Tải bản đầy đủ (.pdf) (126 trang)

Đặc điểm ngôn ngữ trong tác phẩm của nguyễn tuân

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.06 MB, 126 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
----------------------

ĐỖ NGỌC TOÀN

ĐẶC ĐIỂM NGÔN NGỮ TRONG
TÁC PHẨM CỦA NGUYỄN TUÂN

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGƠN NGỮ HỌC
Mã số : 60.22.01

Thành phố Hồ Chí Minh – 2011


ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
----------------------

ĐỖ NGỌC TOÀN

ĐẶC ĐIỂM NGÔN NGỮ TRONG
TÁC PHẨM CỦA NGUYỄN TUÂN

Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành : Ngôn ngữ học
Mã số : 60.22.01

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Trịnh Sâm

Thành phố Hồ Chí Minh – 2011



1

MỤC LỤC .................................................................................................. 1
MỞ ĐẦU .................................................................................................... 3
0.1. Lý do và mục đích nghiên cứu ............................................................. 3
0.2. Lịch sử nghiên cứu đề tài ..................................................................... 4
0.3. Phương pháp nghiên cứu ...................................................................... 8
0.4. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài ............................................... 9
0.5. Bố cục của luận văn .............................................................................. 9
Chương 1 : MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG ...................................................... 11
1.1.Tiểu sử và sự nghiệp sáng tác............................................................... 11
1.1.1. Tiểu sử ............................................................................................ 11
1.1.2. Sự nghiệp sáng tác .......................................................................... 13
1.2. Sơ lược về phong cách và phong cách Nguyễn Tuân ........................ 17
1.2.1. Một số vấn đề chung về phong cách ............................................... 17
1.2.2. Phong cách Nguyễn Tuân .............................................................. 25
1.2.2.1. Ý thức sáng tạo ngôn ngữ .......................................................... 25
1.2.2.2. Phong cách ngôn ngữ độc đáo ................................................... 29
Chương 2
MỘT VÀI NHẬN XÉT VỀ NGÔN NGỮ CỦA NGUYỄN TUÂN
2.1. Xét ở cấp độ từ ngữ ............................................................................. 34
2.1.1. Việc sử dụng lớp từ Hán Việt .......................................................... 34
2.1.2. Vận dụng linh hoạt các từ ngữ địa phương và thành ngữ ................ 42
2.1.3. Nghệ thuật chuyển hóa từ loại ........................................................ 49
2.1.4. Sử dụng phong phú loạt từ đồng nghĩa ............................................ 53
2.1.5. Việc ưa dùng các từ ngữ mới lạ, kết ghép độc đáo .......................... 55
2.1.6. Sáng tạo sử dụng các động ngữ, tính ngữ có
các phụ từ chỉ hướng ................................................................................ 61
2.1.7. Tiểu kết ........................................................................................... 66

2.2. Xét ở cấp độ câu .................................................................................. 68
2.2.1. Câu văn với nhiều sắc thái đa dạng ............................................... 68


2

2.2.1.1. Câu văn mang phong thái cổ kính .............................................. 68
2.2.1.2. Câu văn dân giã, bình dị ............................................................ 70
2.2.1.3. Câu văn hiện đại theo kiểu phương Tây ..................................... 74
2.2.1.4. Câu văn giàu nhịp điệu .............................................................. 77
2.2.1.5. Câu văn lồng ghép thi liệu thơ ................................................... 79
2.2.1.6. Câu văn giàu sức tạo hình ......................................................... 81
2.2.1.7. Câu văn với lượng thông tin phong phú ..................................... 83
2.2.2. Những kiểu cấu trúc câu độc đáo .................................................. 86
2.2.2.1. Kiểu câu đặc biệt ....................................................................... 86
2.2.2.2. Kiểu câu dài sử dụng nhiều định ngữ
và thành phần chú thích ......................................................................... 87
2.2.3. Tiểu kết ........................................................................................... 91
2.3. Vận dụng linh hoạt các thủ pháp nghệ thuật ................................... 91
2.3.1. Thủ pháp so sánh ............................................................................. 91
2.3.2. Thủ pháp liệt kê tăng cấp ................................................................ 98
2.3.3. Thủ pháp điệp ................................................................................. 99
2.3.4. Thủ pháp tương phản ...................................................................... 102
2.3.5. Tiểu kết ........................................................................................... 104
2.4. Tổ chức văn bản .................................................................................. 105
2.4.1. Một vài vấn đề chung về việc tổ chức văn bản .................................... 105
2.4.2. Việc tổ chức văn bản trong tác phẩm Nguyễn Tuân ........................... 106
2.4.3. Tiểu kết .............................................................................................. 113
KẾT LUẬN ................................................................................................. 115
TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................... 119



3

MỞ ĐẦU
0.1. Lý do và mục đích nghiên cứu
Nguyễn Tuân là một nhà văn lớn, một bậc thầy của nghệ thuật ngơn từ có
những đóng góp to lớn trong việc giữ gìn và phát triển ngơn ngữ dân tộc. Nói theo
nhà nghiên cứu Mai Quốc Liên thì “Nguyễn Tuân là một trong những cây đại thụ
của rừng đầu nguồn văn chương Việt Nam thế kỷ XX”. Ông là một nhà văn được
xem là có phong cách văn chương độc đáo, tài hoa nhưng cũng hết sức phức tạp
trên văn đàn hiện đại Việt Nam.
Phong cách nghệ thuật văn chương Nguyễn Tuân trải qua hai thời kỳ trước
và sau cuộc cách mạng lớn của dân tộc – cuộc Cách mạng tháng Tám năm 1945.
Đó là một q trình tự nhận thức và cải biến từ nghệ thuật vị nghệ thuật đến nghệ
thuật vị nhân sinh. Sự thay đổi thế giới quan, ý thức nghệ thuật ấy là một quá trình
gian khổ. Trước Cách mạng, cái tôi của người nghệ sĩ trong cảnh mất nước là một
“cái tôi lập dị, ngang bướng, đi lù lù giữa cuộc đời, ném đá vào những kẻ xung
quanh”.[45:71] Nhưng sau cách mạng, cái tôi ấy đã có sự thay đổi lớn về thế giới
quan trong dịng chảy của hai cuộc kháng chiến trường kỳ, để hướng tới sự hịa
hợp của cái tơi nghệ sĩ và cái tôi công dân. Trải qua những biến cố lớn lao của đời
sống lịch sử của dân tộc, Nguyễn Tuân từ một nhà văn lãng mạn chủ nghĩa đã
chuyển mình và dần dần hình thành cho mình một phong cách văn chương tài hoa,
độc đáo, một nghệ sĩ “luyện đan” ngôn từ. Cuộc đời cầm bút trên 40 năm nhiều
biến cố tạo nên một phong cách Nguyễn Tuân độc đáo và đa dạng.
Phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân luôn gắn liền với đặc điểm ngôn ngữ
trong các sáng tác của ông. Thật khơng q khi Hồi Anh cho rằng: “Nguyễn Tn
là người nghệ sĩ ngôn từ đã đưa cái đẹp thăng hoa đến một độ cao hiếm thấy
trong văn học Việt Nam”. Tuy rằng, trước cách mạng, sự thăng hoa ấy theo
Nguyễn Đăng Mạnh chỉ là để “chơi ngông” với đời, chỉ “đổ tràn trên mặt giấy để

phô tài, khoe chữ”. Nhưng sau cách mạng, đặc biệt là đến lần “nhận đường” thứ
hai (1958–1960), ngôn ngữ Nguyễn Tuân luôn tươi mới, sôi nổi, sáng tạo không
ngừng, quan niệm về cái đẹp của nhà văn thật sự có những phẩm chất mới. Cái


4

đẹp của ngôn ngữ đã gắn liền với đời sống lớn của nhân dân và đất nước. Nó là cái
đẹp của cuộc sống chiến đấu, xây dựng tổ quốc của dân tộc, của nhân dân.
Nghiên cứu phong cách văn chương Nguyễn Tn nói chung và đặc điểm
ngơn ngữ trong các tác phẩm cụ thể của ông là một điều thú vị, hấp dẫn, tuy đó
khơng phải là một cơng việc dễ dàng. Chúng ta đều biết rằng, Nguyễn Tuân là một
trong những nhà văn ln có ý thức trân trọng, giữ gìn sự trong sáng, thuần khiết,
giàu có của tiếng nói dân tộc. Nghiên cứu những đặc sắc ngơn ngữ trong các tác
phẩm của nhà văn chính là góp phần tìm hiểu phong cách của nhà văn đó. Chúng
tơi ước muốn rằng, luận văn này sẽ là một sự bổ sung trong việc tìm hiểu, khai phá
thêm những địa hạt ngôn ngữ trong rừng tác phẩm của nhà văn Nguyễn Tuân.

