CA DAO
VÙNG MỎ
Sưu tầm năm 2009- 2010
1
HỘI VĂN NGHỆ DÂN GIAN QUẢNG NINH
CA DAO
VÙNG MỎ
Sưu tầm năm 2010
2
THÁNG 9 NĂM 2010
CA DAO VÙNG MỎ
CƠNG TRÌNH CHÀO MỪNG ĐẠI HỘI ĐẢNG BỘ
TỈNH QUẢNG NINH LẦN THỨ XIII
3
BAN TỔ CHỨC VẬN ĐỘNG SƯU TẦM
1. Nguyễn Quang Vinh (Trưởng ban)
2. Hoàng Quốc Thái
3. Tống Khắc Hài
4. Phạm Ngọc Bảo
5. Ngơ Trung Hịa
6. Trương Bích Hường
7. Vũ Thảo Ngọc
BAN BIÊN SỌAN
1. Tống Khắc Hài (Chủ biên)
2. Nguyễn Quang Vinh
3. Trần Nhuận Minh
4. Ngơ Trung Hịa
5. Vũ Thảo Ngọc
HỘI ĐỒNG THẨM ĐỊNH
1. Trần Nhuận Minh (Chủ tịch)
2. Hoàng Tuấn Dương
3. Phạm Ngọc Bảo
4. Đàm Hiển
5. Tạ Kim Hùng
4
CA DAO VÙNG MỎ
ĐƯỢC SỰ HỖ TRỢ CỦA TẬP ĐỒN
CƠNG NGHIỆP THAN- KHOÁNG SẢN VIỆT NAM
5
Mục lục Ca dao Vùng mỏ
Số
thứ
tự
Nội dung
Trang
I
II
Lời nói đầu
Ca dao Vùng mỏ - tác phẩm văn hóa dân gian vơ giá
6- 7
4-13
III
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
Phần I: Ca dao Vùng mỏ trước cách mạng
Đói nghèo, xa quán, lìa quê...
Thằng Tây rồi lại thằng cai ...
Làm than cực lắm ai ơi ...
Kiếp phu mỏ khổ đã nhiều ...
Ăn đói, mặc rách, ngủ lều ...
Ốm đau, bệnh tật, gầy mòn ...
Ai ơi chớ đến chốn này ...
Ở nơi địa ngục trần gian ...
Con giun xéo lắm cũng quằn ...
Vè đình cơng năm 1936
14
43
58
69
72
85
91
95
101
120
IV Phần hai: Ca dao Vùng mỏ từ sau cách mạng
(25/4/1955)
1 Ngọt bùi nhớ lúc đắng cay
hôm nay no ấm, nhớ ngày tối tăm
2 Quê ta đất mỏ đẹp giàu
Hạ Long biển bạc, soi vào núi than
3 Than đen hay chính vàng đen
mn bàn tay thợ đào lên núi vàng
4 Ơi anh địa chất tìm than
thương anh vất vả cơ hàn nắng mưa
5 Yêu anh thợ mỏ đào than
làng quê góp sức, có bàn tay em
6 Máy bay Mỹ đến Vùng than
Chung tao quyết bắn, cho tan xác mày!
7 Từ trong vất vả gian lao
Tình yêu thợ mỏ, đẹp nào đẹp hơn
8 Mấy lời thành thật nhắc nhau
Có sai thì sửa bền lâu nghĩa tình
9 Vùng than ơn Bác đời đời
Bác ơi! thợ mỏ nhớ lời Bác khuyên
6
136
204
225
248
253
265
273
288
298
CA DAO VÙNG MỎ
-----------------------------------------------------HỘI VĂN NGHỆ DÂN GIAN QUẢNG NINH
Chịu trách nhiệm xuất bản
NGUYỄN QUANG VINH
Chịu trách nhiệm nội dung
Ban BIÊN TẬP &
HỘI ĐỒNG THẨM ĐỊNH
Vi tính
TRƯƠNG BÍCH HƯỜNG
PHẠM PHƯƠNG THÚY
Sửa bản in
TỐNG KHẮC HÀI
Bìa
VŨ QUÝ
--------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------
In 2.000 cuốn, khổ 15 x 22 tại Công ty in Quảng Ninh.
Giấy phẹp xuất bản số
/ , ngày tháng năm 2010. Sở thông
tin-truyền thông Quảng Ninh. Nộp lưu chiểu tháng 8 năm 2010
LỜI GIỚI THIỆU
7
Quảng Ninh là một tỉnh ở vùng Đông Bắc Tổ quốc; do điều kiện tự nhiên
và xã hội tạo nên. Bởi vậy, ở nơi đây có vốn văn hóa văn nghệ dân gian rất phong
phú và độc đáo. Quảng Ninh hình thành bốn vùng văn học dân gian lớn: Vùng
trung du đồng bằng, vùng biển, vùng núi và vùng mỏ.
Do vùng mỏ là nơi tập trung đông đảo nhất và sớm nhất đội ngũ công nhân
ở nước ta, lại là nơi bọn chủ mỏ thực dân bóc lột, đàn áp dã man nhất, nên vùng
mỏ cũng là nơi tiêu biểu cho nỗi khổ cực và truyền thống đấu tranh kiên cường
bất khuất của công nhân Việt Nam. Ca dao vùng mỏ khơng những phản ánh sâu
sắc thực tế đó mà thực sự đã trở thành một vũ khí đấu tranh giai cấp sắc bén thời
kỳ thống trị của thực dân và bọn tay sai. Chính từ ý nghĩa đó, ca dao vùng mỏ có
những giá trị tư tưởng và nghệ thuật đặc sắc.
Được lãnh đạo tập đồn cơng nghiêp than- khoáng sản Việt Nam hỗ trợ.
Hội văn nghệ dân gian tỉnh Quảng Ninh triển khai thực hiện sưu tầm, nghiên cứu
Ca dao Vùng Mỏ. Những người làm công tác sưu tầm, nghiên cứu đã cố gắng tìm
đến gặp trực tiếp các ông, bà, anh chị em là cán bộ, công nhân đã và đang làm
công tác và lao động sản xuất ở ngành than cung cấp và sưu tầm, nghiên cứu, kế
thừa những tác phẩm, bài viết về công nhân mỏ qua các thời kỳ; đến ngày
30/6/2010 có 1.662 người tham gia sưu tầm và được 10.620 câu, song chắc chắn
vẫn chưa thể coi là đầy đủ. Mong được bạn đọc xa gần gửi tiếp cho chúng tơi bài
cịn sót lại và đính chính cho những chỗ cịn nhầm lẫn, để tập sách được hồn hảo
hơn.
Chúng tơi hy vọng được in bảo tồn tài sản này, không những chỉ là tập tư
liệu sinh động góp phần nghiên cứu tiến trình văn học dân gian Việt Nam mà điều
chủ yếu muốn góp phần gìn giữ những giá trị tinh thần làm nên bằng mồ hôi,
nước mắt và máu của những người thợ mỏ qua các thời kỳ, nhất là trong gần một
thế kỷ bị thực dân Pháp cai trị. Ca dao Vùng Mỏ, với giá trị hiện thực sâu sắc của
nó, sẽ là một tài liệu mang tính lịch sử và tính giáo dục vơ giá về truyền thống và
phẩm chất của giai cấp công nhân Việt Nam.
