Tải bản đầy đủ (.docx) (39 trang)

Nha tho Thach Quy

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (626.04 KB, 39 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>NHÀ THƠ THẠCH QUỲ</b>



Chi tiết


Được đăng ngày Thứ tư, 14 Tháng 9 2011 08:33
Viết bởi Võ Quê


Xem: 1619


<i>Giới thiệu nhà thơ Thạch Quỳ, hội viên Hội Nhà Văn Việt Nam.</i>


<b>Nhà thơ Thạch Quỳ </b>


Họ và tên thật: Vương Đình Huấn


Sinh năm: 1941


Quê quán: làng Đơng Bích, Xã Trung Sơn, huyện Đơ Lương, tỉnh Nghệ An.


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

Hiện đang sinh sống tại thành phố Vinh, Nghệ An.


<i><b>Tác phẩm:</b></i>


<b>Sao và đất</b>


<b>Nguồn gió và cơn mưa</b>
<b>Cuối cùng vẫn một mình em</b>
<b>Con chim Tà Vặt</b>


<b>Đêm Giáng sinh</b>
<b>Bức tượng</b>



<b>Tuyển 99 bài thơ Thạch Quỳ</b>


<i><b>THƠ THẠCH QUỲ</b></i>



<i><b>.</b></i>



</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

Ai mua mặt trời không?


Chẳng ai mua cả!


.


Thuở nhỏ tơi theo ơng đi bán mặt trời


Ơng bán mặt trời đeo chuỗi cườm ở cổ


Lấp lánh Kim Cương


Để râu dài theo phong cách ông tiên


.


Ai mua hoa?


Mặt trời là hoa đang nở!


Ai mua quả?


Mặt trời là quả chin trên cây!



Ai mua vòng, mua chuỗi, mua dây?


Ai mâm, bát, cồng, chiêng, gạt tàn thuốc lá?


Cứ tròn tròn là mặt trời đó cả!


.


Có một thuở mặt trời đắt giá


Tơi lẽo đẽo theo ông đi bán mặt trời


2007


<b>NƯỚC</b>


Biển không kham nổi nước


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

Bốc hơi!


.


Trời khơng kham nổi nước


Nước hóa mù


Mưa rơi!


.



Nước trở về với đất


Đất không kham nổi nước


Nước vào sơng, suối


Trơi!...


.


Nước ba lần hóa kiếp


Vẫn trong cuộc ln hồi


Người mấy lần hóa kiếp


Cho nên một kiếp người?


2006


<b>CÁC NHÀ THƠ UỐNG RƯỢU VỚI NHAU</b>


Lặng phắc chẳng nói gì


Rượu nhà thơ không nhắm với tiếng thở dài


Và nụ cười vẫn vậy!


.



Từ lâu, rượu và nhà thơ chia rẽ đôi đường


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

Mà thơ đã khác!


Rượu khinh thơ như rác


Rượu giành quyền lặng im


Thơ tỉnh queo cần chi đến rượu?


Rượu nép mình trong giá trị thơ


Thơ mất giá thơ hồi phí rượu


.


Các nhà thơ uống rượu với nhau


Rượu lặng phắc cúi đầu


Thơ ngẩng mặt ồn ào triết thuyết


Cái rượu biết chừ thơ không biết


Cái thơ ca chừ rượu không ca!


.


Hai ngả đường thơ, rượu chia xa



Trong quán cóc


Các nhà thơ uống rượu…


2007


<b>NGƯỜI LẶN BIỂN</b>


Đáy khẳm đại dương chừng như hiểu hết


Rồi lên bờ, cởi trần, ngồi lẫn giữa những người chăn vịt


Chẳng phải khiêm tốn, khiêm tung gì, quá mệt


mỏi nên anh vẫn ngồi im thin thít


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

Tai điếc đặc âm âm u u


Lời trong sóng khi khơng khi có


Lời trong gió khi có khi khơng


.


Xuống biển thua tơm cá


Lên trời thua Hải âu


Anh ngồi trên hịn đá



Nhìn bãi bờ trắng xóa


.


Vẫn tiếng người trong gió


Khi có lại khi khơng


Tiếng gió méo mó tiếng sóng


Tiếng sóng đồng bóng tiếng gió


.


Tai điếc đặc mờ mờ tỏ tỏ


Người đang nói điều chi chẳng rõ


Ngỡ như người chăn vịt thì nói về kỹ thuật chăn vịt


Hóa ra họ thao thao bất tuyệt


Về các địa tầng thủy tầng trong đáy đại dương…


10.2009


<b>BỨC TƯỢNG</b>


Em đã sống bình yên như tượng



</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

Mưa hay nắng


Cứ trơi


Ngồi vỏ


Nằn hay mưa


Cứ trổ


Ngồi da


Chẳng đàn ơng, em chẳng đàn bà


Em đã sống bình yên như tượng…


.


Anh đấy ư?


Thiên thần?


Quỷ dữ?


Ai thổi vào tượng đá một con tim


Ai biến tượng thành người


Biến đá thành em!



.


Những ngày tháng bình yên đã chết


Kể từ khi tượng biến thành người


Những năm tháng êm đềm cũng chết


Nông nỗi nào quay quắt trái tim ơi!


.


Anh kẻ mang phép màu thượng đế


</div>
<span class='text_page_counter'>(8)</span><div class='page_container' data-page=8>

Xin cho em trở về kiếp đá


Đá hóa thành bức tượng giống người thôi!


4.2006


<b>GIẤY LOẠI</b>


Đống giấy loại cao dần


Đống giấy loại cao chưa từng thấy


Chúng cao hơn báo chí, văn chương…


.



Quá khứ niệm chú trong giấy loại


Tương lai trong giấy loại mơ màng


.


Nhà văn ư?


Nhà báo ư anh?


.


Lời nói đang nhiễu xạ âm thanh


Và chữ viết, bơi nhịa giấy trắng


.


Đống giấy loại cao dần


Trọc lóc rừng xanh!


2008


<b>CON SÊN</b>


Con sên bị trên đường rớt dãi ngoằn ngo của nó


</div>
<span class='text_page_counter'>(9)</span><div class='page_container' data-page=9>

Khơng phải bị từ đâu đến đâu và bị để làm gì



Con sên tạo nên những nét hoa văn trên quỹ đạo đường đi


Những nét kỷ hà diệu kỳ


Và để lại thiên nhiên một bức tranh diệu kỳ trên lá…


<i>Tam Đảo 7/9/2011</i>
<b>ÔNG GIÀ NGHỄNH NGÃNG</b>


Chạy đến ga cuối cùng con tàu dừng lại


Ơng già khơng xuống tàu


Quay lại ga đầu tiên con tàu dừng lại


Ơng già khơng xuống tàu


Người lái tàu hỏi ơng già về đâu?