0.2. Lịch sử nghiên cứu đề tài
Nguyễn Tuân là một nhà văn lớn. Do vậy, đã có nhiều bài viết, nhiều cơng
trình nghiên cứu viết về cuộc đời và tác phẩm của ơng. Chúng tơi chia làm 3 giai
đoạn chính trong quá trình nghiên cứu về con người và tác phẩm của nhà văn.
a. Giai đoạn trước cách mạng tháng Tám 1945
Thời kỳ trước cách mạng, những tác phẩm như Vang bóng một thời, Chiếc
lư đồng mắt cua, Thiếu quê hương,…đã tạo được nhiều ấn tượng đối với người
đọc và các nhà nghiên cứu, phê bình văn học lúc bấy giờ. Nhìn chung, các đánh
giá thời kỳ này đều đánh giá cao sự tài hoa, uyên bác cũng như sắc thái dân tộc
được thể hiện trong tác phẩm của Nguyễn Tuân.
Đầu tiên phải kể đến là bài viết của nhà văn Thạch Lam và nhà nghiên cứu
Vũ Ngọc Phan. Trong bài viết của mình trên báo Ngày nay (Số 212, ngày 15–5–

1940), Thạch Lam đã đánh giá cao tinh thần sáng tạo văn chương của Nguyễn
Tuân. Ông cho rằng: “Nguyễn Tuân là một nhà văn có tài năng đặc biệt, một nghệ
sĩ có lương tâm, ở người đó chúng ta đặt những hi vọng tốt đẹp nhất về sự
nghiệp”.[39:269] Còn trong cuốn Nhà văn hiện đại, Vũ Ngọc Phan đã phân tích,
phê bình, đánh giá tác phẩm của Nguyễn Tn một cách khoa học và giàu sức
thuyết phục:“ Ông là một nhà văn đặc Việt Nam, có tính hào hoa và có cái giọng
khinh bạc đệ nhất trong văn giới Việt Nam hiện đại. Nói như thế người ta mới hiểu


5

được thân thế ơng và văn ơng, vì thân thế ông với văn ông theo nhau như người
với bóng”. [59:438,439]
Ở miền Nam, thời kỳ này cũng có nhiều ý kiến đánh giá cao về tác phẩm
của Nguyễn Tuân. Vũ Bằng trong bài Nguyễn Tuân: đứa con nuông của thiên thần
và ác quỷ đã có những nhận xét thấu đáo về tinh thần bất đắc chí của một con
người “khơng có cả Bây giờ, khơng có cả Ngày mai”. Bên cạnh đó, Phạm Thế
Nghĩa có những suy nghĩ tồn diện và sâu sắc khi cho rằng văn chương Nguyễn
Tuân “thật già mà thật trẻ, rất cũ cũng rất mới”.
Các tác giả khác như Thẩm Thệ Hà thì cho rằng Nguyễn Tuân là “nhà văn
nổi bật nhất thời tiền chiến”. Tạ Tỵ lại có những nhận xét về ngơn ngữ mà nhà văn
sử dụng: “một vùng trời xôn xao của thanh âm ngôn ngữ”.
b. Sau cách mạng tháng Tám đến trước ngày mất của Nguyễn Tuân (71987)
Thời kỳ này ghi dấu những đánh giá trái chiều của các nhà nghiên cứu mà
khá nhiều trong số đó là những lời phê phán. Phê phán nội dung, thế giới quan
cũng như ý thức sáng tác. Như Phong đả kích cái Tơi ích kỷ, Nam Mộc cho rằng
tác phẩm Nguyễn Tuân “chướng căn còn nặng”. Triều Mai cịn nhận định đó là
“cái Tơi hết mùa”. Nguyễn Đăng Mạnh lại khẳng định, Nguyễn Tuân viết để thể
hiện cái Ngông, thể hiện phản ứng của chủ nghĩa cá nhân kiêu ngạo của người
thanh niên trí thức giàu sức sống nhưng bế tắc.

Dẫu vậy, cũng có khơng ít những nhìn nhận tích cực, những lời khen, đặc
biệt ở khía cạnh ngơn ngữ và tinh thần dân tộc. Bài viết đáng chú ý, thực sự công
phu và chuyên sâu thì phải kể đến bài nghiên cứu của Phan Cự Đệ trong cuốn Nhà
văn Việt Nam và Lời giới thiệu Tuyển tập Nguyễn Tuân của Nguyễn Đăng Mạnh.
Trong cuốn Nhà văn Việt Nam, nhà nghiên cứu Phan Cự Đệ đã viết về cuộc đời và
tác phẩm của Nguyễn Tuân trong cả hai thời kỳ trước và sau cách mạng một cách
sâu sắc và khá tồn diện. Ơng nhận xét: “Trước Cách mạng, cái Tôi cá nhân chủ
nghĩa trong tác phẩm Nguyễn Tuân đã có khuynh hướng muốn tự phủ
định…Trước cuộc đổi đời vĩ đại của cả một dân tộc, Nguyễn Tuân trịnh trọng


6

tuyên bố phải gây “những vụ án mạng” trong con người cũ của mình… Trước
cách mạng, ta chỉ có một Nguyễn Tuân nghệ thuật vị nghệ thuật, một Nguyễn
Tuân nghệ sĩ thuần túy. Bây giờ đây ta đã có một công dân Nguyễn Tuân bên cạnh
một Nguyễn Tuân nghệ sĩ, một cán bộ Nguyễn Tuân hòa hợp với một nhà văn
Nguyễn Tuân”. [19:202,203] Bên cạnh đó qua Lời giới thiệu Tuyển tập Nguyễn
Tuân cũng như nhiều bài viết của Nguyễn Đăng Mạnh, chúng tơi nhận thấy ơng
ln có những nghiên cứu cơng phu, tồn diện về những ưu điểm cũng như hạn
chế trong các sáng tác của nhà văn Nguyễn Tn. Ơng có những nhận xét tinh tế,
khoa học về con người, quan điểm nghệ thuật, về các tác phẩm của nhà văn :
“Nhưng nếu như trước kia, chủ nghĩa cá nhân hưởng lạc và kiêu ngạo đã lôi cuốn
ông chạy theo những xu hướng văn học tiêu cực suy đồi và lúc ấy, lòng yêu nước,
tinh thần dân tộc đã cố kéo ơng lại, thì giờ đây, khi lịng yêu nước, tinh thần dân
tộc, được cách mạng phát huy, thôi thúc ông tiến lên trên con đường lớn của nghệ
thuật cách mạng, thì chủ nghĩa cá nhân hưởng lạc và kiêu ngạo lại muốn níu giữ
ơng lại, tạo ra thế giằng co mới trong ý thức nghệ thuật của ông. Tuy nhiên, nhờ
sự giáo dục của Đảng và của thực tiễn cách mạng, cũng như mối liên hệ ngày
càng máu thịt hơn đối với đời sống chiến đấu và sản xuất của nhân dân, Nguyễn

Tuân ngày càng vượt qua được tình trạng giằng co nói trên một cách thanh thốt
hơn, để trờ thành một cây bút có sức sáng tạo dồi dào, thấm nhuần những tư
tưởng cao đẹp của thời đại mới”. [47:118]
Nguyễn Đăng Mạnh còn cho rằng tinh thần dân tộc của nhà văn như “huyệt
thần kinh nhạy cảm nhất”, về ngơn ngữ thì “ cần có chun luận riêng về đặt câu,
dùng từ”.
c. Từ ngày Nguyễn Tuân mất đến nay
Có thể nhận thấy đây là giai đoạn mà giới phê bình đã có những nhìn nhận
hết sức khoa học và khách quan về con người và tác phẩm của nhà văn. Những
đánh giá khen ngợi đều tập trung vào ba khía cạnh: tinh thần dân tộc, ngơn ngữ và
cái Tôi độc đáo.