8
Xin chân thành được cảm ơn lãnh đạo tập đoàn Cơng nghiệp than –khống
sản Việt Nam đã tạo điều kiện hỗ trợ kinh phí cho Hội văn nghệ dân gian Quảng
Ninh trong quá trình tổ chức sưu tầm, nghiên cứu Ca dao Vùng Mỏ.
Cảm ơn ông Vũ Cẩm, nguyên Ủy viên Ban thường vụ tỉnh ủy, Phó Chủ
tịch UBND tỉnh, trưởng Ban tuyên giáo tỉnh ủy Quảng Ninh đã tham góp nhiều ý
kiến cho nội dung Ca dao Vùng Mỏ;
Cảm ơn các thành viên Hội đồng thẩm định: Nhà thơ Trần Nhuận Minh,
nguyên chủ tịch Hội Văn học nghệ thuật Quảng Ninh; ơng Hồng Tuấn Dương,
ngun trưởng Ban tun giáo Đảng ủy than Quảng Ninh; ơng Phạm Ngọc Bảo,
phó Ban thi đua, tun truyền tập đồn Cơng nghiệp than-khống sản Việt Nam;
ông Đàm Hiển nguyên trưởng Ban thơ Hội văn học nghệ thuật Quảng Ninh; ông
Tạ Kim Hùng, hội viên Hội nhà văn Việt Nam
Cảm ơn các bác, các đồng chí cán bộ cơng nhân cao tuổi, các hội viên CCB,
người cao tuổi, các văn nghệ sĩ, học sinh, sinh viên và nhiều tổ chức đã thiết thực
tham gia sưu tầm, khai thác vốn văn học dân gian của vùng mỏ, để chúng tôi xuất
bản tập sách này
BAN CHẤP HÀNH
HỘI VĂN NGHỆ DÂN GIAN QUẢNG NINH
CA DAO VÙNG MỎ
CƠNG TRÌNH CHÀO MỪNG ĐẠI HỘI ĐẢNG BỘ
9
TỈNH QUẢNG NINH LẦN THỨ XIII
TỔ CHỨC VẬN ĐỘNG SƯU TẦM
Nguyễn Quang Vinh (Trưởng Ban)
Hoàng Quốc Thái
Tống Khắc Hài
Phạm Ngọc Bảo
Ngơ Trung Hịa
Trương Bích Hường
Vũ Thảo Ngọc
BAN BIÊN SOẠN
Nguyễn Quang Vinh
Tống Khắc Hài
Ngơ Trung Hịa
Vũ Thảo Ngọc
HỘI ĐỒNG THẨM ĐỊNH
Trần Nhuận Minh
Hoàng Tuấn Dương
Phạm Ngọc Bảo
Đàm Hiển
Tạ Kim Hùng
10
MỤC LỤC CA DAO VÙNG MỎ
Nội dung
STT
Trang
I
Lời giới thiệu
3
II
Ca dao Vùng Mỏ - Tác phẩm văn hóa dân gian vơ giá
4
III
Phần I: Ca dao Vùng Mỏ trước Cách mạng
1
Đói nghèo xa quán lìa quê...
14
2
Thằng Tây rồi lại thằng cai...
43
3
Làm than cực lắm ai ơi...
58
4
Kiếp phu mỏ khổ đã nhiều...
69
5
Ăn đói, mặc rách, ngủ liều...
72
6
Ốm đau bệnh tật gầy mòn...
85
7
Ai ơi chớ đến chốn này...
91
8
Ở nơi địa ngục trần gian...
95
9
Con giun xéo lắm cũng quằn...
101
10
Vè đình cơng năm 1936...
120
IV
Phần II: Ca dao Vùng Mỏ từ sau Cách mạng (25/4/1955)
1
Ngọt bùi nhớ lúc đắng cay...
136
2
Quê ta đất mỏ đẹp giàu...
204
3
Than đen hay chính vàng đen...
225
4
Ơi anh địa chất tìm than...
248
5
u anh thợ mỏ đào than...
253
6
Máy bay Mỹ đến vùng than...
265
7
Từ trong vất vả gian lao...
273
8
Mấy lời thành thật nhắc nhau...
288
9
Vùng than ơn Bác đời đời...
298
LỜI GIỚI THIỆU
11
Quảng Ninh là một tỉnh ở vùng Đông Bắc Tổ quốc, nơi vốn văn hoá văn
nghệ dân gian rất phong phú và độc đáo. Quảng Ninh hình thành bốn vùng văn
học dân gian lớn: Vùng trung du đồng bằng, vùng biển, vùng núi và vùng mỏ.
Do vùng mỏ là nơi tập trung đông đảo nhất và sớm nhất đội ngũ công nhân
ở nước ta, lại là nơi bọn chủ mỏ thực dân bóc lột, đàn áp dã man nhất, nên vùng
mỏ cũng là nơi tiêu biểu cho nỗi khổ cực và truyền thống đấu tranh kiên cường
bất khuất của công nhân Việt Nam. Ca dao vùng mỏ không những phản ánh sâu
sắc thực tế đó mà thực sự đã trở thành một vũ khí đấu tranh giai cấp sắc bén thời
kỳ thống trị của thực dân và bọn tay sai. Chính từ ý nghĩa đó, ca dao vùng mỏ có
những giá trị tư tưởng và nghệ thuật đặc sắc.
Hội Văn nghệ dân gian tỉnh Quảng Ninh phối hợp với Tập đồn Cơng
nghiệp Than – Khống sản Việt Nam triển khai thực hiện Đề tài sưu tầm xuất bản
những tác phẩm văn học dân gian vơ giá đó. Những người làm cơng tác sưu tầm,
nghiên cứu đã tìm đến các ơng, bà, anh chị em là cán bộ, công nhân đã và đang
làm công tác và lao động sản xuất ở ngành than qua các thời kỳ. Đến ngày
30/6/2010 đã có được 1.462 người tham gia sưu tầm và được 10.620 câu, song
chắc chắn vẫn chưa thể coi là đầy đủ. Mong được bạn đọc gần xa gửi tiếp cho
chúng tôi bài cịn sót lại và đính chính cho những chỗ cịn nhầm lẫn, để tập sách
được hồn hảo hơn trong các lần tái bản sau.
Chúng tôi hi vọng tập sách này khơng những chỉ là tập tư liệu sinh động
góp phần nghiên cứu tiến trình văn học dân gian Việt Nam mà điều chủ yếu là
muốn góp phần gìn giữ những giá trị tinh thần làm nên bằng mồ hôi, nước mắt và
máu của những người thợ mỏ qua các thời kỳ, nhất là trong gần một thế kỷ bị
thực dân Pháp cai trị. Ca dao vùng mỏ, với giá trị hiện thực sâu sắc của nó, sẽ là
một tài liệu mang tính lịch sử và tính giáo dục vơ giá về truyền thống và phẩm
chất của giai cấp công nhân Việt Nam.
Xin chân thành cám ơn các bác, các đồng chí cán bộ cơng nhân cao tuổi,
các hội viên Hội Cựu chiến binh, các văn nghệ sĩ, học sinh, sinh viên, các thành
viên trong Hội đồng thẩm định: Nhà thơ Trần Nhuận Minh, Đàm Hiển, các ơng
Hồng Tuấn Dương nguyên Trưởng Ban Tuyên giáo Đảng ủy Than Quảng Ninh,
Nhà văn Tạ Kim Hùng, Phạm Ngọc Bảo và nhiều tổ chức đã thiết thực tham gia
sưu tầm, khai thác vốn văn học dân gian của vùng mỏ giúp chúng tôi ra mắt tập
sách này.
