Tải bản đầy đủ (.docx) (43 trang)

GIAO LY 5

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (227.98 KB, 43 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>Dẫn Nhập</b>


Các bạn thân mến, các bạn có biết hơn nhân là gì khơng? Tình u là gì? Tại
sao nam nữ đến một lúc nào đó lại thu hút lẫn nhau? Người ta lấy vợ lấy chồng để
làm gì? Phải chăng chỉ để thoả mãn tính dục mà thơi? Hay đời sống vợ chồng cịn
có một ý nghĩa khác? Đâu là những khó khăn của đơi vợ chồng trẻ? Đâu là chìa
khố để vượt qua? Trách nhiệm của đơi vợ chồng trẻ? Ýù nghĩa đích thực của hơn
nhân? Hơn nhân có giá trị quan trọng như thế nào mà Giáo Hội đã nâng lên hàng
bí tích?. Tại sao chỉ được phép một vợ một chồng? Đó là những câu hỏi lớn không
chỉ giành cho những bạn trẻ đang chập chững bước vào đời mà còn là những suy tư
thao thức giành cho những ai có thành tâm thiện chí với đời sống hơn nhân..


Thật vậy chúng ta đang sống trong nền văn minh của khoa học kỹ thuật, đâu
đâu người ta cũng nói đến những khám phá mới này nọ trong tất cả mọi lĩnh vực. Con
người đã bay lên trời đã lặn xuống biển, đã phát hiện ra được những vi trùng nhỏ bé
nhất, cũng như đã bay vào tận vũ trụ rộng lớn bao la. Con người ln đề cao nhân vị
của mình, tự do của mình, và muốn mọi sự phải phục vụ con người. Con người thật
sáng tạo, thật siêu đẳng đúng với vai trị “vua vũ trụ”. Hoan hơ trí tuệ của con
người!


Mặt khác, sống trong một xã hội biến chuyển không ngừng, đơi khi con người
tưởng mình là người máy, họ chạy đua với máy, chạy đua với thời gian, cắm đầu cắm
cổ vào sản xuất. Con người chỉ còn biết có vật chất, có hưởng thụ và đơi khi con người
quên đi những giá trị tâm linh khác. Điều đó được thể hiện rõ trong giá trẻ ngày nay.
Họ đua nhau làm “anh hùng trên xa lộ”. Họ ngông nghênh để chứng tỏ mình và
thấm nhuần chủ nghĩa thực dụng trong lãnh vực luân lý: yêu cuồng sống vội, nay cịn
mai mất, hưởng được gì là cứ hưởng.


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

hơn nhân thật đẹp mà ai nào có biết chăng ! Thật tiếc cho những bạn nào thiếu hiểu
biết về đời sống hôn nhân.



Thật vậy, đời sống hôn nhân là một tế bào mong manh nhất của xã hội nhưng
lại rất quan trọng. Một khi làm giảm ý nghĩa hôn nhân, xã hội dễ dàng trở nên đổ
vỡ, cơ cấu xã hội dễ dàng bị tổn thương. Giáo hội muốn bênh vực hơn nhân là vì
Giáo hội xác tín giá trị của hơn nhân nằm trong chương trình cứu độ của Thiên
Chúa. Hơn nhân và gia đình là gia sản quí giá nhất của nhân loại, là tế bào căn
bản nhất của lồi người.


Trong tâm tình đó, Giáo Hội và những người cộng tác của Giáo hội muốn làm
nổi bật các giá trị căn bản của hôn nhân và gia đình, hầu mọi người, nhất là các bạn
trẻ đang đứng trước ngưỡng cửa của hôn nhân khám phá ra những giá trị cao đẹp của
ơn gọi yêu thương và phục vụ sự sống, cũng như mở ra cho nhân loại một chân trời
mới và đưa Tin Mừng vào trong lịng xã hội ngày hơm nay.


Với hết cả trái tim và lịng nhiệt huyết hăng say của người tơng đồ, chúng tơi gởi
đến các bạn những dịng chữ thân thương của những trang viết này, với ước mong làm
một hành trang nhỏ để gởi đến cho những ai đang chập chững bước vào đời.


<b>PHẦN I</b>


<b>HOÀN CẢNH GIA ĐÌNH TRONG XÃ HỘI NGAØY NAY</b>
<b>VAØ Ý ĐỊNG CỦA THIÊN CHÚA VỀ HƠN NHÂN GIA ĐÌNH</b>


<b>Bài 1</b>


<b>HOÀN CẢNH CỦA GIA ĐÌNH </b>
<b>TRONG THẾ GIỚI NGAØY NAY</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

đã tăng lên tới 37%. Tới nay, tỷ lệ ly dị đã tăng quá 50%. Riêng ở
Mỹ có 80% cặp vợ chồng đã qua một lần ly dị. Cịn ở Đức thì cứ 2
cặp vợ chồng thì có 1 cặp bị “khủng hoảng”, và cứ 3 cặp thì có 1 cặp


ly dị. “Khủng hoảng” trong đời sống gia đình nghĩa là trong gia đình
ln có bất đồng. Tuy rằng hai vợ chồng sống chung, ăn chung,
nhưng ln có thành kiến với nhau và ít nói chuyện với nhau. Ở Việt
Nam, người ta chỉ thống kê riêng quận Bình Thạnh TPHCM, trong
năm 1999 đã có 538 vụ ly hơn. “Khủng hoảng” trong đời sống gia
đình nghĩa là trong gia đình ln có bất đồng. Đây là mối bận tâm
của mọi người ở mọi thời đại, vì nó ảnh hưởng đến tất cả các lãnh
vực sinh hoạt trong đời sống.


Qua những con số thống kê trên, ta thấy tỉ lệ ly dị ngày càng
tăng. Đáng lo ngại là đối tượng ly dị không chỉ tập trung ở những đôi
vợ chồng trẻ, suy nghĩ bồng bột, thiếu chính chắn, mà cịn ở những
đơi vợ chồng đã ngoài 40. Vậy do đâu mà hạnh phúc gia đình của họ
bị đổ vỡ ? Mặc dùng hai vợ chồng sống chung, ăn chung, nhưng ln
có thành kiến với nhau và ít nói chuyện với nhau. Tuy nhiên các gia
đình ngày nay cũng có những điểm tích cực và tiêu cực:


<b> 1. Tích cực:</b>


Đây là một số khía cạnh là dấu cho chúng ta thấy ơn cứu độ
của Đức Giêsu đã và đang tác động trong thế gian như:


Con người ý thức sống động hơn về tự do cá nhân.


Quan tâm đến phẩm chất của tương quan liên vị trong hơn nhân.
Nâng cao phẩm giá phụ nữ.


Sinh sản có trách nhiệm.


Quan tâm việc giáo dục trẻ em.



Phát triển liên hệ giữa các gia đình để giúp đỡ nhau về mặt tinh
thần và vật chất.


Khám phá lại sứ mạng Hội thánh.


Trách nhiệm của gia đình trong việc xây dựng một xã hội cơng
bình hơn.


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

Một số khía cạnh khác là dấu cho thấy sự chối từ của con
người đang chối lại tình thương của Thiên Chúa như:


Quan niệm sai lầm về sự độc lập giữa hai vợ chồng: Tương
giao; Sở thích; Cơng việc; Kinh tế…


Tương quan cha mẹ con cái thì mập mờ, mất đi thái độ lễ phép,
kính trên nhường dưới. Giới trẻ ngà nay học theo các mốt quá đáng.


Khó khăn trong việc lưu truyền các giá trị cổ truyền: trinh khiết,
chạy theo phong trào, coi thường lịch sự, lễ độ kính trên nhường
dưới.


Ngày nay với sự phát triển của xã hội, ly dị gia tăng rất cao.
Theo báo Tuổi Trẻ Chủ Nhật ngày 30/11/1993 số vụ ly dị ở Âu Mỹ
con số ly dị lên đến 50%,


Phá thai. Theo báo Công Giáo và Dân Tộc số 1264 phá thai trên
thế giới là 50 triệu/năm; Việt Nam là 1 triệu đến 1 triệu 400/năm.
Riêng Thành phố Hồ Chí Minh là 15% năm 1992.



Với khoa học hiện nay các phương tiện tuyệt sản ngày càng đa
dạng. Mục đích hình thành não trạng chống thụ thai.


<i><b>3. Những nguyên nhân dẫn đến tiêu cực:</b></i>
Thiếu lòng đạo đức.


Bạo hành trong gia đình.
Sự ích kỷ cá nhân.


Sự thiếu chung thủy với nhau.
Quan niệm sai lầm về tự do:


* Chủ thuyết duy sinh: chủ trương chối bỏ trách nhiệm: chủ
thuyết này chú trọng đến hành vi nhân sinh (theo bản năng), đói thì
ăn, muốn thì quan hệ tình dục… hành vi nhân linh (cần có sự hiểu
biết, có lý trí, ý chí và có trách nhiệm thì thường bị lãng qn). Trong
khi hơn nhân cịn có một đặc tính quan trọng nữa là hành vi siêu linh
(qui hướng về Thiên Chúa).


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

Những mục đích cao cả hơn của hơn nhân như giúp nhau, hướng
dần nhau đến với Thiên Chúa; trách nhiệm của vợ chồng đối với xã
hội và Giáo hội… những mục đích cao cả đó hoặc chỉ bị coi là thứ yếu
hoặc hồn tồn bị lãng qn.


* Phong trào tục hóa: chối bỏ những giá trị tôn giáo.


o Kinh tế: các gia đình thuộc thế giới thứ ba thường thiếu
những phương tiện căn bản để sống còn như thực phẩm, thuốc men,
cho đến cả những tự do sơ đẳng nhất. Trái lại, tại các nước giàu có
hơn, người ta qúa thoải mái hưởng thụ. Nhưng óc hưởng thụ ấy lại


gắn liền với một thứ lo âu nào đó. Họ cảm thấy bấp bênh trước tương
lai, nên các đôi bạn mất sự quảng đại và can đảm để làm phát sinh
thêm những sự sống mới: người ta khơng cịn coi sự sống như là một
lời chúc phúc, nhưng lại coi như một sự nguy hiểm hiểm phải tránh
né.


<i><b>4.Những Hồn cảnh đó ảnh hưởng gì trên lương tâm các</b></i>
<i><b>tín hữu?</b></i>


Sống trong một thế giới như thế và nhất là dưới ảnh hưởng của sự
văn minh của xã hội nhất là các phương tiện truyền thơng đại chúng,
các tín hữu khơng thể tránh khỏi việc lây nhiễm tình trạng văn hóa
về gia đình:


Lan tràn ly dị.


Các tín hữu cũng địi được tái hơn sau khi ly thân.
Một số kitô hữu chỉ chấp nhận hôn phối theo phần đời.


Một số kitô hữu chỉ chấp nhận hơn phối vì những lý do nào đó
chứ khơng có đức tin. Ví dụ: để quay phim, để rình rang…


Phủ nhận nguyên tắc luân lý đang soi sáng đời sống tính dục
trong hơn nhân một cách nhân bản và kitơ giáo.


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

Chính vì vậy, Hội Thánh mời gọi các gia đình sống Tin Mừng,
giữ luật ln lý, khơn ngoan sử dụng các phát minh mới, và hoán cải
trong tinh thần và con tim, bao gồm việc từ bỏ ích kỷ riêng mình để
bước theo Chúa Kitơ thập giá: một sự hốn cải như thế khơng thể
khơng gây một ảnh hưởng hữu ích và có sức canh tân các cơ cấu xã


hội.


<b>Bài 2</b>


<b>Ý ĐỊNH CỦA THIÊN CHÚA VỀ HƠN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH.</b>
<i><b>1. Con người là hình ảnh Thiên Chúa tình yêu.</b></i>


- Kinh thánh mở đầu với việc Thiên Chúa tạo dựng con người
theo hình ảnh Ngài (x St 1,26-27). Vì Ngài yêu thương mà kêu gọi
con người bước vào cuộc sống Ngài cũng đồng thời mời gọi họ sống
cho tình yêu.