Ơng già hỏi con tàu về đâu?


Ga cuối ga đầu


Ga đầu ga cuối


Ông già lảm nhảm


Người bán vé tàu cứ bán



Chạy đến ga cuối cùng, con tàu quay lại


Chạy về ga đầu tiên, quay lại con tàu


Người lái tàu khơng hỏi thêm gì nữa


Rằng ông già nghễnh ngãng


Đi đâu và về đâu?


</div>
<span class='text_page_counter'>(10)</span><div class='page_container' data-page=10>

Giá thuở ấy Mỵ Nương được phép nói lên


Rằng yêu ai do trái tim lựa chọn


Giá thuở ấy vua cha và thần núi thần biển


Có khái niệm sơ khai về quyền của trái tim


Thần núi chẳng dương oai…


Thần biển không diễu võ…


Gác mái gươm đao con đường máu đổ


Đâu dễ lát đường để đến tình yêu…


<i>Tam Đảo 7/9/2011.</i>
<b>ĐỢI EM NGÀY GIÁP TẾT</b>


Trời đã tết. Khói xanh mờ bụi nước



Góc vườn con hoa mận đã đơm khuy


Lòng như đất lặng thầm mơ dấu guốc


Cỏ thanh thiên hoa trắng đợi em về


<b>QUẠT CHO BÀ NGỦ</b>


Ơi chích chịe ơi


Chim đừng hót nữa


Bà em ốm rồi


Lặng cho bà ngủ


Bàn tay bé nhỏ


Vẫy quạt thật đều


Ngấn nắng thiu thiu


</div>
<span class='text_page_counter'>(11)</span><div class='page_container' data-page=11>

Căn nhà đã vắng


Cốc chén lặng im


Đôi mắt lim dim


Ngủ ngon bà nhé



Hoa xoan, hoa khế


Chín lặng trong vườn


Ba mơ tay cháu


Quạt đầy hương thơm


<b>VỚI CON</b>


Con ơi con thức dậy giữa ngày thường


Nghe chim hót đừng nghe mê mải quá


Qua đường đất đến con đường sỏi đá


Cha e con đến lớp muộn giờ.


Con ơi con nàng Bạch Tuyết trong mơ


Không thể nào yêu con thay mẹ được


Và vì thế, nếu khuy áo con bị đứt


Thì nói lên để mẹ khâu cho.


Và con ơi trên ấy ngân hà


Có thể rồi con sẽ lên đến được



Nhưng đêm nay thì con cần phải học


Bốn phép tính cộng trừ hay đọc một trang thơ.


Con ơi con, nếu thầy giáo dạy con


</div>
<span class='text_page_counter'>(12)</span><div class='page_container' data-page=12>

Thì con hỡi hãy khêu cho rạng


Ngọn bấc đèn con hãy vặn lên to.


Con ơi con, trái đất thì trịn


Mặt trăng sáng cũng trịn như đĩa mật


Tất cả đấy đều là sự thật


Nhưng cái bánh đa trịn, điều đó thật hơn!


Mẹ hát lời cây lúa để ru con


Cha cày đất để làm nên hạt gạo


Chú bộ đội ngồi trên mâm pháo


Bác công nhân quai búa, quạt lị.


Vì thế nên, lời cha dặn dị


Cũng chưa hẳn đã là điều đúng nhất



Cha mong con lớn lên chân thật


Yêu mọi người như cha đã yêu con.


<b>CỐT CÁCH NGƯỜI MIỀN TRUNG QUA THƠ THẠCH</b>
<b>QUỲ - TỪ MỘT GÓC NHÌN </b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(13)</span><div class='page_container' data-page=13>

Tác giả Mai Văn Hoan


Miền Trung là vùng đất “gió Lào cát trắng”, bão lụt triền miên; là
nơi phải chịu đựng bao cuộc chiến tranh vơ cùng tàn khốc; cũng là
vùng đất có nhiều phong cảnh kỳ thú… Tất cả đó đã góp phần tạo
cho con người miền Trung những đặc điểm riêng, những cốt cách
riêng. Nếu như người miền Bắc lịch lãm, mềm mỏng, tao nhã;
người miền Nam phóng khống, hào hiệp, cởi mở thì người miền
Trung cứng rắn, khảng khái, thật thà. Nhà nghiên cứu Đặng Thai
Mai từng khái quát: “Người Nghệ - Tĩnh can đảm đến sơ suất, cần
cù đến liều lĩnh, kiên quyết đến khơ khan, tằn tiện đến cá gỗ”. Điều
đó khơng chỉ đúng với người dân Nghệ - Tĩnh mà rất đúng với
người dân miền Trung nói chung. Nét riêng này đã ảnh hưởng ít
nhiều đến sáng tác của các tác giả gắn bó khăng khít với mảnh đất
miền Trung, trong đó có Thạch Quỳ.


Nhà thơ Thạch Quỳ tên thật là Vương Đình Huấn, sinh năm 1941,
tại làng Đơng Bích, dưới chân núi Quỳ Sơn (dân địa phương gọi là
rú Cuồi) thuộc xã Trung Sơn, Đô Lương, Nghệ An, trong một gia
đình trí thức Nho học. Ơng nội nhà thơ thuộc dịng dõi khoa bảng,
ơng ngoại từng thi đỗ ba khoá tú tài, bà ngoại và mẹ là cả một kho
tàng văn học dân gian. Cho đến nay, Thạch Quỳ đã cho ra mắt 8


tập thơ: Sao và đất (in chung, 1967); Tảng đá nhành cây (1973);
Nguồn gốc cơn mưa (thơ thiếu nhi 1978); Con chim Tà Vặt
(1985)); Cuối cùng vẫn một mình em (1996); Đêm giáng sinh
((2004). Tuyển thơ Thạch Quỳ (2009); Bức tượng (2010). Anh là
một trong những tên tuổi sáng giá của thế hệ những cây bút trưởng
thành trong cuộc kháng chiến chống Mỹ và vững bước trên con
đường thi ca đầy chông gai cho đến bây giờ.


