợi ích của giai cấp ấy, nó phản
ánh vị thế (tiến bộ hay lạc hậu) của giai cấp đó trong tiến trình của lịch sử.


<i>Thế giới quan xã hội là hệ thống những quan điểm về thế giới, về vị trí</i>
con người trong thế giới được xây dựng trên những phạm trù, nguyên lý;
được trình bày trong học thuyết của giai cấp thống trị trong đó lợi ích của giai
cấp thống trị “được trình bày như đại diện cho lợi ích của tồn xã hội”. Thế
giới quan xã hội do các nhà tư tưởng, các nhà lý luận xây dựng nên, nó có thể
khoa học, có thể khơng khoa học. Điều này phải được thực tiễn kiểm nghiệm,
chứng minh là khoa học hay không.


</div>
<span class='text_page_counter'>(10)</span><div class='page_container' data-page=10>

Trong nội dung tri thức về thế giới quan thì những tri thức triết học đóng vai
trị nền tảng của mọi thế giới quan ở các giai đoạn phát triển của nó.


<i>- Niềm tin: niềm tin là một động lực thúc đẩy khát vọng nhận thức và</i>
cải tạo hiện thực của con người, nó được phát triển trên cơ sở tri thức.


Niềm tin là một trạng thái tâm lý, tinh thần đặc biệt, nó có vai trị to lớn
trong hoạt động của con người. Nếu con người làm một việc gì đó, mà
khơng có niềm tin vào sự đúng đắn của tri thức, của tư tưởng thì con người
sẽ bị tước mất những rung động ý chí, khát vọng, nghị lực, lịng nhiệt tình,
sự cổ vũ cần thiết đối với công việc, đặc biệt là đối với những công việc xã
hội rộng lớn. Niềm tin giúp con người có nghị lực để có thể vượt qua được
những giây phút hiểm nghèo và dám hy sinh vì những mục đích cao cả.
Như vậy, niềm tin được xác lập trên cơ sở của tri thức khoa học sẽ thúc đẩy
sự tiến bộ của xã hội.


<i>- Lý tưởng: đó là sự kết hợp niềm tin và tri thức vào một tiêu chí, hình</i>
mẫu, sự hồn thiện, mục tiêu tối cao của ý nguyện và hoạt động thực tiễn, mơ
hình tuyệt vời trong thực tế đối với một cá nhân, một nhóm người hay một xã
hội. Lý tưởng giúp con người định hình được cuộc sống, sống có mục đích, có
khát vọng.


Như vậy, trong ba yếu tố cấu thành thế giới quan, tri thức là cơ sở trực
tiếp cho sự hình thành thế giới quan, nhưng tri thức chỉ gia nhập vào thế giới
quan khi đã trở thành niềm tin của con người qua sự thể nghiệm lâu dài trong
cuộc sống của họ và sự hình thành lý tưởng là sự phát triển ở trình độ cao của
thế giới quan.


Trong lịch sử phát triển của xã hội, thế giới quan được thể hiện dưới
nhiều hình thức đa dạng khác nhau, nhưng tập trung ở ba hình thức chủ yếu:
thế giới quan thần thoại, thế giới quan tôn giáo và thế giới quan triết học.


</div>
<span class='text_page_counter'>(11)</span><div class='page_container' data-page=11>

nguyên thuỷ về thế giới và con người mà trong đó có sự hồ quyện giữa cái
có thật và cái hoang tưởng, cái hiện thực và cái hư ảo, cái lý trí và cái tín
ngưỡng, tư duy và cảm xúc…



<i>Thế giới quan tôn giáo: là sự phản ánh một cách hư ảo hiện thực. Nó</i>
xuất phát trong bối cảnh trình độ nhận thức và thực tiễn của con người còn
thấp kém, khi con người bất lực hoàn toàn trước sức mạnh “thần thánh” của
tự nhiên (sấm sét, bão lụt, động đất, thú dữ, hạn hán…) và sức mạnh “thần bí”
của xã hội (bệnh tật, nỗi khổ cực, áp bức, thống trị…). Trong điều kiện đó,
con người đã thần thánh hoá các lực lượng tự nhiên và các thế lực xã hội, gán
cho chúng một sức mạnh siêu nhiên. Có thể nói rằng, đặc trưng chủ yếu của
thế giới quan tôn giáo là ở “niềm tin sợ hãi” của con người vào sự tồn tại và
sức mạnh siêu nhiên của thần thánh. Đồng thời, là sự bày tỏ nguyện vọng
được giải thoát khỏi những khổ đau để vươn tới hạnh phúc vĩnh hằng. Yếu tố
nền tảng trong thế giới quan tôn giáo là niềm tin tôn giáo, bao gồm cả niềm
tin vào khả năng đạt tới cuộc sống tốt đẹp.


<i>Thế giới quan triết học: là trình độ cao của thế giới quan. Nó ra đời trên</i>
cơ sở trình độ nhận thức của con người đã đạt đến sự khái quát hoá, trừu
tượng hoá. Hơn nữa, thế giới quan triết học thường được các lực lượng xã hội
sử dụng để truyền bá hệ tư tưởng của giai cấp mình. Thế giới quan triết học
diễn tả những vấn đề của thế giới bằng hệ thống lý luận các khái niệm, phạm
trù, quy luật. Nó khơng chỉ trình bày các quan điểm của mình, mà cịn luận
chứng cho các quan điểm ấy bằng lý tính và những cơ sở khoa học nhất định.
Khi phân biệt thế giới quan triết học với các thế giới quan khác C.Mác viết:


</div>
<span class='text_page_counter'>(12)</span><div class='page_container' data-page=12>

hoài nghi; các vị doạ dẫm, triết học an ủi. Và, thật thế, triết học biết
cuộc sống khá đầy đủ để hiểu rằng những kết luận của nó khơng bao
dung sự khao khát hưởng lạc và lịng vị kỷ - của cả thiên giới lẫn
thế giới trần tục [32, tr.416].


Có thể chia thế giới quan triết học thành thế quan duy vật và thế giới
quan duy tâm.



<i>Thế giới quan duy tâm thừa nhận bản chất của thế giới là tinh thần, vai</i>
trò quyết định của các yếu tố tinh thần đối với thế giới nói chung, bao gồm tự
nhiên, xã hội và con người. Thế giới quan duy tâm bao gồm thế giới quan duy
tâm khách quan và thế giới quan duy tâm chủ quan. Thế giới quan duy tâm
khách quan coi cơ sở của thế giới vật chất là thế giới tinh thần đã có trước và
sinh ra thế giới các sự vật, hiện tượng. Cịn thế giới quan duy tâm chủ quan
thì tuyệt đối hố vai trị của cảm giác, coi nó là cơ sở để tạo nên mọi sự vật,
hiện tượng trong thế giới.


<i>Thế giới quan duy vật thừa nhận bản chất thế giới là vật chất, thừa nhận</i>
vai trò quyết định của vật chất đối với các biểu hiện của đời sống tinh thần và
thừa nhận vị trí của con người trong cuộc sống hiện thực. Thế giới quan duy
vật gồm thế giới quan duy vật thời cổ đại, thế giới quan siêu hình và đỉnh cao
là thế giới quan duy vật biện chứng.


Như vậy, thế giới quan triết học là thế giới quan có trình độ cao nhất
trong các nấc thang của thế giới quan. Bởi tri thức triết học mang tính khái
quát cao và triết học là hệ thống những quan điểm chung nhất của con người
về thế giới và về vị trí vai trị của con người trong thế giới đó.


<b>1.1.2. Thế giới quan duy vật biện chứng</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(13)</span><div class='page_container' data-page=13>

<i>hướng giá trị của con người mang giá trị hiện thực trong mối quan hệ, vận</i>
<i>động, biến đổi và phát triển.</i>


Thế giới quan duy vật biện chứng là thế giới quan của giai cấp cơng nhân,
đó là thế giới quan có sự thống nhất giữa tính cách mạng và tính khoa học.


Tính khoa học thể hiện ở chỗ nó khơng chỉ cắt nghĩa sự tồn tại, vận
động của thế giới từ các yếu tố vật chất, mà còn thấy sự đa dạng, phong phú


của thế giới vật chất và mối quan hệ của bản thân thế giới đó cũng như sự vận
động, biến đổi khơng ngừng của nó. Do đó, thế giới quan duy vật biện chứng
nhìn nhận thế giới khách quan một cách thực sự khoa học nhất. Nó là sự kế
thừa nền tảng tri thức của nhân loại tiến bộ. Tri thức của thế giới quan duy vật
biện chứng là sự khái quát hoá cao của tri thức khoa học tự nhiên, khoa học
xã hội và khoa học tư duy trong quá trình vận động và phát triển của tri thức
nhân loại.


Tính cách mạng thể hiện ở chỗ, thế giới quan duy vật biện chứng khơng
thừa nhận bất cứ một cái gì là tuyệt đích, cuối cùng. Nó thừa nhận sự phát
triển như một nguyên lý phổ biến của thế giới khách quan; chống lại mọi sự
bảo thủ, trì trệ, ngưng đọng từ tư duy cho đến hành động. Vì vậy nó tạo ra
tinh thần cách mạng trong con người, tạo ra ý thức cải biến thế giới khách
quan để phục vụ cuộc sống của con người. Thế giới quan duy vật biện chứng
không thoả hiệp với bất kỳ một tư tưởng phản khoa học nào. Nó có tính phê
phán, tính chiến đấu cao để cải tạo cái cũ, xây dựng cái mới. Do đó, thế giới
quan duy vật biện chứng khơng chỉ giúp con người khám phá và giải thích thế
giới mà con giúp con người tìm ra cách cải tạo thế giới.


Thế giới quan duy vật biện chứng gồm ba yếu tố cơ bản quan hệ hữu cơ
với nhau: đó là tri thức khoa học, niềm tin khoa học và lý tưởng cách mạng.


</div>
<span class='text_page_counter'>(14)</span><div class='page_container' data-page=14>

chứng, các khoa học tự nhiên và khoa học xã hội. Những tri thức đó góp phần
định hướng cho con người trong hoạt động cải tạo hiện thực. Trong đó, những
tri thức của Triết học Mác - Lênin đóng vai trị nền tảng, là hạt nhân lý luận
của thế giới quan duy vật biện chứng. Bởi vì:


- Triết học Mác - Lênin giải quyết đúng đắn vấn đề cơ bản của triết học
trên cơ sở thực tiễn. Theo chủ nghĩa duy vật mác-xít, một mặt, vật chất có
trước, ý thức có sau, vật chất suy cho cùng quyết định ý thức; mặt khác, ý


thức cũng tác động trở lại đối với vật chất. Ý thức phản ánh hiện thực khơng
chỉ trong q trình hiện thực tác động một cách giản đơn lên nó mà điều quan
trọng là phản ánh trong quá trình con người cải tạo, biến đổi hiện thực. Đây là
quan hệ tác động hai chiều trên cơ sở thực tiễn. Cái vật chất muốn được “di
chuyển và cải biến trong bộ óc” phải thông qua hoạt động thực tiễn. Trái lại, ý
thức muốn tác động vào thế giới vật chất để làm biến đổi nó thì cũng phải
thơng qua hoạt động thực tiễn. Nhờ có hoạt động thực tiễn mới biến những
chương trình, kế hoạch của con người thành hiện thực vật chất. Bằng hoạt
động thực tiễn con người cải biến sự vật trong hiện thực, từ đó cải biến sự vật
trong tư tưởng. Như vậy, thực tiễn trở thành khâu trung gian giữa cái vật chất
và cái tinh thần.


</div>
<span class='text_page_counter'>(15)</span><div class='page_container' data-page=15>

- Triết học Mác - Lênin là chủ nghĩa duy vật triệt để. Bởi thiếu sót lớn
nhất của chủ nghĩa duy vật trước Mác là tính chất duy vật không triệt để, tức
duy vật trong tự nhiên nhưng lại duy tâm trong xã hội. Khi nghiên cứu và phát
triển chủ nghĩa duy vật, Mác đã mở rộng học thuyết nhận thức tự nhiên đến
nhận thức xã hội loài người, và ơng đã khắc phục được thiếu sót trên, làm cho
chủ nghĩa duy vật trở nên triệt để, sáng tạo ra chủ nghĩa duy vật lịch sử là
thành tựu vĩ đại nhất của tư tưởng khoa học. Với quan niệm duy vật về lịch sử
của Mác, loài người tiến bộ đã có một cơng cụ vĩ đại trong hoạt động nhận
thức và cải tạo thế giới.


- Triết học Mác - Lênin là thế giới quan của giai cấp công nhân, nhưng
lợi ích của giai cấp cơng nhân lại phù hợp với lợi ích của nhân dân lao động.
Cho nên sự ra đời của triết học Mác, lần đầu tiên trong lịch sử, nhân dân lao
động có được một thế giới quan thực sự của mình. Đó là thế giới quan cách
mạng và khoa học, là vũ khí tư tưởng trong cuộc đấu tranh giải phóng giai cấp
cơng nhân, nhân dân lao động và toàn thể nhân loại khỏi áp bức bóc lột.


Về tri thức khoa học, cho đến nay tồn bộ tri thức khoa học mà nhân


loại đạt được vẫn chỉ chứng minh một điều: trong vũ trụ khơng có gì khác
ngồi những q trình vật chất đang vận động. Vật chất thể hiện dưới nhiều
hình thức, mn hình, mn vẻ, nhưng suy cho cùng là thực tại khách quan,
tồn tại khách quan độc lập với ý thức con người. Thế giới thống nhất ở tính
vật chất của nó. Ý thức suy cho cùng cũng chỉ là một thuộc tính đặc biệt của
một dạng vật chất có tổ chức cao, đó là bộ óc con người và chỉ là sản phẩm
duy nhất của bộ óc người. Như vậy, chỉ có một thế giới duy nhất và thống
nhất, đó là thế giới vật chất. Nó tồn tại vĩnh viễn, vơ hạn, vô tận, không được
sinh ra và không bị mất đi. Điều này đã minh chứng rằng những tri thức của
triết học mác-xít vẫn là hạt nhân của thế giới quan khoa học hiện đại - thế giới
quan duy vật biện chứng.


</div>
<span class='text_page_counter'>(16)</span><div class='page_container' data-page=16>

tri thức khoa học với hoạt động thực tiễn. Niềm tin khoa học giúp con người
tin tưởng vào những hành động hướng tới chân lý, xác định những mục tiêu
cao cả để vươn tới.


Yếu tố thứ ba trong cấu trúc thế giới quan duy vật biện chứng là lý
tưởng cách mạng. Lý tưởng cách mạng trong thế giới quan duy vật biện
chứng là sự kết hợp giữa tri thức khoa học và niềm tin khoa học. Đó là lý
tưởng cao đẹp. Nó vừa là mục tiêu cao cả mà con người hướng tới, vừa là
động lực thôi thúc con người hành động, thiếu lý tưởng con người cảm thấy
mất phương hướng, mất niềm tin và cảm thấy cuộc đời thật tẻ nhạt. Chính lý
tưởng khơi dậy sự nỗ lực nhận thức, sự nồng nhiệt của tình cảm, sự mãnh liệt
của ý chí và quyết tâm trong hành động giúp con người vươn tới mục tiêu cao
cả không quản gian khổ, hy sinh. Lý tưởng cách mạng là sự thống nhất giữa
tri thức, tình cảm, ý chí sẵn sàng hoạt động, trong đó yếu tố tri thức khoa học
đóng vai trị quan trọng nhất bởi lý tưởng chỉ thật sự có tính hiện thực khi nó
được xây dựng trên cơ sở niềm tin vững chắc vào chân lý mà tri thức khoa
học đem lại. Vì vậy, lý tưởng có tác dụng như ngọn đèn định hướng thúc đẩy
con người hoạt động một cách tự giác, thông minh, sáng tạo và quả cảm để


đạt tới đối tượng của niềm tin, cuộc sống chỉ cao quí khi con người sống có lý
tưởng. Sống có lý tưởng, có hồi bão ước mơ, con người sẽ nhân đơi ý nghĩa
cuộc sống của chính mình, giúp con người vươn lên làm chủ tự nhiên, làm
chủ xã hội và làm chủ bản thân.


<b>1.2.</b> <b>TẦM QUAN TRỌNG CỦA VIỆC GIÁO DỤC THẾ GIỚI QUAN DUY</b>
<b>VẬT BIỆN CHỨNG CHO SINH VIÊN Ở TÂY NGUYÊN HIỆN NAY</b>


<b>1.2.1. Sự cần thiết phải giáo dục giáo dục thế giới quan duy vật biện</b>
<b>chứng cho sinh viên</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(17)</span><div class='page_container' data-page=17>

khoa học thống nhất lấy mốc bắt đầu từ sau tuổi phổ thông trung học và kết
thúc vào khoảng 25 tuổi, vì ở độ tuổi này con người đã hoàn thành sự phát
triển về thể chất.


Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin đặc biệt quan tâm đến
thế hệ này và đánh giá rất cao vai trị, vị trí của họ trong sự nghiệp cách mạng.
C.Mác cho rằng: thanh niên là cội nguồn sức sống của dân tộc, còn
Ph.Ăngghen đề xuất tư tưởng: thanh niên khơng thể đứng ngồi chính trị,
chính hiện thực của đời sống đã, đang và sẽ cuốn hút lớp trẻ vào đời sống
chính trị. Ơng nhấn mạnh rằng, thanh niên không bao giờ thoả mãn với lý
tưởng trước đây, họ muốn được tự do hơn trong hành động, họ khao khát lập
chiến cơng và vì sự đổi mới, họ sẵn sàng hiến dâng cả máu và cuộc đời mình.
Thanh niên sẽ có đủ sức lực và tài năng để giải quyết những mâu thuẫn đang
nảy sinh trong đời sống của đất nước. Phát triển tư tưởng của C.Mác và
Ph.Ăngghen, V.I.Lênin cho rằng: “Thanh niên là nguồn sinh lực chiến đấu
của cách mạng”.


Khi khẳng định vị trí, vai trị của thanh niên, các nhà sáng lập chủ nghĩa
Mác - Lênin đã chú ý rất nhiều đến nhiệm vụ giáo dục thanh niên, coi đó là


biện pháp hàng đầu để đào tạo con người mới với tư cách là chủ thể sáng tạo
có ý thức của xã hội mới - xã hội xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa.


Những quan điểm của C. Mác, Ph. Ăngghen và V.I.Lênin về vị trí, vai
trị của thanh niên là yếu tố cực kỳ quan trọng trong việc hình thành những
quan điểm của Hồ Chí Minh về chăm lo bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời
sau. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra:


</div>
<span class='text_page_counter'>(18)</span><div class='page_container' data-page=18>

Trong Di chúc, Người căn dặn: bồi dưỡng thế hệ cho cách mạng cho
đời sau là một việc rất quan trọng và rất cần thiết.


Ngày nay, đất nước ta đang đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hố,
hiện đại hố. Với vai trị tiên phong trong sự nghiệp này, thanh niên, đặc
biệt là thanh niên trí thức - mà hôm nay họ là sinh viên - là một trong
những nhân tố quyết định sự thành bại của sự nghiệp đó. Hội nghị Ban
Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 7 (khoá X) khẳng định: <i>Thanh niên là</i>
<i>rường cột của nước nhà, chủ nhân tương lai của đất nước, là lực lượng</i>
<i>xung kích trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, một trong những nhân tố</i>
<i>quyết định sự thành bại của sự nghiệp cơng nghiệp hố, hiện đại hoá đất</i>
<i>nước, hội nhập quốc tế và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Thanh niên được đặt</i>
<i>ở vị trí trung tâm trong chiến lược bồi dưỡng, phát huy nhân tố và nguồn</i>
<i>lực con người. Chăm lo, phát triển, thanh niên vừa là mục tiêu, vừa là</i>
<i>động lực bảo đảm cho sự ổn định và phát triển vững bền của đất nước</i>. Do
đó, để hồn thành sứ mệnh của mình, địi hỏi thanh niên phải có bản lĩnh,
trình độ, hồi bão và có lý tưởng cách mạng, tuyệt đối trung thành với
đường lối lãnh đạo của Đảng, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội và công
cuộc đổi mới mà Đảng và nhân dân ta đang thực hiện.