- Hơn thế nữa, vì Thiên Chúa là tình u (x Ga 4, 8.16) và nơi
chính mình Ngài, Ngài đang sống mầu nhiệm hiệp thông yêu thương
giữa các ngôi vị và khi cho con người được Ngài cho hiện hữu:
<i>“Thiên Chúa đã ghi khắc vào đó ơn gọi cũng như khả năng và trách</i>
<i>nhiệm tương ứng, mời gọi con người sống tình u thương và hiệp</i>
<i>thơng. Tình yêu thương là ơn gọi căn bản và bẩm sinh của mọi</i>
<i>người”. (FC 11).</i>


- Đặc biệt trong hôn nhân điều Thiên Chúa muốn là phải yêu
thương cả trong tinh thần lẫn trong thể xác (yêu trọn vẹn): Bởi vì con
người mang chiều kích tinh thần và thể xác khơng thể tách rời nhau
được nên tình u khơng chỉ thuộc lãnh vực tinh thần, nhưng cả thể
xác nữa. Chiều kích tinh thần và cùng với thể xác nói lên tồn bộ
của kinh nghiệm nhân bản về tình u. Tóm lại là phải u thương
trong tồn thể duy nhất tính của nó.


* Bản năng giới tính của con người:



</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

thực, nếu nó là một thành phần làm nên tình yêu, trong đó người nam
và người nữ hiến thân trọn vẹn cho nhau cho đến chết (trao hiến
hoàn toàn và trung thành). Việc trao thể lý sẽ là một sự lừa dối nếu
con người khơng trao hiến một cách hồn tồn cả chiều kích trần tục
mà cịn giữ lại một cái gì đó, chẳng hạn như trách nhiệm suốt cả đời,
hoặc thiếu vắng một yếu tố quan trọng khác như tính phong nhiêu.


-Tình u gia đình mở ra cho sự sống. Bởi vậy, “nơi chốn” duy
nhất có thể trao hiến cho nhau về thể lý lẫn tinh thần theo sự thật
tồn vẹn của nó “ chính là hơn nhân, nghĩa là khế ước tình u hơn
<i>phối, hay nói cách khác là sự chọn lựa có ý thức và tự do nhờ đó mà</i>
<i>người nam và người nữ chấp nhận sống chung và chia sẻ tình u</i>
<i>thương như chính Thiên Chúa đã muốn”. (FC 11).</i>


<i><b>2. Hôn nhân là sự hiệp thông giữa Thiên Chúa và con người.</b></i>
Mơ hình thứ nhất trong Cựu Ước: sự hiệp thông yêu thương
giữa Thiên Chúa và loài người là nội dung căn bản của mặc khải và
của kinh nghiệm sống đức tin nơi dân Israel. Những từ ngữ chính yếu
trong mặc khải như “Thiên Chúa yêu thương dân Ngài”, đều được
phát biểu dựa theo những từ ngữ sống động và cụ thể mà người nam
và người nữ dùng để diễn tả tình yêu vợ chồng của họ. Dây liên kết
tình yêu của họ trở thành hình ảnh biểu tượng cho giao ước nối kết
Chúa với dân Ngài (x Hs 2,21; Gr 3. 6-13; Ys 54). Tội lỗi làm tổn
thương khế ước hôn nhân cũng là một hình ảnh của sự bất trung của
dân tộc đối với Thiên Chúa. Việc thờ ngẫu tượng là một sự mãi dâm
(x Ed 16,25), bất trung là ngoại tình, và khơng vâng nghe luật Chúa
là một sự chối bỏ tình yêu hôn ước của Chúa. Nhưng sự bất trung của
Israel khơng huỷ diệt lịng trung tín đời đời của Chúa bởi thế, tình
yêu trung thành mãi mãi của Thiên Chúa được giới thiệu như kiểu
mẫu cho những tương quan tình u trung tín phải có giữa vợ chồng


(x Hs 33) (FC 12).


- Mơ hình II: Đức Kitơ và Giáo hội (TƯ):


</div>
<span class='text_page_counter'>(8)</span><div class='page_container' data-page=8>

nhân, sự thật của ‘thuở ban đầu” (Kn 2,24; Mt 19,5) và khi giải
phóng con người khỏi tâm hồn chai đá. Người làm cho con người có
khả năng thực hiện sự thật này trọn vẹn.


Thật vậy, người đã mặc lấy bản tính nhân loại, đã hiến mình
trên thập giá cho hiền thê của Người là Hội thánh. Sự hy sinh ấy
biểu lộ trọn vẹn ý nghĩa mà Thiên Chúa đã khắc ghi vào trong nhân
tính của người nam và người nữ từ khi tạo dựng nên họ (Ep 5. 32-33).
Chính trong cách thế ấy, hơn nhân của những người đã được rửa tội
trở thành một bí tích thật sự của giao ước mới, bởi vì kết hợp vợ
chồng vào một giao ước hôn nhân của Đức Kitơ với Hội thánh và
làm cho họ có khả năng làm chứng trong thế giới về điều đã xảy ra
trên thập giá; thơng dự vào tình u trung thành của Đức Kitô đối
với Hội thánh, để họ cũng biết trung thành yêu thương nhau suốt
cuộc đời trong mối dây không thể tiêu huỷ được, (bởi vì sự hiệp
thơng ấy diễn tả mầu nhiệm nhập thể của Đức Kitô và mầu nhiệm
Giao ước của Ngài).


<i><b>3. Con cái, ân huệ quý báu của hôn nhân.</b></i>


Theo hình ảnh sống động của Đức Kitơ, tình u hơn nhân là
một tình u phong nhiêu, bởi vì trong giây phút hai vợ chồng trao
hiến đến cao điểm họ có thể trở nên những cộng tác viên của Thiên
Chúa để trao ban sự sống mình cho một con người mới. (FC 14).
Nhưng tính chất phong nhiêu ấy khơng chỉ mang chiều kích truyền
sinh mà thơi. Thật vậy, trước sự san sẻ về thể lý,thì đời sống vợ


chồng cũng giữ nguyên tất cả giá trị của nó. Sự san sẻ về thể xác,
thực ra, lại có thể là dịp để đôi bạn dấn thân phục vụ cho sự sống
như nhận con nuôi, giúp đỡ trẻ em nghèo khổ hoặc tật nguyền, nâng
đỡ những gia đình khác đang gặp hoạn nạn thiếu thốn.


Khi trở thành cha mẹ, cũng là lúc lãnh nhận nơi Thiên Chúa
một quà tặng, đó là một trách nhiệm mới: biến tình thương con cái
thành dấu chỉ hữu hình cho chúng nhận ra được chính tình yêu của
Thiên Chúa, “là nguồn mạch mọi tình phụ tử trên trời dưới đất” (Ep
3,15).


</div>
<span class='text_page_counter'>(9)</span><div class='page_container' data-page=9>

Bí tích hơn nhân là để sống hiệp thông: tạo nên sự hiệp thông
giữa con người nhờ những mối tương quan trong hôn ước, tương quan
gia đình, cha mẹ,con cái, anh chị em và các thế hệ đồng thời dẫn đưa
con người vào sự hiệp thơng với gia đình nhân loại và gia đình của
Thiên Chúa, nghĩa là Hội thánh (FC 15). Hơn nhân Kitơ giáo là cánh
cửa dẫn vào trong gia đình Giáo hội và đưa dẫn con người thông dự
vào biến cố cứu rỗi được chính Đức Kitơ trao ban.


<i><b>5. Hôn nhân và trinh khiết.</b></i>


Hơn nhân và sự trinh khiết vì Nước Trời có mối tương quan
mật thiết với nhau: cả hai sự chọn lựa “là hai cách thức để diễn tả
<i>cùng một mầu nhiệm duy nhất về giao ước giữa Thiên Chúa với dân</i>
<i>Ngài” (FC 16). Hôn nhân làm cho người nam và người nữ sống chính</i>
tình u của Đức Kitô dành cho Hội thánh; sự khiết tịnh làm sống
động hơn nơi người đang mong đợi gặp gỡ cuối cùng với Đức Kitô
trong ngày sau hết.


Người sống khiết tịnh mời gọi người đã thành hôn chờ đợi tiệc


cưới vĩnh cửu trong thời viên mãn, vì hơn nhân trần thế này một cách
nào đó là một dấu chỉ tiên báo cho tiệc cưới vĩnh cửu ấy mà thôi
(không phải phân biệt giữa những người lập gia đình và những người
sống đời sống thánh hiến nhưng chỉ nhằm định nghĩa về điều kiện
sống hiện tại mà thôi).


Người sống đời thánh hiến chứng tỏ rằng những thực tại về
Thiên Chúa là viên ngọc quý quan trọng hơn bất cứ một giá trị trần
thế nào dù cho lớn lao đến đâu đi nữa. Còn những người sống đời vợ
chồng bằng một tình yêu trọn vẹn và trung thành nhắc nhở một cách
cụ thể giao ước vĩnh cửu của Đức Kitơ với Hội thánh.


<b>PHẦN II</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(10)</span><div class='page_container' data-page=10>

<b>GIA ĐÌNH THAM DỰ VÀO VIỆC PHÁT TRIỂN XÃ HỘI</b>


<b>I.Vai trị của gia đình đối với xã hội:</b>


<i><b>1.</b></i> <i><b>Gia đình là một tế bào đầu tiên và sống động củ xã hội:</b></i>
Thiên Chúa đã đặt gia đình làm nguồn gốc và nền tảng cho xã
hội con người vì: chính nơi gia đình đã sinh ra các cơng dân và cũng
chính nơi ấy, các cơng dân đầu tiên tập các nhân đức xã hội, đồng
thời còn là linh hồn cho mọi sinh họat và sự phát triển xã hội.


Vì thế gia đình ln phải nỗ lực, phát huy và chu tồn vai trị
xã hội của mình là mở rộng vịng tay để đến với những gia đình khác
và với xã hội.


<i><b>2. Đời sống gia đình: kinh nghiệm hiệp thông và chia sẻ:</b></i>



Đứng trước một xã hội ngày càng có nguy cơ làm cho con
người mất nhân ị và trở nên vơ danh với nhiều hình thức “chạy trốn”
như: uống rượu, dùng ma túy, khủng bố… nên gia đình phải có bổn
phận kéo con người ra khỏi sự vơ danh, thức tỉnh con người ra khỏi
sự vô danh, thức tỉnh con người ý thức lại phẩm giá của mình và mặc
lại cho con người một nhân tính sâu xa, đồng thời luôn sẵn sàng gặp
gỡ và đối thoại trong sự tiếp đón nồng nhiệt, quảng đại, phục vụ vơ
vị lợi và sâu xa…


Để được như thế, thì chính kinh nghiệm về sự hiệp thông và
chia sẻ phải là đặc điểm cho đời sống hường nhật cho đời sống gia
đình; gia đình ln phải dạy cho con cái biết tôn trọng sự thật, sự thật
phải được tôn trọng trong tư tưởng, lời nói và hành động, sự thật phải
được biểu lộ giữa vợ và chồng, giữa cha mẹ và con cái… Đồng thời
gia đình ln dạy cho con cái sự công bằng, yêu thương và giúp con
cái tập sống tự do, nhất là tự do trong tâm hồn.


</div>
<span class='text_page_counter'>(11)</span><div class='page_container' data-page=11>

<i>quyền lợi cá nhân với những đòi hỏi khác nhau của cuộc sống xã</i>
<i>hội”.</i>


<i><b>3. Vai trò xã hội và chính trị của gia đình :</b></i>


Sự đóng góp xã hội của gia đình chắc chắc khơng thể giới hạn
ở việc truyền sinh và giáo dục, nhưng phải cịn tích cực cổ võ cho tất
cả mọi thành phần trong gia đình ln mở rộng lịng mình trước
những nhu cầu của người khác, lo cho những người và những tình
cảnh mà các tổ chức từ thiện và cứu tế mà cộng đồng khơng thể lo
được, để bảo đảm cho mỗi gia đình có được nơi ăn chốn ở cần thiết
như một mơi trường tự nhiên để bảo vệ và làm cho gia đình phát
triển mỗi ngày được tốt đẹp hơn.