7

Về tinh thần dân tộc, nhà văn được đánh giá cao: “Nguyễn Tuân đa dạng,
phức điệu biến hóa và tiến triển nhưng bao giờ cũng nhất quán một cách sâu sắc,
bao giờ cũng thủy chung, thắm đỏ với sự nghiệp của nhân dân, đất nước mình cho
dù đó khơng phải là một tình u đơn giản”.(Phan Cự Đệ)
Về ngơn ngữ, Nguyễn Đình Thi ca ngợi Nguyễn Tuân là “nghệ sĩ bậc thầy
của tiếng Việt”. Hoàng Tiến chú ý tới câu văn của ơng: “Kiến trúc câu tuyệt vời”.
Bên cạnh đó, nhiều ý kiến đều khẳng định về cái Tôi cá nhân rõ nét trong tác
phẩm Nguyễn Tuân. Trong tác phẩm của mình, “viết nhân vật nào cũng là nhân
vật tơi” (Tơ Hồi). Ngồi ra, các nhà phê bình đều ca ngợi Nguyễn Tn ln có
thiên hướng về cái Đẹp nhưng không phải là cái Đẹp duy mĩ như nhiều nhận định
chủ quan trước đây: “Quan niệm về cái đẹp đã chi phối cả q trình sáng tác của
ơng. Quan niệm về cái đẹp có khi được ơng phát biểu một cách trực tiếp nhưng
chủ yếu thể hiện qua sáng tác, bằng những nhân vật u thích của mình… Một
trong những quan niệm về cái đẹp của Nguyễn Tuân là cái đẹp đối lập với cái
phàm tục, tầm thường. Cái đẹp không đi đôi với đồng tiền”. (Nguyễn Thị Thanh

Minh). Hơn nữa, nhiều người đề cao tính sáng tạo của thể loại làm nên phong cách
Nguyễn Tn, đó chính là tùy bút. Tùy bút của ông “dạy cho ta nghệ thuật sống”
(Hoàng Như Mai), với những trang văn “thấm đẫm phong vị và văn hóa Việt
Nam”. (Phạm Thùy Nhân)
Tóm lại, giai đoạn này các nhận định nghiêng về sự ca ngợi, khẳng định
hơn là phê phán. Đó chính là những nhận xét mang tính chất khách quan, cụ thể
đều giúp ích cho chúng tơi trong việc nghiên cứu, tìm hiểu đề tài trong luận văn
này.
Gần đây cũng có một vài cơng trình nghiên cứu về Nguyễn Tuân nhưng
chủ yếu là nghiên cứu về mặt phong cách của nhà văn. Trong đó đáng chú ý là
luận án tiến sĩ của Nguyễn Thị Hồng Hà với đề tài “Đặc trưng tùy bút Nguyễn
Tuân”. Tác giả đã nghiên cứu một cách công phu và khá toàn diện về những đặc
sắc trong thể loại tùy bút của nhà văn, trong đó một vài yếu tố nổi bật về ngôn ngữ
cũng đã được tác giả khai thác. Đó là một trong số các cơng trình nghiên cứu


8

thành cơng và có ý nghĩa khoa học, thực tiễn cao trong việc tìm hiểu về những đặc
sắc của thể tùy bút nói riêng và phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân nói chung.

0.3. Phương pháp nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của chúng tơi là tồn bộ tác phẩm của Nguyễn Tuân
ở các thể loại khác nhau. Do số lượng tác phẩm khá nhiều nên chúng tơi dùng hai
phương pháp chính khi tiến hành nghiên đề tài này đó là phân tích và mơ tả dựa
trên việc khảo sát kĩ và có chọn lọc các đơn vị ngơn ngữ từ các tác phẩm của
Nguyễn Tuân... Đặc điểm ngôn ngữ cũng như phong cách nghệ thuật Nguyễn
Tn ln có sự vận động, phát triển, vì vậy chúng tơi nghiên cứu đặc điểm ngôn
ngữ Nguyễn Tuân trong mối quan hệ biện chứng, tức là nghiên cứu phải xét tới
những chuyển biến về thế giới quan, quan điểm thẩm mỹ và phương pháp sáng tác

của nhà văn. Chúng tôi cố gắng kết hợp những lí luận chung về ngơn ngữ và phân
tích những đặc sắc ngơn ngữ cụ thể. Bên cạnh đó, chúng tơi dùng phương pháp so
sánh nhằm làm nổi bật những đặc sắc ngơn từ trong tác phẩm của Nguyễn Tn.
Ngồi ra, trong một vài trường hợp, chúng tôi dùng phương pháp thống kê để thấy
rõ một đặc điểm ngôn ngữ nào đó trong tác phẩm.
Trong q trình viết luận văn, chúng tơi có được nhiều thuận lợi nhưng
cũng gặp khơng ít khó khăn. Những thuận lợi ấy chính là đã có rất nhiều bài viết,
bài nghiên cứu về con người và tác phẩm của nhà văn Nguyễn Tuân. Bên cạnh đó,
trong khoảng thời gian gần đây các bộ môn nghiên cứu văn học như lí luận văn
học, phê bình văn học khá phát triển. Trong đó đáng chú ý là cơng trình Tìm hiểu
phong cách Nguyễn Du trong Truyện Kiều của Phan Ngọc đã tiếp cận tác giả, tác
phẩm trên bình diện thi pháp, đã đạt được những thành công nhất định. Điều đó
cũng đã góp phần giúp cho việc tìm hiểu ngôn ngữ của các tác phẩm văn học trở
nên khoa học và có nhiều thuận lợi hơn. Tuy vậy, khó khăn của chúng tơi là phải
khảo sát kĩ một số lượng khá lớn các tác phẩm của nhà văn ở tất cả các thể loại.
Ngoài ra, số lượng các bài viết về Nguyễn Tuân rất phong phú nhưng chủ yếu chỉ
tập trung về mảng văn học.


9

Trong luận văn này, chúng tơi tiếp thu có chọn lọc những thành tựu của
những người đi trước, đồng thời cũng mạnh dạn trình bày những đánh giá của
riêng mình một cách thận trọng, tránh những nhận xét phiến diện, một chiều.

0.4. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
Như đã nói ở trên, trong luận văn này chúng tôi cố gắng tiếp thu những
thành tựu của những người đi trước, đặc biệt là những thành tựu nghiên cứu về
phong cách Nguyễn Tuân. Với luận văn này, chúng tơi muốn tìm hiểu cụ thể hơn
đặc điểm ngơn ngữ trong các tác phẩm của nhà văn Nguyễn Tuân ở các cấp độ và

phương diện khác nhau, từ cấp độ từ ngữ, câu, các biện pháp tu từ cho đến việc tổ
chức văn bản. Qua đó, chúng tơi muốn tìm hiểu sâu hơn về những giá trị nghệ
thuật trong việc sử dụng các yếu tố ngôn ngữ trong tác phẩm của nhà văn Nguyễn
Tuân.

0. 5. Bố cục luận văn
Ngoài phần MỞ ĐẦU và KẾT LUẬN, nội dung chính của luận văn gồm các
chương sau:
Chương 1 : MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG
1.1.