Giáo dục là một hiện tượng xã hội, là quá trình tác động có mục đích,
có kế hoạch, ảnh hưởng tự giác, chủ động đến con người đưa đến sự hình


thành và phát triển tâm lý, ý thức, nhân cách. Nói cách khác giáo dục là quá
trình hoạt động thống nhất hữu cơ giữa hai mặt dạy và học. Trong quá trình
giáo dục, bao giờ cũng có một hệ thống cần phải giải quyết đó là: mục đích,
nhiệm vụ, đối tượng, nội dung, chương trình, giảng viên, động cơ dạy và học
cùng các phương tiện giáo dục khác, nhằm đào tạo con người đáp ứng yêu
cầu phát triển đất nước trong từng giai đoạn lịch sử.


</div>
<span class='text_page_counter'>(19)</span><div class='page_container' data-page=19>

chế độ xã hội mà họ xây dựng. Tính giai cấp được bộc lộ rất đa dạng trong
nền giáo dục của mỗi quốc gia khác nhau, mỗi chế độ khác nhau.


Giáo dục theo quan điểm phong kiến nhằm đào tạo ra những con người
trung hiếu. Còn giáo dục theo quan điểm tư bản chủ nghĩa nhằm tạo ra con
người thạo việc và tích cực, những nhà buôn, những nhà công nghiệp để phục
vụ lợi ích cho giai cấp tư sản… Giáo dục theo quan điểm của chủ nghĩa Mác
-Lênin nhằm tạo ra những con người phát triển toàn diện: “Biết thấm nhuần
tổng số những kiến thức của nhân loại mà chủ nghĩa cộng sản là kết quả bởi
vì tương lai của lồi người hoàn toàn phụ thuộc vào việc giáo dục thế hệ công
nhân đang lớn lên”[33, tr.262].


Ở nước ta, giáo dục trước hết là trách nhiệm của Đảng và Nhà nước,
trách nhiệm của các ngành và mọi người trong xã hội. Muốn xây dựng chủ
nghĩa xã hội phải có con người xã hội chủ nghĩa. Đó là những con người được
phát triển tồn diện, có phẩm chất chính trị, đạo đức, tri thức khoa học, có
năng lực tư duy lý luận, có một nền học vấn hiện đại. V.I.Lênin từng nhấn
mạnh: “Họ phải hiểu rằng, điều đó chỉ có thể thực hiện được trên cơ sở một
nền học vấn hiện đại, và họ khơng có nền học vấn đó thì chủ nghĩa cộng sản
chỉ là một nguyện vọng mà thôi”[29, tr.175].


Giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng nhằm làm cho sinh viên
nắm được những nội dung cơ bản của thế giới quan duy vật biện chứng và


hướng cho sinh viên vận dụng lý luận đó vào thực tiễn một cách sáng tạo. Từ
đó, sinh viên sẽ phát triển nhân cách một cách hài hoà: biết lĩnh hội tri thức đã
học, biết biến tri thức đó thành niềm tin và lý tưởng cao cả của mình, tức là
vận dụng tri thức đó vào cải tạo hiện thực.


</div>
<span class='text_page_counter'>(20)</span><div class='page_container' data-page=20>

vậy, giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng là một bộ phận của giáo dục
xã hội nhằm phát triển con người toàn diện.


Con đường trực tiếp, năng động và sáng tạo nhất để hình thành thế giới
quan khoa học và cách mạng cho sinh viên là con đường giáo dục. Mục tiêu
của giáo dục không chỉ là cung cấp những tri thức về nội dung, đặc điểm, vai
trò, ý nghĩa của thế giới quan duy vật biện chứng mà còn làm cho chúng thâm
nhập vào cấu trúc nội tại đời sống tinh thần của chủ thể - sinh viên và biến
kiến thức trong khoa học mà sinh viên đã được tiếp nhận thành giá trị, niềm
tin, lý tưởng, lập trường thế giới quan tương ứng. Nhờ đó mà sinh viên sẽ
hình thành thế giới quan khoa học và cách mạng của chính mình, hình thành
phương pháp tu dưỡng, rèn luyện, hình thành những phẩm chất chính trị, đạo
đức của chính sinh viên.


<b>1.2.2. Nội dung và những nguyên tắc cơ bản trong giáo dục thế giới</b>
<b>quan duy vật biện chứng cho sinh viên ở Tây Nguyên hiện nay</b>


<i><b>1.2.2.1. Nội dung giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng</b></i>


Giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng cho sinh viên ở Tây Nguyên
hiện nay phải giáo dục ba thành tố cơ bản cấu thành thế giới quan duy vật
biện chứng.


<i>Thứ nhất, giáo dục hệ thống tri thức khoa học cơ bản, toàn diện, hiện</i>
<i>đại và phương pháp tư duy biện chứng. Hệ thống tri thức khoa học bao gồm</i>


tri thức khoa học tự nhiên, tri thức khoa học xã hội và đặc biệt là tri thức triết
học - hạt nhân của thế giới quan.


</div>
<span class='text_page_counter'>(21)</span><div class='page_container' data-page=21>

Đặc biệt là hố học nghiên cứu sự chuyển hố từ vơ cơ đến hữu cơ, từ hữu cơ
đến sự sống. Sinh học nghiên cứu những q trình biến hố, q trình phát
triển của hệ thần kinh, q trình tiến hố của các loài, việc xác định nguồn
gốc của loài người từ động vật đã đánh tan tất cả các quan niệm duy tâm tơn
giáo về sự hình thành con người. Chính vì thế mà từ thời cổ đại, chủ nghĩa
duy vật đã gắn liền với khoa học tự nhiên. Các nhà triết học phần lớn đều là
các nhà khoa học tự nhiên.


<i>Khoa học xã hội: khoa học xã hội nói chung đều luận giải mối quan hệ</i>
giữa đời sống vật chất và đời sống tinh thần, nghiên cứu sự vận động, biến đổi
của xã hội từ những vận động, biến đổi của những điều kiện kinh tế. Vì vậy,
những kiến thức về lịch sử, xã hội học, chính trị học… cũng đều là cơ sở để
hình thành thế giới quan duy vật.


<i>Tri thức triết học: trong việc xây dựng thế giới quan cho con người,</i>
triết học ln giữ vai trị chủ đạo, với tư cách là kinh nghiệm hàng thế kỷ
trong việc suy tư một cách có phê phán - phản tư về những vấn đề định hướng
cuộc sống của từng người cũng như của toàn thể loài người. Các nhà triết học
dù ở thời đại nào cũng đều cố gắng làm rõ những vấn đề tồn tại của con
người, đặt ra và giải quyết những câu hỏi như: con người là gì? Nó có hy
vọng và định hướng vào cái gì?... Có thể nói, tri thức triết học là hạt nhân của
thế giới quan. Triết học Mác - Lênin là sự thống nhất giữa chủ nghĩa duy vật
biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, là toàn bộ những quan điểm của con
người về thế giới, nghiên cứu vị trí của con người trong vũ trụ nói chung và
trong xã hội nói riêng. Đó chính là cơ sở để con người nhìn nhận thế giới một
cách tồn diện, cung cấp cho con người những tri thức tổng hợp, khái quát về
thế giới.



</div>
<span class='text_page_counter'>(22)</span><div class='page_container' data-page=22>

vào tính tất yếu của chế độ xã hội chủ nghĩa, vào sự giải phóng con người và
xã hội lồi người trong tương lai. Tin vào chủ trương, đường lối của Đảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nước và cuối cùng là tin vào chính bản thân
mình. Bởi vì, giáo dục niềm tin khoa học, nhất là quan điểm và niềm tin triết
học Mác - Lênin tạo nên nền tảng- hạt nhân của toàn bộ thế giới quan duy vật
biện chứng. Nó giúp cho sinh viên nhận thức được quy luật chung nhất của
thế giới, hiểu được bản chất của con người, sự năng động sáng tạo của ý thức
của con người trong việc cải tạo thế giới, khả năng của con người tác động trở
lại hoàn cảnh trên nhiều phương diện như hoạt động thực tiễn, quan hệ ứng
xử, sự phát triển của phẩm chất trí tuệ và năng lực tư duy…Từ đó giúp sinh
viên từng bước có niềm tin vào chính bản thân mình trong học tập, rèn luyện,
hình thành những phẩm chất nhân ái, vượt khó, tin vào những giá trị tốt đẹp
của con người.


</div>
<span class='text_page_counter'>(23)</span><div class='page_container' data-page=23>

một cách tự phát trong mỗi sinh viên mà phải thơng qua giáo dục mới có
được. Lý tưởng cao đẹp chỉ được xây dựng trên cơ sở thế giới quan duy vật
biện chứng, ở đó có sự thống nhất giữa khoa học và niềm tin, giữa lý trí và
tình cảm.


<i><b>1.2.2.2. Những ngun tắc cơ bản trong giáo dục thế giới quan duy</b></i>
<i><b>vật biện chứng</b></i>


Trên cơ sở xác định nội dung giáo dục thế giới quan duy vật biện
chứng cho sinh viên đã nêu trên, để quá trình giáo dục này đạt hiệu quả cao,
chủ thể giáo dục cần quan tâm, quán triệt tốt những nguyên tắc cơ bản sau:


<i>Thứ nhất, nguyên tắc tính Đảng. Đây là nguyên tắc chủ đạo trong nội</i>
dung giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng. Thực chất nó yêu cầu việc
công khai trong đánh giá các hiện tượng của đời sống xã hội trên lập trường


của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên quyết đấu tranh
bảo vệ và khẳng định lợi ích của giai cấp cơng nhân và nhân dân lao động, lợi
ích của thế hệ trẻ, vì thế ngun tắc này cịn bao gồm cả việc đấu tranh
không khoan nhượng với những quan niệm phản khoa học, xa lạ, thù địch
với những nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin - hạt nhân của toàn bộ thế
giới quan duy vật biện chứng. Mặt khác, tính Đảng mác-xít là tính Đảng triệt
để khách quan, là tính Đảng tiến bộ nhất, thật sự khoa học, bởi đây là sự
nghiên cứu hiện thực một cách có hệ thống, đặc biệt là nghiên cứu tính mâu
thuẫn biện chứng của hiện thực để tìm ra chân lý. Do vậy, chỉ có thể dựa
trên ngun tắc tính Đảng mác-xít chúng ta mới đi đến khẳng định chắc chắn
rằng: chủ nghĩa tư bản nhất định bị phủ định bởi chủ nghĩa xã hội là xu thế
tất yếu của lịch sử xã hội loài người.


</div>
<span class='text_page_counter'>(24)</span><div class='page_container' data-page=24>

thách thức trong chặng đường đầu của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở
nước ta sẽ là việc làm có ý nghĩa quan trọng cho việc hoạt động thực tiễn của lớp
trẻ nhất là sinh viên, phát huy những ưu điểm, khắc phục những hạn chế, khó
khăn, tranh thủ thời cơ vượt qua trở ngại để vươn lên trong học tập và cuộc sống.
Sinh viên là những người có trình độ học vấn cao, do đó trong giáo dục
nói chung, giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng nói riêng khơng thể dùng
cách nói vịng vo để che đậy những khuyết điểm, sai lầm mà chúng ta đã mắc
phải. Nếu sự không trung thực bị phát hiện thì sự phản kháng và sự hồi nghi
trong sinh viên sẽ diễn ra vơ cùng phức tạp, nó sẽ tác động tiêu cực tới cơng tác
giáo dục tư tưởng, chính trị. Việc phản ánh, đánh giá khách quan những vấn đề
chính trị - xã hội của đất nước sẽ giúp cho sinh viên hiểu rõ hơn vai trò, trách
nhiệm của mình đối với cộng đồng, dân tộc từ đó xác định mục tiêu phấn đấu
cho mình một cách đúng đắn, hình thành một thế giới quan khoa học.


<i>Thứ ba, nguyên tắc lịch sử cụ thể. Trong giáo dục nguyên tắc lịch sử </i>
-cụ thể là một nguyên tắc rất quan trọng, phép biện chứng duy vật đã chỉ rõ
mỗi sự vật, hiện tượng đều tồn tại trong không gian và thời gian xác định,


đồng thời nó khơng tách khỏi với sự ràng buộc của thế giới xung quanh. Bản
thân hoàn cảnh ra đời và tồn tại quyết định bản chất của sự vật, quy định sự
vận động và biến đổi của nó. Thực chất quan điểm này yêu cầu khi xem xét
bất kỳ một sự vật, hiện tượng nào cũng phải tính đến điều kiện ra đời, tồn tại
và biến đổi của chính nó. Do đó, khi giáo dục thế giới quan duy vật biện
chứng cho sinh viên ở Tây Nguyên, ngoài các chuẩn mực chung cần phải chú
ý đến những đặc điểm đặc thù của khu vực Tây Nguyên.


</div>
<span class='text_page_counter'>(25)</span><div class='page_container' data-page=25>

và trở thành phong trào quần chúng, thúc đẩy họ hoạt động trong cải tạo hiện
thực khách quan. Việc thực hiện tốt nguyên tắc thống nhất lý luận với thực
tiễn sẽ đẩy nhanh quá trình vật chất hoá tư tưởng. Lý luận được khái quát hoá
từ thực tiễn nhưng chính thực tiễn mới là tiêu chuẩn kiểm tra tính đúng đắn
của lý luận, thước đo của chân lý. Nguyên tắc lý luận thống nhất với thực tiễn
không chỉ được hiểu là việc thực hiện hành vi theo tư tưởng đã khái quát mà
nó cần thể hiện sự thống nhất ngay cả trong quá trình khái quát tư tưởng.


Quán triệt tốt nguyên tắc này trong giáo dục thế giới quan duy vật biện
chứng cho sinh viên chính là thực hiện tốt mối liên hệ của việc giáo dục thế
giới quan với cuộc sống. Chúng ta phải tiến hành giáo dục thông qua các tổ
chức hoạt động thực tiễn. Khơng gì hiệu quả bằng việc chúng ta tạo cơ hội để
sinh viên được kiểm chứng những gì mình biết, vận dụng vào giải thích
những vấn đề xã hội.


Người sinh viên được coi là có thế giới quan duy vật biện chứng
không đơn giản là người được giáo dục về thế giới quan duy vật biện
chứng đó mà chủ yếu là đã biết chuyển hoá nhận thức, thành mục tiêu,
thành niềm tin, trở thành động lực tự giác đấu tranh thực hiện thế giới quan
đó trong hiện thực, chỉ có trong thực tiễn, bằng thực tiễn sinh viên mới có
điều kiện cần thiết để thực hiện sự chuyển hố đó. Thực hiện nguyên tắc
thực tiễn trong giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng cho sinh viên là


yêu cầu khách quan và là cách làm khoa học. Trong giai đoạn hiện nay việc
khơi dậy những phong trào hoạt động thực tiễn thiết thực, như: phong trào
sáng tạo trẻ, phong trào tình nguyện vì cuộc sống cộng đồng, hoạt động về
nguồn, thắp nến tri ân…


<b>1.2.3. Vai trò của việc giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng</b>
<b>đối với sinh viên nói chung và sinh viên ở Tây Nguyên nói riêng hiện nay</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(26)</span><div class='page_container' data-page=26>

viên, chúng tơi cho rằng giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng cho sinh
viên có những vai trị sau:


<i>Một là, giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng góp phần xây dựng</i>
<i>niềm tin, lý tưởng sống cao đẹp cho sinh viên</i>


Giáo dục cho sinh viên nắm vững những nguyên tắc phương pháp
luận được rút ra từ thế giới quan khoa học, giúp họ nhận thức đúng đắn
hiện thực khách quan của thời đại của đất nước, với tất cả những mối quan
hệ giai cấp, dân tộc. Trong thế giới quan duy vật biện chứng mà triết học
(bao gồm cả chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử)
cùng với các khoa học khác đã khẳng định sự phát triển của lịch sử xã hội
loài người là một quá trình lịch sử tự nhiên với những quy luật nhất định
của nó. Từ đó, nó luận chứng về sự diệt vong tất yếu của chủ nghĩa tư bản
và sự ra đời của chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản. Vì vậy, khi sinh
viên được thấm nhuần sâu sắc thế giới quan duy vật biện chứng, sẽ tạo ra ở
họ niềm tin về sự thắng lợi của chủ nghĩa xã hội và họ sẽ hành động vì lý
tưởng cao đẹp đó - lý tưởng xã hội chủ nghĩa.


<i>Hai là, giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng góp phần xây dựng</i>
<i>phẩm chất đạo đức và lối sống lành mạnh</i>



</div>
<span class='text_page_counter'>(27)</span><div class='page_container' data-page=27>

khách quan của cơ chế thị trường và các thế lực thù địch đang thực hiện âm
mưu “diễn biến hồ bình”, chống chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Trong thời gian
qua, chúng đã tìm mọi cách gieo rắc trong sinh viên lối sống thực dụng, ích
kỷ, chủ nghĩa cá nhân, sùng bái đồng tiền. Vì vậy, vấn đề cốt lõi hiện nay là
phải trang bị cho sinh viên thế giới quan duy vật biện chứng một cách toàn
diện và vững chắc, khi đó sẽ hình thành ở sinh viên nhân sinh quan cộng sản
chủ nghĩa. Nó sẽ giúp cho sinh viên thấy được giá trị, ý nghĩa và mục đích
sống của con người, “khơng có gì q hơn độc lập tự do”, do vậy, tình cảm, ý
chí và đạo đức cách mạng trong bản thân sinh viên được nâng lên. Đó là “bức
tường thép” để ngăn chặn lối sống vơ đạo đức, thực dụng trọng đồng tiền
trong sinh viên hiện nay.


<i>Ba là, giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng góp phần rèn luyện</i>
<i>phương pháp tư duy khoa học nhằm khắc phục những tư tưởng duy tâm, tôn giáo.</i>
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, khoa học được hiểu là
một hình thái ý thức xã hội. Với tư cách là một hình thái ý thức xã hội,
khoa học tồn tại mang tính độc lập tương đối với các hình thái ý thức xã
hội khác. Khoa học phân biệt với các hình thái ý thức xã hội khác ở đối
tượng, hình thức phản ánh và mang một chức năng xã hội riêng biệt. Như
vậy có thể hiểu tư duy khoa học là tư duy mang tính khoa học, nó cần thiết
cho mọi người trong xã hội. Đối với hoạt động học tập của sinh viên nói
chung, vai trị của năng lực tư duy khoa học - tư duy biện chứng thể hiện ở
sự tìm hiểu, phân tích, lý giải những vấn đề cụ thể của các môn học theo
chuyên ngành đào tạo. Thực tế cho thấy, để tìm hiểu, nghiên cứu những
vấn đề cụ thể của các môn học theo chuyên ngành đào tạo, cần đứng vững
trên quan điểm duy vật, nắm vững và vận dụng linh hoạt, sáng tạo phương
pháp luận duy vật biện chứng.