Đồng thời, gia đình cịn phải làm sao cho các luật lệ và các cơ
chế của nhà nước không làm tổn thương cho các quyền lợi và bổn
phận và gia đình, nhưng làm nâng đỡ và bảo vệ chúng một cách tích
cực. Vì thế, gia đình càng ngày càng phải ý thức mạnh mẽ rằng mình
phải đi đầu của điền mệnh danh là “chính sách gia đình”, và phải
lãnh lấy trách nhiệm của xã hội.


Như thế, chính bí tích Hơn Phối làm cho gia đình kitơ hữu có
khả năng sống ơn gọi giáo dân, lãnh nhận một lệnh truyền của Thiên
Chúa mà họ khơng được trốn tránh vì đó là trách nhiệm của họ, đồng
thời cũng chính nhờ bí tích Hơn Phối mà gia đình kitơ hữu nhận lấy
một ân sủng có sức nâng đỡ và làm sinh động cuộc đời họ.


<b>II. Xã hội phục vụ gia đình:</b>


Gia đình và xã hội ln tương quan chặt chẽ với nhau, một
đàng địi hỏi gia đình phải tham gia vào việc thăm tiến của xã hội,
đàng khác cũng đòi hỏi xã hội cũng phải chu tồn bổn phận nền tảng
của mình là tơn trọng và thăm tiếp gia đình. Tuy nhiên trong thực tế
đơi khi lại ngược hẳn lại, thậm chí cịn gây chia cắt và có khi cịn đối
nghịch với nhau nữa.


</div>
<span class='text_page_counter'>(12)</span><div class='page_container' data-page=12>

làm chủ những quyền lợi và bổn phận có trước các quyền lợi và bổn
phận của quốc gia hay bất cứ một cộng đồng nào khác. Chính vì thế
Hội Thánh cơng khai đứng ra bảo vệ các quyền lợi của gia đình để
chống lại các lạm dụng không thể dung thứ của xã hội và của nhà
nước. Đồng thời trong các quyền lợi của gia đình, các Nghị Phụ
Thượng Hội Đồng Giám Mục đã đề cập đến những quyền lợi sau
đây:



 Quyền đựơc hiện hữu và triển nở trong tư thế của gia đình,
nghĩa là tất cả mọi người và cách riêng là những người nghèo đều
được lập gia đình và duy trì gia đình bằng những phương tiện híc
hợp.


 Quyền thi hành mạnh của mình trong tất cả những liên hệ tới
việc truyền sinh và giáo dục con cái.


 Quyền được sống thân mật trong cuộc sống hơn nhân cũnh như
gia đình.


 Quyền có sự bền vững trong liên hệ vợ chồng và trong cơ chế
hơn nhân


 Quyền tin và tuyên xưng lòng tin của mình cũng như truyền bá
lòng tin ấy.


 Quyền giáo dục con cái đúng với những truyền thống riêng của
gia đình, đúng với những giá trị tơn giáo và văn hóa của nó, nhờ
những dụng cụ, những phương tiện và nhữn cơ chế cần thiết.


 Quyền được hưởng những an ninh thể lý, xã hội, chính trị, kinh
tế, nhất là đối với những người nghèo và những người đau yếu.


 Quyền có được nhà ở với cuộc sống gia đình lành mạnh


 Quyền được phát triển và đại diện trước các quyền công cộng,
kinh tế, xã hội và văn hóa, cũng như trước các cơ quan trực thuộc,
hoặc một cách trực tiếp hoặc qua trung gian các hiệp hội.



 Quyền thiết lập những hiệp hội với những gia đình khác và
những cơ chế khác, để chu tịa sứ vụ của mình một cách thích hợp để
chống lại ma túy, phim ảnh kiêu dâm, nạn uống rượu …


</div>
<span class='text_page_counter'>(13)</span><div class='page_container' data-page=13>

 Quyền của những nguời già được sống và được chết cách xứng
đáng.


 Quyền di dân tồn gia đình để mưu tìm những hịa cảnh sống
tốt đẹp hơn.


<b>Bài 2</b>


<b>SỨ MỆNH GIA ĐÌNH CƠNG GIÁO</b>


Vì được chính Mẹ Hội Thánh sinh ra, giáo dục và xây dựng,
nên gia đình kitơ hữu được dự vào cuộc sống và sứ mạng của Hội
Thánh là trở thành dấu chỉ tình thương cứu rỗi của Thiên Chúa giữa
loài người (hiến chế về Giáo Hội). Nói cách khác gia đình kitơ hữu
là một “Hội Thánh thu nhỏ” (Ecclesia domestica) vì nó là một hình
ảnh sống động và là một biểu hiện lịch sử của chính mầu nhiệm Hội
Thánh. Cho nên gia đình kitơ hữu khơng những nhận thức được tình
u của Đức Kitơ để trở nên một cộng đồng “được cứu rỗi”, mà còn
được mời gọi truyền đạt chính tình u Đức Kitơ cho anh chị em
mình, như thế gia đình kitơ hữu trở nên một cộng đồng cứu rỗi người
khác. Tuy nhiên việc gia đình kitơ hữu tham dự vào sứ mạng của Hội
Thánh phải được thực hiện một cách cộng đồng, tức là họ phải cùng
chung “một tấm lòng và một linh hồn” trong đức tin và trong tinh thần
chung của Hội Thánh và cộng đồng dân sự. Đồng thời, gia đình kitơ
hữu xây dựng Nước Thiên Chúa trong lịch sử qua các thực tại thường


nhật liên hệ đến điều kiệt sống và đặc điểm của điều kiệt sống ấy
qua tình yêu vợ chồng, qua sự quảng đại chấp nhận sinh sản con cái,
qua sự hiệp nhất và trung tín, cũng như qua sự hợp tác thân ái giữ
mọi thành phần trong gia đình. Làm được như thế là họ đã tham dự
vào chính sứ mạng tiên tri, tư tế và vương đế của Đức Kitô và Hội
Thánh Người.


</div>
<span class='text_page_counter'>(14)</span><div class='page_container' data-page=14>

chỉ trong đức tin, gia đình kitơ hữu mới có thể sung sướng biết
ơn, khám phá và thán phục và phẩm giá của hơn nhân và gia đình
mà Thiên Chúa đã nâng cao, bằng cách lấy nó làm dấu chỉ yêu
thương giữa Thiên Chúa và con người, giữa Đức Kitô và Hội Thánh
là Hiền Thê của Người. Vì thế, ngay khi chuẩn bị bước tới hôn nhân,
đôi bạn phải khamn phá lại và đào sâu đức tin đã lãnh nhận trong bí
tích rửa tội, để sống theo gương Đức Kitơ và phục vụ Nước Thiên
Chúa trong bậc sống của mình một cách tự do hơn. Từ đó, chính
trong giây phút quyết liệt, đôi bạn tự do “tuyên xưng đức tin” khi họ
cùng nhau cử hành bí tích Hơn Phối trong lịng Hội Thánh và cùng
với Hội Thánh, đồng thời việc tuyên xưng đức tin đòi hỏi còn phải
được kéo dài một cách liên tục suốt cuộc đời đôi bạn.


<i><b>2.Thừa tác vụ phúc âm hố của gia đình kitơ hữu:</b></i>


Trong hồn cảnh cụ thể ngày nay, việc dạy giáo lý tại gia
đình thật cấp thiết vì: nhiều nơi luật lệ nhà nước cản trở việc giáo
dục đức tin, hay tình trạng vơ tín ngưỡng hỗn độn và chủ nghĩa thế
tục lan tràn, kiến trên thực tế khơng thể nào có được sự tăng trưởng
tôn giáo tốt đẹp được, nên từ trong gia đình là mơi trường độc nhất
cịn lại để cha mẹ truyền thu Tin Mừng cho con cái, và ngược lại họ
cũng có thể nhận lại chính Tin Mừng ấy đã được sống sâu sắc từ phía
con cái mình. Đồng thời họ cịn phải ý thức Tin Mừng hóa nhiều gia


đình khác đang sống chung quanh mình vì đó là bổn phận Chúa trao
cho họ.


<i><b>3.Một việc phục vụ có tính cách Hội Thánh:</b></i>


Thừa tác vụ Tin Mừng hố của các bậc cha mẹ kitơ hữu có
tính cách độc đáo và khơng thể thay thế được vì nó mang nhữngđặc
tính riêng biệt của một cuộc sống được diệt bằng chính tình yêu, sự
giản dị và dấn thân cách cụ thể để làm chứng cho tình u của Đức
Kitơ qua các cơng việc thường ngày.


</div>
<span class='text_page_counter'>(15)</span><div class='page_container' data-page=15>

còn gây nhiều đau khổ cho các bậc cha mẹ khi thực hiện Tin Mừng
hóa. Vì thế cha mẹ phải can đảm để đương đầu với những khó khăn
mà mình đã, đang và sẽ gặp từ nơi chính con cái, đồng thời chính các
cha mẹ khơng được qn rằng việc phục vụ mà mình đang chu tồn
là vì lợi ích của Tin Mừng, đúng hơn là một việc nằm trong khn
khổ của tồn thể Hội Thánh đã được xếp đặt để xây dựng thân thể
duy nhất của Đức Kitô. Cho nên, thừa tác vụ Tin Mừng hoá và dạy
giáo lý của Hội Thánh tại gia phải ln được kết hợp mật thiết và
hồ nhịp có ý thức với việc Tin Mừng hóa và dạy giáo lý trong cộng
đồng Hội Thánh.


<i><b>4.Rao giảng Tin Mừng cho mọi thụ tạo:</b></i>


Chính trong bí tích Hơn Phối, nêu nên một bộn phận đã ăn rễ
trong bí tích rửa tội và thêm sức là phải bảo vệ và truyền bá đức tin
mà các bậc cha mẹ là những chứng nhân của Đức Kitô “cho đến tận
cùng trái đất”.


Ngay từ môi trường gia đình, các bậc cha mẹ có thể thực hiện


vai trị thừa sai của mình cách nào đó khi mà một phần tử gia đình
khơng có đức tin của mình. Đồng thời Hội Thánh tại gia cũng được
mời gọi “dùng gương và chứng” để soi sáng cho những gia đình chưa
tin, cho những gia đình chưa sống phù hợp với đức tin và cho những
người đang tìm kiếm chân lý.


Đặc biệt, Hội Thánh còn mời gọi Hội Thánh tại gia tíach cực
góp phần cho cơng cuộc truyền giáo của Hội Thánh, bằng cách vun
trồng các ơn gọi thừa sai nơi con cái và giúp chúng ln biết nhận ra
tình yêu và lời mời gọi của Thiên Chúa nơi mình. Cho nên sắc lệnh
về đào tạo linh mục của công đồng Vaticanơ II đã dạy: “tồn thể
<i>cơng đồng kiot6 hữu có bổn phận cổ võ cho các ơn thiên triệu, trước</i>
<i>hết phài tiến hành nghĩa vụ ấy bằng một đời sống kitơ hữu trọn vẹn…</i>
<i>các gia đình phải cố gắng sống tinh thần đức – tin – cậy – mến và</i>
<i>đạo hạnh, để trở nên như những chủng viện sơ khởi” (số 2).</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(16)</span><div class='page_container' data-page=16>

Trong bí tích Hơn Phối, Đức Kitơ mời gọi và lơi cuốn gia đình
kitơ hữu vào cuộc đối thoại liên lỉ và sống động với Thiên Chúa
bằng các phương tiện của đời sống bí tích, của việc dâng hiến đời
mình và của kinh nghiệm qua các thực tại hằng ngày của đời sống
hôn nhân và gia đình; bằng cách ấy, gia đình kitơ hữu được mời gọi
tự thánh hóa và thánh hóa cộng đồng Hội Thánh và Thế Giới. Đó là
vai trị tư tế mà gia đình kiot6 hữu có thể và phải chu toàn trong sự
kết hiệp mật thiết với toàn thể Hội Thánh của Đức Kitơ.