Tiểu sử và sự nghiệp sáng tác

1.1.1. Tiểu sử
1.1.2. Sự nghiệp sáng tác
1.2.

Sơ lược về phong cách và phong cách Nguyễn Tuân

1.2.1. Những vấn đề chung về phong cách
1.2.2. Phong cách Nguyễn Tuân
1.2.2.1. Ý thức sáng tạo ngôn ngữ
1.2.2.2. Phong cách ngôn ngữ độc đáo
Chương 2
MỘT VÀI NHẬN XÉT VỀ NGÔN NGỮ CỦA NGUYỄN TUÂN
2.1. Xét ở cấp độ từ ngữ
2.1.1. Việc sử dụng lớp từ Hán Việt
2.1.2. Vận dụng linh hoạt từ ngữ địa phương và thành ngữ



10

2.1.3. Nghệ thuật chuyển hóa từ loại
2.1.4. Sử dụng phong phú loạt từ đồng nghĩa
2.1.5. Việc ưa dùng các từ ngữ mới lạ, kết ghép độc đáo
2.1.6. Sáng tạo trong việc dùng các động ngữ, tính ngữ có các phụ từ chỉ hướng
2.1.7. Tiểu kết
2.2. Xét ở cấp độ câu
2.2.1. Câu văn với nhiều sắc thái đa dạng
2.2.1.1. Câu văn mang phong thái cổ kính
2.2.1.2. Câu văn dân giã, bình dị
2.2.1.3. Câu văn hiện đại theo kiểu phương Tây
2.2.1.4. Câu văn giàu nhịp điệu
2.2.1.5. Câu văn lồng ghép thi liệu thơ
2.2.1.6. Câu văn giàu sức tạo hình
2.2.1.7. Câu văn với lượng thông tin phong phú
2.2.2. Những kiểu cấu trúc câu độc đáo
2.2.2.1. Kiểu câu đặc biệt
2.2.2.2. Kiểu câu dài sử dụng nhiều định ngữ và thành phần chú thích
2.2.3. Tiểu kết
2.3. Vận dụng linh hoạt các thủ pháp nghệ thuật
2.3.1. Thủ pháp so sánh
2.3.2. Thủ pháp liệt kê tăng cấp
2.3.3. Thủ pháp điệp
2.3.4. Thủ pháp tương phản
2.4. Tổ chức văn bản
2.4.1. Một vài vấn đề chung về việc tổ chức văn bản
2.4.2. Việc tổ chức văn bản trong tác phẩm Nguyễn Tuân
2.4.3. Tiểu kết



11

Chương 1

MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG
1.1. Tiểu sử và sự nghiệp sáng tác
1.1.1. Tiểu sử
Nguyễn Tuân sinh ngày 10-7-1910 tại phố Hàng Bạc, Hà Nội. Gia đình có
truyền thống nho học. Nhưng lúc này nho học đã thất thế, nhường chỗ cho Tây
học. Cả một thế hệ vốn gắn bó với cửa Khổng sân Trình bỗng dưng trở nên lỗi
thời trước xã hội giao thời Tây-Tàu nhố nhăng; sinh ra tư tưởng bất đắc chí (trong
đó có cụ Tú Hải Văn, thân sinh của nhà văn Nguyễn Tuân). Bối cảnh xã hội,
khơng khí gia đình đặc biệt ấy đã ghi lại dấu ấn sâu sắc trong cá tính, tư tưởng
cũng như phong cách nghệ thuật của nhà văn. Là một trí thức giàu tinh thần dân
tộc, Nguyễn Tuân đã phải trải qua những năm tháng khổ sở, có lúc bế tắc, tuyệt
vọng.
Năm 1929, bị đuổi học và không được vào làm việc ở bất cứ cơng sở nào
trên tồn cõi Đơng Dương (vì tham gia bãi khóa chống đối việc giáo viên Pháp nói
xấu người Việt Nam, tại trường trung học Nam Định). Sau đó Nguyễn Tuân cùng
một nhóm bạn, vượt biên giới sang Lào; bị bắt ở Thái Lan, đưa về giam ở Thanh
Hoa. Hơn một năm sau, ra tù rồi vào Sài Gịn, đến Vinh thì bị bắt và bị quản thúc
ở Thanh Hóa. Kể từ đây, Nguyễn Tuân lâm vào tình trạng khủng hoảng tinh thần
sâu sắc. Ông lao vào con đường ăn chơi trụy lạc, thành kẻ “đại bất đắc chí”, như
một người “hư hỏng hồn toàn”.
Năm 1938, tham gia vào đoàn làm phim "Cánh đồng ma", quay tại Hồng
Kông. Từ 1942 đến 1945, ngày càng bế tắc, suy sụp ; đã có ý định tự sát.
Cách mạng tháng Tám đã cứu sống cuộc đời cũng như trang viết Nguyễn
Tn. Ơng hân hoan chào đón cuộc đổi đời lịch sử, tự “lột xác” và chân thành
đứng vào hàng ngũ nhà văn Cách mạng. Năm 1950, vào Đảng Cộng sản Đông

Dương. Từ 1948-1958, là tổng thư ký Hội Văn nghệ Việt Nam. Nguyễn Tuân luôn
hăng hái tham gia vào hai cuộc kháng chiến. Tiếp tục đi nhiều, có mặt ở tuyến lửa
ác liệt, dùng văn chương ngợi ca đất nước và cùng nhân dân đánh giặc.


12

Nguyễn Tuân mất ngày 28-7-1987 tại Hà Nội.
Về con người, Nguyễn Tuân là một trí thức dân tộc rất mực tài hoa, uyên
bác. Ông am tường cả Hán học lẫn Tây học, đặc biệt, có lịng say mê thiết tha đối
với tiếng Việt. Rất mực đề cao và chú tâm gìn giữ nhân cách nghệ sĩ, nên Nguyễn
Tuân căm ghét thói xấu xa đê tiện, rởm đời, vơ văn hóa. Đọc văn ơng, người đọc
khơng chỉ có khối cảm thẩm mỹ từ nghệ thuật ngơn từ mà cịn được bồi dưỡng
thêm tri thức về nhạc, họa, điêu khắc, kiến trúc, lịch sử, địa lý, điện ảnh,... Thực tế
ấy chứng tỏ Nguyễn Tuân là một tài năng phong phú, có năng lực ở nhiều lĩnh vực
nghệ thuật.
Đời viết văn hơn nửa thế kỷ của Nguyễn Tuân là một quá trình lao động
nghệ thuật thật sự nghiêm túc. Về sau, khi đã ở đỉnh cao nghề nghiệp, ông vẫn
không bao giờ tỏ ra lơi lỏng, hời hợt ; mà ngược lại, luôn nghiêm khắc với chính
mình. Đây là một nhà văn “suốt đời đi tìm cái Đẹp, cái Thật” (Nguyễn Đình Thi),
tự nhận mình là người “sinh ra để thờ Nghệ Thuật với hai chữ viết hoa”.
Trước Cách mạng tháng Tám, trong bối cảnh nước mất, xã hội đảo điên
“lộn tùng phèo” mọi thứ quan niệm, mọi giá trị, Nguyễn Tuân đã đứng hẳn về phía
dân tộc và truyền thống, dũng cảm chống lại sức công phá của lối sống xu thời.
Sáng tác của ông thời kỳ này dồn sức chủ yếu vào việc phục hiện lại các giá trị
văn hóa xưa. Trên trang viết Nguyễn Tuân, những vẻ đẹp xưa chợt sống dậy trong
niềm xót xa tiếc nuối khơn ngi. Dù điều kiện bấy giờ không cho phép nhà văn
bộc lộ trực tiếp tâm sự u hoài đối với dân, với nước, người đọc vẫn cảm nhận được
một tấm lòng chân thành và rất mực thủy chung. Ông đã ghé vai vào chống chọi,
hàn gắn, sắp xếp lại với kỳ vọng gìn giữ những giá trị thiêng liêng nhất vốn hun

đúc nên quốc hồn, quốc túy Việt Nam. Nếu có thể ví trang sách như tấm lá chắn
hữu hiệu thì nhà văn Nguyễn Tuân - giai đoạn trước 1945 - chính là người cảm tử
quân đang chiến đấu với cái Ác, tử thủ ở thành trì Chân - Thiện - Mỹ.
Từ sau 1945, Nguyễn Tuân viết đều đặn, càng tỏ ra sâu sắc trong tư tưởng
nghệ thuật. Nhà văn có dịp đi nhiều, vừa đi vừa mở lịng đón nhận bao nhiêu thanh
sắc của cuộc sống mới đang từng giây từng phút sinh sơi. Nếu trước kia chỉ có thể