</div>
<span class='text_page_counter'>(28)</span><div class='page_container' data-page=28>

duy tâm và phương pháp tư duy siêu hình đang hiện hữu trong cuộc sống
hàng ngày của họ. Thế giới quan duy vật biện chứng đang được giáo dục


thơng qua hệ thống nội dung chương trình, nhưng thực tiễn của đất nước có
sự thay đổi lớn, đặc biệt là trong lĩnh vực kinh tế - xã hội, hơn nữa thế giới lại
có sự biến động to lớn, đó là chủ nghĩa xã hội lâm vào thối trào, chủ nghĩa tư
bản đang vẫn còn thể hiện sức sống của mình về tiềm lực kinh tế và quân sự.
Các nước tư bản lại có điều chỉnh mới về chính sách… Thực tiễn đó đang đặt
ra cho sinh viên sự lựa chọn định hướng. Vì vậy, giáo dục thế giới quan duy
vật biện chứng nhằm nâng cao năng lực tư duy lý luận cho sinh viên để họ có
khả năng giải thích những vấn đề đang diễn ra trong cuộc sống một cách
khách quan và khoa học. Hiểu được tính cách mạng và khoa học của lý luận
của chủ nghĩa Mác - Lênin, hiểu đường lối, chính sách của Đảng, họ sẽ có khả
năng khắc phục được những sai lầm trong nhận thức, chống lại những tư
tưởng phản khoa học và cách mạng, chống lại thế giới quan duy tâm, tôn giáo.
Như vậy, giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng cho sinh viên ngày
nay để bản thân họ có một thế giới quan khoa học, hình thành ở họ một
phương pháp luận khoa học để giúp họ tránh khỏi những vấp váp, sai lầm
trong suy nghĩ và hành động.


<i>Bốn là, giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng giúp sinh viên có</i>
<i>phương pháp nhận thức và hành động đúng đắn, trở thành những người có</i>
<i>ích cho xã hội, thực sự là những người chủ tương lai của công cuộc xây dựng</i>
<i>đất nước ta ngày càng to đẹp, hùng cường hơn.</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(29)</span><div class='page_container' data-page=29>

cấp tri thức khoa học ở trong nhà trường mà còn hướng dẫn chỉ đạo cho sinh
viên biết đem lý luận đã học vào rèn luyện trong đời sống thực tiễn, biến
những tri thức thành những phong trào hành động, vào những việc làm cụ thể
có ích cho bản thân và xã hội. Đó là sự thống nhất giữa học và hành, lời nói
và việc làm. Như vậy, giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng còn giúp cho
sinh viên tham gia vào hoạt động thực tiễn đạt kết quả tốt và cũng là quá trình
giúp cho sinh viên rèn luyện năng lực giải quyết cộng việc của mình, cũng
như tự rèn luyện mình để hồ nhập vào hoạt động chung của xã hội.



Tóm lại, giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng cho sinh viên ở Tây
Nguyên hiện nay có một vai trị hết sức quan trọng trong hoạt động nhận thức
và hoạt động thực tiễn. Giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng để sinh
viên có lập trường cách mạng vững vàng, để nhận ra được cuộc đấu tranh gay
go phức tạp giữa hai con đường tư bản chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa ngày
nay để thấy rõ được sự xuyên tạc của bọn cơ hội, bọn phản động muốn bác bỏ
chủ nghĩa Mác - Lênin trong điều kiện thế giới có những diễn biến phức tạp.
Hơn nữa, giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng cịn giúp cho sinh viên có
phương pháp luận khoa học, từ đó họ có niềm tin vào chủ nghĩa xã hội, vào
sự lãnh đạo của Đảng ta. Một khi đã có lập trường và niềm tin thì sinh viên
tham gia vào thực tiễn cuộc sống với tư cách người lao động có trình độ cao,
lao động một cách tự giác, sáng tạo phục vụ đắc lực cho sự nghiệp xây dựng
chủ nghĩa xã hội vào bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.


<b>1.3. NHỮNG NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN THẾ GIỚI QUAN VÀ VIỆC</b>
<b>GIÁO DỤC THẾ GIỚI QUAN DUY VẬT BIỆN CHỨNG CHO SINH VIÊN Ở TÂY</b>
<b>NGUYÊN HIỆN NAY</b>


<b>1.3.1. Sự tác động của những điều kiện trong nước và quốc tế</b>
<i><b>1.3.1.1. Những điều kiện quốc tế</b></i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(30)</span><div class='page_container' data-page=30>

đến việc giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng là sự sụp đổ của chế độ xã
hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu. Sự sụp đổ ấy diễn ra trên diện rộng và
diễn biến nhanh làm cho cả thế giới phải bàng hồng kinh ngạc. Trước sự
kiện ấy, đã có biết bao câu hỏi được đặt ra và có nhiều cách trả lời khác nhau.
Điều này phải được làm rõ trong quá trình giáo dục thế giới quan duy vật biện
chứng cho sinh viên, nếu không sinh viên sẽ mơ hồ về sự tồn tại của chủ
nghĩa xã hội trong tiến trình lịch sử, hồi nghi về học thuyết Mác - Lênin,
thiếu ý chí phấn đấu xây dựng chủ nghĩa xã hội.



</div>
<span class='text_page_counter'>(31)</span><div class='page_container' data-page=31>

giảm đi sự phân cực giữa giai cấp tư sản đang giàu lên nhanh chóng với
những người lao động nghèo, và những mâu thuẫn vốn có của chủ nghĩa tư
bản không hề mất đi.


Trong xu thế tồn cầu hố, chúng ta mở cửa hội nhập với nền kinh tế
thế giới. Song phải làm sao để giữ được bản sắc văn hố dân tộc vì q
trình hội nhập kinh tế thì khơng thể khơng hội nhập cả văn hố - xã hội. Vì
vậy, khi tiếp thu những tinh hoa văn hoá của thế giới cần phải giáo dục cho
sinh viên hình thành ở họ một “chất miễn dịch”, làm cho họ biết chắt lọc
những gì là giá trị đích thực, những gì phù hợp với cốt cách của con người
Việt Nam.


<i><b>1.3.1.2. Những điều kiện trong nước</b></i>


Công cuộc đổi mới dưới sự lãnh đạo của Đảng từng bước được hiện
thực hoá. Sự tăng trưởng của kinh tế là một minh chứng, chính nhờ những
thành tựu trong quá trình đổi mới, sinh viên đã thấy được sự đúng đắn của
đường lối đổi mới và ý thức sâu sắc hơn về mối quan hệ gắn bó giữa độc lập
dân tộc và chủ nghĩa xã hội, thấy được tầm quan trọng của nhiệm vụ cơng
nghiệp hố, hiện đại hố đất nước và trách nhiệm học tập của mình. Cũng vì
vậy mà niềm tin của sinh viên đối với sự lãnh đạo của Đảng ngày càng vững
chắc. Đây là điều kiện khách quan thuận lợi đối với công tác giáo dục thế giới
quan duy vật biện chứng cho sinh viên.


</div>
<span class='text_page_counter'>(32)</span><div class='page_container' data-page=32>

Cùng với xu thế hội nhập kinh tế quốc tế, việc tiếp cận những thành tựu
khoa học kỹ thuật công nghệ cao của thế giới giúp các sinh viên trưởng thành
nhanh chóng và thể hiện được vai trị của mình trong xây dựng đất nước, rút
ngắn khoảng cách với các nước phát triển.



Đường lối đổi mới của Đảng đã được thực tiễn chứng minh là đúng
đắn, đưa đất nước vượt qua tác động của cơn chấn động chính trị trên thế giới
và những khó khăn trong nước. Nhờ vậy, không chỉ trong nhân dân mà trong
thanh niên, sinh viên đều phấn khởi, tin tưởng và khẳng định vai trị lãnh đạo
của Đảng là khơng thể thiếu, tin tưởng vào chủ trương, đường lối của Đảng,
luôn phấn đấu học tập theo đường lối giáo dục đó, gắn bó với Đảng qua tổ
chức đoàn, phong trào “đoàn viên phấn đấu trở thành đảng viên” đã trở thành
một trong những phong trào sơi động nhất trong chương trình cơng tác đoàn
và phong trào thanh niên của tổ chức đoàn trong các trường Đại học, Cao
Đẳng ở Tây Nguyên trong những năm qua.


</div>
<span class='text_page_counter'>(33)</span><div class='page_container' data-page=33>

phục trong quá trình giáo dục lý tưởng cộng sản chủ nghĩa, thế giới quan duy
vật biện chứng cho sinh viên nói chung.


Trong q trình đổi mới, lĩnh vực văn hoá tinh thần của xã hội cũng có
bước phát triển mới. Số lượng các ấn phẩm văn hoá tăng lên rất nhiều, một số
tác phẩm mới có giá trị tư tưởng và nghệ thuật được sinh viên u thích.
Nhiều hình thức văn hố truyền thống được khơi phục, nhất là các lễ hội, các
di tích văn hố, di tích lịch sử được tu bổ thu hút sinh viên đến tham quan, du
lịch. Các phương tiện thông tin đại chúng và thông tin đại chúng ngày càng
cung cấp nhiều thơng tin, tạo cho sinh viên có điều kiện tiếp cận nhiều hoạt
động trong và ngoài nước. Nhiều hoạt động với quy mơ tồn quốc được tổ
chức cho sinh viên hoặc do sinh viên đảm nhiệm thu hút hàng vạn người tham
gia. Những thành tựu đó tác động làm thoả mãn nhu cầu, tăng sự hiểu biết,
phát huy tính tích cực của sinh viên. Tuy nhiên, bên cạnh đó thì tình hình văn
hố, văn nghệ cũng có nhiều tác động theo xu hướng ngược lại và thật đáng lo
ngại. Lối sống chạy theo đồng tiền, những thị hiếu khơng lành mạnh, những
hủ tục, mê tín tăng nhanh, nhiều văn hoá phẩm độc hại lan tràn trên thị
trường, len lỏi vào sinh viên. Những yếu tố này cũng có tác động mạnh mẽ
đến thế giới quan của sinh viên và việc giáo dục thế giới quan duy vật biện


chứng cho sinh viên cũng gặp nhiều khó khăn.


<b>1.3.2. Những nhân tố đặc thù của Tây Nguyên</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(34)</span><div class='page_container' data-page=34>

chủ thể giáo dục là phải nắm được đặc điểm, tình hình của địa phương nơi mà
sinh viên đang học tập để có định hướng giáo dục, có những giải pháp phù
hợp nhằm đưa lại hiệu quả giáo dục cao nhất.


<i><b>1.3.2.1. Ảnh hưởng của điều kiện địa lý, tự nhiên</b></i>


Hiểu một cách khái quát nhất, tự nhiên là toàn bộ thế giới vật chất
khách quan. Do đó, con người có nguồn gốc từ tự nhiên, là con đẻ của giới tự
nhiên, là sản phẩm và là sản phẩm cao nhất của q trình tiến hố của thế giới
vật chất. Tự nhiên là môi trường sống của con người và xã hội lồi người,
vai trị của tự nhiên khơng gì có thể thay thế được và cũng khơng bao giờ
mất đi. Vì vậy, sự ảnh hưởng của điều kiện địa lý, tự nhiên đến sản xuất vật
chất của xã hội từ đó nó ảnh hưởng đến ý thức xã hội như: tư tưởng, quan
điểm, tình cảm, tâm trạng, truyền thống…Chính điều kiện địa lý, tự nhiên
tác động khơng nhỏ đến cách nhìn nhận thế giới và phương pháp tư duy
của con người.


</div>
<span class='text_page_counter'>(35)</span><div class='page_container' data-page=35>

Cũng từ những điều kiện địa lý, tự nhiên này và với một phương thức
sản xuất lạc hậu, trình độ hiểu biết thấp kém; người Tây Nguyên quan niệm
thế giới một cách giản đơn, mộc mạc và thần bí; theo quan niệm của họ từ
mặt trời, mặt trăng, ngọn núi, con sông…đều có một vị thần trú ngụ và họ
cầu xin các vị thần linh đó che chở cho họ trong cuộc sống. Chính những
quan niệm duy tâm, thần bí về thế giới như vậy cùng với tính cách phóng
khống của người Tây Nguyên là cuội nguồn của trường ca Tây Nguyên bất
hủ; đồng thời cũng là cội nguồn sinh ra những hủ tục, mê tín dị đoan lạc hậu
trong đời sống của đồng bào các dân tộc Tây Nguyên từ xa xưa và còn tồn


tại đến ngày nay.


<i><b>1.3.2.2. Ảnh hưởng của điều kiện kinh tế - xã hội</b></i>


Theo quan điểm duy vật biện chứng, điều kiện địa lý và môi trường tự
nhiên mới chỉ là yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến đời sống con người, còn
yếu tố cơ bản quyết định là phương thức sản xuất, hoạt động kinh tế của con
người. Do đó, việc nghiên cứu sự phát triển của kinh tế mà trước hết là trình
độ của lực lượng sản xuất, trình độ phân cơng lao động sẽ cho ta chìa khố
hiểu được ý thức xã hội nói chung và thế giới quan của người Tây Nguyên
nói riêng.


</div>
<span class='text_page_counter'>(36)</span><div class='page_container' data-page=36>

Sau ngày đất nước thống nhất, với sự đầu tư của Trung ương, các tỉnh Tây
Nguyên đã tổ chức lại sản xuất, xây dựng các cơ sở vật chất - kỹ thuật, từng
bước cải thiện đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân. Đến nay, kinh tế - xã
hội phát triển rõ nét, và đạt được những thành tựu quan trọng. Giai đoạn 2001
-2005, tăng trưởng GDP bình quân đạt 10,6 %; năm 2006, thu ngân sách trên địa
bàn tăng 3,27% so với năm 2001. Thu nhập bình quân đầu người từ 80 USD
(năm 1991) lên 211 USD (năm 2000) và 430 USD (năm 2006). (Nguồn số liệu
<i>của văn phòng Ban chỉ đạo Tây Nguyên cung cấp). </i>


Tuy vậy, đời sống của đồng bào dân tộc thiểu số tại chỗ, vùng sâu,
vùng xa vẫn cịn gặp rất nhiều khó khăn, số hộ nghèo vẫn còn chiếm tỷ lệ cao.
Chênh lệch về mức sống giữa thành thị nông thôn, giữa đồng bào kinh
-vùng đồng bào dân tộc thiểu số ngày càng giãn ra; xu hướng bất bình đẳng về
kinh tế, đời sống giữa các vùng theo chiều hướng ngày càng tăng. Đây là một
trong những nguyên nhân dẫn đến giảm sự đồng thuận xã hội, tạo cớ cho các
thế lực thù địch lợi dụng tuyên truyền, kích động.


Về xã hội, hiện nay Tây Nguyên có 47 dân tộc anh em sinh sống, trong


đó có khoảng 12 dân tộc bản địa đã sinh sống từ lâu đời. Cơ cấu dân số các
dân tộc trên địa bàn cũng có sự biến đổi nhanh chóng. Tính từ năm 1975, Tây
Ngun có 1,1 triệu người gồm 18 dân tộc trong đó đồng bào dân tộc thiểu số
tại chỗ chiếm trên 70%. Đến cuối năm 2005, dân số tồn vùng Tây Ngun là
4.804.170 người, có 47/54 dân tộc; trong đó dân tộc Kinh 3,2 triệu người
(chiếm 67,39%); các dân tộc thiểu số tại chỗ 1.23.200 người (chiếm 25,63%),
các dân tộc thiểu số nơi khác đến lập nghiệp 335.520 người (chiếm 6,98%)
(Nguồn số liệu của văn phòng Ban chỉ đạo Tây Nguyên cung cấp).


Đặc điểm đáng chú ý nhất trong cộng đồng dân tộc tại chỗ ở khu vực
Tây Nguyên là các dân tộc bản địa có hai điểm giống nhau về cơ bản là:


</div>
<span class='text_page_counter'>(37)</span><div class='page_container' data-page=37>

người Jrai,…). Tuy nhiên, một số nơi ở Giai Lai, ĐăkLăk đơn vị tổ chức xã
hội cao nhất là Trinh, Char cịn cao hơn cả làng, đó là nơi vừa là đơn vị tổ
chức xã hội vừa là đơn vị kinh tế tự cấp, tự túc.


<i>Thứ hai, các dân tộc ở Tây Nguyên sống xen kẽ là chủ yếu. Đây cũng là</i>
một trong những nguyên nhân dẫn đến xích mích và xung đột giữa dân tộc bản địa
và dân di cư có sự khác biệt giữa văn hố, trình độ kinh tế - xã hội ở các bn
làng. Ở Tây Nguyên xu hướng di dân đến vẫn tiếp tục xẩy ra, điều này kéo theo sự
hội nhập ngày càng phong phú, đa dạng về tập quán, lối sống, về tính chất và kinh
nghiệm sản xuất, về văn hố, tâm lý truyền thống…, với đầy đủ tính chất hai mặt
của nó. Tất cả những yếu tố này cũng ảnh hưởng rất nhiều đến việc tiếp thu và
giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng cho sinh viên ở địa bàn này.


Tây Nguyên ở vào vị trí địa bàn chiến lược và an ninh biên giới, một
trong những trọng điểm trong việc thực hiện âm mưu “diễn biến hoà bình”
của bọn thù địch, các tỉnh Tây Nguyên đang thường xuyên và trực tiếp bị tác
động của sự diễn biến khá phức tạp từ bên ngoài. Bọn phản động quốc tế và
bọn phản động người Việt lưu vong đã và đang lợi dụng Campuchia làm bàn


đạp trực tiếp để thâm nhập và móc nối với bọn phản động bên trong nhằm phá
hoại cách mạng Việt Nam. Trong khi đó tình hình chính trị, xã hội Tây
Ngun tuy có bước chuyển biến có lợi nhưng vẫn cịn tiềm ẩn nhiều yếu tố
có thể gây mất ổn định. Một trong nhưng mũi nhọn của chiến lược “diễn biến
hồ bình” là vấn đề biên giới, vấn đề dân tộc và vấn đề tôn giáo. Tây Nguyên
là địa bàn về khách quan đã và đang hội đủ những vấn đề trên. Tất cả những
vấn đề này đang tác động mạnh mẽ đế thế hệ trẻ trong đó có sinh viên.


</div>
<span class='text_page_counter'>(38)</span><div class='page_container' data-page=38>

Bên cạnh điều kiện địa lý, tự nhiên, điều kiện kinh tế - xã hội thì văn
hố , giáo dục - đào tạo, khoa học công nghệ cũng ảnh hưởng đến việc giáo
dục thế giới quan duy vật biện chứng cho sinh viên Tây Nguyên.


Ở Tây Nguyên hiện nay, ngoài một số dân tộc bản địa sinh sống lâu
đời như: ÊĐê, M’Nông, BaNa, Xê Đăng, Mạ, GiaRai, K’Ho, GiẻTriêng…,
số còn lại là những dân tộc di cư chủ yếu từ phía Bắc vào, người Tây
Ngun có hai ngơn ngữ chính, hệ Mơn - Khmer bao gồm các dân tộc
BaNa, XêĐăng, M’Nông, K’Ho… và hệ Nam Đảo bao gồm các dân tộc
ÊĐê, GiaRai, Chu Ru,…


Tuy hiện nay còn nhiều quan điểm chưa thống nhất về lịch sử hình
thành cư dân Tây Nguyên, nhưng tuyệt đại đa số các nhà nghiên cứu coi
chủ nhân văn hoá Sa Huỳnh là các cư dân Nam Đảo cụ thể là người Chăm.
Trên cơ sở ấy, các học giả cho rằng người GiaRai, ÊĐê trước đây cùng một
nhóm với người Chăm, nhưng do nhiều nguyên nhân đã di chuyển về phía
tây. Có ý kiến cho rằng, hai dân tộc GiaRai, ÊĐê vì khơng chấp nhận nền
văn hoá Ấn giáo nên đã tách ra để di chuyển lên khu vực miền núi và giữ
nguyên phong tục tập qn cổ xưa của mình [52]. Cịn một số học giả khác
lại cho rằng, người Nam Đảo ở miền núi là chủ nhân của vùng rừng núi
Trường Sơn và xem đây là một trong những đặc trưng cơ bản của vùng văn
hoá này, một bản sắc riêng ngay trong chủ thể sáng tạo ra con người các


dân tộc Tây Nguyên [58].


</div>
<span class='text_page_counter'>(39)</span><div class='page_container' data-page=39>

trưng này được kết tinh trong quá trình lao động và đấu tranh của người Tây
Nguyên đối với tự nhiên, xã hội và kẻ thù qua hàng thiên niên kỷ.