<i><b>2. Hơn nhân, bí tích thánh hóa lẫn nhau và là hành vi phụng</b></i>
<i><b>tự:</b></i>


Nhờ mầu nhiệm tử nạn và Phục Sinh của đức kitô, mà một
lần nữa tình u vợ chồng được thanh tẩy và thánh hóa trong bí tích


hơn phối. Trong bí tích này, ơn Đức Kitô ban không bao giờ khô cạn,
nhưng vẫ theo sát đơi bạn trong suốt cuộc sống của họ, nhờ đó mà
đôi bạn luôn trung thành và yêu thương nhau bằng sự tự hiến cho
nhau khi Đức Kitô đã luôn yêu thương Hội Thánh và tự nộp mình vì
Hội Thánh. Bởi đó, với sức mạnh của bí tích này, họ được đổ tràn
tinh thần của Đức Kitơ, nhờ đó mà đời sống của họ thấm nhuần đời
sống đức tin, đức cậy, đức mến và không ngừng nỗ lực biến đổi đời
sống đôi bạn trở thành một hy lễ thiêng liêng triền miên dâng lên
Thiên Chúa.


<i><b>3. Bí tích hơn phói gắn liền với bí tích Thánh Thể, bí tích</b></i>
<i><b>hóan cải và giao hịa.</b></i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(17)</span><div class='page_container' data-page=17>

giao hịa, nhờ đó mà họ được Thiên Chúa tái lập và hồn thiện giao
ước hơn nhân và sự hiệp thơng trong gia đình.


<i><b>4. Cha mẹ kitơ hữu là những nhà giáo dục đức tin:</b></i>


Vì gia đình là Giáo Hội thu nhỏ, một tế bào trong thân thể
Đức Kitơ, nên các bậc cha mẹ kitơ hữu có bổn phận đặc biệt phải
giáo dục cho con cái biết cầu nguyện để giúp chúng mỗi ngày khám
phá ra mầu nhiệm Thiên Chúa và đối thoại cá nhân với Ngài. Đồng
thời các bậc cha mẹ cịn ln phải sẵn sàng cộng tác với các linh
mục để chuẩn bị cho con cái mình lãnh nhận các bí tích và tập cho
chúng quen nghĩ tới những đau khổ của đức Kitô khi chúng đau ốm,
quen quên cầu sự giúp đỡcủa Đức Mẹ đồng trinh và các Thánh, quen
lần chuỗi chung và riêng… Để được như thế, Hội Thánh đòi hỏi các
bậc cha mẹ phải là những chứng tá sống động qua gương sống cụ thể
của mình như: phải tạo mọi điều kiện để mọi thành phần trong gia
đình đều được tham dự Thánh Lễ, nhất là ngày chủ nhật và các ngày


lễ trọng, đồng thời các bậc cha mẹ phải năng cùng cầu nguyện với
con cái, năng đọc và suy niệm Lời Chúa hằng ngày, chuẩn bị cho các
bí tích, tơn sùng và tận hiến cho trái tin Chúa Giêsu, sùng kính Đức
Trinh Nữ Maria, cầu nguyện trước và sau khi ăn cơm. Đặc biệt các
bậc cha mẹ còn phải thể hiện gương sống qua sự ngay thẳng trong tư
tưởng, lời nói và hành động trong mọi lãnh vực của đời sống. Làm
được như thế, các bậc cha mẹ đang đem bình an vào tổ ấm cho gia
đình mình: “Bình an cho nhà này”. Đồng thời làm như thế là cha mẹ
cũng đang đóng góp phần xây dựng Hội Thánh của Đúc Kitơ.


<i><b>5. Kinh nguyện và đời sống nơi gia đình kitơ hữu:</b></i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(18)</span><div class='page_container' data-page=18>

hay chú thích; có thể sử dụng Lời Chúa làm đề tài huấn giáo con cái,
nhắc nhở mọi người sống theo ý Chúa bằng cách sống trong sạch
thành thật, cơng bằng nhất là u thương đồn kết và quảng đại cộng
tác và giúp mọi người thăng tiến.


<b>III. Gia Đình Kitơ Hữu, Cộng Đồn Phục Vụ Con Người:</b>


Khi cử hành bí tích Hơn Phối, gia đình kitơ hữu được luật mới
Thánh thần sinh động hướng dẫn và mời gọi họ sống “thừa tác vụ” vì
tình yêu đối với Thiên Chúa và tha nhân trong sự hiệp thông mật
thiết với Hội Thánh là dân tộc Vương đế. Cũng như Đức Kitô đã thực
thi vương quyền của người khi người đem thân phục vụ con người và
trở nên con người ngồi tội lỗi, thì gia đình kitơ hữu được mời gọi dự
phần vào vương quyền của Người bằng cách chia sẻ tinh thần và thái
độ phục vụ con người trong khiêm nhường, kiên nhẫn để đưa con
người đến Đức Kitô, đồng thời ln ln phải nhìn mọi người trong
phẩn giá của họ như những ngôi vị và con cái của Thiên Chúa. Vì
thế gia đình kitơ hữu phải thi hành “thừa tác” của mình một cách cụ


thể trong đời sống thường ngày bằng việc sống bác ái và khiêm tốn
phục vụ nhau trong gia đình và mọi người.


Vợ chồng với nhau: phải năng chuyện trị, trao đổi, bàn tính
với nhau mọi chuyện, tin tưởng và thành thật với nhau. Nếu một hai
người có lỗi, hãy khiêm tốn nhận lỗi và quyết tâm khắc phục, cịn
bên khi thì hãy quảng đại, thứ tha và đón cửa dạy nhau, đừng bao giờ
cãi lộn, chửi rủa hay đánh đập một cách to tiếng. Đồng thời hai người
luôn sẵn sàng giúp đỡ nhau trong mọi biến cố vui cũng như buồn của
cuộcsống.


Với con cái: các bậc cha mẹ phải có trách nhiệm hướng dẫn
giáo dục và sửa chữa con cái trong tình yêu thương. Nếu cần sửa
phạt, cha mẹ nên sửa phạt cách bình tĩnh và hợp lý, sửa phạt vì u
thương chứ khơng vì nóng giận, tránh la rầy chửi bới hãy đánh đập.


</div>
<span class='text_page_counter'>(19)</span><div class='page_container' data-page=19>

Với họ đạo: luôn sống tinh thần hợp tác và đoàn kết với cha sở,
với các gia đình khác để cùng nhau xây dựng họ đạo ngày càng tốt
đẹp hơn.


Với các tôn giáo bạn: các bậc cha mẹ kitô hữu đến với họ
trong tinh thần tôn trọng, cởi mở và đối thoại cách chân thành.


<b>BAØI 3</b>


<b>ĐAØO TẠO MỘT CỘNG ĐOÀN CÁC NGƠI VỊ</b>


Một khi đã nhận ra căn tính của Hơn nhân Kitơ giáo như là sự
tiếp nối tình u của Đức Kitơ trong lịch sử và căn tính của gia đình
như là nơi sống hiệp thơng phát sinh từ tình u, thì cũng cần phải


nói đến sứ mạng của vợ chồng. Chính Đức Giáo Hồng đã nhắc nhở :
<i>“Mỗi gia đình khám phá và gặp được nơi chính mình lời mời gọi cấp</i>
<i>bách ấy, cũng chính là mời gọi xác định đâu là phẩm giá và trách</i>
<i>nhiệm của gia đình : Hỡi gia đình, hãy trở nên cái mà ngươi là”</i> (FC.
17)


Gia đình được xây dựng và sống động nhờ tình yêu, là một cộng
đồng các ngôi vị của người chồng và người vợ, của cha mẹ và con cái,
của bà con gia tộc, nên bổn phận đầu tiên là phải sống trung thành chính
thực tại của sự hiệp thông và cố gắng liên lỉ để làm phát triển một cộng
đồng đích thực các ngơi vị.


Sự hiệp thơng trong Hơn nhân có vài đặc điểm sau đây:
<i><b>1. Tính “Duy Nhất”:</b></i>


Nhờ giao ước tình u Hơn nhân mà người nam và người nữ
khơng cịn là hai nhưng là một xác thịt và cả hai được mời gọi tăng
trưởng không ngừng trong sự hiệp thông qua việc trung thành hằng
ngày với lời hứa khi thành hôn, trong việc trao hiến tồn thân cho
nhau. Sự hiệp thơng ấy có được là nhờ tính hỗ tương giữa người nam
và người nữ, và trong ý chí của mỗi người muốn chia sẻ hoàn toàn về
kế hoạch của cuộc đời.


</div>
<span class='text_page_counter'>(20)</span><div class='page_container' data-page=20>

<i>duy nhất hết sức độc đáo đang làm cho Hội thánh trở thành thân mình</i>
<i>mầu nhiệm khơng thể phân chia của Đức Kitơ”. (GS. 48).</i>


Vì Hơn nhân được thiết lập một cách vững chắc, nên sự duy
nhất của Hơn nhân cịn xuất phát từ chỗ vợ chồng đều có phẩm giá
ngang bằng nhau, phẩm giá này được hai người nhìn nhận khi yêu
thương nhau cách trọn vẹn. (GS. 49)



<i><b>2. Tính “Bất Khả Phân Ly”:</b></i>


Cơng đồng Vativacan IInói : “ Sự liên kết mật thiết vẫn là sự tự
<i>hiến của hai người cho nhau cũng như lợi ích của con cái buộc hai vợ</i>
<i>chồng phải hồn tồn trung tín và đòi hỏi kết hợp với nhau bất khả</i>
<i>phân ly” (GS. 48)</i>


Tính bất khả phân ly được xây dựng trong việc trao hiến hỗ
tương của hai người khơng chỉ vì ích lợi của con cái mà cịn tìm thấy
sự thật tối hậu của nó trong ý định của Thiên Chúa.


Sự bất khả phân ly của Hôn nhân dựa trên nền tảng là ý định
Thiên Chúa đã bày tỏ trong mặc khải của Ngài : Chính Ngài muốn
Hơn nhân phải bất khả phân ly và Ngài ban cho nó ơn này như kết
qủa, dấu chỉ và địi hỏi của tình u tuyệt đối trung thành mà Thiên
Chúa đã có đối cới con người và là tình yêu mà Chúa Giêsu đã tỏ ra
đối với Hội Thánh. (FC.20).


Ngay tự bản chất, tình yêu vợ chồng đòi hỏi sự đơn nhất và bất
khả phân ly cho cộng đoàn nhân vị bao trùm toàn bộ đời sống họ,
<i>“Họ khơng cịn là hai mà là một xương một thịt”. “Họ được mời gọi</i>
<i>không ngừng lớn lên trong tình hiệp thơng với nhau qua việc trung</i>
<i>thành mỗi ngày với lời cam kết Hôn nhân và trao hiến trọn vẹn cho</i>
<i>nhau”. (GLHTCG, số 1644).</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(21)</span><div class='page_container' data-page=21>

Vì thế, đôi bạn kitô hữu cũng được mời gọi để dự phầøn vào sự
bất khả phân ly không thể thu hồi đang nối kết Đức Kitô với Hội
thánh, là hiền thê của Ngài yêu mến đến tận cùng. (FC.20).



Tính bất khả phân ly của dây Hôn phối phát xuất từ chính ý
muốn của Thiên Chúa.