</div>
<span class='text_page_counter'>(14)</span><div class='page_container' data-page=14>

là tảng đá ở núi Quỳ). Những vần thơ đầu tiên anh ngồi viết trên
tảng đá ấy là những vần thơ bắt chước những bài hát đồng dao của
lũ trẻ chăn trâu quê anh: <i>Nhổ lác nhổ từng cây/ Nhổ năn măn từng</i>
<i>rễ/ Lưng cúi gập suốt ngày/ Bắp chân đầm máu đĩa</i>… (Bài hát của
những người nhổ cỏ năn, cỏ lác ở vùng đồng chiêm trũng). Nếu
không phải là người trong cuộc chắc không thể viết được những
câu thơ giàu chất hiện thực như thế. Anh kể: thời đó, anh cùng với
nhà thơ Vương Trọng từng đội những giành phân đầy, bụng đói
cồn cào, cố hết sức leo dốc, vượt qua đỉnh núi Quỳ. Có lẽ phải trải
qua những tháng năm khó khăn ấy mà sau này, khi viết về cái
nghèo, cái đói khơng nhà thơ nào ở xứ ta diễn tả sinh động như
anh, hóm hỉnh như anh, thấm thía và sâu sắc như anh: <i>Cái nghèo</i>
<i>đội nón cời và nhón chân từng bước/ Cười sưa răng trên miệng</i>
<i>ấm sứt vịi</i>. Anh nhân cách hóa cái nghèo thành một kẻ vô cùng
ranh mãnh: <i>Mày núp trong vừng trán mẹ răn reo/ Mày ẩn dưới</i>
<i>gót chân em nứt nẻ / Mày luồn lọt qua trăm ngàn mối chỉ/ Để</i>
<i>nằm trong mảnh vá áo con ta</i>/ <i>Đêm ta ngủ thì mày hóa kiến/ Bị</i>
<i>nơn nao trong ruột đói của ta</i>… Anh nhận ra đằng sau cái nghèo
là những thế lực vơ cùng độc ác: <i>Cái nghèo có nọc/ Đốt cha ông</i>
<i>từ thuở chẳng chăn màn </i>(Cái nghèo). Chính bọn chúng là nguyên
nhân chủ yếu dẫn đến cái nghèo, cái đói của dân. Nhưng người
dân quê anh nói riêng và người miền Trung nói chung khơng cam


chịu cảnh nghèo. Họ cố tìm đủ mọi cách để thốt khỏi đói nghèo.
Cái mà nhà nghiên cứu Đặng Thái Mai đúc kết “tằn tiện đến cá
gỗ” là muốn nói đến nghị lực dùi mài kinh sử của những ông đồ
xứ Nghệ. Thạch Quỳ cũng đã thể hiện cái ý chí, cái nghị lực phi
thường ấy theo cách riêng của mình: <i>Lịng viên sỏi vẫn giữ màu</i>
<i>máu đỏ/ Núi nghiêng vai vác con đường lên</i> (Tặng những cô gái
đập đá bên đường khơng tên); <i>Giọt mưa gom hạt bụi hóa phù sa</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(15)</span><div class='page_container' data-page=15></div>
<span class='text_page_counter'>(16)</span><div class='page_container' data-page=16>

phào nhẹ nhõm và xác nhận bà con góp ý hết sức chính xác. Anh
bị gạch tên khỏi danh sách đề cử bởi những lý do có thể nói là hết
sức vớ vẩn. Cũng vì những lý do hết sức vớ vẩn ấy mà Quốc hội
bỏ sót một đại biểu tài năng, một tiếng nói thẳng thắn, trung thực.
Cái bản tính thẳng thắn, khảng khái, cương trực của anh không chỉ
được thừa hưởng từ ren di truyền mà còn được thừa hưởng từ các
bậc tiền bối vùng quê Nghệ - Tĩnh như Nguyễn Du, Nguyễn Cơng
Trứ, Phan Bội Châu…


Đọc lại tồn bộ thơ Thạch Quỳ, điều dễ nhận nhất là cái khí chất
mạnh mẽ và đầy bản lĩnh của một cây bút từng trải: <i>Trơ trơ tảng</i>
<i>đá/ Đá đổ mồ hôi/ Biết hay không biết/ Lầm lì mồ cơi</i> (Tảng đá);


</div>
<span class='text_page_counter'>(17)</span><div class='page_container' data-page=17>

<i>Máu trào tn, sẹo đóng tự trong hồn / Tơi mệt mỏi đến khơng cịn</i>
<i>sợ chết / Nhưng vẫn lịng ham sống thật tôi hơn</i>. Anh khảng khái
tuyên bố: <i>Những đau khổ không làm tôi gục xuống</i> (Tơi). Có
người nói đùa: ruột Thạch Quỳ cịn thẳng hơn ruột ngựa, tính
cách Thạch Quỳ cịn rắn hơn cả những tảng đá ở núi Quỳ!


Thạch Quỳ không chỉ có thế. Anh là nhà thơ của những suy tư, trăn
trở: <i>Bàng hoàng giữa một ngày/ Mình sống hay chẳng</i>
<i>sống?”</i>(Khơng đề); <i>Nghìn năm mưa đã từng mưa/ Thấm vào viên</i>


<i>sỏi hay chưa thấm vào?</i> (Lời nghìn năm); <i>Tơi chờ ai nữa? Mùa</i>
<i>thu rộng/ Gió thả bên trời lá liễu bay</i> (Mây trắng mùa thu)… Anh
là nhà thơ của những triết lý, chiêm nghiệm: <i>Lưỡi gươm ròng</i>
<i>ròng máu tươi/ Nước mắt ướt đầm yên ngựa/ Chỉ có đất với trời</i>
<i>và cỏ/ Hiểu đường đi của giọt máu người</i>” (Qua đền Cuông ghi
chuyện cũ); <i>Cụ đi tìm chân kinh/ Ở thứ kinh khơng chữ</i> (Bên mộ
Nguyễn Du); <i>Với Lan Châu ngấn sóng ánh trên tường/ Luôn luôn</i>
<i>động theo nhịp trời, nhịp biển</i> (Trở lại Lan Châu); <i>Cái nghèo xơ</i>
<i>trên bộ cánh làm sang/ Cái nghèo xác lại nằm trơ đáy đĩa</i> (Cái
nghèo)… Anh cịn là nhà thơ của tình u lứa đơi: <i>Trời đã tết.</i>
<i>Khói xanh mờ bụi nước/ Góc vườn con, hoa mận đã đơm khuy/</i>
<i>Lòng như đất lặng thầm mơ dấu guốc/ Cỏ thanh thiên hoa trắng</i>
<i>đợi em về</i> (Đợi em ngày giáp tết);<i> Anh yêu em hơn thần thánh yêu</i>
<i>nhau/ Một khẽ chạm tay, rung toàn cơ thể </i>(Khơng đề); <i>Đó là</i>
<i>chiều nắng nhạt lá thơng rơi/ Đó là sớm kim chi màu cỏ biếc. Tơi</i>
<i>trở lại sau mười năm cách biệt/ Bên em trước cỏ lặng yên ngồi</i>


(Huế)… Nhưng theo tôi: cái cứng rắn, cái thẳng thắn, cái khảng
khái trong thơ Thạch Quỳ thể hiện cốt cách của người miền
Trung rõ nét hơn cả. Điều đó đã góp phần quan trọng giúp cho
thơ anh có sức lan tỏa và sức sống lâu bền.