Trước đây do trình độ sản xuất thấp kém, cịn lệ thuộc nhiều vào tự
nhiên, trình độ tư duy chưa phát triển, các dân tộc Tây Nguyên chưa giải thích
được một cách khoa học các hiện tượng tự nhiên, nên trong tâm tưởng, trong
các lễ hội, phong tục tập quán còn in đậm niềm tin, khát vọng vào thế giới
thần linh theo quan niệm “vạn vật hữu linh”. Đồng bào các dân tộc Tây
Nguyên tin rằng bn làng được bình n, mọi người được khoẻ mạnh hoặc
bị bệnh tật, hay bị thiên tai đều do tác động của trời đất, do tấm lịng của mình
đối với thần linh. Những quan niệm này nó có ảnh hưởng rất lớn đến việc tiếp
thu thế giới quan duy vật biện chứng cho nhân dân nói chung và cho sinh viên
nói riêng.


</div>
<span class='text_page_counter'>(40)</span><div class='page_container' data-page=40>

“bản thiện” của người và “chưa bị tha hố” bởi xã hội có giai cấp. Và chính
cuộc sống mà trong đó hội tụ cả mọi miền thời gian, mọi nẻo không gian, cả
hiện thực và huyền thoại, đã là mảnh đất màu mỡ cho trí tưởng tượng bay
bổng và cho sức sáng tạo nghệ thuật.


Kiến trúc nhà mồ cũng là một nét văn hoá đặc trưng của Tây
Nguyên. Nhà mồ là sản phẩm kết tinh của nhiều loại nghệ thuật, là tác
phẩm nghệ thuật tổng hợp. Theo quan niệm của người Tây Nguyên, chết
không phải là hết mà là sự tiếp tục của cuộc sống ở dạng khác để rồi sẽ trở
lại làm người, cho nên nhà mồ cùng với lễ hội bỏ mả hợp thành biểu tượng,
hợp thành bài ca đề cao cuộc sống, sự bất diệt của con người, chứ nó khơng
phải là đền, miếu mạo để thờ người chết như ta thấy ở các vùng khác. Qua
nhà mồ, hình ảnh sống động tốt đẹp của thế giới bên này được trao cho
người chết để họ sống thanh thản ở thế giới bên kia. Sự tái sinh cuộc sống


in đậm nét trong kiến trúc nhà mồ - một dạng kiến trúc mang đầy tính nhân
văn. Giá trị văn hoá phi vật thể thành văn và không thành văn ở Tây
Nguyên trong lĩnh vực nghệ thuật chủ yếu ở đây là các giá trị văn hoá dân
gian khuyết danh và truyền miệng, đó là Folklore Tây Nguyên. Folklore là
một thực thể sống và là một yếu tố cấu thành của tổng thể nền văn hoá dân
tộc đậm đà, nó là cuốn sử thi của dân tộc Tây Nguyên. Mặc dù bản sắc của
từng dân tộc biểu hiện những sắc thái riêng của mình, nhưng có thể nói đến
ở Tây Nguyên từ sử thi ÊĐê đến các trường ca BaNa, GiaiRai, M’Nơng,…
đều nói về các anh hùng thuở khai sáng và khát vọng của con người Tây
Nguyên hướng về cội nguồn tổ tiên, về cội nguồn dân tộc. Tất cả những
yếu tố ấy có ảnh hưởng đến việc hình thành thế giới quan, góp phần trong
việc tạo dựng phẩm chất khoan dung, lối ứng xử hài hoà, ý thức cộng đồng
của con người Tây Nguyên.


</div>
<span class='text_page_counter'>(41)</span><div class='page_container' data-page=41>

toàn giải phóng, Đảng bộ và nhân dân các tỉnh Tây Nguyên đã đẩy mạnh cuộc
cách mạng xã hội chủ nghĩa trên lĩnh vực tư tưởng và văn hoá, đưa cuộc cách
mạng này đi trước một bước để tạo ra tiền đề cho sự phát triển kinh tế - xã
hội. Mục đích chủ yếu của cuộc cách mạng này là phát triển giáo dục - đào
tạo, phát triển khoa học - công nghệ để nâng cao trình độ dân trí, xây dựng
tiềm lực trí thức ở Tây Nguyên.


Qua hơn 30 năm xây dựng tiềm lực trí thức cho Tây Nguyên đã thu
được thành tựu khá to lớn. Nếu như trước ngày Miền Nam chưa giải phóng,
trình độ dân trí các dân tộc Tây Nguyên còn rất thấp, tiềm lực khoa học hầu
như chưa có gì, dân cư phần lớn chưa biết đọc, chưa biết viết thì hiện nay thì
nay đa số trẻ em đã được đến trường, có 99,24% số xã đạt chuẩn phổ cập tiểu
học và chống tái mù chữ, gần 32% số xã đạt chuẩn phổ cập trung học cơ sở.
Số trường, lớp đến năm học 2005 2006 tăng 39% so với năm học 2001
-2002, cơ bản xoá được tình trạng học ca ba. Đặc biệt Đại học Tây Nguyên
(hơn 30 năm qua đã đào tạo khoảng 1.600 sinh viên dân tộc thiểu số, hiện nay


tỷ lệ sinh viên dân tộc thiểu số chiếm 20% trong tổng số sinh viên hệ chính
quy), Đại học Đà Lạt (tỷ lệ sinh viên dân tộc thiểu số chiếm 7% trong tổng số
sinh viên hệ chính quy) trở thành trung tâm đào tạo lớn của toàn vùng. Ở một
số vùng đồng bào dân tộc thiểu số có hình ảnh rất sinh động là nếu như trước
đây nhà trường và giáo viên đi tìm học sinh thì nay học sinh đã tìm đến
trường, tìm đến giáo viên để học tập. (Nguồn số liệu của Ban chỉ đạo Tây
<i>Nguyên cung cấp). </i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(42)</span><div class='page_container' data-page=42>

Trong đời sống xã hội, những nhân tố duy vật từng bước được khẳng
định, và đang dần dần đẩy lùi những quan niệm thần bí, mê tín, những hủ tục,
tập quán lạc hậu; Lối tư duy mang tính trực quan, cảm tính, tư duy kinh
nghiệm từng bước bị phá vỡ thay vào đó là trình độ tư duy lý luận ngày càng
được nâng cao. Đây là một nhân tố cực kỳ quan trọng của thế giới quan duy
vật biện chứng.


<i><b>1.3.2.4. Ảnh hưởng của yếu tố tâm lý và truyền thống</b></i>


Các dân tộc Tây Nguyên quan niệm truyền thống là những di tồn xã
hội, sức mạnh của tập quán được hình thành từ “khai thiên lập địa” và được
truyền từ đời này sang đời khác, từ thế hệ này sang thế hệ khác cho đến
hôm nay.


Tâm lý của người Tây Ngun khơng tách rời truyền thống của họ, nó
in đậm trong các phong tục tập quán, trong lễ hội, trong sinh hoạt tín ngưỡng,
tơn giáo và các yếu tố tâm lý ấy cũng ảnh hưởng đến thế giới quan và việc
giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng cho sinh viên.


Sống trên một vùng cao nguyên rộng lớn, các dân tộc Tây nguyên từ
ngàn xưa đã biết phát rừng, đốt rẫy, trồng lúa, trồng ngô…, biết đấu tranh với
thiên nhiên để tồn tại và phát triển. Với núi cao rừng thẳm, đất rộng người


thưa, trình độ làm chủ của con người cịn hạn chế đã hình thành tập quán du
canh, du cư, tập quán đó cứ tồn tại và truyền từ đời này sang đời khác, tạo nên
tâm lý “ỷ lại” núi rừng, “nay đây mai đó”.


</div>
<span class='text_page_counter'>(43)</span><div class='page_container' data-page=43>

gái bắt chồng, cưới chồng, cưới xong thì con trai xuất giá, rời bỏ cha mẹ,
anh em; và nếu vợ chết thì lấy em gái vợ làm vợ. Trong cuộc sống, vai trị
của người phụ nữ trở thành chính yếu, từ việc nắm giữ kinh tế, đến nuôi
dạy con cái, tổ chức cuộc sống đều đặt lên vai người phụ nữ. Người đàn
ông chủ yếu lo nương rẫy và làm nhiệm vụ “tái sản xuất dân cư”. Sự phân
công xã hội từ bản sắc văn hố cộng đồng ít nhiều ảnh hưởng đến nhân
cách của con người trong hiện tại cả hai chiều thuận nghịch - tâm lý thụ
động, tự ti và bao dung hoà đồng.


</div>
<span class='text_page_counter'>(44)</span><div class='page_container' data-page=44>

người Tây Nguyên thường gọi là “già làng”. Già làng không có quyền lực,
đặc quyền, đặc lợi mà duy nhất chỉ có uy tín tinh thần gần như tuyệt đối.
Yếu tố truyền thống này tạo nên ý thức cộng đồng bao giờ cũng là tính trội
so với ý thức sống và làm việc theo pháp luật.


</div>
<span class='text_page_counter'>(45)</span><div class='page_container' data-page=45>

<b>Chương 2</b>


<b>GIÁO DỤC THẾ GIỚI QUAN DUY VẬT BIỆN CHỨNG CHO SINH</b>
<b>VIÊN Ở TÂY NGUYÊN HIỆN NAY - THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP</b>


<b>2.1. THỰC TRẠNG GIÁO DỤC THẾ GIỚI QUAN DUY VẬT BIỆN CHỨNG</b>
<b>CHO SINH VIÊN Ở TÂY NGUYÊN HIỆN NAY</b>


<b>2.1.1. Khái quát về thái độ chính trị, lối sống của sinh viên ở Tây</b>
<b>Nguyên hiện nay</b>


Hiện nay ở Tây Nguyên có trên 10 Đại học, Cao đẳng với hơn 20.000


sinh viên hệ chính quy đang học tập, nghiên cứu. Qua khảo sát một số trường
Đại học, Cao đẳng ở ĐăkLăk thu được kết quả như sau:


- Về nhận thức, thái độ của sinh viên về nhiệm vụ học tập, rèn luyện.
Nhận thức, thái độ chính trị của sinh viên trước tiên thể hiện ở sự nhận thức,
thái độ về nhiệm vụ chính trị của họ là học tập, rèn luyện để ngày mai lập
nghiệp. Sinh viên có nhận thức, thái độ chính trị tích cực là phải phát huy cao
độ được truyền thống hiếu học của dân tộc, ln chủ động tích cực, khắc phục
khó khăn, chuyên cần và sáng tạo vươn lên trong học tập và rèn luyện để trở
thành những trí thức trẻ có tư duy độc lập, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám
chịu trách nhiệm trong lao động khoa học, tạo ra nhiều sản phẩm khoa học có
giá trị phục vụ đất nước, phục vụ nhân dân. Qua khảo sát cho thấy, bên cạnh số
đơng sinh viên tích cực học tập và rèn luyện, có ý chí vượt khó, cần cù, sáng
tạo, có hồi bão, phấn đấu học tập vì ngày mai lập nghiệp thì cịn một tỷ lệ
không nhỏ sinh viên chưa xác định đúng nhiệm vụ học tập của mình, lười học,
ngại phấn đấu. Khi được hỏi bạn quan tâm đến vấn đề gì nhiều nhất, kết quả:
quan tâm đến vấn đề việc làm sau khi ra trường chiếm 44,8%; giải trí chiếm
27,7%; học tập chính khoá chiếm 25,1%; nghề nghiệp tương lai chiếm 22,3%.


</div>
<span class='text_page_counter'>(46)</span><div class='page_container' data-page=46>

thường chiếm 46,2%; nghiêm túc chiếm 36%; không nghiêm túc chiếm
17%; rất nghiêm túc chiếm 0,8%. Điều này cho thấy sinh viên Tây Nguyên
hiện nay, nhiều sinh viên đã có ý thức vươn lên với mục tiêu lĩnh hội sự
giáo dục toàn diện, họ đã bắt đầu lo lắng đến kết quả học tập không chỉ các
môn học thuộc chuyên ngành đào tạo mà còn cả các mơn khoa học Mác
-Lênin. Họ có ý thức lập thân lập nghiệp, tu dưỡng rèn luyện phẩm chất
chính trị, đạo đức. Nhiều sinh viên đã bắt đầu quan tâm tìm hiểu sâu những
nội dung của các mơn khoa học Mác - Lênin, tìm hiểu về đường lối chủ
trương của Đảng.


Tuy nhiên, bên cạnh đó vẫn cịn một lực lượng khá lớn chưa thấy được


sự cần thiết phải học tập các môn khoa học Mác - Lênin. Họ cho đó là những
mơn học bắt buộc, mang tính chính trị khơ cứng mà chưa thấy được vai trị
chi phối của lý luận Mác - Lênin đối với tư duy khoa học, chưa thấy được sự
yếu kém của nhận thức lý luận sẽ hạn chế khả năng phát triển tài năng. Vì
vậy, sinh viên chỉ quan tâm học các mơn khoa học này vào kỳ thi và có quan
niệm rằng kết quả thi chỉ cần 5 điểm là đủ. Xuất phát từ tinh thần thái độ học
tập như vậy nên nhiều sinh viên không chuẩn bị bài trước khi lên lớp, ở lớp
thì khơng tham gia phát biểu xây dựng bài, thậm chí khơng tập trung khi
giảng viên thuyết trình. Thái độ học tập khơng tích cực này đã gây nên tác
động đếm tâm lý của giảng viên, gây ức chế, làm giảm sự nhiệt huyết và khả
năng sáng tạo của giảng viên.


Từ đó cho thấy rằng một bộ phận khơng nhỏ sinh viên ở Tây Ngun
hiện nay chưa hồn toàn yên tâm với việc học tập, rèn luyện mà nỗi lo thường
trực của họ là vấn đề ra trường làm gì, làm ở đâu.


</div>
<span class='text_page_counter'>(47)</span><div class='page_container' data-page=47>

chiếm 52%; khó trả lời chiếm 30%; khơng tin tưởng chiếm 18%. Bên cạnh đó
thì đa số sinh viên cịn băn khoăn lo lắng vào những vấn đề tiêu cực của xã
hội, như: vấn đề tệ nạn xã hội chưa được đẩy lùi, nạn tham nhũng chưa được
giải quyết, sự thiếu gương mẫu của người đảng viên có ảnh hưởng rất lớn đến
tư tưởng của sinh viên.


Thực tế này rất đáng chú ý, khiến chúng ta phải suy nghĩ, bởi đây là
những lo lắng hồn tồn chính đáng của sinh viên. Nếu chúng ta không tập
trung giải quyết triệt để những băn khoăn này của sinh viên thì cơng tác giáo
dục chính trị tư tưởng sẽ khó có hiệu quả.


- Về nhu cầu và nguyện vọng của sinh viên, qua phỏng vấn nhóm sinh
viên Đại học Tây Nguyên, Cao đẳng Sư phạm ĐăkLăk, Cao đẳng Văn hoá
nghệ thuật ĐăkLăk, Cao đẳng nghề thanh niên dân tộc Tây Nguyên cho thấy,


đa số ý kiến trao đổi mong muốn các trường cải tiến nội dung chương trình,
phương pháp giảng dạy chất lượng hơn, gắn với yêu cầu của thị trường lao
động. Điều kiện phương tiện, tài liệu học học tập cịn ít và cũ. Nhu cầu và
nguyện vọng của sinh viên thường liên quan đến những vấn đề sinh viên quan
tâm nhất hàng ngày. Bên cạnh nguyện vọng việc làm sau khi ra trường, sinh
viên viên còn mong đợi cuộc sống được cải thiện hơn. Thực trạng điều kiện
sống tạm bợ của sinh viên thuê nhà trọ, cuộc sống thiếu thốn, điều kiện học
tập của sinh viên đã ảnh hưởng không nhỏ tới chất lượng đào tạo nguồn nhân
lực, tới hiệu quả giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng.


</div>
<span class='text_page_counter'>(48)</span><div class='page_container' data-page=48>

ngại gian khổ, thiếu định hướng, thiếu lý tưởng, thực dụng, buông thả, chờ
may rủi của số phận, có biểu hiện mê tín dị đoan.


<b>2.1.2. Thực trạng giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng cho</b>
<b>sinh viên ở Tây Nguyên hiện nay</b>


<i><b>2.1.2.1. Giảng dạy và học tập các môn khoa học Mác - Lênin với việc</b></i>
<i><b>giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng cho sinh viên</b></i>


Giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng cho sinh viên trong các
trường Đại học, Cao đẳng chủ yếu thông qua giảng dạy các môn khoa học
Mác - Lênin. Tất nhiên các mơn khoa học khác cũng góp phần hình thành thế
giới quan duy vật biện chứng cho sinh viên nhưng trong giới hạn của luận văn
chỉ tập trung vào thực trạng của việc giáo dục thế giới quan duy vật biện
chứng cho sinh viên ở Tây Nguyên thông qua việc giảng dạy và học tập các
môn khoa học Mác - Lênin.


<i>- Về nội dung chương trình:</i>


Do yêu cầu của sự nghiệp đổi mới đất nước, giảng dạy các môn khoa


học Mác - Lênin là một trong những nhiệm vụ quan trọng để phục vụ sự
nghiệp này. Vì vậy, từ năm 1991 Bộ Giáo dục - Đào tạo đã ban hành bộ
chương trình và đề cương bài giảng các môn khoa học Mác - Lênin dùng
trong các trường Đại học, Cao đẳng. Thực hiện Quyết số 255-CT ngày
17-3-1992 của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng, Hội đồng biên soạn giáo trình
quốc gia các mơn khoa học Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh được thành
lập và có nhiệm vụ tổ chức biên soạn bộ giáo trình chuẩn quốc gia.


</div>
<span class='text_page_counter'>(49)</span><div class='page_container' data-page=49>

thực hiện giảng dạy lý thuyết 2/3 số tiết và dành 1/3 cho thời gian thảo luận
và tự học cho sinh viên trong tổng số tiết quy định của từng môn học và coi
đây là yêu cầu bắt buộc đối với việc giảng dạy và học tập các môn khoa
học Mác - Lênin.


Cho đến năm học 2008 - 2009, các trường Đại học, Cao đẳng ở Tây
Nguyên thực hiện giảng dạy theo giáo trình và những quy định trên của
Bộ Giáo dục. Trong quá trình giảng dạy theo bộ giáo trình này cũng có
nhiều ý kiến của giảng viên các trường Đại học, Cao đẳng ở Tây Nguyên
cũng như giảng viên các trường Đại học, Cao đẳng cả nước cho rằng nội
dung của giáo trình, đã tập trung đi sâu vào những vấn đề lý luận phục vụ
cho đường lối quan điểm của Đảng trong giai đoạn hiện nay và những vấn
đề thực tiễn đang đặt ra đòi hỏi phải giải quyết, bảo đảm tính thống nhất
trong chương trình đào tạo. Các mơn khoa học Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh đã giữ vai trị nền tảng, chỉ đạo, định hướng chính trị cho các
môn khoa học khác và mục tiêu đào tạo chung, đồng thời các mơn khoa
học này góp phần trực tiếp vào giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng
cho sinh viên.


</div>
<span class='text_page_counter'>(50)</span><div class='page_container' data-page=50>

Từ học kỳ 2 năm học 2008 - 2009 các trường Đại học, Cao đẳng ở Tây
Nguyên hiện nay đang triển khai thực hiện giảng dạy theo đề án mới từ năm
mơn rút lại cịn ba môn:



Môn 1: Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin
Môn 2: Đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam
Môn 3: Tư tưởng Hồ Chí Minh


Trong học kỳ 2 năm 2008 - 2009, các trường triển khai thực hiện theo
công văn số: 512/BGDĐT-GDĐH của Bộ Giáo dục - Đào tạo, hiện nay hầu
như tất cả các trường đã tiến hành giảng dạy xong phần I “Thế giới quan và
<i>phương pháp luận triết học của chủ nghĩa Mác - Lênin” của môn Những</i>
nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin.