<i><b>3. Tính “Cởi Mở”:</b></i>


Ngay giữa lịng cuộc sống Hơn nhân và gia đình, toàn bộ
những tương quan liên vị được dệt nên, những tương quan về tình vợ
chồng, tình phụ tử, tình con thảo, tình anh em, qua những tương quan
ấy, mỗi nhân vị được dẫn đưa vào trong “Gia đình nhân loại” và
<i>“Gia đình Thiên Chúa” là Hội thánh. (FC. 15).</i>


Vì vậy, tính cởi mở đến với sự hiệp thơng với gia đình, cha mẹ
và con cái, anh chị em với nhau, giữa bà con họ hàng. Sự hiệp thơng
ấy đặt nền móng trong những liên hệ tự nhiên và trở nên vững mạnh
hơn trong tình yêu nối kết những tương quan liên nhân vị của nhiều
phần tử khác nhau trong gia đình. “Tình yêu là linh hồn của những
<i>tương quan liên vị giữa những thành phần khác nhau trong gia đình,</i>
<i>tình yêu này là sức mạnh bên trong làm cho sự hiệp thơng và cộng</i>
<i>đồn gia đình được hình thành và sống động”. (FC. 21).</i>


Để các tương quan Hơn nhân và gia đình được trung thực cốt ở
việc đề cao phẩm giá và ơn gọi của từng ngôi vị, là những ngơi vị đã
tìm được sự sung mãn của mình khi biết trung thành trao ban chính
mình. (FC. 22).


Bổn phận xây dựng và làm cho sự hiệp thông gia đình được
tăng trưởng là bổn phận của mọi phần tử trong gia đình, mỗi người
theo ân sủng của mình; quan trọng nhất là việc trao đổi về giáo dục
giữa cha mẹ và con cái : Nhờ tình u, lịng kính trọng, sự vâng lời
cha mẹ, con cái sẽ góp phần của mình vào việc xây dựng một gia


đình thật là nhân bản và đạo đức theo tinh thần Kitô giáo.


<b>BÀI 4</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(22)</span><div class='page_container' data-page=22>

Tự bản chất, chính định chế Hơn hân và tình u lứa đơi qui
hướng về sinh sản và giáo dục con cái như chóp đỉnh để hồn thành
Hơn nhân (GS. 48). Vì thế, trong khi cử hành bí tích Hơn hân, Giáo
Hội đã hỏi một cách hữu ý rằng “Anh chị có sẵn sàng yêu thương và
<i>đón nhận con cái mà Thiên Chúa sẽ ban và giáo dục chúng theo luật</i>
<i>Chúa Kitô và Giáo Hội không ?”. Cho nên bổn phận truyền sinh và</i>
giáo dục phải được coi như là sứ mạng riêng biệt của vợ chồng.
Trong khi thi hành bổn phận ấy, họ biết rằng mình cộng tác với tình
yêu của Thiên Chúa tạo hố (GS. 50).


<i><b>1. Truyền Sinh :</b></i>


Người nam và người nữ được mời gọi cộng tác cách tự do và
có trách nhiệm để lưu truyền sự sống con người : “Thiên Chúa đã
<i>chúc lành cho họ, và phán bảo họ : Hãy sinh sôi nảy nở, nên đầy trên</i>
<i>mặt đất và hãy bá chủ nó”. (FC. 28).</i>


Mục tiêu căn bản của gia đình là phục vụ cho sự sống, là thực
hiện trong lịch sử lời chúc lành của Thiên Chúa lúc khởi ngun,
thực hiện bằng việc thơng truyền hình ảnh Thiên Chúa từ người này
sang người khác trong hành động truyền sinh. (FC. 28)


Thiên Chúa là sự sống, đã trao cho người nhiệm vụ cao cả là
bảo tồn sự sống, và họ phải chu toàn bổn phận ấy cách xứng hợp với
con người. Do đó, sự sống ngay từ lúc thụ thai đã phải giữ gìn hết sức
cẩn thận (GS. 51). Có thể nói rằng sự sống con người phải được tôn


trọng và bảo vệ cách tuyệt đối, ngay từ lúc thụ thai.


Nhiệm vụ lưu truyền đời sống là một nhiệm vụ trọng đại của
đôi vợ chồng, một nhiệm vụ mà họ là những người cộng tác viên tự
do và trách nhiệm của Thiên Chúa (Humanae Vitae, 1). Bởi vậy, vợ
chồng Kitô hữu cần phải biết phục vụ sự sống và ln can đảm đứng
về phía sự sống để làm thăng tiến và nếu cần để bảo vệ cho sự sống.
Đặc biệt ngày nay hoạt động của họ còn cần thiết hơn nữa.


</div>
<span class='text_page_counter'>(23)</span><div class='page_container' data-page=23>

chồng tự mình đứng ra đóng vai trị trọng tài thay cho Thiên Chúa
với kế hoạch của Ngài, làm thay đổi ý nghĩa của tính dục con người,
hiểu sai ý nghĩa về giá trị trao hiến trọn vẹn. Theo ngôn ngữ nguyên
thủy diễn tả việc trao hiến trọn vẹn giữa hai vợ chồng thì việc ngừa
thai là một thứ ngôn ngữ nghịch lý xét một cách khách quan, vì hai
người khơng trao hiến cho nhau một cách trọn vẹn, khơng những chỉ
vì việc chối bỏ mở đường cho sự sống, nhưng còn là một việc làm
trái với sự thật nội tại về tình u Hơn nhân ln được mời gọi để
trao hiến hồn tồn cho nhau. Vì thế, Đức Giáo Hồng Phaolơ VI đã
mạnh mẽ tuyên bố : “Tình yêu trao đổi giữa một người nam và một
<i>người nữ với một đích là thông truyền sự sống cho con cái”</i>
(Humanae Vitae, 1).


Trong những năm gần đây, việc truyền sinh chịu ảnh hưởng
rất nhiều do những tiến bộ của khoa học kỹ thuật. Người ta tìm đến
những phương cách thụ thai nhân tạo khơng cịn lưu ý đến tình u
Hơn nhân nữa. Đây là một hành động xúc phạm đến sự sống con
người, bởi vì vợ chồng là một cách diễn tả cao qúy về việc trao hiến
cho nhau phải là nơi chốn tự nhiên làm phát sinh sự sống mới. Bởi
thế, chỉ lịng ao ước sinh con mà thơi chưa đủ, cần phải biết tôn trọng
cách thế truyền sinh sự sống theo kế hoạch của Đấng tạo hố nữa.



<i><b>2. Giáo Dục :</b></i>


Tục ngữ Việt nam có câu : “Sinh con khơng dạy khơng răn,
<i>thà sinh con lợn cho ăn lấy lịng”. Sinh con và dạy con là hai nghĩa</i>
vụ đi đôi nhau. Hai nhiệm vụ này cần được chực hiện ngay trong gia
đình. Cơng Đồng Vatican II gọi gia đình là trường học đầu tiên của
con người : “Vì là người truyền sự sống cho con cái, nên cha mẹ có
<i>bổn phận hết sức quan trọng là giáo dục chúng và vì thế họ được coi</i>
<i>là những nhà giáo dục đầu tiên và chính yếu của chúng. Vai trị giáo</i>
<i>dục này quan trọng đến nỗi nếu thiếu xót thì khó lịng bổ khuyết được</i>
<i>… Do đó, gia đình là trường học đầu tiên dạy các đức tính xã hội”</i>
(GE. 3) và sách Giáo huấn cũng có đề cao tầm quan trọng của việc
giáo dục này: “Kho tàng của thế giới cũng khơng q bằng có một
<i>người con được giáo dục tốt” (Hc. 26,28).</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(24)</span><div class='page_container' data-page=24>

Gia đình phải là nơi mà nhân cách của đứa trẻ được đào tạo
và ở đó đứa trẻ phải “được làm người và làm người đầy đủ”. Cho
nên, con người được phát triển về mặt trí tuệ và đạo đức chủ yếu là
nhờ nền giáo dục tiếp thu được trong gia đình. Chính trong gia đình
đó, đứa trẻ tiếp thu có được những hiểu biết đầu tiên về thế giới
chung quanh; được chỉ dạy thế nào là tình yêu. Đời sống gia đình
cũng là nền tảng cho nhiều nhân đức khác.


Đi vào chi tiết cụ thể, công việc giáo dục nhân cách cần
phải làm thật sớm, có thể nói rằng ngay từ khi đứa bé cịn là cái bào
thai. Vì lúc người mẹ mang thai mà có tính tình tốt, dịu dàng, biết tự
chế, khơng nóng giận, sống đạo đức, thánh thiện, cầu nguyện, mến
Chúa yêu người, là đứa bé thụ đắc các đức tính của người mẹ.



Tổ tiên chúng ta đã khơn khéo căn dặn các đôi vợ chồng trẻ
phải bắt đầu giáo dục trẻ ngay từ khi con cái còn trong trứng nước.
Tục ngữ có câu : “Uốn cây từ lúc cịn non, dạy con từ thuở con cịn
ấu thơ”.


Vì bố mẹ là người tạo nên sự hình thành tư cách cho con cái,
bởi đó chính bố mẹ phải trở nên những mẫu gương, mực thước cho
con cái nhìn vào đó để noi theo, và phải có phương pháp hữu hiệu để
giáo dục con cái chính là giáo dục chúng bằng và trong tình u.


<b>b) Về Đời Sống Tơn Giáo :</b>


Trong gia đình, nhân vị khơng phải chỉ được sinh ra và dần dần
được giáo dục dẫn vào cộng đoàn nhân loại, nhưng nhờ tái sinh của
bí tích thánh tẩy và nhờ giáo dục đức tin, ngôi vị ấy cũng được dẫn
vào trong gia đình Thiên Chúa là Hội thánh (FC. 15). Như vậy, việc
giáo dục không chỉ giúp nhân vị được trưởng thành mà còn nhằm
giúp những người rửa tội hiểu biết mầu nhiệm cứu rỗi, và ngày càng
ý thức hơn về hồng ân đức tin đã nhận lãnh, biết cách thờ phượng
Thiên Chúa Cha trong tinh thần và chân lý (GE. 2).


</div>
<span class='text_page_counter'>(25)</span><div class='page_container' data-page=25>

rửa tội cho con, cha mẹ cũng đã nhận lãnh trách nhiệm giáo dục đức
tin cho con cái được Thiên Chúa trao phó.


Phải nói rằng : Gia đình, nhất là cha mẹ, phải là những
người đầu tiên truyền đạo cho con cái. Thật vậy, đứa trẻ rất nhạy
cảm với cử chỉ, những hình thức sinh hoạt tơn giáo, đạo đức mà nó
chứng kiến nơi cha mẹ, anh chị em hoặc thân nhân. Tất cả những
biểu lộ đức tin của người lớn phải giúp cho đứa trẻ cảm thấy được sự
hiện diện và tình yêu của Thiên Chúa : Đó là bài học giáo lý tiên


khởi của đứa bé.


Nhờ sức mạnh của thừa tác vụ mà mình đã lãnh nhận, cha
mẹ là những người rao giảng Tin mừng đầu tiên cho con cái, là thầy
dạy trong việc lắng nghe lời Chúa và trong việc cầu nguyện, kết hợp
con cái vào mầu nhiệm Đức Kitơ qua bí tích thánh thể và trong Hội
thánh của Ngài.


<i>Tóm lại: Giáo dục nơi gia đình đóng một vai trị hết sức quan</i>
trọng, đáng quan tâm và đề cao. Có thể nói rằng : Gia đình là trường
học đầu tiên phát triển nhân tính và đời sống Kitơ giáo, là trường học
làm người và làm thánh.


<b>PHẦN III</b>


MỤC VỤ GIA ĐÌNH TRONG XÃ HỘI NGÀY NAY
<b>Bài 1:</b>


<b>TÂM LÝ TÍNH TÌNH</b>


<b>SỰ KHÁC BIỆT TAM LÝ NAM NỮ</b>


<b>I.Tính Tình Là Gì?</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(26)</span><div class='page_container' data-page=26>

thời gian nhờ giáo dục, kinh nghiệm, rèn luyện.v.v.. nó sẽ trở nên cá
tính và nhân cách của mỗi ngừơi. Cũng gọi là tư cách của một người.