BAN CHẤP HÀNH
HỘI VĂN NGHỆ DÂN GIAN QUẢNG NINH
CA DAO VÙNG MỎ 12
NHỮNG TÁC PHẨM VĂN HỌC DÂN GIAN VÔ GIÁ
1. Việc sưu tầm, nghiên cứu Ca dao Vùng Mỏ.
Ngay sau ngày Vùng Mỏ được giải phóng (25/4/1955), trong khơng khí
“ơn nghèo kể khổ”, Sở Văn hố - Thơng tin khu Hồng Quảng đã cho xuất bản một
tập tài liệu tuyên truyền có tựa đề “Đời sống thợ mỏ thời Tây qua một số bài ca
dao…” (Người soạn là Hoàng Anh Vân, một tác giả thơ, biên tập viên tạp chí Văn
nghệ Vùng Mỏ). Với 20 trang in, đây là một bài viết chuyên đề điểm lại các nỗi
khổ cực, tủi nhục của đời phu mỏ và những tội ác đàn áp, bóc lột dã man của bọn
thực dân chủ mỏ. Chỉ có điều đặc biệt là các nội dung đó được dẫn giải, được
minh chứng bằng những câu, những bài ca dao rất chân thực, rất sinh động. Mấy
trang cuối của tập tài liệu là những bài ca vận động đấu tranh của các chiến sĩ
cộng sản. Chưa thể gọi là một chuyên khảo nhưng người soạn đã cho thấy Vùng
Mỏ có nhiều bài ca dao đặc sắc do chính những người thợ mỏ sáng tác. Sự thật thì
bài viết cũng khơng được coi là một phát hiện bởi hồi đó những bài ca dao này
đang còn được lưu truyền rất rộng rãi. Và thế rồi năm tháng cứ qua đi…
Những năm 1960, 1970, ca dao đang là một thể loại có vị thế hơn những
năm sau này. Các cơ quan, xí nghiệp, trường học dán đầy ca dao trên báo tường.
Các báo trung ương, địa phương ln có chun mục ca dao. Báo Văn Nghệ tổ
chức cuộc thi sáng tác ca dao có tiếng vang. Trong trào lưu coi trọng ca dao, ba
cây bút Lý Biên Cương, Trần Nhuận Minh, Sỹ Hồng đã cùng nhau sưu tầm các
bài ca dao có chủ đề “chống Mỹ, cứu nước”. Với 160 bài sưu tầm chủ yếu từ các
hầm mỏ, nhà máy của ngành than, có thêm một số bài của các tác giả trẻ, tập “Ca
dao Vùng Mỏ (chống Mỹ cứu nước)” với 120 trang in (khổ 13 x 18cm) Ty Văn
hoá Quảng Ninh xuất bản năm 1969 đã kịp thời tập hợp và phổ biến những sáng
tác mà đến nay mới càng thấy q cơng sức và tâm huyết của nhóm sưu tầm.
Giữa những năm 1970, trong điều kiện hồ bình, Hội Văn học Nghệ thuật
Quảng Ninh được củng cố và tăng cường hoạt động. Tiểu ban nghiên cứu – lý
luận – phê bình của Hội xác định trách nhiệm cho mình là phải chủ động tổ chức
sưu tầm, nghiên cứu kho tàng văn học dân gian rất phong phú của tỉnh nhà. Trong
đó, ca dao cơng nhân mỏ trước Cách mạng đang có nguy cơ mai một bởi lớp cơng
nhân già hiếm dần, bao loại hình văn hố - nghệ thuật mới cuốn hút lớp trẻ, ca
dao - nhất là ca dao kể về những buồn tủi, đắng cay của cuộc đời xưa cũ, ít được
nhắc tới… được đặt lên hàng đầu. Nhóm sưu tầm gồm ba người: Tống Khắc Hài
chủ biên, Khắc Lương (Cán bộ Ty Văn hố Thơng tin vừa nghỉ hưu được Hội mời
cộng tác), Vũ Thị Gái (sinh viên mới về công tác ở Hội) đã chia nhau toả đi các
13
khu cư dân đông công nhân mỏ ở Cẩm Phả, Cửa Ơng, Mơng Dương, Hà Tu, Hà
Lầm, Vàng Danh, Mạo Khê... và sang cả Kinh Môn, Thuỷ Nguyên để gặp bằng
được những người có tiếng thuộc nhiều ca dao thời ở mỏ. Miệt mài suốt tám
tháng, tìm gặp gần một nghìn cơng nhân cao tuổi ba người đã ghi chép được gần
ba vạn câu lục bát. Từ đó đối chiếu các dị bản, lọc ra được những câu, những bài
hay nhất, hoàn chỉnh nhất. Tập “Ca dao Vùng Mỏ (trước Cách mạng)” với 160
trang in (khổ 13 x 19cm) được Ty Văn hóa Thơn tin Quảng Ninh xuất bản đầu
năm 1981, đã giữ lại được những sáng tác dân gian đặc sắc của một thời – chỉ của
một thời - 72 năm vùng mỏ - địa ngục trần gian. Đây là những trang sử đau
thương và bất khuất bằng văn học của đội ngũ công nhân mỏ - bộ phận đầu tiên
và tiêu biểu nhất của giai cấp công nhân Việt Nam trước Cách mạng. Việc quyết
tâm sưu tầm, xuất bản để giữ lại được những bài ca dao lịch sử này thật có ý
nghĩa.
Chính vì ý nghĩa q giá của những bài ca dao của lớp lớp công nhân mỏ
mà năm 2008, khi Trung ương Đảng có nghị quyết về việc “Tiếp tục xây dựng
giai cấp công nhân Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước” (Nghị quyết 6 Ban chấp hành Trung ương khóa X ban hành ngày
28/1/2008), thì khơng hẹn mà gặp, Tập đồn Cơng nghiệp Than – Khống sản
Việt Nam, trước hết là Thường vụ Đảng uỷ Than Quảng Ninh và Thường trực Hội
Văn nghệ dân gian Quảng Ninh đều nghĩ tới tái bản có bổ sung sách Ca dao Vùng
Mỏ. Hai bên nhất trí sẽ phát động một đợt sưu tầm mới, vừa bổ sung những bài,
những câu ca dao trước Cách mạng, vừa tập hợp các bài ca dao mới sáng tác từ
sau ngày Vùng Mỏ được giải phóng, bao gồm cả thời kỳ chống Mỹ cứu nước và
thời kỳ đổi mới.
Ai cũng nghĩ lớp công nhân trước Cách mạng hầu hết đã khuất núi, một
số cụ già trên 80 tuổi thì trí nhớ suy giảm, khó hi vọng tìm thêm được câu nào.
Nhưng thật khơng ngờ, ca dao trước Cách mạng, do nhiều lẽ, vẫn có sức sống kỳ
diệu. Tuy ít, nhưng những câu, những bài bổ sung thật đáng trân trọng. Những bài
ca dao của các thời kỳ sau, do thời gian tổ chức sưu tầm hạn hẹp, nên tuy đã được
mấy trăm bài nhưng chắc chắn vẫn còn nhiều.