Qua phỏng vấn đội ngũ giảng viên Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
ở trường Cao đẳng Sư phạm ĐăkLăk và trường Đại học Tây Nguyên, Cao
đẳng Văn hoá nghệ thuật ĐăkLăk, Cao đẳng nghề thanh niên dân tộc Tây
Nguyên, chúng tôi có nhận xét như sau: đa số giảng viên đang cịn rất băn
khoăn về chủ trương tích hợp các mơn khoa học Mác - Lênin theo đề án mới
này; về nội dung cuốn giáo trình “Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa
<i>Mác - Lênin” đã làm rõ hơn các khái niệm có tính chất cơng cụ để đi sâu vào</i>
tìm hiểu nghiên cứu những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin. Tuy
nhiên, vì nội dung tích hợp nên trong giáo trình thiếu hẳn phần vận dụng của
Đảng Cộng sản Việt Nam. Điều này sẽ gây nhiều khó khăn cho sinh viên
trong q trình tự học, tự nghiên cứu.


</div>
<span class='text_page_counter'>(51)</span><div class='page_container' data-page=51>

Về số lượng, qua tìm hiểu các trường Đại học, Cao đẳng ở ĐăkLăk cho
thấy đội ngũ giảng viên Mác - Lênin là thiếu và không đồng đều như trường
Cao đẳng nghề thanh niên dân tộc Tây Nguyên chỉ có 2 giảng viên nhưng lại
kiêm nhiệm ở phịng cơng tác sinh viên; trường Cao đẳng Văn hố nghệ thuật
ĐăkLăk chỉ có 01 giảng viên, trường Cao Đẳng sư phạm ĐăkLăk có 08
nhưng lại tập trung chủ yếu vào giảng viên được đào tạo chuyên ngành triết
học, khơng có giảng viên nào được đào tạo chun ngành Kinh tế chính trị


Mác - Lênin và Chủ nghĩa xã hội khoa học. Do vậy, ở Tây Nguyên hiện nay
đội ngũ giảng viên hiện nay vẫn còn thiếu nhiều, điều đó thể hiện tình trạng
một giảng viên phải giảng dạy nhiều mơn, có những giảng viên ở trường Cao
đẳng Sư phạm ĐăkLăk phải đảm nhiệm 5 môn (theo chương trình cũ) và
giảng dạy vượt giờ chuẩn trở thành phổ biến.


</div>
<span class='text_page_counter'>(52)</span><div class='page_container' data-page=52>

<i>- Về phương pháp giảng dạy:</i>


Phương pháp được hiểu là cách thức, biện pháp mà con người dùng để
nhận thức và hoạt động nhằm để biến đổi hiện thực. Theo cách hiểu này,
phương pháp dạy học là cách thức hoạt động tương hỗ giữa thầy và trị, là loại
phương pháp được hình thành trong q trình dạy học nhằm thực hiện mục
đích, nhiệm vụ, nội dung dạy học đã được xác định. Phương pháp giảng dạy
thể hiện cách thức tác động giữa người dạy trực tiếp hoặc gián tiếp với người
học cùng nhằm thực hiện mục đích, nhiệm vụ, nội dung dạy học. Vì vậy,
phương pháp dạy học càng hiện đại, càng phù hợp với đối tượng và mơn học
bao nhiêu thì kết quả, chất lượng của quá trình dạy học càng cao bấy nhiêu.
Khi xác định được mục tiêu, xây dựng xong nội dung chương trình thì
phương pháp dạy học sẽ quyết định chất lượng của quá trình đào tạo. Chính vì
vậy các nước có nền giáo dục tiên tiến thường xuyên tìm cách đổi mới
phương pháp dạy học theo hướng hiện đại, thiết thực, hiệu quả.


Có rất nhiều phương pháp dạy học, điều đó thể hiện tính chất đa dạng,
phong phú và phức tạp của cách thức tổ chức hoạt động nhận thức và thực
hành cho người học trong quá trình lĩnh hội tri thức. Tuỳ theo cách tiếp cận
mà người ta có cách phân loại khác nhau. Phân loại theo nguồn kiến thức và
đặc điểm tri giác thông tin, chúng ta có các phương pháp: thuyết trình, trực
quan, thực hành. Phân loại theo các nhiệm vụ cơ bản lý luận dạy học có các
phương pháp: truyền thụ kiến thức, hình thức kỹ năng, kỹ xảo, ứng dụng tri
thức; hoạt động sáng tạo; củng cố; kiểm tra. Phân loại theo đặc điểm hoạt


động nhận thức của người học có các phương pháp: giải thích, minh hoạ, tái
hiện, giới thiệu vấn đề, tìm kiếm từng phần. Phân loại theo hoạt động dạy học,
ta có: thơng báo và thu nhận; giải thích và tái hiện; thiết kế thực hành và tái
hiện thực hành; giải thích, kích thích và tìm kiếm từng phần…


</div>
<span class='text_page_counter'>(53)</span><div class='page_container' data-page=53>

thành bốn nhóm bốn nhóm cơ bản sau đây: một là, nhóm các phương pháp
dạy học sử dụng ngơn ngữ; hai là, nhóm các phương pháp dạy học trực quan;
ba là, nhóm các phương pháp dạy học thực hành; bốn là, nhóm các phương
pháp kiểm tra, đánh giá kiến thức của người học.


Ngày nay, một số quốc gia có nền giáo dục phát triển đã đưa ra và
kết hợp một số phương pháp dạy học sau đây: thuyết giảng, thao diễn minh
hoạ, công việc thực hành - phịng thí nghiệm, thảo luận nhóm, mơ phỏng,
đóng vai, thực địa - tham quan, động não, học tập qua giải quyết vấn đề,
học tập qua máy tính…Việc lựa chọn phương pháp nào là tuỳ thuộc vào
nội dung và đặc điểm của mơn học. Nói cách khác, nội dung và đặc điểm
môn học sẽ chi phối việc lựa chọn và vận dụng phối hợp phương pháp dạy
học khác nhau.


Trong những năm qua, chúng ta chủ yếu sử dụng phương pháp dạy học
“truyền thống” - tức phương pháp thuyết trình, thầy truyền thụ kiến thức, trò
tiếp thu, ghi nhớ một cách máy móc, một chiều, khơng có sự liên hệ ngược.
Trong quá trình sử dụng phương pháp này, bên cạnh những thành tựu đã đạt
được, thì phương pháp giảng dạy “truyền thống” cũng bộc lộ những hạn chế.
Những hạn chế đó được Đại hội Đảng tồn quốc lần thứ X khẳng định:


</div>
<span class='text_page_counter'>(54)</span><div class='page_container' data-page=54>

Đại học và Cao đẳng, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ra một số văn bản quy định
rõ những điều kiện cần thiết để đổi mới phương pháp giảng dạy và học tập
các môn khoa học Mác - Lênin như: Ban hành tập đề cương bài giảng các
môn khoa học Mác - Lênin, quán triệt cương lĩnh xây dựng đất nước trong


thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, coi xêmina là một hình thức bắt buộc,
chấm dứt dạy độc thoại theo kiểu thầy “đọc chậm cho sinh viên ghi”, khuyến
khích sử dụng sơ đồ, biểu đồ, mơ hình, đèn chiếu, ban hành về quy định về sử
dụng ngân hàng câu hỏi kiểm tra, thi cho phù hợp với đặc thù của từng
trường, khuyến khích viết tiểu luận, đồ án mơn học, tập huấn hàng năm cho
đội ngũ giảng viên, thi Ôlympic các mơn khoa học Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh. Nhờ những quy định cụ thể của Bộ và cùng với sự nỗ lực của mỗi
trường, việc giảng dạy, học tập các môn khoa học Mác - Lênin ở các trường
Đại học, Cao Đẳng ở Tây Nguyên đã có những chuyển biến tích cực.


</div>
<span class='text_page_counter'>(55)</span><div class='page_container' data-page=55>

giải quyết tình huống trắc nghiệm, trực tiếp tiếp xúc với sinh viên để giải đáp…
Để thực hiện phương hướng này, giảng viên phải tự đào tạo về năng lực sư
phạm để phù hợp với yêu cầu về đổi mới phương pháp giảng dạy này, giáo
viên phải biết kích thích tính để sinh viên hứng thú trong học tập, sinh viên
dám hỏi, dám tranh luận để bảo vệ chính kiến của mình. Hiện nay ở Trường
Đại học Tây Nguyên, trường Cao đẳng sư phạm ĐăkLăk, ở một số chương,
bài cụ thể giảng viên đã sử dụng các phương tiện hiện đại để hỗ trợ việc đổi
mới, cải tiến phương pháp giảng dạy các môn khoa học Mác - Lênin. Phương
pháp giảng dạy mới cùng với các phương tiện hiện đại hỗ trợ giảng dạy đã
bước đầu gây được sự hứng thú ở sinh viên trong học tập các môn khoa học
Mác - Lênin, giúp sinh viên nắm vững kiến thức và khắc sâu hơn những
nguyên lý, liên hệ với thực tiễn, gắn lý luận với thực tiễn. Qua khảo sát hai
trường Đại học Tây Nguyên và trường Cao đẳng sư phạm ĐăkLăk cho thấy
kết quả học tập của sinh viên trong những năm qua đã có những chuyển biến
đáng kể (xem phụ lục 4).


</div>
<span class='text_page_counter'>(56)</span><div class='page_container' data-page=56></div>
<span class='text_page_counter'>(57)</span><div class='page_container' data-page=57>

<i><b>2.1.2.2. Hoạt động của tổ chức Đảng, Đoàn thanh niên, Hội Sinh</b></i>
<i><b>viên trong nhà trường với việc giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng</b></i>
<i><b>cho sinh viên</b></i>



<i>+ Tổ chức Đảng trong nhà trường</i>


Trong các trường Đại học, Cao đẳng, Đảng uỷ, Ban Giám hiệu có trách
nhiệm lãnh đạo cơng tác giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng cho sinh
viên. Trong những năm qua Đảng uỷ, Bam Giám hiệu các trường Đại học,
Cao đẳng ở Tây Nguyên đã lãnh đạo, chỉ đạo và phối hợp với các lực lượng
khác trong nhà trường làm tốt công tác giáo dục thế giới quan duy vật biện
chứng cho sinh viên, trong đó nổi bật nhất là: tổ chức tuyên truyền, học tập và
quán triệt rất nghiêm túc các Chỉ thị, Nghị quyết của Trung ương và của địa
phương, tổ chức thực hiện một cách có hiệu quả “tuần sinh hoạt cơng dân
<i>-sinh viên”, tổ chức báo cáo thời sự trong nước, quốc tế, các chuyên đề về kinh</i>
tế - xã hội, chính trị, văn hố, vấn đề dân tộc, vấn đề tơn giáo, nhất là những
chủ trương, chính sách về phát triển kinh tế - xã hội ở Tây Nguyên, giúp sinh
viên nắm vững các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của
Nhà nước. Đây là những tri thức chính trị - xã hội cực kỳ quan trọng giúp sinh
viên biết tự đánh giá những thành tựu to lớn mà sự nghiệp đổi mới mang lại,
từ đó củng cố niềm tin vào sự nghiệp đổi mới, vào sự thành công của công
cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội.


</div>
<span class='text_page_counter'>(58)</span><div class='page_container' data-page=58>

viên vào Đảng, trường Đại học Tây Nguyên trong năm học 2007 - 2008 kết
nạp được 11 đảng viên là sinh viên, trường Cao đẳng sư phạm ĐăkLăk kết
nạp được 9 đảng viên là sinh viên.


Hiện nay Đảng bộ các trường đang triển khai chương trình hành động
theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 7 khoá X về “Tăng cường sự lãnh đạo
<i>của Đảng đối với công tác Thanh niên”, chương trình hành động này của tổ</i>
chức Đảng trong trường học đang phát huy tác dụng tích cực đến hoạt động
của cơng tác Đồn và phong trào sinh viên trong các trường Đại học, Cao
đẳng ở Tây Nguyên.



<i>+ Tổ chức Đoàn thanh niên, Hội sinh viên </i>


Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh và Hội Sinh viên Việt Nam
do Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta sáng lập, có sứ mệnh quan trọng đối với
thế hệ trẻ nói chung và có vai trị quan trọng đối với việc giáo dục thế giới
quan duy vật biện chứng cho thanh niên sinh viên nói riêng. Đồn Thanh niên
Cộng sản Hồ Chí Minh và Hội Sinh viên Việt Nam là tổ chức chính trị - xã
hội của thanh niên. Đồn đóng vai trị nịng cốt chính trị đối với tổ chức Hội.
“Cơng tác Đồn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Sinh viên Việt Nam,
Hội Liên hiệp Thanh niên Việt Nam trong các trường học là bộ phận quan
trọng trong công tác giáo dục, đào tạo của các nhà trường”. Đoàn và Hội thực
hiện nhiệm vụ định hướng chính trị, định hướng giá trị, hỗ trợ thanh niên sinh
viên trong học tập, rèn luyện.


</div>
<span class='text_page_counter'>(59)</span><div class='page_container' data-page=59>

- là ngôi nhà chung của thanh niên sinh viên. Do đó, nó sẽ có vai trị, vị trí
quan trọng trong việc giáo dục thế giới quan khoa học, định hướng giá trị
cho sinh viên, giúp sinh viên nhận rõ và xác lập cho mình một chân giá trị
đúng đắn, bền vững.


Nhận thức đúng vai trị, vị trí của tổ chức Đoàn, Hội, trong thời gian
qua Đoàn Thanh niên, Hội Sinh viên trong các trường Đại học, Cao đẳng ở
Tây Nguyên đã chủ động tham mưu với cấp uỷ Đảng xây dựng những mơ
hình giáo dục tư tưởng, đạo đức, lối sống cho sinh viên ngày càng đa dạng về
nội dung, phong phú về hình thức và tổ chức nhiều phong trào hành động
thiết thực. Nổi bật là việc triển khai học tập “6 bài học lý luận chính trị” giành
cho đồn viên thanh niên, đợt sinh hoạt chính trị “tiếp lửa truyền thống mãi
<i>mãi tuổi 20”, diễn đàn “sống đẹp - sống có ích”, lễ hội “Thanh niên Tây</i>
<i>Ngun đoàn kết và phát triển”, “Tuổi trẻ Đại học Tây Nguyên tiếp lửa</i>
<i>truyền thống, rèn đức luyện tài, ngày mai lập nghiệp”, “Tuổi trẻ trường Cao</i>
<i>đẳng sư phạm ĐăkLăk rèn đức, luyện tài vì ngày mai làm thầy cơ giáo”, đặc</i>


biệt triển khai thực hiện có hiệu quả và đầy ý nghĩa “<i>Chiến dịch thanh niên</i>
<i>tình nguyện vì cuộc sống cộng đồng”… đã thu hút được đơng đảo đồn viên,</i>
sinh viên tham gia và đã tạo được những chuyển biến tích cực trong nhận
thức về mục đích, ý nghĩa của cuộc sống hình thành nên ở họ một chân giá trị
đúng đắn, và hơn nữa giúp sinh viên có thêm tri thức, niềm tin về cuộc sống,
về sự thắng lợi của công cuộc đổi mới và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước
ta. Những hoạt động của tổ chức Đồn, Hội càng có ý nghĩa đặc biệt quan
trọng ở tính đặc thù của Tây Nguyên, qua những diễn đàn này cơng tác tập
hợp đồn kết thanh niên được “nối dài” hơn, giúp giải quyết tốt cơng tác đồn
kết tập hợp lực lượng, nhất là đối với sinh viên dân tộc thiểu số tại chỗ, đặc
biệt là từ sau sự kiện 2/2001 và tháng 4/2004.


</div>
<span class='text_page_counter'>(60)</span><div class='page_container' data-page=60>

còn nhiều mặt hạn chế như: ý thức trách nhiệm của một số đoàn viên chưa
cao, chưa thực sự gắn bó với tổ chức Đồn, Hội chưa coi đây là một tổ chức
chính trị - xã hội để đồn viên, hội viên thơng qua nó để rèn luyện và trưởng
thành; chương trình rèn luyện đồn viên của các Đoàn trường xây dựng và
triển khai chưa cụ thể, chưa thiết thực, cịn nặng về hình thức, chiếu lệ, đặc
biệt là tổ chức đoàn chưa xây dựng được tiêu chí đánh giá chất lượng đồn
viên tham gia đăng ký rèn luyện theo từng chủ đề.


Giáo dục nói chung và giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng cho
sinh viên nói riêng là sự thống nhất biện chứng giữa chủ thể giáo dục và
khách thể giáo dục. Ở đây chủ thể giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng
cho sinh viên trong nhà trường đó là đội ngũ giảng viên các môn khoa học
Mác - Lênin, Đảng uỷ, Ban Giám hiệu, phịng cơng tác học sinh, sinh viên,
Đồn Thanh niên, Hội Sinh viên. Vì vậy, hiệu quả giáo dục khơng chỉ phụ
thuộc vào chủ thể mà cịn phụ thuộc vào khả năng tự giáo dục, tự nỗ lực phấn
đấu của chính bản thân sinh viên.


<b>2.2. NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA TRONG VIỆC GIÁO DỤC THẾ GIỚI</b>


<b>QUAN DUY VẬT BIỆN CHỨNG CHO SINH VIÊN Ở TÂY NGUYÊN HIỆN NAY</b>


Như đã phân tích thực trạng của việc giáo dục thế giới quan duy vật
biện chứng cho sinh viên Tây Nguyên trong những năm qua, với những kết
quả đã đạt được cũng như những hạn chế còn tồn tại nó đặt ra những vấn đề
cần phải có những giải pháp khoa học để đạt được những hiệu quả cao hơn
trong cơng tác này.


<b>2.2.1. Những “tình huống có vấn đề” trong mối quan hệ nhà trường</b>
<b>và xã hội khi giáo dục thế giới quan</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(61)</span><div class='page_container' data-page=61>

dựng đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Để thực hiện tốt nhiệm vụ
đó các trường Đại học, Cao đẳng ở Tây Nguyên đã tập trung vào đổi mới, cải
tiến phương pháp giảng dạy các môn khoa học Mác - Lênin. Đoàn thanh niên,
Hội sinh viên thực hiện đa dạng các hình thức tổ chức giáo dục thế giới quan
duy vật biện chứng cho sinh viên, tạo ra “sân chơi” cho thanh niên sinh viên
rèn luyện và trưởng thành. Tuy nhiên, trong giai đoạn hiện nay việc giáo dục
thế giới quan duy vật biện chứng cho sinh viên, người giảng viên các môn
khoa học Mác - Lênin và các tổ chức tham gia trực tiếp vào giáo dục thế giới
quan duy vật biện chứng cho sinh viên đang gặp những khó khăn, nhất là
những tác động của thực tế đối lập ngoài xã hội.


<i>Một là, sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội Liên xô và Đông Âu đã làm cho</i>
khơng ít người nhất là sinh viên nghi ngờ vào học thuyết Mác - Lênin, mất
niềm tin vào sự thắng lợi của công cuộc đổi mới và đi lên chủ nghĩa xã hội ở
nước ta. Thực tế này đã ảnh hưởng không nhỏ đến nhận thức, tư tưởng trong
học tập các môn khoa học Mác - Lênin của sinh viên ngày nay.


Trong khi đó, hình ảnh của chủ nghĩa tư bản phát triển cao đang tràn
vào nước ta, nó mang theo chủ nghĩa hiện sinh, chủ nghĩa thực dụng, coi


trọng sự hưởng thụ vật chất đã và đang ảnh hưởng trực tiếp vào sinh viên.
Đặc biệt Tây Nguyên là vùng rất nhạy cảm về chính trị, các thế lực thù địch
đang ráo riết lợi dụng thực tế này để kích động, gây rối. Thực tế này có thể
làm nảy sinh sự hoài nghi lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, theo đó có cả sự
phủ nhận thế giới duy vật biện chứng. Không chỉ giáo dục lý luận chính trị mà
cả các tổ chức Đồn thanh niên, Hội sinh viên cũng gặp rất nhiều khó khăn
trong công tác tập hợp thanh niên.