Mỗi người là một nhân vị cá biệt được Thiên Chúa tạo dựng,
nên không ai giống ai. Dù khác, nhưng con người vẫn có những đặc
điểm chung. Vì thế qua nghiêm cứu, các nhà tính tình học đã qui con


người về một số loại tính tình ngừơi ta dễ có thái độ khi tiếp xúc. Có
vị chia con người làm 8 loại tính tình:


 Dũng cảm
 Đa tình
 Hiếu hoạt
 Nhiệt tâm
 Thực tế
 Lãh đạm
 Nhu nhược
 Vơ tình


Có vị chia con người ra làm 9 loại cá tính:
 Cầu tồn


 Hướng tha
 Thành cơng
 Độc đáo
 Thơng thái
 Khn phép


 Vui chơi hùng mạnh
 An hòa


Nếu ta hiểu những đức tính này của người khác, ta rất dễ thành
công trong giao tiếp thường ngày, cũng như dễ dàng thơng cảm và
hịa hợp trong đời sống hônnhân.


<b>II. Sự khác biệt tâm lý giữa nam và nữ:</b>



</div>
<span class='text_page_counter'>(27)</span><div class='page_container' data-page=27>

nhiều nguyên nhân. Nhưng nguyên nhân chính là ngun tâm lý. Vì
khơng hiểu tâm lý của nhau, nên không thông cảm được với nhau
đưa đến sự bất hạnh trong đời sống hơn nhân. Vì vậy mà các nhà tâm
lý học đã dày công nghiêm cứu để tím ra những sự khác biệt trong
tâm lý giữa người nam và người nữ. Cuối cùng họ đề ra 5 định luật
tâm lý.


Năm định luật tâm lý khác biệt giữa người nam và người nữ:
<i><b>1. luật ưu tiên:</b></i>


a- Bàn chất tự nhiên:


Ưu tiên người nam: Thể xác
Ưu tiên người nữ: Tình cảm.
b- ưu và khuyết:


Người đàn ơng bị rung động bởi sự dịu dàng duyên dáng và sắc
đẹp của phái nữ. Bởi đó muốn chinh phục và duy trì tình cảm của
người nam, phái nữ phải dùng “nhu thắng cương, nhược thắng
<i>cường”, chứ không nên dùng cái mạnh cái cứng cỏi để chỏi lại với</i>
họ là kẻ nang bản chất ứng mạnh hơn mình về vật chất lẫn tinh thần.
Nhưng cũng vì bản chất trên mà người nam dễ sa ngã vì sắc đẹp bên
ngồi mà ít chú ý đến bên trong của người nữ. Đó là mặt yếu mà
phái nam phải cần lưu ý.


c- Dung hòa:


Để duy trì tình u và hạnh phúc cần biết được luật ưu tiên của
bạn đời để thông cảm và để đáp ứng cho phù hợp. Người nữ nên chú
ý đến trao dồi về sắc đẹp bên ngoài lẫn bên trong, cả thể xác lẫn


tinh thần. Người nam nên củng cố thêm uy tín và sự cảm phục của
người vợ rong hành động; vì thái động của mình dễ duy trì đượïc tình
yêu nơi người vợ.


<i><b>2. luật phân cách:</b></i>
a- bản chất tự nhiên:


Trái tim của người nữ chỉ có một ngăn độc nhất dành cho một
tình u, một vấn đề.


</div>
<span class='text_page_counter'>(28)</span><div class='page_container' data-page=28>

 Ngăn dành cho tình yêu.


 Ngăn dành cho cơng danh sự nghiệp.
 Ngăn dành cho lý tưởng sở thích.
 Ngăn dành cho thú vui chơi giải trí.
b- Ưu và khuyết:


Với một tình yêu duy nhất, người nữ sẵn sàng hiến thân cho
một tình yêu duy nhất, sẵn sàng hy sinh cả cuộc đời để cho chồng
con được hạnh phúc. Nhưng chẳng nay nếu không được người chồng
quan tâm yêu thương sẽ rất đau khổ. Cịn người chồng vì có sự độc
lập phân cách trong trái tim, dễ chu toàn bổn phận, tạo công dang sự
nghiệp nhưng cũng lưu ý đến những đam mê riêng có thể làm mất
hạnh phúc gia đình. Vì vậy ngườ chồng cần phải có ý chí để tự giới
hạn những đam mê của mình.


c- Dung hòa:


Một người dàn ông ý thức thì biết nhu cầu của vợ là nhu cầu
yêu thương. Nên cần bày tỏ tình yêu của mình qua thái độ và cơng


việc hằng ngày; giúp vợ trong công việc nhà khi vợ sanh con hay đau
yếu cũng như bất cứ lúc nào vợ cần… Người chồng cũng nên làm việc
âm thầm để vợ nhận ra tình u của chồng. Cịn người vợ nên thơng
cảm với chồng khi biết chồng có trái tim nhiều ngăn để tránh những
ghen tương khơng chính đáng làm mất hạnh phúc gia đình.


<i><b>3. Luật chi tiết:</b></i>
a- Bản chất tự nhiên:


Ngừơi nam: quan sát nhận định bằng “con mắt lý trí” và chỉ
chú tâm đến những điều chính yếu.


Người nữ: Quan sát nhận định bằng “con tin” và chú tâm đến
những chi tiết vụn vặt.


b- Ưu và khuyết:


</div>
<span class='text_page_counter'>(29)</span><div class='page_container' data-page=29>

trọng dễ nóng nảy, vì đại khái nên ít quan tâm đến tính tốn chi li, ít
kỷ, hà tiện.


c- Dung hoøa:


Người rộng rãi cần bổ sung bằng sự chi tiết để tránh những sai
lầm tai hại. Người vợ tỉ mỉ cũng phải bíêt thơng cảm với người chồng
về tính đại khái chớ có đánh nhau thoe lăng kính của mình dễ dẫn
đến xung đột.


<i><b>4. Luật thích giác:</b></i>
a- Bản chất tự như:



Người phụ nữ có một cái tai thật to và nghi nhớ rất lâu những
gì người ta nói về mình. Cịn gnười đàn ơng lại thiếu lỗ tai để nghe.
Ngngười phụ nữ thích nghe, cịn người đàn ơng lại thích im lặng.


b- Ưu và khuyết:


Nhờ ích lợi lỗ tai nên người nam sống rất thoải mãi không bị
mặng đầu với những tính nhỏ nhặt. Nhưng từ khơng thích nghe nên
khơng thích nói những lời u thương làm ảnh hưởng đến hạnh phúc
gia đình.


Người nữ vì dễ nghe, dễ tin nên dễ thông cảm với những người
đau khổ và sắp đặt iệc gia đình ngăn mắp. Nhưng vì dễ nghe nên
cũng dễ bị xiêu lòng bởi những lời đường mật. Vì nhớ dai nên rất dễ
bị đau khổ bởi những kỷ niện đau buồn.


c. Dung hoøa:


Người chồng nên vui vẻ hoạt bát để tạo bầu khí cho gia đình.
Nói với vợ con những lời yêu thương an ủi tế nhị.


Người vợ cũng thông cảm với chồng khi thấy chồng lầm lì ít
nói, nên gợi chuyện để có sự trao đổi thân tình.


<i><b>5. Luật bất đồng cảm:</b></i>
a- Bản chất tự nhiên:


</div>
<span class='text_page_counter'>(30)</span><div class='page_container' data-page=30>

b- Ưu và khuyết:


Nếu người nam chỉ sống theo bản chất tự nhiên mà không nghĩ


đến người khác, họ sẽ trởnên những con người ít kỷ, thiếu tế nhị.


Người nữ vì chậm phát nên khó bị lơi cuốn bởi thể xác chưa
hiểu chưa yêu. Nhưng vì chậm phát mà gặp phải người chồng ích kỷ.
Họ sẽ đau khổ vỉ khơng hưởng được lạc thú.


c- Dung hòa:


Chính vì những thiệt thòi và bất lợi mà người vợ phải chịu,
người chồng càng phải hiểu, thông cảm và yêu thương vợ nhiều hơn.
Nhất là trong cuộc chung sống, người chồng đừng quá hấp tấp gây
cho người vợ sự cô đơn buồn tủi mà khơng nói ra được.


Sau khi phân tích những khác biệt tâm lý giữa người nam và
người nữ qua 5 định luật trên. Chúng ta không lấy làm bất mãn vì sự
khác biệt mà Thiên Chúa tạo nên heo sự khôn ngoan của Ngài, mà
chúng ta hãy lợi dụng những sự khác biệt đó để bổ sung cho nhau.
Nếu mọi người hiểu biết và làm được như thế thì đời sống gia đình là
một đời sống ấm êm hạnh phúc.


<b>Bài 2</b>


<b>BÍ TÍCH HÔN NHÂN LÀ GÌ?</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(31)</span><div class='page_container' data-page=31>

<i>Người” (1968); Tuyên ngôn của Công Đồng Vatincan II trong hiến</i>
chế “Vui Mừng Và Hy Vọng”. Tông huấn “hôn nhân và gia đình” của
Đức Giáo Hồng Gioan Phao lo II.


Nói chung, Giáo Hội ln có một lập trường nhất thống về hơn
nhân vàgia đình. Hơn nhân có nền tảng từ trong chương trình tạo


dựng của Thiên Chúa. Con người được Thiên Chúa thơng ban cho
tình u, để từ tình u đó tiếp tục tạo nên mầm sống mới. Tình u
bao trùm đưa con người vào tình yêu tinh thần. Vì vậy việc người
nam và người nữ hiến thân cho nhau trong sinh hoạt vợ chồng không
phải là điều huần tuý sinhy lý` nhưng còn liên hệ đến nhân vị con
người và thuộc về những gì thâm sâu nhất của con người. Đáng tiếc
tội lỗi đã gây nên những hậu quả thảm khốc làm tha hóa mối tương
quan giữa người nam và người nữ cũng như trong việc truyền sinh.
Nhưng nhờ sự cứu chuộc của Chúa Giêsu, con người có được ân sủng
của Thiên Chúa và nhờ đó họ có thể sống ơn gọi đúng đắn của bậc
sống hơn nhân.


<b>I. Hôn Nhân Công Giáo Là Hôn Nhân Đơn Nhất Và Bất Khả</b>
<b>Phân Ly:</b>


Ngay từ bản chất, tình u vợ chồng địi hỏi sự đơn nhất và bất
khả phân ly cho cộng đoàn nhân vị bao trùm toàn bộ đời sống của
họ. “Họ khơng cịn làhai mà là một xương một thịt” (Mt 19,6; St
2,24). Họ được mời gọi không ngừng lớn lên trong tình hiệp thơng
với nhau qua việc trung thành mỗi ngày với lời cam kết hôn nhân và
hiến thân trọn vẹn cho nhau. Tục đa thê nghịch lại tính đơn nhất của
hơn nhân và với tình u vợ chồng. (GLGHCG số 1644; 1645). Do
đó người tín hữu phải ln ý thức hơn nhân của mình là một quyết
định quan trọng cho cả đời người. Không nên hấp tấp, vội vã nhưng
hãy cầu nguyện và chọn lựa bạn đời theo chỉ dẫn của Giáo Hội. Như
thế mới có thể hy vọng thành công trong đời sống vợ chồng.


</div>
<span class='text_page_counter'>(32)</span><div class='page_container' data-page=32>

cứ trên sự trung tín của Thiên Chúa với giao ước dân Người và cũa
Đức Kitô với Hội Thánh. Mà Đức Kitô luôn luôn yêu thương Hội
Thánh và đã chết để chứng tỏ tình yêu ấy.



<b>II. Sẵn sàng đón nhận con cái Chúa ban:</b>


“Tự bản chất, chính định chế hơn nhân và tình u lứa đơi qui
hướng về việc sinh sản con cái như chóp đỉnh hồn thành hơn nhân”
(GS 48,1). Vì vậy Giáo Hội khơng thể chấp nhận sự hủy diệt sinh
mạng từ trong trứng nước (phá thai). Tuy nhiên Giáo Hội cũng không
ủng hộ việc sinh con khơng kiểm sốt, dẫn đến hậu qủa khơng thể
chăm sóc tốt cho con cái, sinh ra những đứa con hư hỏng có hại cho
gia đình và xã hội.