Trên cơ sở hai tập sách đã xuất bản và mấy trăm bài vừa sưu tầm được,
chúng tôi soạn lại thành hai phần: “Ca dao Vùng Mỏ trước Cách mạng” và “Ca
dao Vùng Mỏ sau ngày giải phóng” và gọi chung là “Ca dao Vùng Mỏ”.
Về mặt loại thể, Ca dao Vùng Mỏ, trước hết là ca dao trước Cách mạng,
có đặc điểm là thường kể về số phận, cuộc đời, nhiều bài lại có sự việc, có tên
người rất cụ thể, nên rất gần thể loại vè. Ở nhiều bài ca dao rất ngắn, chỉ có mấy
14
câu, cũng có tính chất vè như vậy. Vì lẽ đó, ở tập sách này chúng tơi vẫn khơng
tách biệt ca dao và vè, trừ một hai bài vè rất đặc trưng như bài Vè về cuộc Tổng
đình cơng năm 1936. Một đặc điểm nữa về thể loại là có một số bài ca dao được
phổ thành lời các bài hát xẩm, hoặc các bài hát theo điệu cò lả, sa mạc... mà các
chiến sĩ cộng sản đã hát để tuyên truyền vận động cách mạng. Số bài này còn lại
được rất ít, chúng tơi cũng đưa vào tập sách để cùng gìn giữ…
Trong quá trình sưu tầm và biên soạn, chúng tôi luôn lưu ý cộng tác viên
ghi rõ tên tác giả (nếu biết) và tên người sưu tầm, nhưng do đợt sưu tầm một năm
qua được các tổ chức Cơng đồn, Hội cựu chiến binh, Hội người cao tuổi và các
trường học tổ chức làm việc tập thể, thật khó ghi chính xác tên người sưu tầm, tên
tác giả cũng thiếu hoặc luôn bị lầm lẫn. Nhân đây xin nói thêm, khi sưu tầm biên
soạn cuốn “Ca dao Vùng Mỏ trước Cách mạng” năm 1980, chúng tôi phát hiện
có tới dăm bảy bài là sáng tác của nhà văn Võ Huy Tâm khi ơng làm cán bộ cơng
đồn (bí mật) trong vùng mỏ Cẩm Phả tạm bị địch chiếm. Ông sáng tác ca dao để
tuyên truyền vận động công nhân đấu tranh, công nhân thuộc và lưu truyền cũng
khơng biết ai là tác giả. Ơng coi đó là một điều hạnh phúc vì đã góp phần vào kho
tàng văn học dân gian và ơng mong nhóm biên tập không ghi tên ông, kể cả trong
lời giới thiệu hay chính thức. Nay, rất nhiều bài ca dao mới sáng tác vài chục năm
nay, nhiều bài chúng tơi khơng tìm được chính xác tác giả hoặc cộng tác viên sưu
tầm có thể nhớ lầm tên tác giả, rất mong các tác giả thơng cảm và lượng thứ…
2. Sự hình thành Ca dao Vùng Mỏ
Ca dao Vùng Mỏ là tiếng nói tâm tình trước hết là của những người thợ
mỏ. Nó ra đời và phát triển cùng với sự ra đời và phát triển của ngành khai thác
mỏ. Ở nước ta nghề mỏ tập trung lớn nhất là ở Vùng Mỏ than Quảng Ninh. Lịch
sử ngành than Việt Nam chính thức bắt đầu từ thời Nguyễn với bản Dụ của vua
Minh Mạng (Minh Mạng năm thứ 20 ngày mồng 6 tháng Chạp năm Kỷ Hợi, tức
10/1/1840) “Lệnh chuẩn theo lời cầu xin” của quan Tổng đốc Hải – Yên Tôn
Thất Bật (xin đọc bài “Hành trình đi tìm Ngày khai sinh của Ngành than Việt
Nam” của Phạm Ngọc Bảo – Tạp chí Xưa và Nay của Hội sử học Việt Nam số
Đặc biệt chuyên đề 170 năm ngành than Việt Nam, tháng 1/2010).
Theo nhà sử học Phan Huy Lê thì các cơng trường khai mỏ của triều
Nguyễn hồi đó “thể hiện rõ tính chất của một cơng trường phong kiến với những
chế độ lao động nặng nề…” Lực lượng lao động “gồm có binh lính, dân phu và
phu mỏ làm th” (Tạp chí đã dẫn, trang 23). Cho đến nay chúng ta chưa có tư
liệu gì thêm về đời sống của những binh lính, dân phu và phu mỏ hồi đó. Rất có
thể họ đã có lời than vãn – những câu ca dao nào đó, nhưng nay thì khơng thể tìm
15
được. Hơn nữa, Vùng Mỏ thật sự đông đảo công nhân phải là sau khi thực dân
Pháp đưa quân tiến đánh Bắc Kỳ và nhanh chóng chiếm đoạt Vùng Mỏ.
Chỉ trong vòng 5 năm, 1883 – 1888 với những bản văn tự ép triều đình
Nhà Nguyễn phải ký nhượng, bán toàn bộ vùng mỏ than rộng lớn của nước ta đã
vào tay tư bản Pháp. Mốc thời gian quan trọng nhất là năm 1888, Công ty than
Bắc Kỳ thuộc Pháp (Société Fransaise des charbonnage du Tonkin – S.F.C.T)
được thành lập và mở các công trường khai thác.
Ngay khi mở mỏ, Công ty than Bắc Kỳ đã mộ 3.000 công nhân. Con số
này tăng dần hàng năm. Năm thịnh vượng nhất của tư bản Pháp ở khu mỏ là năm
1939, số cơng nhân chính thức có thẻ là 35.900 người. Cịn hàng nghìn cơng nhân
phải mượn thẻ hoặc khơng có thẻ (gồm phu “nhau” – trẻ con và những người làm
công nhật thất thường). Ngoài ra các mỏ do người Hoa hoặc người Việt làm chủ
cũng có vài nghìn cơng nhân. Có người ước tính số phu mỏ lúc đơng nhất lên đến
ngót 5 vạn người.