13

bộc lộ tâm sự yêu nước thương dân một cách kín đáo, thì giờ đây, con người tài
hoa un bác ấy như được tháo cũi sổ lồng, phát huy hết mọi sở trường, cất cao lời
ngợi ca đất nước và con người Việt Nam trong thời đại mới.
Nếu trước Cách mạng tháng Tám, quan niệm về cái Ðẹp của Nguyễn Tn
đậm màu sắc chủ quan, “khơng bà con gì với ln lý thời đại” thì giờ đây, đã có sự
hài hòa cần thiết. Bởi cái Ðẹp giờ hiện hữu trong thực tại, là đời sống muôn màu
của Nhân Dân ; như có thể cầm lên tay mà nâng niu. Hồi cổ khơng cịn mang ý
nghĩa níu kéo dĩ vãng mà được nâng lên thành ý thức về sự góp mặt của dĩ vãng ở
hiện tại.
1.1.2. Sự nghiệp sáng tác
Tác phẩm tiêu biểu :
- Trước 1945 : Một chuyến đi (1938), Vang bóng một thời (1939), Ngọn đèn
dầu lạc (1939), Thiếu quê hương (1940), Tàn đèn dầu lạc (1941), Chiếc lư đồng
mắt cua (1941), Tùy bút I (1941), Tùy bút II (1943), Tóc Chị Hồi (1943), Nguyễn
(1945).
- Sau 1945 : Chùa Đàn (1946), Đường vui (1949), Tình chiến dịch (1950),
Thắng càn (1963), Tùy bút kháng chiến và hịa bình (Tập I/1955, tập II/1956),
Sông Đà (1960), Hà Nội ta đánh Mỹ giỏi (1972), Ký (1976), Hương vị và cảnh sắc
đất nước (1978), Tuyển tập Nguyễn Tuân (1994).
Do chịu ảnh hưởng sâu sắc từ Hán học, sáng tác của ông, cho đến trước

năm 1937, hầu hết được viết theo bút pháp cổ điển. Những sáng tác buổi đầu ấy
chưa gây được tiếng vang. Tuy nhiên, có thể bắt gặp ở một số trang viết tiêu biểu
như Giang hồ hành (thơ), Vườn xuân lan tạ chủ (truyện ngắn) những tín hiệu của
một phong cách nghệ thuật lớn. Ðó là tinh thần hồi cựu, ln chăm chút nhặt
nhạnh những vẻ đẹp xưa dù đã tàn tạ, cuối mùa ; là hệ thống nhân vật tài hoa tài
tử, nhuốm chút ngông nghênh kiêu bạc; là lối văn cầu kỳ trúc trắc mà uyên bác
hơn người.
Đến 1937, Nguyễn Tuân lại xuất hiện trên các báo với những truyện ngắn
hiện thực trào phúng, ở đó thường vỡ ra những tràng cười châm biếm thoải mái,


14

đậm đà phong vị dân gian (Mánh mất ví, Một vụ bắt rượu, Mười năm trời mới gặp
lại cố nhân). Tuy nhiên, do trào lưu hiện thực phê phán lúc bấy giờ đã phát triển
rất mạnh với nhiều tên tuổi lớn như Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan, Nguyên
Hồng, Nam Cao,... cho nên thật không dễ dàng đối với Nguyễn Tn trong việc
tìm một vị trí có hạng trên văn đàn. Có lẽ hơn ai hết, Nguyễn Tuân sớm nhận ra
rằng thể loại truyện ngắn vẫn chưa phù hợp với sở trường của mình.
Nguyễn Tn chỉ thực sự cơng nhận như một phong cách văn chương độc
đáo kể từ tùy bút - du ký Một chuyến đi (1938). Tác phẩm là tập hợp những trang
viết từ chuyến du lịch không mất tiền sang Hương Cảng để tham gia thực hiện bộ
phim Cánh đồng ma - một trong những phim đầu tiên của Việt Nam. Nét đặc sắc
nhất ở Một chuyến đi chính là giọng điệu. Có thể nói đến đây Nguyễn Tuân mới
tìm được cách thể hiện giọng điệu riêng, một giọng điệu hết sức phóng túng, linh
hoạt đến kỳ ảo: “Khi thì trang nghiêm cổ kính, khi thì đùa cợt bơng phèng, khi thì
thánh thót trầm bổng, khi thì xô bồ bừa bãi như là ném ra trong một cơn say
chếnh choáng, khinh bạc đấy, nhưng bao giờ cũng rất đỗi tài hoa” (Nguyễn Đăng
Mạnh). Nhân vật chính trong tác phẩm là cái “tôi” ngông nghênh kiêu bạc của nhà
văn. Một cái “tôi” sau quá nhiều đắng cay tủi cực đã hầu như hồi nghi tất cả, chỉ

cịn tin ở cái vốn tình cảm, ý nghĩ, cảm xúc sắc sảo và tinh tế của mình tích lũy
được trên bước đường xê dịch.
Một năm sau, 1939, bằng tập truyện Vang bóng một thời Nguyễn Tuân đã
vươn đến đỉnh cao của sáng tạo nghệ thuật. Tác phẩm gần đạt đến độ “tồn thiện
tồn mỹ” (Vũ Ngọc Phan) ấy đã góp phần đưa nghệ thuật văn xuôi Việt Nam phát
triển thêm một bước mới trên con đường hiện đại hóa. Vang bóng một thời vẽ lại
những nét đẹp xưa của thời phong kiến suy tàn, thời có những ơng Nghè, ơng
Cống, ơng Tú thích chơi lan chơi cúc, thích đánh bạc bằng thơ hoặc nhấm nháp
chén trà trong sương sớm với tất cả nghi lễ thành kính đến thiêng liêng. Cũng vào
thời ấy, tên đao phủ còn chém người bằng đao, người ta còn đi lại trên đường bằng
võng, bằng cáng; vừa đi vừa dềnh dàng đánh cờ bằng miệng... Thời gian hầu như
chưa trở thành nỗi ám ảnh lớn đối với con người, bởi nó cịn được đo bằng mùa,


15

bằng tiết. Nhưng những vẻ đẹp có màu sắc truyền thống ấy đang có nguy cơ bị
mai một. Ðau đớn nhận ra điều đó, Nguyễn Tn ra sức níu giữ, gom góp và phục
chế lại bằng tất cả tấm lịng thành kính. Vang bóng một thời, vì thế, có thể được
xem như một bảo tàng lưu giữ các giá trị văn hóa cổ truyền của dân tộc.
Từ sau Vang bóng một thời đến năm 1945, sáng tác của Nguyễn Tuân dần
đi vào ngõ cụt. Nếu như ở Thiếu quê hương (1940), Chiếc lư đồng mắt cua (1941)
tuy mải mê với những lạc thú trần tục, cái “tơi” vẫn cịn đầy tự trọng và giữ được ý
thức về bản thân mình thì từ 1942, tình hình có khác đi. Vẫn cái “tơi” ấy nhưng đã
có vẻ mất niềm tin vào cuộc sống. Trong những năm đen tối này, đời sống tinh
thần của Nguyễn Tuân lâm vào tình trạng ngày càng khủng hoảng sâu sắc. Những
trang viết thưa dần. Bên cạnh những đề tài cũ (vẻ đẹp xưa, đời sống trụy lạc), xuất
hiện thêm các đề tài mới hướng về thế giới của yêu tinh, ma quỷ. Ngay tiêu đề các
tác phẩm: Xác ngọc lam, Đới roi, Rượu bệnh, Loạn âm cũng đủ nói lên tình trạng
bế tắc của ngịi bút Nguyễn Tuân thời kỳ này.