</div>
<span class='text_page_counter'>(62)</span><div class='page_container' data-page=62>

phương nhiều hơn những tấm gương “người tốt, việc tốt” trong thời kỳ đổi
mới…cũng gây ra những phản tác dụng. Thực tế này đã và đang ảnh hưởng
tiêu cực đến niềm tin vào thế giới quan duy vật biện chứng. Nó là mặt đối
lập trực tiếp, và là trở lực không nhỏ với việc giáo dục thế giới quan trong
nhà trường.


Dường như khoảng cách giữa lý luận và thực tiễn đang tồn tại. Nhà
trường miệt mài giáo dục những chuẩn mực của con người mới với thế giới
khoa học và cách mạng. Bên ngồi xã hội thì khơng ít cán bộ đảng viên “tham
nhũng, suy thoái về đạo đức lối sống” tôn thờ chủ nghĩa cá nhân… vẫn tiếp
tục tồn tại như một hiện trạng khơng q khó thấy. Vì vậy, khi sinh viên được
nghe những bài giảng của những nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh và đường lối cách mạng của Đảng họ thấy thật khoa học
và đúng đắn vế mặt lý luận, nhưng rồi sinh viên lại cho rằng đó chỉ là lý
thuyết mà thơi, cịn những gì thực tiễn đang diễn ra trong cuộc sống hàng
ngày của xã hội lại trái ngược đối với lý thuyết đó: tham nhũng trở thành một
quốc nạn, một hiện tượng phổ biến, tình trạng thiếu kỷ cương, mất đoàn kết
nội bộ, kỷ luật Đảng chưa nghiêm, sự phân hoá giàu nghèo ngày càng tăng,
lối sống thực dụng, chủ nghĩa cá nhân ngày càng mạnh. Chính mặt đối lập
này là một lực cản rất lớn trong việc nâng cao chất lượng dạy và học các môn
khoa học Mác - Lênin, ảnh hưởng tiêu cực đến hiệu quả giáo dục thế giới
quan duy vật biện chứng cho sinh viên Tây Nguyên hiện nay.



</div>
<span class='text_page_counter'>(63)</span><div class='page_container' data-page=63>

Chẳng hạn như: trên <i>Báo An ninh thế giới đăng 8 số về bí ẩn hiện tượng</i>
tìm mộ bằng ngoại cảm; chuyện “Thánh vật ở sông Tô Lịch”, tác giả
Nguyễn Hùng Cường, (Báo bảo vệ pháp luật, đăng ngày 31-3-2007)…
Nhiều sinh viên cũng đã bày tỏ sự băn khoăn và cả ít nhiều những hồi
nghi trước các thơng tin trên. Chừng nào khoa học chưa giải thích cặn kẽ
về bản chất của các hiện tượng trên, chừng nào những tin đồn thổi, “giật
gân” chưa được kiểm duyệt trên một số báo chí bị thương mại hố … thì
khi đó, khơng ít những trở ngại còn đặt ra trên con đường giáo dục thế giới
quan duy vật biện chứng.


<i>Bốn là, với nhóm sinh viên dân tộc thiểu số dường như, tác động của</i>
thế giới quan duy vật biện chứng mới chỉ dừng lại ở sách vở và khuôn viên
nhà trường. Khi trở về với buôn làng, trong môi trường – không gian xã hội
cổ truyền, nhiều sinh viên dân tộc ít người khá nhanh chóng quay lại với
nếp tư duy truyền thống vốn có nhiều yếu tố phi duy vật. Tập tục và hủ tục,
truyền thống và cộng đồng trở thành những tác nhân làm mai một thế giới
quan mới.


Như vậy, giáo dục không chỉ là cơng việc của nhà trường và sự định
hình thế giới quan duy vật và khoa học cũng không chỉ là công việc của
những người giảng dạy lý luận Mác – Lênin.


<b>2.2.2. Vấn đề con người: Đội ngũ giảng viên giảng dạy các môn</b>
<b>khoa học Mác - Lênin và cán bộ làm cơng tác Đồn thanh niên, Hội sinh</b>
<b>viên còn nhiều bất cập</b>


<i>Thứ nhất, lượng và chất của khối giảng viên chuyên trách còn bất</i>
<i>cập với yêu cầu của nhiệm vụ giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng</i>.



</div>
<span class='text_page_counter'>(64)</span><div class='page_container' data-page=64>

triển khoa học công nghệ hiện đại, giáo dục tiên tiến, mà còn phải giáo dục,
xây dựng lập trường quan điểm giai cấp công nhân vững vàng, xây dựng niềm
tin sâu sắc vào những lý tưởng cao đẹp, cơ sở khoa học xác đáng của chủ
nghĩa Mác - Lênin. Giáo dục thế hệ trẻ phát triển toàn diện cả về thể lực, đạo
đức lẫn tài năng; cần xây dựng con người có kỹ năng lao động giỏi, có ý chí
và bản lĩnh trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc là một nhiệm vụ
nặng nề đối với ngành giáo dục - đào tạo hiện nay. Đặc biệt đối với công tác
giáo dục chủ nghĩa Mác - Lênin trong nhà trường, như đã chỉ ra ở trên đó là
đang cịn nhiều nghịch lý giữa lý luận và thực tiễn. Đây là trở ngại lớn nhất
cho việc nâng cao chất lượng giáo dục chủ nghĩa Mác - Lênin. Theo chúng
tơi để giải quyết được khó khăn đó thì địi hỏi cấp thiết như là điều kiện cần,
đó là phải xây dựng được đội ngũ giảng viên Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh đủ về số lượng, đảm bảo chất lượng. Trong những năm qua, dưới sự
chỉ đạo trực tiếp của Bộ Giáo dục - Đào tạo các trường Đại học, Cao đẳng ở
Tây Nguyên đã chú ý đến việc đảm bảo tăng cường về số lượng đội ngũ
giảng viên Mác - Lênin, tuyển ngoài hoặc một số trường chọn những sinh
viên có học lực khá ở các ngành khác cho đi học văn bằng hai chuyên ngành
Mác - Lênin.


</div>
<span class='text_page_counter'>(65)</span><div class='page_container' data-page=65>

giảng viên phải giảng dạy đến năm mơn. Từ đó có thể nhận thấy rằng việc
nâng cao hiệu quả giáo dục chủ nghĩa Mác - Lênin, giáo dục thế giới quan
duy vật biện chứng cho sinh viên ở Tây Nguyên hiện nay thực sự là một
cơng việc khó khăn.


Người giáo viên Mác - Lênin ngồi việc có phẩm chất đạo đức, lập
trường chính trị vững vàng, cũng cần có hiểu biết nhất định về các khoa
học khác, am hiểu về những thành tựu của khoa học hiện đại, để chứng
minh cho những nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin - cơ sở để hình
thành thế giới quan duy vật biện chứng. Muốn vậy thì giảng viên phải có
trình độ ngoại ngữ và khả năng sử dụng công nghệ thông tin. Năng lực của


giảng viên Mác - Lênin Tây Nguyên hiện nay còn nhiều hạn chế về trình độ
chun mơn, về phương pháp, về trình độ ngoại ngữ và tin học. Cũng do
vậy, chất lượng giảng dạy của họ cịn thấp. Có những nội dung của môn
học ngay giảng viên cũng chưa hiểu hết nội dung và ý nghĩa thực tiễn của
nó, nên nhiều khi còn lúng túng, truyền đạt sai kiến thức cơ bản gây ra sự
nghi ngờ trong sinh viên. Có một số sinh viên coi thường môn học, không
muốn đến lớp nghe giảng. Đối với những giảng viên trẻ, còn thiếu kinh
nghiệm giảng dạy, khả năng tổng kết thực tiễn chưa cao nên quá trình
giảng dạy chủ yếu là truyền đạt những nguyên lý được ghi trong giáo trình,
khơng gắn tri thức của bài giảng với những vấn đề kinh tế - xã hội, thực
tiễn trong nước và trên thế giới. Chính vì vậy, sinh viên khơng nắm được
bài, khơng hiểu bài, khơng có tình cảm khi học các môn khoa học Mác –
Lênin. Theo đó, hiệu quả giáo dục chưa cao,.


</div>
<span class='text_page_counter'>(66)</span><div class='page_container' data-page=66>

chắc chắn sẽ có rất nhiều khó khăn đồi với giảng viên nói chung và giảng viên
các mơn khoa học Mác - Lênin nói riêng.


<i>Thứ hai, sức thu hút của các tổ chức thanh niên – sinh viên chưa cao.</i>
Các tổ chức này hiện là một chủ thể quan trọng trong giáo dục sinh
viên. Sự nghiệp đổi và hội nhập thế giới đưa đến sự phát triển của xã hội
về mọi mặt trong đời sống, nhu cầu của sinh viên địi hỏi với tổ chức đồn
cũng cao hơn như: về nhu cầu nghiên cứu khoa học, nhu cầu hưởng thụ
văn hố. Để tổ chức Đồn thanh niên, Hội sinh viên thực sự tạo ra một
“sân chơi” bổ ích cho sinh viên trong hồn cảnh mới này địi hỏi phải có
một đội ngũ làm cơng tác Đồn, Hội phải thực sự có năng lực chun
mơn, phẩm chất đạo đức, khả năng tập hợp thanh niên. Mặt khác, quá
trình đổi mới và hội nhập thế giới này cũng đang tác động tiêu cực đến
sinh viên như: ngại tham gia hoạt động Đồn thể, sống bng thả, thực
dụng, cá nhân chủ nghĩa, sống thiếu lý tưởng, đua đòi. Một số loại hình
nghệ thuật cổ như chèo, tuồng, kịch nói, kịch câm ít được sinh viên quan


tâm do tiết tấu chậm, không phù hợp với nhịp sống nhanh, sôi động của
tuổi trẻ. Do vậy, muốn tập hợp được thanh niên, giáo dục cho họ sống có
lý tưởng cao đẹp, cần phải có đội ngũ cán bộ đoàn thật sự tâm huyết,
nhiệt huyết, có hiểu biết rộng, năng lực tổ chức tốt.


</div>
<span class='text_page_counter'>(67)</span><div class='page_container' data-page=67>

tập hợp được nhiều nhất sinh viên, thậm chí có nơi mang nặng tính hình
thức. Đây thực sự là vấn đề tổ chức đang đặt ra cho nhiều trường.


<b>2.2.3. Yêu cầu cao về đổi mới nội dung, phương giảng dạy các môn</b>
<b>khoa học Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh đang vượt xa so với cơ sở</b>
<b>giáo dục còn hạn chế</b>


Một trong những nguyên nhân dẫn đến hạn chế việc giáo dục chủ nghĩa
Mác - Lênin, giáo dục lý luận, tư tưởng chính trị cho sinh viên chưa đáp ứng
sự nghiệp giáo dục trong giai đoạn hiện nay đó là mâu thuẫn giữa yêu cầu đổi
mới nội dung chương trình và phương pháp giảng dạy với những điều kiện cơ
sở vật chất còn rất nhiều hạn chế trong các trường Đại học, Cao đẳng ở Tây
Nguyên hiện nay.


Hiệu quả của việc giảng dạy các mơn khoa học Mác - Lênin nói chung
và giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng nói riêng khơng chỉ phụ thuộc
vào đội ngũ cán bộ giảng dạy mà còn phụ thuộc vào nội dung, chương trình
giảng dạy và phương pháp giảng dạy. Vì vậy, cải tiến nội dung, chương trình
và phương pháp giảng dạy là một yêu cầu cấp thiết và là một biện pháp quan
trọng để nâng cao hiệu quả giảng dạy các môn khoa học này. Vấn đề này đã
được Bộ Giáo dục - Đào tạo cực kỳ quan tâm, và Bộ đã trực tiếp chỉ đạo và
chủ trì thực hiện đổi mới nội dung chương trình, đổi mới phương pháp giảng
dạy và học tập các môn khoa học Mác - Lênin. Thực hiện sự chỉ đạo của Bộ
Giáo dục - Đào tạo, các trường Đại học, Cao đẳng ở Tây Nguyên và sự nỗ
lực của đội ngũ cán bộ giảng viên để cụ thể hoá vào từng nội dung bài giảng.


Tuy nhiên, trong quá trình giảng việc thực hiện sự đổi mới, cải tiến phương
pháp giảng dạy lại gặp nhiều trở ngại về cơ sở vật chất không đáp ứng được
với phương pháp giảng dạy mới này.


</div>
<span class='text_page_counter'>(68)</span><div class='page_container' data-page=68>

và thảo luận. Điều này đòi hỏi 100% sinh viên phải đảm bảo đủ giáo trình
học tập, nhưng hiện tại các trường Cao đẳng, Đại học ở Tây Nguyên lại
không đáp ứng được nhu cầu này. Thư viện của các trường tài liệu học tập
cịn nghèo nàn, thậm chí một số trường chỉ giải quyết cho 3 sinh viên
mượn 1 cuốn giáo trình. Đa số sinh viên muốn có giáo trình thì phải tự đi
mua, nhưng đa số sinh viên ở Tây Ngun xuất thân từ gia đình cịn khó
khăn về kinh tế, chẳng hạn ở trường Cao đẳng sư phạm ĐăkLăk, trường
Cao đẳng nghề thanh niên dân tộc Tây Nguyên (80% là sinh viên người
dân tộc thiểu số) nên rất nhiều sinh viên không thể tự mua được. Hơn nữa,
các nguồn tài liệu, giáo trình này lại khơng được cung cấp rộng rãi ở đây,
vì vậy các em chỉ học tất cả những gì ở trong vở ghi. Phương pháp giảng
dạy hiện đại địi hỏi phát huy tính tích cực, chủ động sáng tạo của sinh
viên, nhưng nếu sinh viên không có đủ phương tiện tối thiểu để thực hiện
việc đọc giáo trình trước ở nhà thì chắc chắn khơng thể thực hiện được.


<i>Thứ hai, việc cải tiến và đổi mới phương pháp giảng dạy hiện đại này,</i>
đòi hỏi đội ngũ giảng viên phải có sự chuẩn bị cơng phu, đầu tư nhiều thời
gian dành cho việc nghiên cứu để thực hiện đổi mới phương pháp giảng dạy
của từng bài, từng chương. Trong khi đó đời sống của đa số giảng viên Mác
<i>-Lênin ở Tây Nguyên đang gặp nhiều khó khăn, đa số giảng viên phải đi làm</i>
thêm, dạy thỉnh giảng ở nhiều trường, nhiều hệ khác nhau nên không thể có
thời gian để đầu tư thiết kế một bài giảng đáp ứng yêu cầu đổi mới phương
pháp giảng dạy này.


</div>
<span class='text_page_counter'>(69)</span><div class='page_container' data-page=69>

sự hỗ trợ của phương tiện hiện đại thì phải mất rất nhiều thời gian, thủ tục
rườm rà. Đây thực sự là những vấn đề với yêu cầu đổi mới nội dung chương


trình và phương pháp giảng dạy các môn khoa học Mác - Lênin ở các trường
Cao đẳng, Đại học ở Tây Nguyên hiện nay. Thiếu cơ sở vật chất tối thiểu
chưa thể thực hiện được một cách có hiệu quả yêu cầu đổi mới giáo dục đào
tạo ở nước ta trong thời kỳ công nghiệp hố, hiện đại hố.


Trong khi đó, từ phía bên kia, các thế lực thù địch, phản động đang tìm
mọi cách chống phá với nhiều phương tiện hiện đại, với những điều kiện vật
chất hơn hẳn và những hình thức tuyên truyền tinh vi... Ưu thế ấy đang tác động,
chi phối khá mạnh vào tư tưởng, tình cảm, ý chí, nghị lực, của khơng ít sinh
viên.


<b>2.3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG</b>
<b>VÀ HIỆU QUẢ GIÁO DỤC THẾ GIỚI QUAN DUY VẬT BIỆN CHỨNG CHO</b>
<b>SINH VIÊN Ở TÂY NGUYÊN HIỆN NAY</b>


<b>2.3.1. Tạo môi trường kinh tế, xã hội lành mạnh, nâng cao đời sống</b>
<b>vật chất và tinh thần cho sinh viên</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(70)</span><div class='page_container' data-page=70>

“con người tạo ra hoàn cảnh đến mức nào thì hồn cảnh cũng tạo ra con
người đến mức ấy”.


Cùng với sự phát triển kinh tế, xã hội phải đấu tranh loại bỏ những hiện
tượng, những biểu hiện xấu đang đối lập với thế giới quan duy vật biện
chứng. Cần phải có những chính sách hợp lý để làm tốt công tác làm trong
sạch đội ngũ cán bộ, đảng viên. Đây là nhân tố cực kỳ thiết thực để tạo niềm
tin ở sinh viên vào Đảng vào chế độ từ đó hình thành lý tưởng sống vì mục
tiêu của Đảng.


Trong các trường Đại học, Cao đẳng ở Tây Nguyên cần ngăn chặn
những hiện tượng tiêu cực trong học tập, thi cử, trong quan hệ thầy trò, chống


sự thâm nhập của các tệ nạn xã hội, lối sống thiếu lành mạnh. Để tạo niềm tin
của sinh viên vào công bằng xã hội, vào kỷ cương phép nước trong nhà
trường. Cần phát huy tính tiên phong gương mẫu của cán bộ, đảng viên, giáo
viên ở các trường, xây dựng môi trường giáo dục lành mạnh, thực hiện chủ
trương lớn của Bộ Giáo dục - Đào tạo là “học sinh tích cực, xây dựng trường
học thân thiện”. Thực hiện nghiêm túc cuộc vận động hai không do Bộ Giáo
dục - Đào tạo phát động “không tiêu cực trong thi cử và bệnh thành tích trong
giáo dục”.


Để nâng cao hiệu quả giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng cho
sinh viên đòi hỏi phải chăm lo đến đời sống vật chất và tinh thần của sinh
viên. Chúng ta sẽ không thu được một kết quả tốt đẹp khi giáo dục thế giới
quan duy vật biện chứng cho sinh viên nếu như những vấn đề cấp bách của
tuổi trẻ chưa được giải quyết và chú trọng.


</div>
<span class='text_page_counter'>(71)</span><div class='page_container' data-page=71>

thực nhất, trực tiếp hàng ngày của sinh viên cần được đáp ứng chính là điều
kiện ăn, ở, học tập, nghiên cứu khoa học.


Trên thực tế các trường Đại học, Cao đẳng ở Tây Nguyên hiện nay cơ
sở vật chất, trang thiết bị phục vụ cho học tập, nghiên cứu khoa học và chỗ ở
cho sinh viên chưa đáp ứng, thậm chí ở một số trường vừa thiếu, vừa quá lạc
hậu… thư viện hay chỉ đơn thuần là “kho chứa sách”, thiếu nhiều đầu sách
cần thiết, trang bị nghèo nàn, cũ kỹ, lạc hậu; ký túc xá sinh viên thiếu hẳn
những nhu cầu sinh hoạt tối thiểu; khu vui chơi giải trí cho sinh viên nội trú
hầu như khơng có. Ký túc xá sinh viên trường Cao đẳng Sư phạm ĐăkLăk,
trường Cao đẳng nghề thanh niên dân tộc Tây Nguyên, quỹ phịng ở thừa
nhưng sinh viên lại khơng muốn vào ở, một trong những ngun nhân chính
đó là điều kiện sinh hoạt tinh thần hầu như khơng có gì nên phần lớn sinh viên
thuê nhà trọ ở bên ngoài. Điều này sẽ dẫn đến khó khăn trong cơng tác quản
lý, dễ xảy ra hiện tượng sinh viên lười học, tụ tập chơi bời, tham gia vào các


tệ nạn xã hội. Muốn khắc phục được những điểm này thì việc tạo lập điều
kiện sinh hoạt tốt và xây dựng môi trường văn hoá lành mạnh ở ký túc xá sinh
viên là việc làm thiết thực nhất ở các trường Đại học, Cao đẳng ở Tây Nguyên
hiện nay.