</div>
<span class='text_page_counter'>(18)</span><div class='page_container' data-page=18>

đại có Nguyễn Du, Nguyễn Công Trứ, Tùng Thiện Vương,
Nguyễn Hàm Ninh… Thời Thơ Mới có Hàn Mặc Tử, Xuân Diệu,
Chế Lan Viên, Huy Cận, Lưu Trọng Lư… Thời kháng chiến
chống Pháp, chống Mỹ có Hồng Trung Thơng, Hữu Loan, Thu
Bồn, Nguyễn Khoa Điềm, Nguyễn Duy, Thanh Thảo… Bằng tài
năng và tâm huyết của mình các nhà thơ miền Trung đã góp phần
thúc đẩy sự phát triển nền thơ ca nước nhà qua các thời đại. Tìm
hiểu cốt cách người miền Trung trong thơ Thạch Quỳ cũng chính


là tìm hiểu bản sắc riêng của tác giả, của từng vùng miền khác
nhau. Thơ dù đổi mới, cách tân đến đâu nhưng nếu đánh mất bản
sắc của mình, của quê hương mình, của dân tộc mình thì khó lịng
có sức lan tỏa và sức sống lâu bền.


Trại viết Tam Đảo, tháng 9 – 2011


<b>Mai Văn Hoan </b>


***


<b>THẠCH QUỲ, ÔNG ĐỒ GÀN XỨ NGHỆ</b>
<b>Nguyễn Quang Lập</b>


Mấy hôm đi chơi khu 4, tới Vinh vào buổi trưa nắng gắt, mấy anh
em tìm chỗ nào mát mẻ nghỉ ăn trưa, nhác thấy khách sạn 3 sao có
tên <i>Thượng Hải</i>, bình thường chẳng dám sờ vào mấy khách sạn
lắm sao này đâu nhưng thấy cái tên hơi lạ, nói thật là ngứa mắt nên
rủ nhau kéo vào, xem thử chủ khách sạn có phải là ông Tàu không.


</div>
<span class='text_page_counter'>(19)</span><div class='page_container' data-page=19>

về Vinh không ghé thăm bác Thạch Quỳ chút à, mình chẳng biết
nói sao chỉ cười trừ.


Mình gọi điện cho Tuyết Nga, nói Thạch Quỳ dạo này thế nào.
Tuyết Nga cười hi hi, nói ơi giời như một bộ rể bị bật ra khỏi đất,
đắp chăn ngủ suốt ngày, chán đời lắm. Lại cịn đẻ ra trường phái
thơ bộ xương. Mình nói thơ gì, Tuyết Nga lại cười hi hi hi, nói thơ
bộ xương. Mình nói thơ bộ xương là thơ gì, Tuyết Nga cười hi hi
hi, nói em có biết thơ gì đâu, ơng này mỗi ngày khơng đẻ ra một
cái gì mới là không chịu nổi.



Kỳ thực trong bụng cũng muốn gặp Thạch Quỳ lắm nhưng chương
trình đã set up từ Hà Nội mình chẳng dám thay đổi, sợ phiền anh
em. Thêm nữa mình đã hai chục năm rồi khơng đến nhà anh, qn
mất nhà, điện thoại lại khơng có. Đó cũng chỉ là chuyện nhỏ, cái
chính là mình sợ anh em khơng quen tính cách ơng đồ gàn xứ
Nghệ, mất vui.


Cái ông đồ gàn này đẻ ra dưới chân núi Quỳ tính cách cứng như
đá, đến xứ Nghệ hỏi trăm người thì có đến trăm rưỡi người biết
anh nhưng đa phần đều nể sợ, chơi thân thì rất hiếm. Mình đến Hội
văn Nghệ hỏi nhà Thạch Quỳ đâu, ai cũng nhiệt tình chỉ dẫn, hẹn
đến chơi nhà anh thì mắt trước mắt sau nói cười nhàn nhạt, kiếm
cớ chuồn hẳn.


Tính gàn có từ thời trẻ, làm giáo viên tốn dạy cực siêu nhưng
soạn giáo án chẳng giống ai, lên lớp chẳng giống ai, chấm điểm
chẳng giống ai, đối xử với học trị cũng chẳng giống ai. Anh nói
với học trị tôi ăn lương nhà nước không phải để đi truyền thụ kiến
thức đâu nhé, các anh chị đừng có mơ, lương nhà nước trả tôi chỉ
vừa đủ cho tôi gợi mở kiến thức thơi, kiến thức khơng phải mấy
món đồ mồi thầy cô bày ra cho các anh chị chén đâu, muốn giỏi
giang thì liệu thần hồn tự đi mà kiếm lấy .


</div>
<span class='text_page_counter'>(20)</span><div class='page_container' data-page=20>

chứ không phải hạng cá ươn như các anh đâu. Từ khi vác ô đi làm
anh công chức nhà nước Thạch Quỳ đả đồng sự kiểu đó nhiều vơ
thiên lủng, người ngồi nghe sướng rêm, kẻ trong giận tím ruột.


Khoảng năm 1967, 1968 chi đó khi anh cịn dạy ở miên tây Nghệ
An, nghe có người xin ra HTX, nhà trường cử anh về tận nhà gặp


gỡ động viên giải thích cho người này. Anh tới hỏi răng bác bỏ
HTX? Người này cười cái hậc, nói tui như con gà, muốn ở trong
chuồng lắm chớ! Nhưng trong chuồng có con cáo, có ai bắt cáo
cho mơ mà vơ. Thạch Quỳ gật gà gật gù, nói hay hay giỏi giỏi, rồi
đi kể chuyện khắp nơi. Ông xếp huyện gặp Thạch Quỳ, nói anh là
thầy giáo tại sao lại đi tuyên truyền lời lẽ của bọn phản động.
Thạch Quỳ cười khấc khấc, nói chính bác mới là thằng phản động,
bởi vì bác cấm đốn những lời nói thật.


Tất nhiên sau đó Thạch Quỳ mất dạy, hi hi. Anh bỏ giáo dục sang
hẳn làng văn nghệ, tình hình chẳng khá hơn, đồ gàn gặp đồ lót đồ
hèn đồ dơ chịu làm sao thấu. Năm 1979, 1980 chi đó anh làm bài
thơ <i>Với con</i> ai cũng khen hay, báo <i>Nhân dân</i> đăng lại đàng hoàng
nhưng trong tỉnh nổi lên một cơn sóng thần phản ứng dữ dội. Xuân
Diệu ba chân bốn cẳng chạy về Vinh, Hội nhà văn cử hết đồn này
sang đồn khác về giải thích này nọ nhưng chẳng ăn thua, cơn
sóng thần ngày một lan toả, ai cũng lo cho anh, mình cũng lo.
Mình gặp anh ở Hà Nội, nói răng rồi tình hình răng rồi, anh nhăn
răng cười, nói tình hình là rất tình hình. Rồi anh nốc cạn ly rượu,
nhổ nước bọt cái toẹt, nói è he, mần cặc chi tao.