<b>III. Gia Đình Là Một Hội Thánh Thu Nhỏ:</b>


Hơn nhân và gia đình được thiếp lập bằng bí tích, sẽ trở nên
một Hội Thánh thu nhỏ (Hội Thánh tại gia). Vì họ biểu hiện, tham dự
mầu nhiệm hiệp nhất và tình yêu phong phú giữa Chúa Kitô và Hội
Thánh (LG 11). Gia đình cũng là trường học đầu tiên về đời sống
kitơ giáo, một cộng đồng ân sủng và cầu nguyện, trường học phát
triển những đức tính tự nhiên và đức nến kitơ giáo (GLGHCG 1666).


Tóm lại: Hơn nhân kitơ giáo đã được Chúa Giêsu nâng lên
hàng bí tích, diễn tả mầu nhiệm yêu thương hợp nhất giữa Chúa Kitô
và Hội Thánh. Vì vậy những người sống trong bậc vợ chồng phải ý
thức được ơn gọi của mình: Sống đời sống hơn nhân đơn nhất, bất
khả phân ly và chung thủy với nhau đến trọn đời để cùng hướng tới
cứu cánh của hôn nhân, là sinh sản và giáo dục con cái. Góp phần
với Thiên Chúa tạo dựng sự sống mới và xây dựng thế giới ngày một
tốt đẹp và hạnh phúc hơn.


<b>Baøi 3 </b>



</div>
<span class='text_page_counter'>(33)</span><div class='page_container' data-page=33>

Như chúng ta biết, trong xã hội ngày nay tỷ lệ ly dị mỗi ngày
một gia tăng trầm trọng. Trong đó có trên 50% nguyên nhân do vấn
đề tình dục hoặc liên quan đến vấn đề tình dục. Tình dục là một yếu
tố quan trọng trong đời sống vợ chồng . nếu khơng có tình dục người
nam và người nữ không thể kết hợp thành vợ chồng cách trọn vẹn.
Nhờ tình dục mà vợ chồng nên một với nhau trong thân xác và trong
tâm hồn. Tình dục khơng phải là một cái gì xấu xa tội lỗi nhưng nó là
một hành vi thánh thiện (nếu chúng ta sử dụng đúng mục đích).
Chính Thiên Chúa đã tạo nên tình dục để con người được hạnh phúc
và để sinh con cái duy trì nịi giống. Qua những điều vừa nói ở trên
cho ta thấy tình dục ảnh hưởng sâu xa đến con người và xã hội như
thế nào. Vì thế ta cần phải hiểu biết giá trị của tình dục để bảo đảm
hạnh phúc cho gia đình và xã hội.


<b>II. Giá Trị Của Việc Giao Hợp:</b>


Hành vi giao hợp của con người khác hẳn với việc giao cấu của
lồi vật. Khác nhau ở chỗ nó là sự kết hợp của hai thân xác và hai
tâm hồn. Nếu khơng có sự kết hợp hai tâm hồn, tình dục chỉ là một
sự thoả mãn bản năng như loài vật. Sự kết hiệp này đã được Chúa
Giesu công nhận và nên lê hàng bí tích. Khi nên một với nhau trong
thân xác và tâm hồn họ tham dự vào cơng trình sáng tạo của Thiên
Chúa. Như thế, tình dục chỉ là phương tiện để đưa con người đến
hạnh phúc và để đạt đến cứu cánh là sinh con cái và duy trì nịi
giống. Nếu lấy tình dục làm mục đích con người sẽ chuốc lấy đau
khổ.


<b>III. Giá Trị Của Những Cử Chỉ Thân Mật:</b>



</div>
<span class='text_page_counter'>(34)</span><div class='page_container' data-page=34>

<b>Bài 4</b>


<b>TRÁCH NHIỆM CỦA CHA MẸ</b>


Từ đầu Thiên Chúa đã dựng nên hai con người với hai bản chất
khác nhau, để đảm nhận những vai trò, trọng trách khác nhau, nhưng
bổ xung cho nhau: Chồng và vợ; cha và mẹ. Theo truyền thuyết
Hylap, đó là hai nủa của một con người nguyên thuỷ. Vì cứ xung
khắc nhau đã tách ra. Sự xung khắc này thường do sự thiếu ý thức
trách nhiệm của mỗi người trong gia đình. Vì vậy để sống hạnh phúc,
chúng ta cần tìm hiểu và xác định vai trị, trọng trách của mỗi người.
Trước hết là người cha.


<b>A. Thiên Chức Của Người Đàn Ông: Làm chủ, làm chồng và làm</b>
<b>cha</b>


<b>I. Bản Chất Thiên Phú Nơi Người Đàn Ơng.</b>


Thiên Chúa Khơn ngoan đã trang bị cho đấng nài râu một hành
trang độc đáo: một cơ thể tráng kiện; một sức khoẻ dồi dào; một tâm
hồn mạnh mẽ; một lý trí sáng suốt; một sức mạnh tinh thần… Và
Ngài an bài cho họ một trọng trách lớn lao: làm chủ xã hội, làm chủ
gia đình. Nhưng ở đây ta chỉ nói đến thiên chúc làm chồng, làm cha.
Thật cao cả và vinh dự khi được làm “ơng chủ gia đình”. Nhưng
người ta thường nói: “càng cao danh vọng càng dày gian lao”. Làm
chủ thì sướng thật nhưng cũng có trách nhiệm lớn lao là đem lại hạnh
phúc cho “thần dân” của mình. Để làm một người chồng người cha
tốt, người đàn ơng cần phải có những đặc tính sau đây:


Tự thắng mình: nghĩa là họ phải tự vượt thắng được những yếu


đuối, những đam mê bất chính, những dục vọng thấp hèn… Thêm vào
đó, người đàn ơng phải ln kiểm thảo về bản thân, để có một nhận
định sáng suốt về chính mình nhờ đó mà vượt được bản tính tự tơn,
độc tài của mình.


</div>
<span class='text_page_counter'>(35)</span><div class='page_container' data-page=35>

hồn lành mạnh đó tránh khỏi những đam mê, dục vọng ích kỷ… Hơn
nữa, cần tu luyện cho có một lý trí sáng suốt để nhận định cái nào
đúng cái nào là sai. Cuối cùng phải nhận thức được vai trò của mình
trong gia đình để xứng đáng là một trụ cột trong gia đình.


<b>II. Vai Trị Chính Của Người Đàn Ông trong Gia Đình:</b>


Vì làm chủ trong một gia đình, người đàn ơng phải lo lắng hai
lĩnh vực chính: Lĩnh vực vật chất và tinh thần.


a. Lĩnh vực vật chất:


Với tư cách là người lãnh đạo gia đình. Người đàn ông phải là
lao chính để đảm bảo đời sống vật chất cho vợ con và cũng để giúp
củng cố thêm tinh thần quyền lực cho người chồng. Tuy nhiên, nếu
ông là nguồn tài chính duy nhất trong gia đình thì đừng độc đóan và
xem thương vợ, vì “của chồng cơng vợ”. Nếu khơng có vợ lo lắng
cho gia đình thì sao ơng có được một gia đình hạnh phúc. Vì vậy hãy
u thương và ln tỏ ra biết ơn vợ vì vợ đã lo lắng cho chính mình.


b. Lĩnh vực tinh thần:


Môn tâm lý học khẳng định: “Nhiệm vụ trước hết của người
<i>đàm ông là bảo vệ cho người bạn của mình và những đứa con tránh</i>
<i>khỏi những nguy hiểm, bất lơiï của môi trường sống chung quanh để</i>


<i>tiếp tục phát triển. Đồng thời tạo cho họ có một cuộc sống ấm êm</i>
<i>hạnh phúc mà yếu tố quan trọng là đời sống tình cảm”. Vì người đàn</i>
bà mang bản chất yếu nên người đàn ơng với lý trí vững mạnh và
sáng suốt phải trở nên một hoa tiêu giỏi để đưa vợ con đến bờ bến an
tòan. Bên cạnh đó, ơng cũng đừng coi thường vai trị của vợ. Vì bà
đã gánh vác những việc mà cho dù có sức mạnh ơng cũng khơng làm
được. Hãy tơn trọng vợ và cùng với vợ chung vai hoàn thành trách
nhiệm mà Thiên Chúa đã trao cho trong đời sống hôn nhân.


</div>
<span class='text_page_counter'>(36)</span><div class='page_container' data-page=36>

nói: “Thế giới khơng có phụ nữ như sa mạc khơng có ốc đảo”. Từ
nhận định trên ta thấy vai trò của người phụ nữ trong gia đình cũng
khơng kém quan trọng. Vậy ta thử phân tích người nữ có vai trị nào
trong gia đình.


<b>I.Vai trị và trọng trách của phụ nữ trong gia đình</b>
a. Vai Trị:


Bản chất của người phụ nữ là yếu mềm, thích được che chở.
Nhưng đừng vì thế mà các ơng tỏ ra xem thường họ. Dù là yếu mềm
nhưng người phụ nữ làm được những việc mà người đàn ông dù có
trai tráng đến đâu cũng khơng thể làm được: mang mnặng đẻ đau,
tinh tế trong việc nội trọ, muôi dạy con thơ, là sợi dây thân ái liên
kết mọi người trong gia đình, là sự dịu dàng mềm mỏng để gia đình
có được sự thỏai mái… Đó là những vai trị hết sức quan trọng của
người nữ trong gia đình mà người đàn ơng khơng thể làm thay được.


b.Trọng trách:


Trọng trách người nữ là gì? Thưa đó là thiên Chức làm mẹ,
một thiên chức cao cả mà thượng đế đã troa cho một phái yếu đuối


nhưng đầy tình thương. Từ họ mà phát sinh ra những vị thánh, những
bậc vĩ nhân, những thiên tài… Vì mang bản tính yếu đuối nên người
phụ nữ rất cần có một người chồng u thương và quan tâm. Khơng
có gì làm cho người vợ đau khổ bằng sự lãng quên, thời ơ của người
chồng; sự ngỗ nghịch vong ân của người con. Vì thế người chồng cần
phải ý thức những điều này để biết mình phải làm gì cho vợ.


<b>II. Những Điều Kiện Cầm Có Để Người Phụ Nữ chu tồn Thiên</b>
<b>Chức</b>


a. Trong xã hội đông phương cũ:


Cha mẹ thường dạy con gái: Tứ đức (cơng ,dung, ngơn hạnh);
tam tịng (tại gia tịng phụ – xuất giá tòng phu –phu tử tòng tử); ngũ
luân (nhân, lễ, nghĩa, trí, tín); ngũ thường (quân – thần, phụ – tử, phu
– phụ, huynh – đệ, bằng hữu)


</div>
<span class='text_page_counter'>(37)</span><div class='page_container' data-page=37>

Người phụ nữ được tự do hơn. Nhưng người phụ nữ đoan chính
vẫn cần phải có những đức tính sau:


 sự khơn ngoan tinh tế: Để duy trì bầu khí hạnh phúc trong gia
đình.


 Lịng can đảm, kiên nhẫn để vượt qua mọi gian lao thử thách
trong cuộc đời.


 Đức hy sinh, vị tha để đem lại hạnh phúc cho gia đình cùng
lịng đạo đức, nhân ái, tín trung và sự siêng năng làm việc


 Siêng năng học hỏi về nhiều lĩnh vực: Tình cảm, tâm lý, sinh


lý, y tế, giáo dục… để trở thành người vợ, người mẹ tốt.


Ngồi những đức tính trên người phụ nữ cần phải biết chăm
sóc thân thể (nhưng đừng quá đáng) để có một thể chất khoẻ mạnh,
đáng yêu, duyên dáng. Thêm vào đó cũng cần phải biết nấu ăn, may
vá… Đó là yếu tố cần thiết để người phụ nữ xây dựng một gia đình
hạnh phúc.