Ngoài ra, chúng ta phải tiếp tục hồn thiện những chủ trương, chính
sách phù hợp hơn để phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội ở vùng đống bào dân
tộc thiểu số. Khi đời sống vất chất và tinh thần của các buôn làng được cải
thiện, được nâng lên, được hoàn thiện các thiết chế văn hố. Đó là những điều
kiện để khắc phục dần những tập tục và hủ tục, tạo ra một không gian – xã
hội cho nhóm sinh viên dân tộc thiểu số có cơ hội để thể nghiệm và hồn
thiện thế giới quan mới đã được trang bị trong nhà trường.


</div>
<span class='text_page_counter'>(72)</span><div class='page_container' data-page=72>

Nói đến việc học tập của thế hệ trẻ cũng có nghĩa là nói đến nhà
trường, nói đến thầy giáo, mà nói đến trường học là nói đến tri thức, nói đến
văn minh, văn hố. Điều 16 Luật Giáo dục quy định: “không truyền bá tôn
giáo, tiến hành các nghi thức tôn giáo trong các trường, cơ sở giáo dục khác
của hệ thống giáo dục quốc dân, của cơ quan hành chính nhà nước, của tổ chức
chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, của lực lượng vũ trang nhân dân”. Điều này
muốn nói lên địi hỏi người đi giáo dục cũng phải có một thế giới quan khoa học
- thế giới quan duy vật biện chứng. Thế giới quan khoa học của nhà giáo chi
phối hoạt động và thái độ của họ trong quá trình hành nghề, như trong việc lựa
chọn nội dung và phương pháp giảng dạy, việc kết hợp giữa giáo dục với nhiệm
vụ chính trị - xã hội, gắn nội dung giảng dạy với thực tiễn cuộc sống, cũng như
cách nhìn nhận và đánh giá mọi biểu hiện của sinh viên. Nói cách khác, thế giới
quan duy vật biện chứng là kim chỉ nam giúp cho nhà giáo đi đúng hướng, là sợi
chỉ đỏ xuyên suốt mọi hoạt động giảng dạy và giáo dục của nhà giáo.


Trong các trường Đại học và Cao đẳng, đội ngũ giảng viên có vị trí, vai
trị hết sức quan trọng trong việc thực hiện mục tiêu, yêu cầu của môn học.


Mục tiêu, yêu cầu hàng đầu của giảng dạy các môn khoa học Mác - Lênin là
giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng cho sinh viên, và chính đội ngũ giảng
viên các mơn khoa học Mác - Lênin là lực lượng chủ yếu thực hiện mục tiêu,
yêu cầu cơ bản này. Thông qua giảng dạy chủ nghĩa Mác - Lênin, giảng viên
giúp sinh viên nắm vững và vận dụng phương pháp luận duy vật biện chứng vào
học tập chuyên ngành và phân tích các vấn đề thực tiễn xã hội. Vì vậy, nâng cao
trình độ đội ngũ cán bộ giảng dạy đặc biệt là đội ngũ cán bộ giảng dạy các môn
khoa học Mác - Lênin là giải pháp quan trọng nhằm nâng cao hiệu quả của việc
giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng cho sinh viên.


</div>
<span class='text_page_counter'>(73)</span><div class='page_container' data-page=73>

<i>Một là, phải nâng cao chất lượng của toàn bộ đội ngũ giảng viên ở các</i>
trường Đại học, Cao đẳng ở Tây Nguyên hiện nay, trang bị cho đội ngũ này
đầy đủ những phẩm chất cần thiết.


Điều đó đòi hỏi bản thân đội ngũ giảng viên phải là người giác ngộ lý
tưởng xã hội chủ nghĩa, có phẩm chất chính trị vững vàng tham gia tích cực
vào việc giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng thông qua những mơn học
mà mình đang trực tiếp giảng dạy.


<i>Hai là, tiếp tục bồi dưỡng cho đội ngũ giảng viên một phương pháp sư</i>
phạm tốt, khả năng truyền thụ hấp dẫn, logic,… giúp sinh viên nắm chắc kiến
thức qua đó mà thế giới quan duy vật biện chứng của họ ngày càng được củng
cố và nâng cao.


Riêng đối với giảng viên các môn khoa học Mác - Lênin, do chức
năng đặc biệt của nó trong việc giáo dục thế giới quan. Vì vậy, trong quá
trình nâng cao trình độ năng lực của đội ngũ này phải chó những chính
sách quan tâm hơn.


</div>
<span class='text_page_counter'>(74)</span><div class='page_container' data-page=74>

ở họ có một lý tưởng sống cao đẹp và tích cực tham gia vào các hoạt động


có ý nghĩa như: hoạt động của tổ chức Đồn thanh niên Cộng sản Hồ Chí
Minh, Hội sinh viên…


Để có được đội ngũ giảng viên các mơn khoa học Mác - Lênin đáp ứng
được nhiệm vụ đó cần phải có các biện pháp như sau:


- Bộ Giáo dục - Đào tạo cần có những biện pháp kiên quyết để khơng
cịn tình trạng giảng viên khơng cịn đủ trình độ, năng lực chuyên môn và
nghiệp vụ kém. Đặc biệt, những giảng viên có biểu hiện suy thối về đạo đức,
lối sống phải kiên quyết cho ra khỏi ngành. Bởi những hành vi sai trái của đội
ngũ giảng viên nếu không được ngăn chặn sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới việc
hình thành nhân cách của mỗi sinh viên, suy giảm niềm tin của họ đối với sự
lãnh đạo của Đảng và quản lý của nhà nước. Bên cạnh đó cần phải đảm bảo
số lượng biên chế giảng viên cho từng môn học để giảng viên được đào tạo
chuyên ngành nào thì giảng dạy đúng chuyên ngành ấy nhằm khắc phục tình
trạng giảng viên phải dạy nhiều môn, thực hiện đúng tinh thần công văn số
2488/BGDĐT-ĐH&SĐH “tuyển đủ giảng viên để giảng dạy các mơn này,
chấm dứt việc bố trí giảng viên dạy 2 hoặc 3 môn học, dạy vượt quá nhiều giờ
so với quy định”, tạo điều kiện cho giảng viên có thời gian nghiên cứu khoa
học, chuẩn bị bài giảng phong phú hơn, bổ sung những kiến thức cập nhật cho
sinh viên nâng cao trình độ chun mơn của giảng viên.


</div>
<span class='text_page_counter'>(75)</span><div class='page_container' data-page=75>

Hiệu trưởng các trường cần tạo điều kiện tổ chức cho giảng viên Mác
-Lênin đi thực tế 10 ngày trong một năm học. Đây là một yêu cầu cần thiết để
đảm bảo nguyên tắc thống nhất giữa lý luận với thực tiễn mà mỗi một giảng
viên Mác - Lênin cần có. Thơng qua đi thực tế tại các khu công nghiệp, các
doanh nghiệp, các cơ sở nông nghiệp, các danh lam thắng cảnh và các di tích
lịch sử sẽ cung cấp rất nhiều những tri thực thực tế để họ có điều kiện vận
dụng những tri thức lý luận trong nhà trường luận chứng những vấn đề của
thực tiễn từ đó trong q trình giảng dạy giảm bớt sự khơ cứng, kích thích sự


hứng thú của người học, đem lại hiệu quả cao hơn trong việc giáo dục thế giới
quan duy vật biện chứng.


Đi thực tế 10 ngày dành cho giảng viên Mác - Lênin các trường Đại
học, Cao Đẳng được Bộ Giáo dục - Đào tạo quy định rất rõ, nhưng hầu như
các trường Đại học, Cao đẳng ở Tây Nguyên chưa thực hiện, đặc biệt trường
Cao Đẳng nghề Tây Nguyên, trường Cao đẳng Sư phạm ĐăkLăk trong những
năm qua chưa thực hiện được năm nào.


- Đảm bảo điều kiện vật chất cho giảng viên dạy và học tập các môn
khoa học Mác - Lênin. Để góp phần nâng cao hiệu quả giáo dục thế giới quan
duy vật biện chứng cho sinh viên ở Tây Nguyên hiện nay, trước mắt các
trường cần đảm bảo các điều kiện vật chất cơ bản như: tăng cường sách và tài
liệu cần thiết cho thầy và trò cụ thể là sách giáo khoa phải được đảm bảo đầy
đủ; các tạp chí lý luận và các báo chính phải đảm bảo cho mỗi giảng viên. Để
đảm bảo được những điều kiện vật chất này ở mỗi trường cần phải trang bị tốt
hệ thống thư viện và đặc biệt là hệ thống thư viện điện tử.


</div>
<span class='text_page_counter'>(76)</span><div class='page_container' data-page=76>

- Một trong những giải pháp nhằm nâng cao trình độ chun mơn
nghiệp vụ cho giảng viên đó là việc nâng cao khả năng vận dụng, quán triệt
những quan điểm của Đảng trong giảng dạy. Muốn vận dụng, quán triệt
được nhất thiết phải nghiên cứu kỹ những văn kiện của Đảng, hiểu rõ nội
dung các quan điểm của Đảng được trình bày trong các văn kiện đó, trên
thực tế điều này không phải ai cũng thực hiện được. Nhiều cán bộ giảng
dạy, nhất là cán bộ trẻ, vẫn cịn quan niệm sai lầm khi cho rằng khơng cần
phải nghiên cứu nghị quyết của Đảng, xem việc nghiên cứu này chỉ là công
việc của đảng viên, chỉ liên quan đến công tác vận động, tuyên truyền,
công tác thực tiễn, không liên quan đến công tác lý luận. Do khơng nghiên
cứu, thậm chí khơng đọc văn kiện, nghị quyết của Đảng, nên nhiều cán bộ
không nắm được thực chất các quan điểm của Đảng, vì vậy khi giảng dạy


khơng thể đưa các quan điểm của Đảng vào bài giảng của mình được, nếu
có thì cũng chỉ là nhắc lại giáo trình một cách chiếu lệ, gượng ép. Do vậy,
việc giảng dạy những nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin hiện chưa có
tính thuyết phục cao, cịn xa rời cuộc sống của đất nước và những diễn biến
của địa phương.


</div>
<span class='text_page_counter'>(77)</span><div class='page_container' data-page=77>

- Bộ Giáo dục - Đào tạo và các tỉnh Tây Ngun cần có những chính
sách ưu đãi để thu hút được những giảng viên giỏi về công tác ở các trường
nhất là các trường Cao đẳng trực thuộc Sở và Uỷ ban nhân tỉnh.


<b>2.3.3. Đổi mới phương pháp giảng dạy các môn khoa</b>
<b>học Mác - Lênin</b>


Cùng với đổi mới nội dung, đổi mới phương pháp giảng dạy các môn
khoa học Mác - Lênin là khâu cơ bản nhằm nâng cao chất lượng giảng dạy,
phát huy vai trị giảng dạy các mơn khoa học Mác - Lênin trong việc giáo dục
thế giới quan duy vật biện chứng cho sinh viên.


Phương pháp giảng dạy các môn khoa học Mác - Lênin tất yếu phải
tuân thủ những yêu cầu của phương pháp sư phạm. Đồng thời, với tính cách
là phương pháp giảng dạy bộ mơn, nó có những đặc trưng riêng phụ thuộc
vào đối tượng dạy học, mục đích, u cầu của mơn học…


Q trình đổi mới phương pháp giảng dạy phải dựa trên lý luận dạy học
mới được gọi là “công nghệ giáo dục - dạy học”. Đây là cuộc cách mạng
trong giáo dục - dạy học đặc trưng bởi sự biến đổi sâu sắc trên tất cả mọi
khâu: mục đích, nội dung, phương pháp, phương tiện, chủ thể dạy và học.


Đổi mới phương pháp giảng dạy trong nhà trường là đòi hỏi tất yếu
khách quan, xuất phát từ sự gia tăng nhanh chóng khối lượng tri thức khoa


học, sự xuất hiện nhiều lĩnh vực tri thức khoa học mới. Những biến đổi sâu
sắc trong các trường Đại học, Cao đẳng như mở rộng quy mô đào tạo, xu
hướng chuyển dần sang đào tạo tín chỉ… đã tác động đến hoạt động giảng
dạy, đòi hỏi thay đổi cách dạy của giảng viên.


Hiện nay, để đổi mới phương pháp giảng dạy đạt hiệu quả cao, theo
chúng tôi cần tập trung vào những vấn đề sau:


</div>
<span class='text_page_counter'>(78)</span><div class='page_container' data-page=78>

tạo mọi điều kiện để cho người học - cái đối tượng, cái trung tâm - phát triển
trí tuệ, trí thơng minh của mình. Muốn vậy cần chuyển giảng dạy theo hướng
lấy người học là trung tâm, còn giảng viên đóng vai trị là người tổ chức q
trình dạy học. Đặt người học ở trung tâm của hệ thống giáo dục là làm cho
người học tự hiểu mình hơn, hiểu môi trường giáo dục và môi trường lao
động và có khả năng tự lựa chọn. Dạy học lấy người học làm trung tâm nhằm
mục đích tích cực hố q trình dạy học, phát huy cao độ tính tích cực, độc
lập, sáng tạo của người học, nhằm mục đích bồi dưỡng năng lực tự lực, năng
lực tư duy sáng tạo, năng lực biết đặt và giải quyết vấn đề. Phát huy tính tích
cực, độc lập, sáng tạo của người học có tác dụng khơi dậy, phát huy tiềm
năng trí tuệ của con người nói chung, tiềm năng sinh viên nói riêng là vô
cùng, vô tận và hết sức đa dạng, phong phú. Vì thế, cần biết cách khai thác,
bồi dưỡng, rèn luyện, phát triển nó. Để phát huy tính tích cực, độc lập, sáng
tạo của người học, giảng viên phải chịu khó tìm tịi suy nghĩ, biết đặt ra
những câu hỏi hấp dẫn, tạo ra những tình huống có vấn đề và một khơng khí
học tập sơi nổi, cuốn hút, thoải mái. Giảng viên cần tạo dựng cho sinh viên sự
say mê, lòng ham học và phương pháp tự học, tự nghiên cứu. Cần dạy cho
sinh viên không chỉ kiến thức mà cả phương pháp học tập mà trong đó cốt lõi
là phương pháp tự học. Mục đích dạy học không chỉ là truyền thụ kiến thức
mà điều quan trọng hơn là rèn luyện cho người học cách học, cách tổ chức và
thực hiện quá trình học tập một cách có hiệu quả nhất.



</div>
<span class='text_page_counter'>(79)</span><div class='page_container' data-page=79>

của thực tiễn. Muốn vậy trong quá trình giảng dạy giảng viên cần vận dụng
linh hoạt, sáng tạo các phương pháp dạy học như: thuyết trình, nêu vấn đề,
giảng giải, lấy vị dụ chứng minh, thảo luận nhóm… kết hợp với sử dụng các
phương tiện hiện đại hỗ trợ dạy học để hấp dẫn sinh viên.


<i>Hai là, đổi mới phương pháp thảo luận. Thảo luận là hình thức cơ bản,</i>
hết sức thiết thực đối với sinh viên và nếu giảng viên có được phương pháp
tốt sẽ phát huy được hiệu quả trong việc giáo dục thế giới quan duy vật biện
chứng cho sinh viên. Trong q trình đổi mới giảng dạy các mơn khoa học
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, hoạt động tự nghiên cứu và thảo luận rất
được coi trọng, chiếm 1/2 tổng số tiết của chương trình. Khi các mơn lý luận
chính trị được xây dựng thành 3 mơn và các trường Đại học, Cao đẳng đang
chuyển dần sang hình thức đào tạo tín chỉ, số tiết dành cho thảo luận, bài tập,
thực hành và tự học của sinh viên nhiều hơn số tiết lý thuyết. Vì vậy, giảng
viên các môn khoa học Mác - Lênin cần chú trọng đổi mới nội dung, cũng
như cách thức thảo luận. Để có được giờ thảo luận thực sự mang lại hiệu quả,
cần phải làm tốt các khâu, các bước tiến hành như chuẩn bị đề cương và tổ
chức thảo luận.


</div>
<span class='text_page_counter'>(80)</span><div class='page_container' data-page=80>

Tổ chức thảo luận trên lớp là khâu có tính chất quyết định đối với chất
lượng, hiệu quả thảo luận. Để làm tốt khâu này, trước hết phải làm tốt việc tổ
chức lớp học, chia thành các nhóm nhỏ và cử ra một nhóm trưởng để duy trì thảo
luận, đồng thời ghi lại, tổng hợp lại những ý kiến của các thành viên trong nhóm.
Trong giờ thảo luận, giảng viên chỉ là người tổ chức, hướng dẫn, còn
sinh viên là người trình bày, tranh luận vấn đề, do đó, lời dẫn vào đề của
giảng viên yêu cầu phải ngắn gọn, rõ ràng, làm nổi bật trọng tâm. Để khơng
khí buổi thảo luận trở nên sôi nổi, lôi cuốn mọi người tham gia, cần có những
sinh viên mở đầu và tạo ra những tình huống có vấn đề. Người thầy giỏi là
phải biết đặt ra những câu hỏi, tạo ra những tình huống buộc mọi người phải
tham gia, phải suy nghĩ, tìm tịi. Trong q trình thảo luận, giảng viên phải


theo dõi các ý kiến của sinh viên để nắm được quan niệm đúng, sai của họ và
để tránh tình trạng đi xa, chệch các vấn đề cần thảo luận. Cần phát hiện và
uốn nắn kịp thời cách tiếp cận vấn đề mang tính máy móc, phiến diện, giáo
điều … của sinh viên.


Kết thúc buổi thảo luận, ngoài việc tổng kết những ý kiến xung quanh
chủ đề thảo luận, giảng viên còn phải giải đáp những khúc mắc của sinh viên,
đồng thời gợi mở vấn đề để sinh viên tiếp tục nghiên cứu.


Để có được những buổi thảo luận thực sự có hiệu quả, địi hỏi thầy và
trị phải nỗ lực cao, phải đầu tư nhiều thời gian và công sức. Người thầy phải
thật sự tâm huyết với nghề, thường xuyên học hỏi kinh nghiệm, làm chủ kiến
thức và có phương pháp sư phạm tốt.


</div>
<span class='text_page_counter'>(81)</span><div class='page_container' data-page=81>

thời những nhận thức sai lầm, đặc biệt là cách tư duy máy móc, rập khuôn,
phiến diện… Thông qua đánh giá kết quả học tập của sinh viên, rèn cho họ
năng lực vận dụng lý luận, phương pháp luận biện chứng duy vật để học tập,
nghiên cứu chuyên ngành và phân tích các vấn đề thực tiễn.


Hình thức thi có thể là thi tự luận, vấn đáp, hoặc kết hợp hình thức tự
luận với trắc nghiệm (theo hướng kết cấu của một đề thi cần phải có 60%
phần tự luận và 40% phần trắc nghiệm), đặc biệt tăng cường cho sinh viên
viết tiểu luận.


Các khâu này có mối quan hệ biện chứng với nhau. Do đó, trong q
trình đổi mới phương pháp giảng dạy các môn khoa học Mác - Lênin chúng ta
phải thực hiện một cách đồng bộ, thống nhất. Đặc biệt muốn đổi mới có hiệu
quả các trường phải đầu tư cơ sở vật chất cần thiết đáp ứng yêu phương pháp
giảng dạy hiện đại này.



Ngồi ra trong q trình giảng dạy các môn khoa học Mác - Lênin
chúng ta phải kết hợp học chính khố trên lớp với các hình thức ngoại khoá,
giúp cho sinh viên kiểm chứng những nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin
trong thực tiễn qua đây củng cố những kiến thức đã học.