</div>
<span class='text_page_counter'>(21)</span><div class='page_container' data-page=21>

Được vài tháng gặp anh ở ga, anh kéo vào quán, nói tơi lại về
Nghệ đây. Mình hỏi sao, anh ngồi n khơng nói, uống rượu tì tì,
một lúc nhổ nước bọt cái toẹt, vỗ vai mình cái bộp, nói này ông, tôi
sống với mấy đứa ác còn dễ chịu hơn sống với mấy đưa ngu. Mình
chẳng biết nói sao, chỉ khẽ vỗ nhẹ vai anh, nói thơi anh về q tiếp
tục công tác rượu chè gái gú cho khoẻ xác. Anh nhăn răng cười,
nói phải phải, mạng tơi chỉ hợp với gái thơi, chẳng hợp với thằng
đéo nào.



Mình cười khì, nói anh phét vậy thơi chứ anh tán gái vụng bỏ cha.
Mấy cơ u thương ngưỡng mộ thì anh coi người ta bằng nửa con
mắt, mấy cô coi anh bằng nửa con mắt thì anh đánh đu suốt đời,
cuối cùng xơi hỏng bỏng khơng. Anh cười khấc khấc khấc, nói rứa
mới đồ gàn. Tôi mê gái từ lúc sáu tuổi, khơng nói phét đâu nhé,
các cơ gái đẹp trong làng tôi đều mê, bất kể họ hơn tôi vài chục
tuổi. Ra đồng tôi cứ bám theo họ, lắm khi họ phát điên, đuổi đánh
chí chết. Đường từ làng ra đồng có hai hàng cây xương rồng, cứ
một đoạn tơi lại khắc tên một cô tôi mê vào cây xương rồng, sáu
bảy chục cô cả thảy. Cô nào cười chồng tôi mò đến đám cưới đứng
đầu ngõ đái một phát rồi bỏ chạy, coi như trả thù xong. Dứt lời anh
cười to, nói bây chừ thì đi mơ cũng mị về mụ Nhã, ẻ vô gái gú,
quẹt quẹt.


Chị Nhã vợ anh xưa xinh đẹp nhất làng, yêu anh từ 13 tuổi, đến 16
tuổi thì theo anh bơn ba cho đến bây giờ, khổ đau đói nghèo đắng
cay đủ hết khơng một lời ca thán. Hơm mình đến chơi nhà, bất ngờ
thấy chị quá xinh đẹp so với anh. Chị lúi húi tất tả hết vào bếp xáo
nấu, ra vườn hái rau, xuống bể rửa chén, nói mãi chị mới chịu ngồi
vào mâm. Hồi này xứ Nghệ có phong trào ni hươu sao, một con
hươu cái đến mấy chục triệu. Anh khoác vai chị hơn cái chụt, nói
em có biết anh mơ gì khơng, anh mơ sáng mai ngủ dậy, bên anh
khơng phải là em mà là một con hươu sao.


</div>
<span class='text_page_counter'>(22)</span><div class='page_container' data-page=22>

anh biến thành con hươu sao để em bán đi lấy tiền ni con khơng
thì cực q.


Chị không cười, nước mắt rân rấn. Anh cười khấc khấc khấc,
chẳng phải cười, nghe như anh cố khạc ra mấy cục đắng ngắt.



N.Q.L


o/2010/05/26/thach-quy-ong-do-gan-xu-nghe/
<b>THẠCH QUỲ, MỘT CÁI TÔI NHƯ ĐÁ RẮN</b>


<b>Nga Linh Nga</b>
.


Xứ Nghệ từ bao giờ đã nổi danh là xứ của những con người hay chữ, tính cách
gai góc, bản lĩnh sắt đá; xứ của chuyện trạng, của thơ… Mang trong mình một
chút dị biệt giống như những người ít nhiều dính líu tới chữ nghĩa ở đất Nghệ,
Thạch Quỳ được nhiều người biết<b>. </b>Sinh ra từ cái làng nhỏ dưới chân núi Quỳ
thuộc huyện Đô Lương tỉnh Nghệ An, Thạch Quỳ là một trong những tên tuổi
của thế hệ những cây bút chống Mỹ. Màu sắc đặc biệt của cái <b>Tôi </b>riêng nơi
những quan niệm, những sáng tác của Thạch Quỳ, từng gây được chú ý cho bạn
bè đồng nghiệp cũng như độc giả.


Tên thật của Thạch Quỳ là Vương Đình Huấn. Anh sinh trưởng trong một gia
đình khá đặc biệt. Theo gia phả, gốc gác tổ tiên anh là một ơng quan Thượng thư
Bộ Hình triều Minh, bị đuổi đánh phải rời Bắc Kinh dong buồm đến Hội An
sống cuộc sống lưu vong. Ông tổ của dịng họ là một đứa trẻ được một người
lính qn của Nguyễn Ánh nhặt đưa về xứ Nghệ cho làm con ni.


Ơng nội Thạch Quỳ là người thơng tuệ đặc biệt. Chính ơng là người đã đem đến
cho anh nguồn tri thức thâm thuý từ văn học cổ điển. Riêng ngọn gió mát lành
của văn học dân gian thì Thạch Quỳ được hưởng từ bà nội và mẹ. Mẹ anh là cả
một kho tàng văn học truyền miệng. Bà là con gái một nhà nho hào hoa phong
nhã, học vấn cao nhất vùng.


Khơng biết trí tuệ mẫn tiệp nơi những người đàn ông và tâm hồn phong phú nơi


những người đàn bà của dịng họ, hay ngọn gió núi Quỳ và hạt cát làng Đơng
Bích, đã hun đúc nên con người nhà thơ có cái Tơi như đá rắn – Thạch Quỳ.


<b>Người ln tự làm khó cho mình</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(23)</span><div class='page_container' data-page=23>

học ở một trường đại học sư phạm. Yêu văn học nhưng anh chọn lựa làm một
thầy giáo dạy toán. Chàng học trị Thạch Quỳ ngày ấy có ý nghĩ độc đáo: văn thì
tự đọc cũng có thể hiểu được nên có thể tự học, riêng tốn khơng có thầy thì
chịu, nên cần phải được học.


Thạch Quỳ kể ngày cịn là sinh viên khoá 2 của trường Đại học Sư phạm Vinh,
anh thường phải thức trong bóng tối để viết ra những suy nghĩ, những bài thơ
bằng chiếc bút chì nhỏ, sáng ra mới mò mẫm chép lại.