Số phu mỏ này hầu hết là những nơng dân nghèo khơng có ruộng, do đói
khổ đành ghi tên trong các đợt mộ phu. Từ các tỉnh đồng bằng Bắc Bộ: Nam
Định, Thái Bình, Kiến An, Hà Nam, Hưng Yên, Hải Dương… một số ít từ Thanh
Hoá, Nghệ Tĩnh, nghe bọn trùm mộ phu lừa bịp (ra đây đi xe, về xe, ngủ nhà
lầu…, thực tế là đi đun xe, về đun xe, ngủ giường tầng “cũi chó”…), họ bị sa vào
nơi tù đày lao khổ, làm việc quần quật dưới chế độ roi vọt hà khắc. Để kiếm được
nhiều lời, bọn thực dân chủ mỏ Pháp hạn chế đến mức tối thiểu các trang bị kỹ
thuật phải đầu tư tốn kém mà chủ yếu là vắt kiệt sức lao động cơ bắp của người
thợ. Chính vì vậy ở đây khơng đáng gọi là “vùng cơng nghiệp khai khống” mà
chỉ là những cơng trường thủ cơng thời trung cổ. Người công nhân phải làm việc
nặng nhọc tới 11, 12 giờ một ngày với đồng lương rẻ mạt và các điều kiện sống
khổ cực. Ốm đau, tai nạn, bệnh tật lại luôn bị đánh đập, bị cúp phạt, mạng người
là “sống làm phu mỏ, chết bỏ gốc sim”. Vùng Mỏ đích thực là nơi địa ngục giữa
trần gian. Để giữ chân phu mỏ, bọn chúng còn nghĩ ra rất nhiều cách, như phát
lương bằng loại “tiền miền”. “Tiền” này cắt từ đai hịm mìn bằng sắt tây chỉ mua
được gạo, mua được hàng do vợ con cai ký tay sai chủ mỏ thầu). Chủ mỏ có cả
cảnh sát, mật thám và nhà tù riêng. Chúng còn lợi dụng tôn giáo, dùng nhà thờ và
các tệ nạn cờ bạc, rượu chè, thuốc phiện… để mê hoặc và trói chân người thợ…
Sống trong khổ cực, tối tăm, người phu mỏ căm ghét bọn chủ mỏ và tay
sai, nhưng không còn đường nào khác, đành ngậm đắng nuốt cay, than thân trách
phận. Vốn là những nông dân ở vùng đồng bằng rất quen các bài ca dao, các bài
vè và các điệu hát dân ca, thế là vẫn vần điệu lục bát quen thuộc, họ sắp đặt thành
16
những bài thở than, buồn tủi để cùng bạn bè san sẻ. Hàng loạt bài ca dao, bài vè
đã ra đời cốt để vơi đi nỗi buồn hoặc để hả những bực tức trước những bất công,
tàn ác. Dần dần cũng với q trình hình thành đơng đảo đội ngũ, những người thợ
mỏ biết dựa vào nhau mà sống, biết bảo ban nhau cùng đồng lòng phản đối tệ
đánh đập, cúp phạt vô lối, rồi tiến đến lãn công, bỏ việc và cao hơn nữa là đình
cơng, tổng đình cơng. Như vậy là từ tự phát những người thợ mỏ đã tiến lên tự
giác, nhất là từ những năm 1928 – 1930, khi có các tổ chức Cách mạng (Việt Nam
Thanh niên Cách mạng đồng chí hội, Đơng Dương cộng sản Đảng) dẫn đường.
Như vậy là từ chỗ chỉ là nỗi niềm san sẻ, giãi bày, an ủi, ca dao Vùng Mỏ đã trở
thành phương tiện giáo dục, cổ vũ đấu tranh. Các chiến sỹ Công hội đỏ, các đảng
viên Cộng sản đã sáng tác và phổ biến ca dao, dân ca sâu rộng và rất có hiệu quả.
Ca dao, vè đã thật sự trở thành thứ vũ khí đặc biệt của những người thợ mỏ.
3. Những đặc điểm nổi bật của Ca dao Vùng Mỏ trước Cách mạng.
- Trước hết, Ca dao Vùng mỏ đã miêu tả chân thực cuộc sống của cơng
nhân mỏ thời thuộc Pháp. Đó là cuộc sống lầm than, cơ cực đến tột cùng. Chỉ vì
đói nghèo, vì bọn địa chủ cường hào ở q áp bức đến khơng sống nổi, hoặc vì
những rủi ro, tai nạn đến cùng quẫn đành phải xa quê, lìa quán ra mỏ. Lúc ra đi
những tưởng rằng ở nơi có điện, có xe, có phố phường…sẽ mở mày, mở mặt,
nhưng không ngờ rơi vào địa ngục. Không ở đâu mà Thằng Tây và bọn tay sai lại
ngày ngày dùng roi vọt đánh chửi phu phen một cách tàn nhẫn như ở đây. Nghề
nào ở mỏ, trên tầng hay dưới lò sâu cũng đều vất vả, khổ cực. Riêng với chị em
nữ thì cịn đắng cay tủi nhục trăm đường. Với số giờ làm từ mờ sáng đến tối mịt
và đồng lương chết đói, với ốm đau bệnh tật và tai nạn, cuộc sống người thợ mỏ
thật mờ mịt, tối tăm. Trong khổ ải, tình yêu thương đồng bào, đồng loại cùng cảnh
ngộ làm ấm lại một phần. Cũng có tình yêu trai gái nhưng trớ trêu thay, hạnh phúc
lứa đôi ở nơi bị đày đoạ này chỉ trở thành xót xa, cay đắng. Trong nghịch cảnh ấy,
Ca dao Vùng Mỏ có tiếng cười nhưng là tiếng cười đẫm nước mắt. Nhưng rồi đến
những năm 1930, nhất là thời kỳ Mặt trận dân chủ và thời kỳ tiền khởi nghĩa,
Vùng Mỏ đã có ánh sáng soi đường của tổ chức Cách mạng, Ca dao Vùng Mỏ đã
hừng hực khí thế đấu tranh. Ca dao Vùng Mỏ được sáng tác cả trong tù ngục,
trong chiến khu nên về nội dung nó đã chuyển thành thơ ca cách mạng. Như vậy
Ca dao Vùng Mỏ là những trang sử chân thực, cụ thể và chính xác của đội ngũ
cơng nhân Vùng Mỏ - cái nôi sinh thành giai cấp công nhân Việt Nam. Gắn liền
với giá trị hiện thực, giá trị lịch sử, Ca dao Vùng Mỏ cịn nổi bật tính trữ tình đặc
thù thể hiện phẩm chất của những người thợ. Đó là yêu thương và căm giận đến
tột cùng và đỉnh cao là tiếng cười, là tính trào phúng đắng cay, vượt lên những
đớn đau để không bi luỵ mà vẫn tỉnh táo ứng xử. Người ta thường ví ca dao như
17
hoa đồng, cỏ nội, nó dịu dàng, giản dị nhưng chân thành thắm thiết như bản tính
người dân quê nơi thơn dã. Đặc điểm đó, sắc thái đó chỉ đúng với ca dao của nông
dân, một phần của ca dao ngư dân. Dịng sơng, bến nước, cây đa, sân đình, cánh
cị, đồng lúa…là những hình ảnh thân thiết, quen thuộc trở thành thi liệu, thành
cái nền cho yêu thương đằm thắm. Ở đó tình làng nghĩa xóm, đặc biệt là tình u
lứa đơi trở thành đề tài chủ đạo. Ca dao Vùng Mỏ khác hẳn. Ở đây cũng có cảnh
đẹp, nhưng đẹp như Vịnh Hạ Long cũng chẳng còn là của phu mỏ, ngược lại trở
thành mỉa mai, chua xót: “Hịn Gai có núi Bài Thơ/ Nhác trơng đàn khỉ đu đưa
trên cành/ Đêm nằm nghe vượn cầm canh/ Khỉ hời, vượn hỡi thấu tình cho
chăng”. Ở đây cũng sâu nặng tình người, tình gia đình, tình họ hàng, quê hương
nhưng tất cả đều là đau đớn, xót xa. Mẹ thương con vì: “Tháng lương được có ba
hào/ Thúng than trên đầu nặng lắm con ơi!”. Con thương mẹ vì: “Ước gì con có
một hào mua cháo mẹ ăn”. Nỗi nhớ quê hương Nam Định thì trở thành tiếng kêu
van của kẻ ăn xin: “Bà ơi cho cháu xin xu/ Cháu mua bánh gù cháu gửi về Nam”.