Dõi theo quá trình sáng tác của Nguyễn Tuân giai đoạn trước Cách mạng
tháng Tám, thật dễ nhận ra sự thay đổi rõ rệt về tư tưởng nghệ thuật, nhất là từ
Vang bóng một thời trở về sau. Điều này hồn tồn có thể lý giải được nếu nhìn
vào quy luật của chủ nghĩa lãng mạn: bao giờ cũng khởi đầu thật ấn tượng bằng
việc khám phá và đề cao cái “tôi” cá nhân, để rồi sau giây phút choáng ngợp ấy tất
cả vụt trở nên nhỏ nhoi, trống vắng và buồn chán đến nao lòng. Dẫu sao, những
trang viết của Nguyễn Tn vẫn ln được đón nhận bằng thái độ trân trọng và
thông cảm sâu sắc; bởi độc giả nhận ra ở đấy một tấm lòng chân thành, cả trong
những thời điểm khắc nghiệt nhất.
Những năm đầu sau Cách mạng tháng Tám, ngoài một vài tùy bút ngắn ghi
lại tâm trạng vừa hoang mang vừa đầy ắp hy vọng của một trí thức tự “lột xác” để
dấn thân vào cuộc đời mới (Vô đề, Ngày đầy tuổi tơi Cách Mệnh), Nguyễn Tn
cịn có Chùa Ðàn - một tác phẩm được viết khá công phu và đầy tâm huyết. Chùa
Đàn là truyện về một nhân vật mắc căn bệnh cá nhân chủ nghĩa, ích kỷ đến tàn
nhẫn; nhưng từ sau 1945, như được uống liều thuốc cải lão hoàn đồng, tự cải tạo


16

vươn lên thành con người mới, sống chan hòa với xung quanh. Có nhiều ý kiến
đánh giá chưa thật thống nhất đối với tác phẩm này. Mới đọc qua, dễ có ấn tượng
về một q trình đổi thay có vẻ giản đơn, công thức. Nhưng nếu xem xét tác phẩm
trong cả q trình sáng tác của nhà văn thì khơng thể không công nhận “Chùa
Đàn” là một cố gắng đáng trân trọng.
Tiếp theo, hai tập tùy bút: Đường vui (1949) và Tình chiến dịch (1950) ghi
nhận chuyển biến thật sự sâu sắc của ngòi bút Nguyễn Tuân. Đáp lời kêu gọi của
Đảng, Nguyễn Tuân hăng hái xốc ba lô lên vai dấn thân khắp các nẻo đường chiến
dịch. Cái “tôi” giờ đây khơng cịn phá phách, ngơng nghênh nữa mà hịa nhập, sẻ
chia với đồng bào đồng chí. Giọng điệu văn chương trở nên sôi nổi tin yêu, tràn
ngập một tình cảm chân thành đến hồn nhiên đối với quê hương đất nước, với cách

mạng và kháng chiến. Ngỡ như sau phút dừng chân bên đường để định phương
hướng, Nguyễn Tn lại tiếp tục bơn ba trên hành trình đi tìm cái Đẹp, cái Thật.
Có điều khác là những giá trị ấy giờ đây khơng phải mất cơng tìm kiếm ở cõi q
vãng hoặc vơ hình nào mà hiện hữu ngay trong cuộc đời thực đang từng giây từng
phút sinh sơi cuồn cuộn trước mắt. Nguyễn Tn như chuếnh chống say sưa
trước niềm hạnh phúc vơ biên ấy. Ơng vốc từng vốc lớn chất liệu hiện thực và bày
biện một cách hết sức tài hoa, tinh vi lên trang viết để thết đãi cả nhân dân mình.
Hàng loạt tùy bút đặc sắc ra đời trong mạch cảm hứng ấy: Phở, Cây Hà Nội, Con
rùa thủ đơ, Tìm hiểu Sê Khốp...
Sơng Đà, viết từ 1958 đến 1960, là cái mốc quan trọng, đỉnh cao mới trong
sáng tác của Nguyễn Tuân từ sau Cách mạng tháng Tám. Tác phẩm như một dòng
thác lớn thanh âm ngôn ngữ, cảm xúc, tư tưởng được khơi đúng nguồn mạch
chính, hệt con sơng Đà “hung bạo và trữ tình”, chảy băng băng qua vùng Tây Bắc
hùng vĩ và ngạo nghễ với thời gian. Ðọc Sông Đà, thấy trữ lượng cái Đẹp - chất
“vàng mười” của đất nước và con người Việt Nam trong cuộc sống mới - quả là
nhiều vô kể. Cánh cửa tâm hồn tài hoa, lãng tử của Nguyễn Tuân như mở toang ra
cho cái Đẹp ùa vào: “Đời sống Tây Bắc ngày nay là một tấm lịng tin tưởng khơng
bờ bến, tin mình tin người, mấy chục dân tộc miền cao và đồng bằng tin cậy lẫn


17

nhau, và nhất là tin chắc vào cái chế độ đẹp sáng do tay mình đắp cao mãi lên
trên chỗ cao nguyên tiềm tàng sức sống này”. [92:335]
Từ sau “Sông Đà”, Nguyễn Tuân tiếp tục đi và viết nhiều, chủ yếu vẫn ở
thể tùy bút, được tập trung in trong các tác phẩm tiêu biểu : “Hà Nội ta đánh Mỹ
giỏi” (1972), “Ký” (1976), “Hương vị và cảnh sắc đất nước”(1978). Nhìn chung,
sáng tác thời kỳ này có thể phân thành hai mảng chính: mảng thứ nhất viết về tình
cảm Bắc - Nam và đấu tranh chống Mỹ - Ngụy chia cắt đất nước ; mảng thứ hai
tiếp tục khai thác vẻ đẹp của đất nước và con người Việt Nam, của truyền thống

văn hóa Việt Nam trong thời đại mới. Công cuộc chống Mỹ đã đưa dân tộc ta lên
tầm cao của thời đại mới. Tinh thần quyết thắng từ tầm cao lịch sử ấy là âm hưởng
chung của văn học thời kỳ này. Tuy nhiên, Nguyễn Tuân đã thể hiện tinh thần ấy
theo một cách riêng. Dưới ngòi bút của ông, người Việt Nam vừa đánh Mỹ vừa
sản xuất trong tư thế ung dung, sang trọng và đầy tài hoa ; tư thế của một dân tộc
không chỉ giành được chính nghĩa trong chiến đấu giữ nước mà cịn có bề dày
truyền thống văn hóa lâu đời. Nhiều bài ký khiến người đọc phải ngỡ ngàng trước
một sức bút kỳ lạ với vốn sống ngồn ngộn, tinh tế ; vừa đầy ắp liên tưởng bất ngờ,
thú vị vừa nóng hổi tính thời sự. Giai đoạn này, bọn xâm lược Mỹ và bè lũ tay sai
như lọt vào đúng tầm ngắm của Nguyễn Tuân. Sự đối lập rõ rệt giữa truyền thống
văn hóa tốt đẹp của dân tộc ta với dã tâm của kẻ thù tạo nên nguồn cảm hứng lớn
cho sáng tác. Ông đã nã những phát cực kỳ lợi hại, bóc trần bản chất xảo quyệt của
chúng, dù được chúng ngụy trang rất khéo léo; góp phần động viên và tăng cường
nhận thức của quần chúng về chiến tranh chống Mỹ, cứu nước.

1.2. Sơ lược về phong cách và phong cách Nguyễn Tuân
1.2.1. Một số vấn đề chung về phong cách
Phong cách là một phạm trù lớn và có nhiều vấn đề cần tranh luận để đi
đến việc thống nhất nội hàm của khái niệm này. Vậy chúng ta sẽ tìm hiểu những ý
kiến khác nhau xoay quanh khái niệm phong cách nói chung và phong cách cá
nhân của nhà văn nói riêng.


18

Theo viện sĩ Timôphiép, nguồn gốc của thuật ngữ phong cách bắt nguồn từ
mẫu tự La Tinh. Trước đây người Hy Lạp dùng chữ Stylos để chỉ một cái que một
đầu nhọn, một đầu tù. Người La mã thì gọi là Stylus cũng để chỉ cái que đó, đầu
nhọn dùng để viết, đầu tù dùng để xóa các chữ viết. Về sau, người Pháp dùng chữ
Style với nghĩa ban đầu là nét chữ, và sau thì được dùng với nghĩa là bút pháp.