Ngày ấy, để rèn luyện nếp sống tập thể, nhà trường bắt buộc tất cả các sinh viên
phải nhất loạt cùng dậy lúc 5h và cùng ngủ lúc 11h, nếu ai không thực hiện được
điều đó thì coi như vi phạm kỷ luật và bị khiển trách. Là một chàng trai lãng
mạn, thông minh, đầy tài năng, chỉ thích đắm mình vào những suy tưởng, những
giấc mơ của riêng mình, “phớt Ăng-lê” trước mọi chuyện, Thạch Quỳ trở thành
một sinh viên “cá biệt”: thiếu ý thức kỷ luật, trốn thể dục tập thể buổi sáng, lên
lớp muộn… và sớm trở thành người “có vấn đề” trong tác phong, lối sống.
Năm 1962, tốt nghiệp đại học, anh về một huyện nghèo dạy học và bắt đầu số
phận khơng bình lặng của một kẻ lập thân mà không biết “tối hạ thị văn
chương”. Là một giáo viên dạy giỏi nổi tiếng, được phân công làm chủ nhiệm,
nhưng anh khơng phải là đồn viên. Cách lên lớp, cách soạn giáo án, nhất là lối
sống “tập thể” mang đầy tính hình thức đã làm Thạch Quỳ cảm thấy nhàm chán
và bị ức chế.


Là người sâu sắc, nhạy cảm với các vấn đề của đời sống, lại có khiếu quan sát
tinh tế, luôn muốn được chia sẻ, Thạch Quỳ đã hơn một lần tự làm khó cho bản


thân bằng chính các phát hiện của mình. Ngày dạy học ở miền núi, có một gia
đình học sinh của Thạch Quỳ xin ra khỏi Hợp tác. Ngày ấy ra khỏi Hợp tác xã là
một chuyện tày trời, lý lịch sẽ có một vết đen và tương lai của cậu học sinh đó
coi như mù mịt. Là giáo viên chủ nhiệm, anh có trách nhiệm phải tìm hiểu sự
thật. Anh đến nhà và hỏi ơng chủ của gia đình, một người Thổ: “Cụ nghĩ gì mà
lại xin ra khỏi hợp tác xã?”, người đàn ông trả lời: “Ta như con gà! ta cũng
muốn ở trong chuồng lắm chớ! Nhưng trong chuồng có con cáo, có ai bắt cáo
cho mơ mồ” (tiếng địa phương “mô mồ” nghĩa là “đâu”). Thấy ngộ nghĩnh,
Thạch Quỳ đem kể cho bạn bè nghe và thế là anh bị coi như đã tuyên truyền,
ủng hộ cho một thứ tư tưởng tiêu cực.


Một lần khác, khi về một huyện nhỏ, Thạch Quỳ thấy người ta phá đi cả một
làng trù phú để đưa dân lên núi, cây nhãn cổ thụ của làng đội một mâm hoa vàng
rực rỡ, bị máy húc đẩy đi hàng trăm mét nhưng không đổ, cứ đứng trơ mà chết,
anh đã đem kể với mọi người và gọi đó là một “cây nhãn Từ Hải”, tình thế lại
giống với câu chuyện trên.


</div>
<span class='text_page_counter'>(24)</span><div class='page_container' data-page=24>

<b>Tơi" là một hình tượng bao trùm và cũng là ấn tượng mạnh mẽ nhất trong</b>
<b>sáng tác của Thạch Quỳ. Đây khơng chỉ là </b><i><b>cái tơi</b></i><b> trữ tình tốt lên đằng sau</b>
<b>những sáng tạo nghệ thuật. Đây là </b><i><b>cái tôi</b></i><b> được thể hiện như một đối tượng</b>
<b>trực tiếp, xuyên suốt của thơ. Dường như một “đường thẳng hình học” đã</b>
<b>được thiết lập, nối từ nhà thơ đến độc giả. </b>


<b>"Tôi"</b>mạnh mẽ, tỉnh táo, tự tin trực diện với người đọc: “Tơi một nửa nam-mơ /
<i>Một nửa a-men / Một phía ngóng trời, một phần ngóng đất / Thân thể tơi như</i>
<i>chiếc cột ăng-ten / Vừa phát sóng, vừa tự mình rỉ rét” (</i><b>Tự khúc mùa xuân</b>);
<i>“Không bé nhỏ tầm thường, khơng vĩ đại / Có thể vứt đi trong xó tối u buồn / Có</i>
<i>thể đứng trên đơi chân vững chãi / Tơi một mình, tơi lớp lớp triều dâng /… Tôi</i>
<i>muối mặn với cuộc đời dân dã / Tôi áo cơm no đói với ngày thường” (</i><b>Tơi</b>).



<b>"Tơi"</b>thẳng thắn, lạnh lùng: “Từng đối mặt với bạo tàn, chết chóc / máu tn
<i>trào, sẹo đóng tự trong hồn / Tơi mệt mỏi đến khơng cịn sợ chết / nhưng vẫn</i>
<i>lịng ham sống thật tơi hơn” (Tơi); “Chiêm bao thấy mộ mình không mọc cỏ /</i>
<i>riêng điều này là nỗi sợ của tôi” (</i><b>Bên lề cỏ Uýtman</b>); “Cái mất đi hú gọi khơng
<i>về / cái cịn lại trơ mịn sỏi đá / nửa phần đời mắt chong đèn xó tối / nửa phần</i>
<i>đời khép mắt ngóng ngày lên” (</i><b>Nửa phần đời</b>);


<b>"Tơi"</b>một sự nếm trải đến tận cùng thân phận, sắc sảo và chát chúa trong những
cảm nhận về đời sống: “Cái nghèo / Mày núp trong vầng trán mẹ răn reo / Mày
<i>ẩn dưới gót chân em nứt nẻ / Mày luồn lọt qua trăm ngàn mối chỉ / để nằm</i>
<i>trong mảnh vá áo con ta / mày sinh ra khi chưa sinh ta” (</i><b>Cái nghèo</b>).


<b>"Tơi"</b>trong thất vọng kiếm tìm vẫn căng tràn nhiệt huyết: “Cuối cùng vẫn một
<i>mình em / Nhưng anh đã khô kiệt cùng đá sỏi / Nhưng anh đã kêu kiệt cùng</i>
<i>tiếng gọi / Nhưng anh đã mơ cạn kiệt giấc mơ / Cuối cùng vẫn một mình em /</i>
<i>Nhưng em ở nơi đâu ? em ở” (</i><b>Cuối cùng vẫn một mình em</b>).