Tình yêu nam nữ thì càng rất thật: “Cây mắm cù quăm/ Cây sú cù queo/ Thắt
lưng cho chặt mà theo anh về/ Ăn cơm với cá mòi he/ Lấy chồng Cẩm Phả đun xe
suốt đời”. Người phu mỏ khi yêu cũng muốn có quà tặng người yêu: “Ngày ngày
anh vẫn đi làm/ Đi qua nhà máy nhặt ngầm bù loong/ Đem về anh bỏ vào hòm/
Bắc cân bắc lạng còn non một vài/ Cẩm Phả xem thợ nào tài/ Thì anh kéo nhẫn,
hoa tai… cho nàng/ Người ta kéo bạc kéo vàng/ Anh nay kéo xích sắt cho nàng,
nàng ơi!”. Đúng là có tiếng cười, nhưng là tiếng cười rơi nước mắt. Cách nói đùa
tếu táo ấy có khi cịn động đến cả ông bà, cha mẹ: “Nàng về anh gửi cái này/ Cái
cuốc phần mẹ, chuồng cầy phần cha/ Cuốc chim thì để phần bà/ Cịn mai với
thuổng làm q cho ông/ Bao giờ nên vợ nên chồng/ Mua bánh xe hoả cho ông
ăn dần…”. Đúng là tận cùng của nỗi đau… Như vậy, cũng như ca dao mọi vùng,
Ca dao Vùng Mỏ có nội dung trữ tình sâu sắc, chỉ có điều tính trữ tình của Ca dao
Vùng mỏ ln gắn liền với tính hiện thực. Nó vừa thể hiện sâu sắc nỗi lòng yêu
thương nhưng đồng thời vẫn là dồn nén những uất ức, đắng cay. Đỉnh cao của
những câu ca dao trữ tình ở đây lại là tiếng cười - tiếng cười ra nước mắt…
- Từ đặc điểm nội dung đó, Ca dao Vùng Mỏ đã có hình thức nghệ thuật
tương ứng rất đặc trưng. Ở đây không có cách nói bóng bẩy, xa xơi mà ln là thứ
ngôn ngữ chân thực, cụ thể, gắn liền với sự việc, với nghề nghiệp. Ca dao Vùng
Mỏ khơng thích hợp với hình thức làm dun, mầu mè mà ln là những thơng
tin nhanh, mạnh, chính xác. Những từ sắc nhọn tạo hình ảnh rất rõ: “Lên tầng
đường thẳm dốc dài/ Đèo cao chịu khó mà nhoai lên tầng”, “Oằn lưng đội thúng
than đầy/ Nửa lon gạo hẩm suốt ngày cầm hơi”. Tả người phu mỏ thì “Mình
chồng chiếc bao gai/ Hỏi đã ai oai bằng tớ/ Mặt gầy mình võ/ Lòi rõ xương
18
sống, xương sườn/ Tay cầm cuốc, cầm chng/ Trơng giống hệt Diêm Vương sứ
giả”. Tả những cai ký tay sai chủ mỏ thì: “Ai sinh ra Hà Sú này/ Có anh cai Bút
ngày ngày vênh vang/ Quần lơ lại vận áo vàng/ Chân thì tập tễnh nhưng quàng
giầy Tây”. Kết cấu của bài Ca dao Vùng Mỏ cũng rất linh hoạt. Rất nhiều bài biến
thể. Có bài lại ở dạng vấn đáp: “Mặt vàng, bụng ỏng, mắt sâu/ Thằng này lạ mặt
ở đâu mới về?/ - Bẩm ơng bố nó người quê/ Đi làm phu mỏ mới về đến đây!”. Rất
nhiều bài gần với thể vè, kể lại cuộc đời, kể lại sự việc với những tên người, tên
đất và vụ việc rất cụ thể. Có bài ca dao lại có hình thức một bức thư: Thư gửi về
q, thư gửi cho người yêu cũ… Ca dao Vùng Mỏ cũng tiến nhận ảnh hưởng sâu
sắc của thơ ca dân tộc. Vốn từ đồng bằng Bắc Bộ ra làm mỏ, nên người thợ mỏ
tận dụng ngay những bài ca dao vốn có, chỉ thêm bớt chút ít cho hợp cảnh: “Áo
anh rận cắn sờn vai/ Nhờ em mạng giúp, chớ nài quản cơng/ Cơng kia anh để bên
lịng/ Đến khi lấy chồng anh sẽ trả ơn”…rất gần vời bài “Áo anh sứt chỉ đường
tà/ Vợ anh chưa có, mẹ già chưa khâu”. Có bài phảng phất Kiều: “Buồn trơng
cửa bể chiều hôm/ Quảng Đông tầu đã tếch miền xa xa/ Trông tầu lại nhớ đến
nhà/ Cánh buồm lơ lửng biết là về đâu!”. Có bài mang âm điệu Cung ốn ngâm
khúc: “Canh cá ót me chua mà ngọt/ Nướng cá nịi muối ớt mà thơm/ Sớm chiều
lọ nước, niêu cơm/ Canh sam cháo sắn gầy còm cực thay!”… Một đặc sắc nữa
của Ca dao Vùng Mỏ là tính khơi hài, trào lộng. Khổ nào bằng chồng ốm, chẳng
còn hạt gạo nấu cháo cho chồng, vậy mà vẫn cười trong đau đớn: “Thương chồng
nấu cháo đường xe/ Nấu canh lắc lít, nấu chè bù loong”. Có cảnh buồn nào bằng
cảnh “Lên tầng tranh cuốc, tranh xe/ Tối về tranh bếp nó ghè mất niêu”, vậy mà
câu ca dao vẫn là tiếng cười. Nói về sự đối xử dã man của bọn chủ mỏ với phu mỏ
bị tai nạn thì: “Năm đồng một ngón chân tay/ Cụt cánh, cụt cẳng được ngay mười
đồng/ Hai mươi đồng nạn tử vong/ Không què, không cụt đừng hịng một xu”…
Tiếng cười vốn là vũ khí của kẻ mạnh. Mác đã từng nhắc lại ý đó khi người
nghiên cứu hài kịch cổ điển Trong vị thế của kẻ bị áp bức, người thợ mỏ đã dùng
ca dao với tiếng cười khi thì giải buồn, khi thì để đả kích kẻ thù. Rõ ràng với ca
dao, người thợ mỏ đã ở tư thế xử sự một cách chủ động, có đau buồn nhưng
khơng bi luỵ, khơng tuyệt vọng. Phải chăng Ca dao Vùng mỏ đã thể hiện một đặc
điểm, phẩm chất của giai cấp công nhân.