Theo thời gian, đã có rất nhiều quan niệm khác nhau về phong cách. Đầu
tiên, Ar.Grigorian khẳng định: “Phong cách không thể vô can với phương pháp,
với thế giới quan, với bút pháp, với cá nhân nhà nghệ sĩ về thời đại, với vẻ đặc thù
dân tộc trong sáng tác của anh ta… Phong cách là sự thống nhất cao nhất của tất
cả những phạm trù đó ”.
Trong khi đó, lại có quan điểm lý giải phong cách từ góc độ ngơn ngữ học,
xem phong cách như một hiện tượng gắn liền với ngơn ngữ. Trên tạp chí Những
vấn đề văn học số 10 năm 1959, V.Turbin viết : “Phong cách - đó là ngơn từ được
xét trong mối quan hệ của nó với hình tượng, đó là tác động qua lại thường xuyên
giữa những khái niệm và những ý nghĩa nảy sinh trong ngôn từ vốn đặt vào một
văn cảnh nghệ thuật”.
Lại có những quan niệm cho rằng phong cách lại là sự tổng hợp, là hệ
thống phương tiện miêu tả và biểu đạt, phong cách là hình thức tồn vẹn có tính
chất nội dung. V.Đneprov nhận xét: “Phong cách là mối liên hệ của những hình
thức, mối liên hệ đó bộc lộ sự thống nhất của nội dung nghệ thuật”. Cùng ý kiến
với quan điểm trên Y.Exberg cho rằng, phong cách biểu hiện sự toàn vẹn của hình
thức có tính chất nội dung được hình thành trong sự phát triển, trong tác động qua
lại và trong sự tổng hợp các yếu tố của hình thức nghệ thuật, dưới ảnh hưởng của
đối tượng và nội dung tác phẩm, của thế giới quan của nhà văn và của phương
pháp của nhà văn vốn thống nhất với thế giới quan; phong cách đó là sự thống trị
của hình thức nghệ thuật, là sức mạnh tổ chức của nó.
Ngồi ra, phong cách cịn được nghiên cứu từ góc độ cấu trúc mà tiêu biểu
là W.Keyzer và R.Jakobson.


19

Ở Việt Nam, cũng có nhiều người quan tâm tới khái niệm phong cách.
Nguyễn Văn Tu đưa ra ý kiến: “Phong cách là tất cả mọi phương tiện biểu đạt,
tiêu chuẩn hóa mà xã hội hiểu được, do mục đích và đặc điểm của việc trao đổi

quy định. Cơ sở của phong cách là truyền thống chọn lọc từ, thành ngữ và phương
tiện ngữ pháp dùng cho mục đích thơng tin nhất định.[ 77:216, 217] Nhà nghiên
cứu Phan Ngọc cho rằng: “Phong cách là một hiện tượng thuộc văn hóa, lịch sử
chứ không phải thu lại trong một vài quy tắc về hình thức… Phong cách là một
cấu trúc hữu cơ của tất cả các lựa chọn tiêu biểu, hình thành một cách lịch sử, và
chứa đựng một giá trị lịch sử có thể cho phép ta nhận diện một thời đại, một thể
loại, một tác phẩm hay một tác giả. [53:22, 23]. Có người đưa ra khái niệm tương
tự, phong cách là những biểu hiện khác nhau của mỗi nhà văn khi xây dựng chủ
đề, nhân vật, trong khi xây dựng hình tượng nghệ thuật và ngơn ngữ văn học. Mỗi
nhà văn trong quá trình sáng tạo nghệ thuật phải tự tạo cho mình một phong cách
riêng, một điệu cảm xúc riêng. Nhà văn Tơ Hồi cũng nhận xét thêm: “Phong
cách là một hiện tượng thuộc văn hóa lịch sử chứ không phải thu lại trong một vài
quy tắc về hình thức”.
Qua những quan niệm về phong cách mà chúng tôi nêu ra ở trên, tuy là rất
nhỏ so với tất cả các ý kiến mà các nhà nghiên cứu đã nêu ra, chúng ta có thể thấy
những định nghĩa về phong cách rất đa dạng, phong phú và rất khó đồng thuận để
đưa ra một khái niệm chung về phong cách. Tuy nhiên, qua đó chúng tơi có thể rút
ra một vái nhận định sau đây.
Trước hết, phong cách cá nhân là những điểm riêng, độc đáo thể hiện cách
thức của từng nhà văn trong việc phản ánh miêu tả, xây dựng hình tượng thơng
qua việc sử dụng ngơn ngữ văn học. Phong cách nhà văn là tồn bộ các yếu tố
phong cách cơ bản có mặt ổn định trong các tác phẩm của một tác giả nào đó trong
một giai đoạn sáng tạo nhất định hay phổ biến ở tất cả q trình sáng tạo nói
chung của tác giả đó; đặc điểm các thủ pháp sử dụng từ ngữ, các kết cấu… đặc
trưng cho ngơn ngữ nói (hay viết) của một cá nhân, không phụ thuộc vào quan hệ
của nhà văn đối với hoạt động văn chương.


20


Phong cách cá nhân của nhà văn có tác dụng thể hiện tư tưởng và nghệ
thuật của tác phẩm. Mỗi nhà văn đều muốn có phong cách riêng của mình nhưng
không phải nhà văn nào cũng đạt được mong muốn đó. Phải có tài năng, bản lĩnh,
ý thức sâu sắc và tính chủ động sáng tạo theo cách riêng của mình thì mới tạo
được cho mình một phong cách riêng. Dù ở thể loại nào, phong cách cũng bắt
nguồn từ yêu cầu của đời sống văn học và từ thực tiễn sáng tác. Nhưng khi đã hình
thành phong cách thì mỗi nhà văn phải có những đặc điểm ổn định mang sắc thái
độc đáo trong một giai đoạn nhất định khác hẳn với các nhà văn khác. Phong cách
của một nhà văn cũng phát triển theo sự trưởng thành của bản thân nhà văn.
Phong cách có thể hiểu là biểu hiện của những đặc điểm cá tính sáng tạo
của nhà văn, là nhận thức của nhà văn về cuộc sống, đó là cách nhìn và sự cảm thụ
thẩm mỹ của nhà văn đối với thế giới, là sự tổng hợp của các đặc điểm của hình
thức nghệ thuật trong sự thống nhất với nội dung. Tìm hiểu phong cách của một
nhà văn chúng ta không nên chỉ nghiên cứu riêng về các vấn đề như thể loại, ngôn
ngữ, tư duy nghệ thuật,… mà nên xem xét chúng trong sự thống nhất, toàn vẹn của
thế giới nghệ thuật, bởi các yếu tố lặp đi, lặp lại như một quy luật này khơng tồn
tại một cách độc lập mà có sự thống nhất hữu cơ với nhau để tạo nên một hình
thức nghệ thuật hoàn chỉnh.
Mặt khác, nhiều ý kiến đều thống nhất cho rằng, phong cách một mặt do tài
năng bẩm sinh của người nghệ sĩ, bên cạnh đó điều quan trọng là kết quả của quá
trình rèn luyện lâu dài, gian khổ, xông pha vào thực tế cuộc sống. Phong cách là
chất tổng hợp của tâm hồn, trí tuệ, kiến thức học hỏi và làm việc ở cá nhân mỗi
nghệ sĩ. Cho nên, mọi quan điểm cho rằng phải tạo lập cho mình một cá tính, một
phong cách trước khi cầm bút chỉ là một phong cách gượng ép, đưa đến sự giả tạo.
Thực tế cho thấy, không phải nhà văn nào cũng tạo lập cho mình được một phong
cách riêng. Bởi phong cách khơng phải ngẫu nhiên mà có. Phong cách là phẩm
chất sáng tạo cao nhất của người nghệ sĩ trong quá trình đi tìm cái đẹp. Tác phẩm
đi đến đỉnh cao nghệ thuật là tác phẩm phải thể hiện được dấu ấn riêng của mình
trong việc nhận thức và thể hiện tác phẩm nghệ thuật. Nhà văn Nam Cao cho rằng,