2.3.4. Nâng cao khả năng tự giáo dục, rèn luyện của sinh viên


</div>
<span class='text_page_counter'>(82)</span><div class='page_container' data-page=82>

chứng nói riêng. Vì vậy, trong giai đoạn hiện nay để đáp ứng yêu cầu ngày
càng cao của cuộc sống, của xã hội đòi hỏi mỗi sinh viên phải biết tự nỗ lực
phát huy cao độ tính tích cực, chủ động trong tự giáo dục, trong học tập,
nghiên cứu khoa học và trong giác ngộ tư tưởng chính trị. Nâng cao khả năng
tự giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng cho sinh viên chính là tạo ra
những điều kiện tinh thần tốt nhất để nhân cách sinh viên có thể “đề kháng”
được những tác động mặt trái của xã hội và những âm mưu diễn biến hồ bình
của các thế lực thù địch, những kích động hàng ngày hàng giờ đến sinh viên ở
Tây Nguyên, đặc biệt là sinh viên người dân tộc thiểu số, nhằm chống phá sự
nghiệp cách mạng của nhân dân ta, phá hoại công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã
hội của chúng ta.


Để sinh viên có bản lĩnh chính trị vững vàng, một thế giới quan khoa
học, một lý tưởng sống cao đẹp, thì vấn đề cơ bản, quyết định nhất là q
trình tự trau dồi, rèn luyện của chính bản thân sinh viên. Khơng ai có thể làm
thay, nghĩ thay cho sinh viên được. Tổng Bí thư Đỗ Mười từng nói:


Để biến lý tưởng và hồi bão thành hiện thực, học sinh,
sinh viên hơm nay - trí thức của ngày mai cần hiểu rõ tình hình
đất nước và nhiệm vụ cách mạng, xây dựng niềm tin, xác định
trách nhiệm gắn học với hành, gắn lý thuyết với thực tế, trau dồi
bản lĩnh đạo đức, tu dưỡng lập thân, gắn lợi ích của mình với lợi
ích và tương lai của dân tộc, tham gia vào hoạt động xã hội, hồ


mình vào cuộc sống của nhân dân, trở thành tri thức của chế độ
mới [57, tr.5].


</div>
<span class='text_page_counter'>(83)</span><div class='page_container' data-page=83>

chịu trách nhiệm trước những kết quả của những hành vi đó. Trong quá trình
tự giáo dục, mỗi sinh viên phải ln thực hiện phê bình và tự phê bình để kịp
thời cùng tổ chức uốn nắn những lệch lạc trong tư tưởng, đồng thời đây cũng
là cơ hội để sinh viên bày tỏ thái độ, nguyện vọng của mình giúp cho sự tác
động của chủ thể giáo dục và quá trình tự giáo dục của sinh viên đạt hiệu quả
cao hơn. Tự giáo dục là q trình “tự thân” vậy nên nó địi hỏi sinh viên phải
có một nghị lực, ý chí quyết tâm cao để chiến thắng được bản thân mình,
khơng gục ngã trước những cám dỗ của đồng tiền và tâm lý hưởng thụ tầm
thường của con người, nhất là trong giai đoạn hiện nay xã hội đang có những
biến động trong nhận thức về định hướng giá trị xã hội.


Thế giới quan duy vật biện chứng không phải là cái sẵn có ở mỗi con
người, mà nó chỉ thể được hình thành, hồn thiện thơng qua q trình giáo
dục, sự đấu tranh rèn luyện trong tự giáo dục hàng ngày của mỗi sinh viên. Để
củng cố và khẳng định mình có một thế giới quan duy vật biện chứng thì
khơng chỉ dừng lại ở việc nhận thức chung chung, cảm tính mà mỗi sinh viên
phải từng bước hiện thực hố nó trong cuộc sống thơng qua những hoạt động
thực tiễn chính trị - xã hội của mình.


Chính vì vậy, tính tự giáo dục của sinh viên cịn được thể hiện rõ trong
việc tích cực tham gia các hoạt động phong trào của Đoàn thanh niên, Hội
Sinh viên và của các tổ chức khác phát động. Thông qua những hoạt động
thực tiễn này sinh viên sẽ được rèn luyện và trưởng thành hơn rất nhiều qua
đó củng cố được niềm tin vào chính bản thân mình và có một bản lĩnh chính
trị vững vàng trước mọi thử thách và khó khăn của cuộc sống, trước những
kích động lơi kéo của các thế lực thù địch, có khả năng chống lại những luận
điểm sai trái và tuyên truyền đấu tranh chống lại cái gọi là “nhà nước Đê-Ga


tự trị” ở Tây Nguyên.


</div>
<span class='text_page_counter'>(84)</span><div class='page_container' data-page=84>

ra trường lại tỏ ra thụ động dễ bị lơi kéo, sa ngã chính bởi họ khơng được thử
thách rèn luyện trong môi trường xã hội và với những hoạt động thực tiễn. Vì
vậy hơn bao giờ hết, chúng ta phải tạo ra điều kiện thuận lợi giúp sinh viên có
cơ hội cọ sát, thể hiện mình vươn lên trong cuộc sống. Tính tự giác, chủ động
tự giáo dục tự rèn luyện của sinh viên chính là con đường ngắn nhất để hình
thành ở họ một thế giới quan khoa học - thế giới quan duy vật biện chứng.


<b>2.3.5. Phát huy vai trò hoạt động của tổ chức Đoàn thanh niên, Hội</b>
<b>sinh viên </b>


Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Sinh viên Việt Nam có
vai trò to lớn đối với việc giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng cho sinh
viên. Muốn phát huy được vai trò của các tổ chức này ở các trường Đại học,
Cao Đẳng ở Tây Nguyên, theo chúng tôi cần phải thực hiện các vấn đề cấp
bách hiện nay, cụ thể như sau:


<i>Thứ nhất, phải xây dựng đội ngũ cán bộ làm cơng tác Đồn, Hội thực</i>
sự có năng lực tổ chức và hiểu biết rộng, nhiệt huyết với phong trào thanh
niên, sơi nổi, có uy tín với sinh viên, có khả năng tập hợp thanh niên. Theo
chúng tơi đội ngũ Ban Chấp hành Đoàn trường Đại học, Cao đẳng phải lựa
chọn cho được những gương mặt tiêu biểu khơng nên đặt nặng về cơ cấu
thành phần, nói đúng hơn phải lựa cho ra một đội ngũ Ban chấp hành có năng
lực thực sự, có khả năng hoạt động cơng tác đồn và phong trào sinh viên.


</div>
<span class='text_page_counter'>(85)</span><div class='page_container' data-page=85>

<i>Thứ ba, về phương triển khai nội dung giáo dục của đoàn cũng cần phải</i>
đổi mới phương thức tránh hành chính hố tổ chức Đồn, Hội. Theo chúng tơi
cần kết hợp nhiều hình thức giáo dục, tránh “nặng nề”, “khơ cứng” những
cũng khơng hời hợt, thiếu chiều sâu, tránh tình trạng “lấy vui là chính”. Các


hình thức tổ chức phải hợp lý về thời gian, địa điểm, tránh việc tổ chức quá
nhiều hoạt động chạy theo thành tích làm ảnh hưởng tới thời gian học tập và
sinh hoạt của sinh viên. Nội dung chương trình các buổi mít tinh, kỷ niệm các
ngày lễ lớn phải tổ chức trang trọng, cô đọng, sâu sắc tránh phơ trương hình
thức, phải làm cho sinh viên thấy được niềm phấn khởi, vinh dự tự hào về
truyền thống của tuổi trẻ, của dân tộc. Tổ chức rộng rãi các hoạt động văn
hoá, văn nghệ, thể dục thể thao, các cuộc thi tìm hiểu, tăng cường các hoạt
động kết nghĩa, giao lưu tạo ra “sân chơi” rộng rãi cho sinh viên, xây dựng
chương trình hành động cụ thể cuộc vận động “học tập và làm theo tấm
gương đạo đức Hồ Chí Minh”.


<i>Thứ tư, Ban chấp hành Đồn, Hội ln phải chủ động xây dựng chương</i>
trình và tham mưu kịp thời với Đảng uỷ và Hiệu trưởng các trường để triển
khai các nội dung hoạt động có hiệu quả, thiết thực, thu hút đơng đảo đồn
viên, hội viên nhiệt tình hưởng ứng tham gia. Tranh thủ sự ủng hộ về vật chất
và tinh thần của các lực lượng khác trong nhà trường và ngoài nhà trường.


</div>
<span class='text_page_counter'>(86)</span><div class='page_container' data-page=86>

<b>KẾT LUẬN</b>


Từ những vấn đề đã được trình bày, phân tích ở trên, luận văn khép lại
với một số kết luận được rút ra như sau:


1. Với sự phát triển của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ và của
kinh tế tri thức, với xu thế toàn cầu hố đang diễn ra vơ cùng mạnh mẽ, chưa
bao giờ nhân tố con người lại được mọi quốc gia chú trọng như hiện nay. Phát
huy vai trò con người thực chất là bồi dưỡng, phát triển và khai thác những
tiềm năng vô tận, sáng tạo của con người. Thế giới quan khoa học biểu hiện như
là “lăng kính” mà qua đó con người có thể nhận thức thế giới, định hướng được
cuộc sống, giúp học hoạt động hiện thực có hiệu quả hơn. Do đó, nó có vai trị
hết sức quan trọng và vai trò ấy ngày càng tăng lên trong thời đại ngày nay.



2. Đối với hoạt động học tập, rèn luyện của sinh viên - chủ nhân của đất
nước trong một tương lai gần. Việc trang bị cho họ thế giới quan duy vật biện
chứng là vấn đề có tầm quan trọng đặc biệt, nó góp phần rèn luyện phương
pháp tư duy khoa học. Trong tình hình hiện nay, đặc biệt ở Tây Nguyên nếu
sinh viên không có một thế giới quan khoa học và cách mạng sẽ khơng giải
quyết được những vấn đề nóng bỏng mà thực tiễn xây dựng đất nước đang đặt
ra, sẽ không đủ trình độ để nhận biết và phê phán những tư tưởng đối lập đang
tấn công vào hệ tư tưởng của chúng ta.


</div>
<span class='text_page_counter'>(87)</span><div class='page_container' data-page=87>

4. Trong hệ thống các trường Đại học, Cao Đẳng việc giáo dục, bồi
dưỡng thế giới quan duy vật biện chứng cho sinh viên cịn có vai trị của tổ
chức Đảng, Đồn thanh niên, Hội sinh viên…Trong đó, thơng qua các phong
trào hoạt động thực thực tiễn của Đoàn thanh niên, Hội Sinh viên, sinh viên
có cơ hội thử thách, rèn luyện và trưởng thành.


Từ những kết luận trên chúng tôi cho rằng để nâng cao hiệu quả việc
giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng cho sinh viên, cần phải có những
giải pháp cụ thể như:


- Tạo mơi trường kinh tế, xã hội lành mạnh, nâng cao đời sống vật chất
và tinh thần cho sinh viên


- Nâng cao trình độ đội ngũ cán bộ giảng dạy đặc biệt là đội ngũ cán bộ
giảng dạy các môn khoa học Mác - Lênin.


- Đổi mới phương pháp giảng dạy các môn khoa học Mác - Lênin.
- Nâng cao khả năng tự giáo dục, rèn luyện của sinh viên


- Phát huy vai trị hoạt động của tổ chức Đồn thanh niên, Hội sinh


viên và các phòng ban chức năng có liên quan.


</div>
<span class='text_page_counter'>(88)</span><div class='page_container' data-page=88>

<b>DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO</b>


1. Lê Thị Nam An (2007), Giảng dạy triết học Mác - Lênin với việc giáo
<i>dục thế giới quan duy vật biện chứng cho sinh viên ở Nghệ An hiện</i>
<i>nay, Luận văn thạc sĩ Triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí</i>
Minh, Hà Nội.


2. Hồng Chí Bảo (2000), “Giáo dục đạo đức, nhân cách cho sinh viên đại
học ở nước ta hiện nay - quan niệm, vấn đề và giải pháp”, Lý luận
<i>sinh hoạt chính trị, (39).</i>


3. Vũ Thanh Bình (2003), “Nâng cao chất lượng dạy - học các môn khoa
học Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Chính trị trong các trường
Đại học, Cao đẳng, Trung học chuyên nghiệp và dạy nghề”, Giáo
<i>dục, (62).</i>


4. Phạm Văn Chúc (1992), Sự hình thành thế giới quan khoa học của sinh
<i>viên Việt Nam, Luận án Tiến sĩ Triết học, trường Đại học Tổng hợp</i>
Ta-sken.


5. Nguyễn Trọng Chuẩn (1988), “Một số khía cạnh về vai trị của sinh học
hiện đại đối với sự hình thành và củng cố thế giới quan khoa học”,
<i>Triết học, (3).</i>


6. Nguyễn Trọng Chuẩn (2008), Một số vấn đề về Triết học con người
<i>-xã hội, Nxb khoa học -xã hội, Hà Nội.</i>


7. Đảng Cộng sản Việt Nam (1986), Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc


<i>lần thứ VI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.</i>


8. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
<i>lần thứ VII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.</i>


9. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
<i>lần thứ VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(89)</span><div class='page_container' data-page=89>

11. Đảng Cộng sản Việt Nam (1997), Văn kiện Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp
<i>hành Trung ương Đảng khố VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.</i>
12. Đảng Cộng sản Việt Nam (1998), Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban


<i>Chấp Trung ương Đảng khố VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.</i>
13. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc


<i>lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.</i>


14. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Tìm hiểu một số khái niệm trong văn
<i>kiện đại hội IX của Đảng, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.</i>


15. Đảng Cộng sản Việt Nam, Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp
<i>hành Trung ương Đảng khoá IX, Báo Hà Nội mới ra ngày 1/4/2002.</i>
16. Đảng Cộng sản Việt Nam (2004), Văn kiện Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp


<i>hành trung ương Đảng khố IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.</i>


17. Đảng Cộng sản Việt Nam (2004), Nghị quyết của Bộ Chính trị về một số
<i>định hướng trong công tác tư tưởng hiện nay, Nxb Chính trị quốc</i>
gia, Hà Nội.



18. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
<i>lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.</i>


19. Đồn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh (2007), Định hướng giá trị cho sinh
<i>viên trong giai đoạn hiện nay, Báo cáo khoa học chuyên đề, Hà Nội.</i>
20. Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh (2007), Điều tra tình hình tư


<i>tưởng và nhận thức chính trị của thanh niên trong giai đoạn hiện</i>
<i>nay, Hà Nội.</i>


21. Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh (2008), <i>Tổng quan tình hình</i>
<i>sinh viên, cơng tác hội và phong trào sinh viên nhiệm kỳ VII (2003 </i>
<i>-2008), Hà Nội.</i>


22. Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh (2008), Đổi mới nội dung,
<i>phương thức giáo dục lý tưởng cách mạng cho thanh niên trong</i>
<i>thời kỳ hội nhập, Kỷ yếu khoa học, Hà Nội.</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(90)</span><div class='page_container' data-page=90>

24. Đồn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh (2008), <i>Lịch sử phong trào sinh</i>
<i>viên, học sinh và hội sinh viên Việt Nam (1925-2008), Nxb Thanh</i>
niên, Hà Nội.


25. G.Gertx (1982), Triết học mác xít và tri thức khoa học tự nhiên, Nxb
Tiến bộ, Mátxcơva.


26. Trần Thanh Hà (1993), Vấn đề giáo dục thế giới quan khoa học cho cán
<i>bộ đảng viên người dân tộc Khơme ở Đồng bằng sông Cửu Long</i>
<i>trong giai đoạn hiện nay, Luận văn thạc sĩ Triết học, Học viện</i>
Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.



27. Nguyễn Thị Thu Hiền (2008), Giáo dục ý thức chính trị cho sinh viên
<i>Đại học Thái Nguyên hiện nay, Luận văn thạc sĩ Triết học, Học viện</i>
Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.


28. Nguyễn Thế Kiệt (chủ nhiệm đề tài cấp bộ) (2007), Triết học Mác
<i>-Lênin với việc xác định con đường và động lực đi lên chủ nghĩa xã</i>
<i>hội ở Việt Nam hiện nay, Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia</i>
Hồ Chí Minh, Hà Nội.


29. V.I.Lênin (2005), Tồn tập, tập 33, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
30. Nguyễn Thắng Lợi (1997), “Giáo dục và rèn luyện bản lĩnh chính trị đối


với sinh viên”, Báo Nhân dân, ngày 28/11/1997.


31. Nguyễn Thị Luyến (2005), Vấn đề giáo dục thế giới quan duy vật biện
<i>chứng cho sinh viên các trường Đại học, Cao đẳng ở Hà Nội hiện</i>
<i>nay, Luận văn thạc sĩ Triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí</i>
Minh, Hà Nội.


32. C.Mác - Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 1, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội.


33. C.Mác - Ph.Ăngghen (1995), Tồn tập, tập 16, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội.


</div>
<span class='text_page_counter'>(91)</span><div class='page_container' data-page=91>

35. C.Mác - Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 23, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội.


36. C.Mác - Ph.Ăngghen (1995), Tồn tập, tập 42, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội.



37. Hồ Chí Minh (1995), Tồn tập, tập 2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
38. Hồ Chí Minh (2000), Tồn tập, tập 3, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
39. Hồ Chí Minh (2000), Tồn tập, tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
40. Hồ Chí Minh (2000), Tồn tập, tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
41. Hồ Chí Minh (2000), Tồn tập, tập 7, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
42. Hồ Chí Minh (2000), Tồn tập, tập 9, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
43. Hồ Chí Minh (2000), Tồn tập, tập 12, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
44. Đỗ Mười (1995), Trí thức Việt Nam trong sự nghiệp đổi mới xây dựng


<i>đất nước, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.</i>


45. Nguyễn Chí Mỳ (chủ biên) (1999), Sự thay đổi giá trị đạo đức trong nền
<i>kinh tế thị trường với việc xây dựng đạo đức mới cho đội ngũ cán</i>
<i>bộ quản lý ở nước ta hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.</i>
46. Bùi Ngọc (1981), “Thế giới quan khoa học một tất yếu lịch sử”, Thông


<i>tin khoa học xã hội, (8).</i>


47. Bùi Ỉnh (1988), Vấn đề xây dựng thế giới quan duy vật biện chứng đối
<i>với cán bộ đảng viên là người dân tộc thiểu số trong thời kỳ quá độ</i>
<i>lên CNXH ở nước ta, Luận án PTS Triết học, Học viện Chính trị</i>
quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.


48. Lê Khả Phiêu (1995), “Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển nhân cách
trong cơ chế thị trường”, Cộng sản, (6).


49. Trần Sỹ Phán (1999), Giáo dục đạo đức đối với việc hình thành và phát triển
<i>nhân cách sinh viên Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, Luận án tiến sỹ</i>
Triết học, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.



</div>
<span class='text_page_counter'>(92)</span><div class='page_container' data-page=92>

51. Trần Viết Quân (2002), Bồi dưỡng thế giới quan duy vật biện chứng cho
<i>đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp huyện ở Tây Nguyên hiện nay, Luận văn</i>
thạc sĩ Triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
52. <i>Tạp chí Văn hoá nghệ thuật (1998), số 3.</i>


53. Trần Thước (1993), Sự hình thành thế giới quan xã hội chủ nghĩa ở tầng
<i>lớp trí thức ở Việt Nam, Luận án PTS Triết học, Học viện Chính trị</i>
quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.


54. Bùi Kiến Thưởng (2004), Vấn đề bồi dưỡng thế giới quan duy vật biện
<i>chứng cho học viên trường chính trị tỉnh Hà Nam hiện nay, Luận văn</i>
thạc sĩ Triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
55. Đỗ Lê Triều (2006), Vấn đề giáo dục lý tưởng xã hội chủ nghĩa cho sinh


<i>viên hiện nay, Luận văn thạc sĩ Triết học, Học viện Chính trị quốc</i>
gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.


56. <i>Từ điển triết học (1986), Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.</i>


57. Lê Xuân Vũ (1986), “Thế giới quan Mác - Lênin trong đời sống tinh thần
của nhân dân ta”, Cộng sản, (6).


58. Trần Quốc Vượng (chủ biên) (1997), Cơ sở văn hoá Việt Nam, Nxb Đại
học quốc gia, Hà Nội.


59. Vietnamnet.edu.net.vn


</div>

<!--links-->

×