<b>III. Những Điều Cần Tránh Của Người Phụ Nữ</b>


Người phụ nữ cần cố gắng loại trừ những nhược điểm sau đây
có thể làm mất hạnh phúc gia đình và cá nhân của mình:


 Tính nhỏ mọn, tẹp nhẹp, thiếu quảng đại.
 Thói trắc nết, lăng lồn, hung bạo.


 Tính tự kiêu, kênh kiệu và ăn chơi bừa bãi.


 Thói xấu thích rượu chè, thuốc lá, kể cả tật ăn vặt, tiêu xài
hoang phí, cử chỉ, cách ăn mặc lố lăng.


 Tính xấu hay mắc phải nhất của người phụ nữ là tính lắm điều,
ghen tuông quá đáng và thù dai, ghét lâu.


Bạn sẽ sai lầm và mất mát hạnh phúc rất nhiều nếu để cho
những thói xấu này thường xuyên xảy ra. Nó có thể làm mất đi tình
u của chồng con, gia đình đổ vỡ, bất hạnh. Sách vở và thực tế đã
chứng minh rõ điều ấy.


</div>
<span class='text_page_counter'>(38)</span><div class='page_container' data-page=38>

<b>BAØI 5</b>



<b>HƯỚNG DẪN ĐỜI SỐNG HƠN NHÂN THEO PHÁP LUẬT</b>


A/ Dân luật


Hiến pháp của nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam
cũng như các nước trên thế giới đều công nhận hơn nhân gia đình là
một qui chế hợp pháp. Pháp luật bảo vệ hơn nhân, cơng nhận sự bình
đẳng một vợ, một chồng, qui định cha mẹ phải có trách nhiệm nuôi
dạy và giáo dục con cái, con cái phải có bổn phận thảo kính cha mẹ.


Lïn hơn nhân gia đình của nước Cộng Hịa Xã Hội Chủ
Nghĩa Việt Nam qui định hôn nhân tự do, tiến bộ, một vợ, một
chồng, nam nữ bình đẳng, bảo vệ quyền lợi phụ nữ, con cái, tạo hạnh
phúc, dân chủ, địan kết, hồ thuật, yêu thương… Luật hôn nhân loại
trừ mọi sự cưỡng ép, trọng nam khinh nữ, coi rẻ con cái.


Cấm kết hôn nam dưới 20 tuổi, nữ dưới 18 tuổi. Những người
hiện có vợ có chồng khơng được kết hơn hay ăn ở như vợ chồng với
người khác (144). Những người cùng dịng máu trực hệ (ba đời), cha
mẹ ni và con nuôi không được kết hôn với nhau. Những người bất
lực về sinh lý, bệnh lậu, hoa liễu, thần kinh khơng được kết hơn. Khi
có đủ lý do; tịa án nhân dân sẽ cho ly hôn sau khi đã có hịa giải.
B/ Đời sống hơn nhân theo giáo luật


Giáo luật số 1057 tóm tắt các yếu tố cấu thành hôn nhân như
sau: “Sự ưng thuận của hai người phối ngẫu được biểu lộ cách hợp
<i>pháp giữa hai người có tư năng pháp luật”. Vì thế hơn nhân trong</i>
thực tế cần phải có:



* Sự ưng thuận của hai ngưới phối ngẫu, tức là hai người này tự
nguyện đồng ý kết hôn với nhau cách thành thực (1101), chắc chắn
(1102), có ý thức (1406), tự do và được biểu lộ ra bên ngồi (1104),
bằng lời nói (hoặc cử chỉ)


</div>
<span class='text_page_counter'>(39)</span><div class='page_container' data-page=39>

ngăn trở niên hạn (1083), nam dưới 16 và nữ dưới 14, ngăn trở bất
lực (1084), một trong hai người phối ngẫu bị bệnh không thể giao
hợp được, ngăn trở hơn hệ (1085) tức là những người đã có hôn phối
thành sự đi kết hôn với người thứ ba, ngăn trở dị gi (1086), là một
người cơng giáo kết hôn với một người chưa chịu phép rửa tội, ngăn
trở thánh chức, cấm giáo sĩ kết hôn, ngăn trở đoạt hơn là khi bắt cóc
để cưỡng ép hơn nhân, ngăn trở tội ác là giết người phối ngẫu để tự
do kết hôn, ngăn trở huyết tộc là ngăn trở những người có huyết tộc
trực hệ cho đến bốn đời kết hơn với nhau, ngăn trở thích tộc là cấm
kết hơn người có huyết tộc trực hệ với người phối ngẫu của mình
trong hơn nhân trước


* Biểu lộ sự ưng thuận theo một hình thức khả dĩ làm cho ý
muốn bên trong được công khai minh bạch. Tức là sự ưng thuận của
các người phối ngẫu không phải chỉ được biểu lộ ra bên ngồi mà
thơi mà cịn trước mắt những nhân chứng do Giáo hội xác định, đó là
điều mà ta gọi là “hình thức”. Có ba loại hình thức. Hình thức thơng
thường là hơn lễ phải được cử hành trong nhà thờ hoặc nhà nguyện
trước đấng bản quyền địa phương (hoặc linh mục, phó tế được ủy
quyền) và trước hai nhân chứng. Hình thức đặc biệt thì giáo dân cũng
có thể chứng hơn với điều kiện là nơi đó thiếu linh mục và đã được
Đức Giám Mục cho phép. Hình thức ngoại thường là có thể chỉ kết
hơn trước hai nhân chứng khi nguy tử.


<b>Bài 6</b>



<b>NHỮNG KHĨ KHĂN</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(40)</span><div class='page_container' data-page=40>

nhau cũng như khoảng cách ngày càng độc lập giữa các thành viên
trong gia đình là điều chắc chắn xảy ra.


* Với nhịp sống cơng nghiệp hố và hiện đại hóa, mức độ di
dân ra thành phố thật là đáng kể. Những gia đình ở thơn q ra thành
phố sinh sống thì chỉ biết lo đi kiếm việc làm và đi làm, họ khơng
cịn có thể duy trì những truyền thống gia đình tốt đẹp ở thơn q.
Hơn nữa gia đình trẻ thành phố khơng có sự hướng dẫn, nâng đỡ của
cha mẹ và bà con chịm xóm dẫn đến gia đình dễ bị tổn thương.


* Ở các nước nghèo như chúng ta: sự thiếu thốn về kinh tế
cũng là một điều kiện mạnh đủ để gây ra những đổ vỡ trong gia đình.
Một khi đã là gia đình, hoặc khi đứa con ra đời, thì gia đình đó chi
tiêu rất nhiều lần nhưng kinh tế thì thiếu thốn từ đó khủng hoảng xảy
ra.


* Ngày nay người ta quan niệm tự do hơn, độc lập hơn, nhân vị
được đề con hơn, do ảnh hưởng của chủ nghĩa thực dụng. Nên trong
quan hệ vợ chồng cũng tự do hơn, người nam người nữ có thể có
nhiều mối tương quan hơn, chồng vợ có nhiều bạn bè hơn. Có nhiều
mối quan hệ riêng tư, sự tự do quá mức đôi khi đem lại nhiều khó
khăn, dễ gây hiểu lầm, sự chung thuỷ khơng cịn được đề cao.


* Tương quan giữa cha mẹ và con cái cũng khơng cịn như gia
đình truyền thống xưa, cha mẹ khơng cịn có uy quyền tuyệt đối trên
con cái, trái lại con cái có nhiều tự do, được luật pháp và cảnh sát
bênh vực, đôi khi chúng còn quá nhỏ để hiểu biết nên làm nhiều


điều sai trái bất đồng ý kiến với cha mẹ gây tổn thương cho gia đình.


* Các giá trị truyền thống cao qúy và tốt đẹp xưa kia cũng
khơng cịn tồn tại trong các gia đình ngày nay.


* Một quan niệm sai lạc về tự do người ta không coi tự do là
khả năng thực hiện sự thật, nhưng là sự tự khẳng định mình muốn
làm gì thì làm, nhân danh sự tự do cá nhân để phục vụ cho tính ích
kỷ của mình.


</div>
<span class='text_page_counter'>(41)</span><div class='page_container' data-page=41>

đúng giáo luật. Một mai không hợp nữa, họ dễ dàng chia tay, những
đứa con của họ là những người lãnh nhận hậu qủa nhiều nhất.


* Sự đề cao vai trò của phụ nữ trong gia đình hiện nay đơi khi
là một trở ngại cho hạnh phúc gia đình, người phụ nữ khơng cịn
giống “như xưa” mà trở thành “người đàn ông” của gia đình, dẫn đến
người chồng mặc cảm dễ gây lẫn cấn giữa vợ chồng.


* Có những cặp vợ chồng khơng có sự chuẩn bị để bước vào
đời sống hôn nhân, nên khi đã thành hơn thì gặp nhiều khó khăn mà
khơng biết cách giải quyết.


* Có những cặp vợ chồng cương quyết lấy nhau đầy đủ các
phép cho dù không đựợc cha mẹ hai bên chấp thuận. Một lúc nào đó
khi khó khăn nổi lên họ cũng dễ dàng chia tay nhau, vì đã sẳn có sự
khơng đồng ý của cha mẹ


* Đôi khi qúa dư thừa tiền bạc của cải cũng gây nên những hậu
qủa xấu cho gia đình, rượu chè, cờ bạc, bê bối, ăn chơi, ăn không
ngồi rồi, ngồi lê đơi mách hay cả chuyện lăng nhăng tình cảm…



* Sự sống chung dễ dẫn đến sự va chạm giữa đôi vợ chồng trẻ
và cha mẹ chồng hay cha mẹ vơ, anh chị em hai họ, làm rễ làm dâu,
“chữ hiếu chữ tình” nặng lịng dễ va chạm.


* Thiếu sức khoẻ cũng là một trong những nguyên nhân gây ra
sự đổ vỡ trong gia đình. Sức khoẻ cần để làm việc, sức khỏe cần để
học tập, sức khỏe cần để vui sống và phục vụ nhau đem lại niềm
hạnh phúc cho nhau. Sức khoẻ là cần thiết.


* Những sự bất đồng về tính nết tâm lý giữa hai vợ chồng cũng
dễ dẫn đến đổ vỡ. Thiếu sự nhường nhịn và hy sinh cho nhau thường
là nguyên nhân lớn nhất gây ra những cuộc cãi vã.


* Sự quen thuộc nhau qúa, sống với nhau qúa lâu cũng dễ dẫn
đến sự nhàm chán. Người kia khơng cịn là hấp dẫn cho mình nữa,
khơng cịn là “cơng chúa” hay “hồng tử” của nhau mà là hỏa ngục.


</div>
<span class='text_page_counter'>(42)</span><div class='page_container' data-page=42>

* Sự chênh lệch về học thức, trình độ cũng như sự hiểu biết
chênh lệch nhau dễ dẫn đến sự bất hoà trong quan niệm sống, đưa
đến sự khó hồ hợp.


* Cuối cùng là sự thiếu đạo đức của một trong hai người, hoặc
cả hai vợ chồng. Khơng có đời sống cầu nguyện, khơng có ân sủng,
khơng có Thiên Chúa hiện diện giữa gia đình thì làm sao gia đình
bền vững được.


Nói chung có rất nhiều khó khăn cho đời sống vợ chồng ngày
nay, nhưng họ sẽ vượt qua tất cả nếu như họ có một tình u đích
thực nơi Thiên Chúa và với nhau, nếu như họ hiểu biết được sự cao


q của hơn nhân cũng như ý định từ ngàn đời của Thiên Chúa đối
với hôn nhân và sứ mạng của gia đình cơng giáo thì những thử thách
khó khăn đó khơng làm gia đình đổ vỡ mà cịn là những giá trị làm
cho tình nghĩa vợ chồng gắn bó với nhau hơn nữa


<b>Thay Lời Kết</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(43)</span><div class='page_container' data-page=43></div>

<!--links-->

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×