21

mỗi nhà văn phải tạo cho mình một tiếng nói, một giọng điệu riêng: “không nên
thấy người ta ăn khoai mình cũng vác mai đi đào”. Nhà văn M.Gorki cũng đã
khuyên những người viết văn trẻ: “Bạn hãy giữ lấy cái gì là của riêng mình, hãy
chăm sóc làm sao cho nó phát triển tự do. Là một người khơng có cái gì của riêng
mình thì phải thấy rằng người đó chẳng có cái gì hết”.
Phong cách được thể hiện trong suốt quá trình hoạt động của nhà văn.
Phong cách được coi như là một cá tính, sở thích và cao hơn nữa là nguyên tắc tổ
chức hình thức của tác phẩm. Phong cách toát lên từ hệ thống nhân vật tồn vẹn,
nghĩa là đặc trưng của phong cách khơng phải ở yếu tố riêng lẻ này, hay yếu tố
riêng lẻ khác. Do đó, việc tìm hiểu phong cách chỉ có thể kết quả khả quan khi
chúng ta đặt các yếu tố cấu thành phong cách trong mối tương tác để tạo thành
một thể thống nhất. Nhà thơ Nguyễn Đình Thi cho rằng: “Mỗi nhà thơ có tâm hồn
riêng cũng như mỗi con người có một nét mặt, một tính nết. Có nhà thơ là tiếng
kèn xung trận, có nhà thơ là tiếng sáo véo von. Có nhà thơ là dịng suối thầm thì,
có nhà thơ là dịng thác dữ xơ đẩy”.
Vậy phong cách có đặc trưng gì nổi bật ? Trước hết, phong cách vừa có
tính bền vững, vừa có tính kế thừa. Trước đây đã có người quan niệm một cách
máy móc khi cho rằng, khi hồn cảnh xã hội và thế giới quan của nhà văn thay đổi
thì phong cách cũng buộc thay đổi theo. Nhưng thực tiễn sáng tạo nghệ thuật lại
không đúng như vậy. Khi tư tưởng thế giới quan nhà văn thay đổi thì tư tưởng
nghệ thuật chỉ thay đổi theo một quy luật riêng. Phong cách nghệ thuật gắn bó chặt
chẽ với thế giới quan, nhưng nó cũng có tính độc lập tương đối của nó. Nói một
cách khác thì khi thế giới quan thay đổi thì chỉ những nét phong cách nào tỏ ra đối
lập, đối kháng với thế giới quan mới sẽ thay đổi, còn những nét phong cách nào
phù hợp thì sẽ tiếp tục tồn tại.
Có người cho rằng, phong cách thì phải thống nhất nhưng thật ra với phong
cách thì càng đa dạng, càng phong phú càng thì càng thể hiện tài năng của người

nghệ sĩ. V.I. Lê Nin khi bàn về văn học đã khuyến khích sự sáng tạo cá nhân trong
văn học nghệ thuật. Ông cho rằng, trong sự nghiệp văn học tuyệt đối phải đảm bảo


22

phạm vi hết sức rộng rãi cho các sáng kiến cá nhân, cho khuynh hướng cá nhân,
cho tư tưởng và sức tưởng tượng, trong lĩnh vực này khơng thể nói đến chủ nghĩa
cơng thức. Phong cách, do đó khơng chỉ là dấu hiệu trưởng thành của một nhà văn,
mà khi nó phát triển nở rộ thì cịn là sự phát triển của một trào lưu văn học.
Rõ ràng phong cách phải được coi như một phạm trù thẩm mỹ trong sáng
tạo nghệ thuật. Nhờ nó mà chúng ta có thể phân biệt nhà văn này với nhà văn
khác. Nhà văn bằng tài năng và quá trình phấn đấu gian khổ sẽ tạo nên một phong
cách văn chương cho riêng mình và chính phong cách ấy sẽ làm nên tên tuổi cho
các nhà văn.
Phong cách cá nhân không chỉ thể hiện phong cách nhà văn mà nó cịn thể
hiện thời đại của nhà văn với những biến cố lịch sử của thời đại đó. Bởi nhà văn
M. Gorki từng nói: “Nhà văn là tiếng vang của thời đại và nhân dân mình”. Bởi
vậy, khi nói đến tính bền vững và độc đáo của phong cách thì chúng ta cần chú ý
đúng mức đến tính năng động của phong cách. Phong cách khơng phải là cái gì
khép kín, bất di bất dịch. Sự thay đổi trong phong cách địi hỏi phải có sự thống
nhất giữa hai yếu tố khách quan và chủ quan.
Chúng ta cũng cần nói thêm về mối quan hệ giữa phong cách và phương
pháp. Phong cách và phương pháp là hai phạm trù khác nhau nhưng chúng có mối
quan hệ mật thiết với nhau. Sự thay đổi về phương pháp sẽ dẫn tới những thay đổi
vể phong cách, và ngược lại, phong cách trong quá trình hình thành và phát triển
của mình cũng tác động trở lại phương pháp. Có nghĩa là khi thực hiện một nhiệm
vụ này hay một nhiệm vụ khác trong lĩnh vực nghệ thuật, nó yêu cầu phương pháp
phải tìm ra những cách thức mới mà khi tìm được thì sẽ có những ảnh hưởng lại
đến phong cách.

Chúng ta cũng cần phân biệt giữa phong cách nói chung và phong cách
học ngơn ngữ nói riêng. Phong cách học ngôn ngữ là phong cách với tư cách là
một trong các tiểu hệ thống của hệ thống ngơn ngữ, khác với phong cách lời nói là
cách vận dụng, sử dụng tiểu hệ thống vào những phạm vi điển hình của cách sử
dụng lời nói. Nghiên cứu phong cách văn học không nên tách rời khỏi ngôn ngữ,


23

vì ngơn ngữ là “yếu tố đầu tiên của văn học” (M.Gorki), là phương tiện biểu thị
nội dung và tư tưởng của tác phẩm văn học. Theo Cù Đình Tú “Phong cách học
ngơn ngữ có nhiệm vụ khảo sát các phương tiện biểu cảm của ngơn ngữ ”. [71:80]
Cịn nhà nghiên cứu Nguyễn Hàm Dương nhận xét: “Phong cách ngôn ngữ có
nhiều loại, có phong cách phát âm, phong cách dùng từ, phong cách ngữ pháp,
phong cách ngữ nghĩa. Mỗi phong cách có vị trí và tầm quan trọng khác nhau.
Tuy nhiên, cái đa dạng về phong cách không làm cho cái chuẩn chung của ngơn
ngữ mất đi tính thống nhất của nó”. [15:29] Đào Thản lại nhấn mạnh hơn về mối
quan hệ giữa phong cách nhà văn và ngôn ngữ mà nhà văn sử dụng: “Phong cách
thường được hiểu là những nét biến hóa riêng của tác giả trong việc sử dụng ngơn
ngữ nhằm mục đích diễn đạt nội dung. Nó bao gồm các yếu tố ln ln được tái
hiện và hình thành bền vững trong ngơn ngữ của tác giả. Đối với ngơn ngữ nghệ
thuật thì phong cách tác giả là kết quả của sự làm chủ các phương tiện ngôn ngữ
khác nhau nhằm thể hiện nội dung tư tưởng với hiệu quả cao nhất”. [82:51]
Như vậy yếu tố nào đã ảnh hưởng tới phong cách của nhà văn ? Những sự
kiện có tính chất bước ngoặt đối với lịch sử của một dân tộc chắc chắn sẽ ảnh
hưởng và tác động tới đời sống xã hội và tư tưởng phong cách của nhà văn. Tìm
hiểu thực tế về phong cách của các nhà văn trong và ngoài nước ở quá khứ và hiện
tại chúng ta sẽ thấy rõ điều đó. Phong cách nhà thơ Puskin trước và cuối Cách
mạng tháng Chạp (1825), của Hainơ trước và sau khi gần gũi với nhà cách mạng
Các Mác có nhiều thay đổi quan trọng. Ở nước ta, sau Cách mạng tháng Tám đã

có một dịng chảy từ lãng mạn, hiện thực sang hiện thực xã hội chủ nghĩa của
nhiều nhà văn có thể coi là những minh chứng hùng hồn cho mối quan hệ giữa thế
giới quan, phương pháp sáng tác và phong cách nhà văn.
Ở Việt Nam, cách mạng đã cứu sống cả một thế hệ nhà văn, nhà thơ, dẫn họ
tới những chân trời nghệ thuật đích thực - nghệ thuật phục vụ cho cuộc sống.
Từ sau thời kỳ nhận đường lần thứ hai (1956 – 1958), đã diễn ra quá trình
chuyển biến về chất của nhiều nhà văn, nhà thơ như Huy Cận, Xuân Diệu, Tế
Hanh, Nguyễn Tn, Tơ Hồi… Họ đã đi theo cách mạng với tất cả nhiệt huyết


×