<b>"Tơi"</b>khát khao muốn được dâng hiến, được thấu thị: “Và nếu cần tơi sẽ hố
<i>thân tơi / Thành thuốc đắng, thành chanh chua, quả ngọt / Thành chi nữa… trời</i>
<i>ơi tôi muốn biết / Phút lặng im bạn đã muốn mong gì…”</i>


Một cái Tơi rắn, lạnh, đầy ứ khát vọng… một cái Tôi không nguôi yên, khơng
cách gì xoa dịu: “Tơi gọi hồn về trong những câu thơ / Giam trong ngục tối con
<i>chữ / Hồn ơi, hồn hãy ở tù / Để xác tôi yên giấc ngủ”.</i>


Thạch Quỳ kể những ngày đầu làm thơ, anh tự đề ra cho mình một bảng Cấm:
<i>Cấm viết chữ người khác đã viết; Cấm viết ý nghĩ người khác đã nghĩ; Cấm viết</i>
<i>mơng lung khơng dính líu đến sự thật; Cấm viết sự thật trần trụi không cảm xúc,</i>
<i>thiếu thẩm mỹ.</i>



</div>
<span class='text_page_counter'>(25)</span><div class='page_container' data-page=25>

<i>mất hút đi trong núi / nhớ chi mà lặng bên bờ / con chèo bẻo về bay trong mưa</i>
<i>và lúc đó đầu tơi ngoảnh lại / hoa dứa dại bên bờ đang lặng lẽ bay…” (</i><b>Hoa</b>
<b>Dứa</b>); “Con người tự biết mình / trong trái tim cá thể / chạy trốn sự cơ lẻ / bằng
<i>tình yêu hai người / hạnh phúc đơn giản vậy? / Hạnh phúc thì thế thơi !</i>”
(<b>Khơng đề</b>)…


Cá tính hay tài năng?… chỉ biết là với sự thể hiện này, Thạch Quỳ đã có được
dấu ấn của cái Tơi riêng. Trong đời sống xã hội hiện đại, một xã hội nghiền nát
cái Tơi cá thể trong tính dây chuyền, tính cơng nghệ, trong sự giao lưu, hồ nhập
của nó, biểu hiện của cái Tôi riêng gần như là một thách thức. Trong sáng tạo
nghệ thuật, màu sắc cái Tôi của người nghệ sĩ càng quan trọng. Nó gần như là
vấn đề sống còn của một tên tuổi, một sự nghiệp. Với một “bản ngã nguyên
chất” và một ý thức mạnh mẽ về cái Tôi riêng, như một sự tuyên chiến với xu
thế ln muốn đánh tráo, đồng hố của đời sống, Thạch Quỳ đã tạo được dấu ấn
về cá tính.


<b>Nhà thơ không phải là con diều giấy</b>


<i>Một ý nghĩ nhỏ về thơ, thưa anh ?</i>


Thơ có cái gì đó mà người ta muốn tìm hiểu. Nhưng cái đó là gì thì không ai biết
nổi. Cái đã biết chưa phải là thơ. Nó là thế mà khơng phải là thế…


<i>Quan niệm của anh có vẻ thần bí.</i>


Thần bí là bản chất của cuộc sống, và vì thế mới có thơ. Thử hỏi trên đời này
loài người đã hiểu hết được con kiến chưa? Một con kiến có thể cảm nhận được
thời tiết, biết cõng những chiếc trứng của mình đi tránh mưa, tránh lũ trước hàng
tháng. Như vậy mà khơng thần bí à? Theo tôi cái không hiểu được mới là bản
chất tận cùng của thế giới.



<i>Vậy phải viết như thế nào thì mới…?</i>


Dẫu thơ biến hố thế nào, nếu khơng chứa những ý nghĩ sắc sảo, mới mẻ, xé
toang những ý niệm cũ, triết học cũ, thì cũng khơng thể hay được.


<i>Thế mối quan hệ giữa nhà thơ, đời sống và thời đại?</i>
Thời đại là gió, nhưng nhà thơ khơng phải là con diều giấy!
<i>Có vẻ như nếu được bắt đầu lại từ đầu, anh sẽ…?</i>


Tôi sẽ chỉ viết văn thôi, khơng lãng phí nữa và chỉ viết những thứ mình thích,
mình nghĩ, khơng nghe theo, khơng đầu hàng.


<i>Thêm một quan niệm nữa, về con người</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(26)</span><div class='page_container' data-page=26>

Chính hệ thống lý thuyết bắt nguồn tự sự hèn kém (phục vụ kẻ mạnh). Ví dụ
Khổng Tử khơng mạnh bằng kẻ mạnh nên mới đưa ra Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín.
Tơi cho rằng giữa chân lý và điều kiện sống của con người, có một chút trí khơn
ở đó. Với tơi, hạnh phúc là dưới mức đau khổ.


<i>Hà Nội tháng 11/2004</i>
<i>N.L.N</i>


/>


.


<b>BỨC TƯỢNG THẠCH QUỲ - Hoàng Thụy Anh</b>


Tác giả Hoàng Thụy Anh.



Thạch Quỳ đến với thơ khá sớm, lúc ơng đang cịn là học sinh trung học cơ sở. Từ dạo
ấy, thơ trở thành nơi trú ngụ hằng cửu tinh thần của Thạch Quỳ. Và đó cũng là hệ quả
của: <i>Sao và đất, Tảng đá nhành cây, Nguồn gốc cơn mưa, Con chim tà vặt, Cuối cùng</i>
<i>vẫn một mình em, Đêm giáng sinh, Bức tượng...</i> Xuyên suốt các tập thơ, người đọc thấy
rõ một cái tôi đầy bản lĩnh và một phong cách kiểu Thạch Quỳ. Cái tơi ấy vượt qua khó
khăn, gian khổ của đường đời và đường thơ để tự khẳng định mình: <i>“Tơi đầy ứ, thẳng</i>
<i>căng, tơi mạnh khỏe/ Tơi cao hơn đất đá mọi cơng trình/ Tơi khơng phải sơ đồ bản vẽ/</i>
<i>Tôi cao hơn người máy, thần linh”</i> (Tơi). Với cách thể hiện cái tơi của mình, Thạch Quỳ
tạo ra được cái vị thế của nhà thơ “ngông”. Một cái “ngông” quyến rũ. Ngông để tri kỷ
với thơ, để khơng bao giờ dứt tình – thơ, dẫu <i>“một đời cuốc mót dưới sao thưa”</i>. Trong
các tập thơ, tập “Bức tượng”<b>[1]</b><sub> thể hiện rõ cá tính ấy. Tác giả Hồng Thụy Anh.</sub>


“Bức tượng” khơng nhiều về số lượng (25 bài thơ) nhưng lại dày về tâm thế của một cái
tơi ln “bùng nổ”.Thạch Quỳ gói gọn cái tơi của mình bằng sự nhất qn: từ một cái tơi
cơ đơn đến một cái tôi thèm khát tự do.