4. Ca dao Vùng Mỏ sau ngày giải phóng.
Từ địa vị kẻ nơ lệ điển hình trở thành chủ nhân “Miền vàng đen” của Tổ
quốc, Ca dao Vùng Mỏ sau ngày giải phóng có chủ đề nổi bật trước hết là ơn lại
qng đời tăm tối ngày xưa. Rất nhiều bài có kết cấu xưa - nay, cũ - mới… Nay
nhân thư nhàn và cũng là để truyền đời cho con cháu, nên đã xuất hiện những bài
ca dao rất dài, những bài vè và những bài có dáng dấp truyện thơ dân gian (Tiêu
19
biểu là bài “Cuộc đời thợ mỏ trước sau” của tác giả Bùi Duy Hân và bài “Quên
sao cuộc tổng đình cơng” của tác giả Hồng Anh Vân). Chủ đề nối tiếp là lòng
yêu mến, niềm tự hào với Vùng Mỏ đẹp giàu. Nhưng nội dung phổ biến nhất của
Ca dao Vùng Mỏ sau ngày giải phóng vẫn là ngợi ca ý thức làm chủ, sự lao động
cần cù, dũng cảm, sáng tạo... trên tầng cao, dưới lò sâu, trong nhà máy. Ở đâu ta
cũng thấy bừng bừng khí thế thi đua sản xuất thật nhiều than cho Tổ quốc. Đặc
biệt là khi Vùng Mỏ có chiến tranh phá hoại của khơng qn Mỹ thì ca dao đã
ngợi ca những người thợ mỏ vừa sản xuất, vừa chiến đấu giỏi. Hơn bao giờ hết
người thợ mỏ hướng về tiền tuyến lớn Miền Nam, mỗi người làm việc bằng hai vì
Miền Nam ruột thịt. Đáng chú ý nữa là, Ca dao Vùng Mỏ có thêm nhiều bài ca
ngợi cơng sức đầy nghĩa tình của nơng dân, của những người làm dịch vụ đối với
ngành than.
Một nội dung nữa thể hiện rõ phẩm chất của giai cấp cơng nhân là có một
loạt bài đấu tranh, phê bình những sai trái ngay trong nội bộ. với tinh thần xây
dựng, giúp nhau sửa chữa khuyết điểm. Từ tật coi thường đảm bảo an toàn của
người thợ đến bệnh nói dài của giám đốc, từ sự kém ý thức giữ gìn của cơng đến
bộ máy cồng kềnh quan liêu của mỏ đều được đề cập kịp thời. Đáng chú ý là một
loạt bài thẳng thắn, chân thành vừa phê phán vừa góp ý giúp nhau khắc phục
những tệ nạn xã hội - từ tệ rượu chè, đến nạn nghiện ma tuý… Một đề tài lớn nữa
của Ca dao Vùng Mỏ sau giải phóng là đề tài tình u. Tình u ln gắn liền với
cơng việc và hồn cảnh. Rất nhiều mối tình nảy nở từ trên cơng trường, từ trong
nhà máy. Tính trữ tình dun dáng của ca dao dân tộc lại trở lại. Hơn bao giờ hết
cùng với những đổi thay của Vùng Mỏ, non xanh nước biếc nơi đây lại như làm
phông, làm nền cho cho những cuộc giao duyên tình tứ. Ta lại thấy sự chân thành,
trung thực của những tình yêu đôi lứa sự bền chặt hạnh phúc lứa đôi, hạnh phúc
gia đình, và cảm động hơn là ở những cặp vợ chồng già - những người đã trải qua
một phần đời tủi nhục hoặc vơ cùng khó khăn, gian khổ trong những năm chiến
tranh, những năm chưa đổi mới…
Một nội dung rất đậm nữa của Ca dao Vùng Mỏ là thể hiện lịng biết ơn
và tình cảm u kính Bác Hồ. Ta đều biết Người đã chăm chú theo dõi số phận
người thợ mỏ ngay từ thuở ban đầu. Những trang tố cáo tội ác của bọn thực dân
chủ mỏ trong “Bản án chế độ thực dân Pháp”. Người viết trên đất Pháp những
năm 1920 – 1923 đến nay người thợ mỏ vẫn không quên. Người thương người
thợ mỏ thuở đoạ đày kiếp nô lệ, sau này Người thương người thợ mỏ trong lao
động vất vả để làm giàu cho Tổ quốc. Người đã về Vùng Mỏ nhiều lần, có năm
Người về ăn tết với Vùng Mỏ. Có lẽ khơng nơi nào có được vinh dự ấy. Cho đến
tận cuối đời, khi khơng cịn đủ sức về thăm Vùng Mỏ, Người đã yêu cầu Vùng
20
Mỏ cử một đồn đại biểu lên Thủ đơ để Người gặp lần cuối và dặn dò. Biết bao
kỷ niệm, biết bao ân tình. Ca dao Vùng Mỏ đã viết những dòng chân thành, tha
thiết xúc động dâng lên Người. Ca dao cũng thể hịên ý chí và hành động của
những người thợ Vùng Mỏ quyết tâm thực hiện Di chúc của Người. Chúng tôi
chọn được vài chục bài để ở phần kết của tập sách, thực ra ở tất cả các phần khác,
khi nói về nghề, khi nói về mỏ đã rất nhiều bài, nhiều câu ca dao nhắc đến Bác
Hồ, đến Đảng với lòng biết ơn sâu nặng nhất.
5. Ca dao Vùng Mỏ trong kho tàng Ca dao Việt Nam.
Ca dao Vùng Mỏ ra đời và phát triển cùng với sự ra đời và phát triển của
giai cấp công nhân Việt Nam. Công nhân mỏ là bộ phận đơng đảo, ra đời sóm
nhất và tập trung nhất, đồng thời cũng là những người bị đàn áp bóc lột nặng nề
nhất, đời sống cực khổ nhất, của giai cấp công nhân Việt Nam. Phong trào đấu
tranh cách mạng của cơng nhân mỏ với đỉnh cao là cuộc tổng đình công thắng lợi
vang dội của ba vạn thợ mỏ năm 1936 với sự ra đời sớm tổ chức Đảng, Sự hun
đúc, tôi luyện nhiều cán bộ ưu tú của Đảng và với sự quan tâm chỉ đạo ngay từ
đầu của Đảng ta, đã trở thành phong trào tiêu biểu cho sự nghiệp đấu tranh cách
mạng của giai cấp công nhân Việt Nam. Vùng Mỏ đã viết nên những trang sử bất
khuất, kiên cường, làm tươi thắm thêm lịch sử giai cấp vô sản ở nước ta và lịch sử
dân tộc ta.
Hiện thực đó, tinh thần đó đã được phản ánh bằng văn học trong Ca dao
Vùng Mỏ. Sự thật, đây không phải là vốn văn học dân gian của một vùng đất
trong một tỉnh thành theo lãnh thổ, mà đây là văn học dân gian của giai cấp công
nhân nước ta, một bước phát triển mới rất cơ bản trong tiến trình phát triển văn
học dân gian nói riêng và trong lịch sử văn học Việt Nam nói chung. (Ở một số
thành phố đã sớm có cơng nghiệp như Nam Định với cơng nghiệp dệt, Hải Phịng
với cơng nghiệp xi măng… và ở Nam Bộ có vùng rừng cao su Phú Riềng, nhưng
do nhiều lẽ, ở những nơi này cũng chỉ có rất ít bài ca dao của cơng nhân). Chính
vì vậy Ca dao Vùng mỏ có ý nghĩa tiêu biểu về nhiều mặt:
- Ca dao Vùng Mỏ không chỉ có ý nghĩa về mặt giai cấp với tính xã hội và
tính lịch sử rõ rệt mà Ca dao Vùng Mỏ thật sự có giá trị đặc sắc về nội dung và
nghệ thuật. Về mặt nội dung, Ca dao Vùng Mỏ tiêu biểu nhất cho tính hiện thực,
tính chiến đấu của nền thơ ca dân gian, những tính chất và mức độ mà chỉ ở giai
cấp cơng nhân mới có được. Về mặt hình thức, Ca dao Vùng Mỏ để lại những giá
trị đặc biệt về ngơn ngữ, về hình ảnh, về cấu tứ và bố cục, đặc biệt là về “thi
pháp”, bút pháp và về sáng tạo loại thể.
21
- Ca dao Vùng Mỏ trước cách mạng là sản phẩm của trí tuệ, tinh thần tình
cảm của giai cấp công nhân trong một giai đoạn lịch sử cụ thể, đến bước phát
triển cao của nó - thời kỳ 1930 – 1945, nó đã nối liền với giịng văn học Cách
mạng thời cận đại và hiện đại. Sau ngày Vùng Mỏ được giải phóng, Ca dao Vùng
Mỏ đã hồ vào những sáng tác mới của nền văn học mới.
Ca dao Vùng Mỏ khơng những chỉ có giá trị nghiên cứu, bổ sung cho lịch
sử văn học dân tộc, trước hết là cho tiến trình văn học dân gian mà cịn là nguồn
tư liệu quý giúp ta nhìn lại quá khứ, ôn lại lịch sử, hiểu giai cấp công nhân một
cách chân thực, sinh động từ đó giúp ta một cách thiết thực việc giáo dục con
người mới, thế hệ mới về tinh thần, phẩm chất của giai cấp công nhân, về ý chí
căm thù bọ đế quốc thực dân và bọ tay sai phản động và về lòng yêu nước, yêu
vùng mỏ giàu đẹp, yêu chế độ tốt đẹp của chúng ta.
- Với những giá trị đặc biệt ấy, đáng lý Ca dao Vùng Mỏ cần được sưu
tầm, nghiên cứu, đánh giá và phát huy tác dụng của nó từ lâu. Song vì nhiều lẽ,
Quảng Ninh quá thiếu những nhà nghiên cứu, lại chưa có tổ chức nào đứng ra
chăm lo nên nhiều di sản văn hoá phi vật thể bị chìm vào quên lãng. Kho tàng văn
học dân gian ở Quảng Ninh rất phong phú và đặc sắc, riêng về ca dao thì Vùng
Mỏ và Vùng Vịnh Hạ Long cho đến nay vẫn chưa có chỗ đứng xứng đáng trong
các Tuyển tập và Tổng tập Ca dao Việt Nam. Năm 2008, Hội Văn nghệ dân gian
Quảng Ninh mới được thành lập. Đây là cơng trình đầu tiên của Hội được hồn
thành với sự góp sức của Tập đồn cơng nghiệp Than và Khoáng sản Việt Nam.
Hy vọng tập ca dao này của những người thợ mỏ Quảng Ninh - thợ mỏ Việt Nam
được đơng đảo độc giả đón nhận và các học giả soạn Tổng tập Văn học dân gian
Việt Nam khơng cịn phải để một khoảng trống đáng tiếc.
Hạ Long, tháng 7 năm 2010
TỐNG KHẮC HÀI
1. ĐÓI NGHÈO XA QN LÌA Q
ĐẾN ĐÂY CHẲNG CĨ ĐƯỜNG VỀ NỮA ĐÂU
22
Nam Định là chốn quê nhà
Có ai về mộ cu ly ra làm
Anh em cơm nắm ra Nam
Theo ông cai mộ đi làm mỏ than
Cu ly kể có hàng ngàn
Tồn là rách mặc, đói ăn, vật vờ
Điểm mặt nhớn bé cũng vừa
Từ nhớn chí bé khơng thừa một ai
Điểm rồi lại phải theo cai
Những cai đầu dài thúc giục ra đi
Ra ngay “cà rạp” tức thì
Hỏi chủ “cà rạp” ta đi tàu nào?
Anh em bàn tán xôn xao
- “Ta đi tàu nào đấy hả ông cai?”
- Xô - pha (1) tới bến đây rồi
Anh em cơm nuớc, nghỉ ngơi, xuống tàu
Xuống tàu chờ đợi đã lâu
Đến giờ xuống tàu chẳng thấy cai ra
Cai dặn cứ xuống Xô – pha
Chừng độ sáu ruỡi thì ra tới Phịng
Hải Phịng hai sở song song
Bên kia Hạ Lý, Hải Phòng bên đây
Một ngày tàu đã tới ngay
(1) Xô – pha: Một hãng tàu chở khách của Pháp thời kỳ trước tháng 8 - 1945
Trông lên Cẩm Phả vui thay trăm đuờng
Trông lên những phố cùng phuờng
23
Đèn máy thắp tỏ sáng trưng xa gần
Bảo nhau ta cũng khổ thân
Trăm năm mới có một lần ra đây
Kẻ thì làm muớn cho Tây
Sinh ra lắm cái cũng hay cũng tài
Sinh ra cái cuốc, cái mai
Cái kia choòng búa, cái này xà beng…
Gần nhau lạ cũng thành quen
Cùng vì túng gạo, túng tiền như nhau
Lên tầng công hạ, công cao
Cơng thì chỉ có ba hào mà thơi
Tây coi mỗi chú một chịi
Mỗi chú thì phải trơng coi ba tầng
Đốc công đứng ở Mông Giăng (1)
Muời một giờ kém muời lăm thì kèn
Trong tầng kẻ lạ nguời quen
Nghe thấy tiếng kèn đứng dậy ra đi
Đi ra đầu trục tức thì
Ghi thẻ xong về, cơm nuớc nghỉ ngơi
Đồng hồ một tiếng kéo cịi
Cu ly lốc nhốc hàng dài lê thê
Kẻ thì thợ mộc, thợ nề
(1) Mông Giăng: Tên một công truờng khai thác than ở Cẩm Phả
Nguời nọ thợ điện, nguời kia thợ rèn
Nguời thì tài xế, máy đèn
24
Máy tàu, máy trục ở liền với nhau
Ơ tơ mấy chiếc cùng màu
Chiếc đi, chiếc lại, chiếc vào, chiếc ra
Trong đồn Tây đóng một tồ
Có xe, có ngựa thật là thiếu chi
Có ơng chủ nhất, chủ nhì
Nhác lên phong cảnh khác chi thị thành
An Nam hai phố rành rành
Lại thêm phố Khách (1) thông hành vào ra
Bây giờ sự thể đã qua
Nguời ta mới kể lân la đến tầng.
Trục máy bắc ở Mông Giăng
Lấy than ba tầng ở duới kéo lên
Sở Mới thì ở một bên
Đục lị qua núi bắc liền đường xe
Một đằng đi tắt đường khe
Đèo cao suơng sớm cỏ le uớt đầm
Lên tầng mai cuốc rì rầm
Kẻ vung cái cuốc, nguời cầm cái mai
Đá nào đá chả chịu tay
Than khơ, đá rắn đục ngay phát mìn…
*
*
Q tơi ở tỉnh Kiến An
Thuỷ Nguyên, Phục Lễ là làng đồng chua
(1) Phố Khách: phố Hoa kiều
Quanh năm phải đi ở mùa
Hai suơng một nắng sớm trưa dãi dầu
25