<i><b>1. </b></i>Những niềm vui, nỗi buồn đều được cất dấu trong thơ. Tuy nhiên, nỗi buồn, sự cô đơn
bao giờ cũng là cú hích tinh thần thơ của người nghệ sĩ. Cái buồn, cái cô đơn ấy là cái
đẹp, là tố chất cần thiết cho thơ. Nói như nhà thơ Hồng Vũ Thuật: <i>“Trong sáng tạo, cái</i>
<i>riêng con người, chất cá thể con người làm nên cá tính sáng tạo. Mà cái riêng, chất cá</i>
<i>thể đó ln đẩy con người về phía cơ đơn. Vậy thì cơ đơn là một biểu hiện tâm trạng.</i>
<i>Thơ ca khai thác tâm trạng đó để sáng tạo tác phẩm. Ở góc độ thẩm mỹ, tơi nghĩ, trong ý</i>
<i>niệm tương đối cô đơn thuộc phạm trù cái đẹp”</i><b>[2]</b><sub>. “Bức tượng” thuộc phạm trù cái đẹp.</sub>


Trước hết, nó là cái đẹp của một cái tôi cô đơn:


</div>
<span class='text_page_counter'>(27)</span><div class='page_container' data-page=27>

<i>Anh nhớ gì?</i>
<i>Chẳng nhớ gì!</i>
<i>Anh nghĩ gì?</i>
<i>Chẳng nghĩ gì!</i>


<i>Tương lai</i>
<i>Hiện tại</i>


<i>Lăn trịn viên bi...</i>


(Viên bi)


Những câu hỏi như bày ra sự cơ đơn, khơng ý nghĩa gì của nhà thơ trước sự san phẳng
của cuộc sống. Số phận nhà thơ, số phận thơ cũng như viên bi lăn tròn. Ngay cả nhà thơ
-người trăn trở với đời nhất cũng chẳng rõ mình là ai: “<i>Khơng nằm/ Không ngồi/ Không</i>
<i>đứng/ Không đi/ - Hỏi ta là ai?/ - Chính ta chẳng rõ! Thế giới rộng mênh mơng/ Mình ta</i>
<i>trong nấm mộ!” </i>(Nấm mộ). Hỏi mà chất vấn. Khơng phải chỉ chất vấn mình mà dường
như đang chất vấn cả thế giới. Sự đối lập giữa thế giới và nấm mộ của nhà thơ chính là
câu trả lời đầy sắc sảo và tinh diệu của Thạch Quỳ. Đó cũng là con đường đi của ông.
Chấp nhận cô đơn để tự do ngay trong sự cơ đơn của chính mình. Trong nấm mộ ấy, nhà
thơ chỉ mở cửa cho nàng thơ của mình mà thơi:


<i>Anh là kẻ mang phép màu thượng đế</i>
<i>Hãy dắt em đến trước cửa người</i>
<i>Xin cho em trở về kiếp đá</i>


<i>Đá hóa thành bức tượng giống người thôi!</i>


(Bức tượng)


<i><b>2.</b></i> Trong cô đơn, Thạch Quỳ và thơ đồng hành. Nhưng cái tôi cô đơn ấy vẫn chưa bằng
lịng với chính mình, vẫn muốn “ngơng” với đời. Thạch Quỳ “ngông” không chỉ khẳng
định cái tôi mà cịn đúc cái tơi ấy thành bức tượng đá “trơ trơ” giữa cõi đời-thơ. Nói về
cái “ngơng”, Đặng Tiến cho rằng: <i>“Ngông nơi nhà thơ, ở đây là một tâm thế, một ứng xử</i>
<i>với đời, với người và cảnh. Ngông, nơi đây là một phong thái, lối xử lý không gian, thời</i>


<i>gian và nhân gian, bằng Thơ. Ngông, ở đây là Sống Thơ”</i><b>[3]</b><sub>. Thơ Thạch Quỳ có tâm thế</sub>


“ngơng” đó. Ơng hóa giải cơ đơn bằng sự vượt rào đối diện với thực tại. Cái tôi vô cùng
triết lý: “<i>Học cách sống giữa rừng hoang hú gọi/ Học cách ngồi trên đá lặng im/ Cách</i>
<i>đứng/ Cách đi/ Cách kiếm/ Cách tìm/ Những phong cách/ THIÊN NHIÊN/ SÁNG</i>
<i>THẾ...” </i>(Vâng, đúng vậy!). Thì ra, nhà thơ tìm đến cô đơn để tịnh tâm, để tiến tới cõi
Thiền. Thiên nhiên trong sáng là nguồn bồi đắp tinh thần vô giá cho những người nghệ sĩ
như Thạch Quỳ. Từ điểm nhìn của cõi Thiền, nhà thơ cịn vận vào mình những trăn trở
thời đại:


<i>Nước ba lần hóa kiếp</i>
<i>Vẫn trong cuộc luân hồi</i>
<i>Người mấy lần hóa kiếp</i>
<i>Cho nên một kiếp người?</i>


(Nước)


</div>
<span class='text_page_counter'>(28)</span><div class='page_container' data-page=28>

thơ. Cõi trần vướng lụy đâu dễ dàng hóa kiếp. Vì thế, nhà thơ mừng cho bạn cũng là lẽ
hiển nhiên: “<i>Bác Phùng về dưới mộ/ Hẳn tâm đắc một điều/ Diêm vương và địa ngục/</i>
<i>Rất rạch ròi ghét yêu!” </i>(Bác Phùng dưới mộ).


Bàn về chuyện sướng khổ, Nguyễn Khắc Phê cho rằng: Nhà khơng có gì đáng giá, đêm
nóng cứ mở toang cửa mà ngủ (Tản văn: <i>Thử bàn chuyện sướng, khổ</i>). Như vậy, mới
sướng, mới thoải mái. Thạch Quỳ cũng vậy, chẳng bận tâm gì, sống thoải mái với đất
trời. Chọn lối là tự ở ta:


<i>Ta bát ngát thôn quê, từ làng đến phố</i>
<i>Và sống ở ngôi nhà không cửa sổ</i>
<i>Bốn tường kia cửa bít kín mất rồi</i>
<i>Lối đi về ta mở. Tự ta thôi!</i>



(Cửa sổ)


Cách thể hiện cái tôi tự do cũng là cách Thạch Quỳ hướng tâm vào cõi Thiền. Cái tơi cơ
đơn đã tìm được ngơi nhà trú ngụ.


Khi nhà thơ <i>“Thiếu vốn sống tác phẩm sẽ nhạt nhẽo, èo uột, bất túc. Thiếu vốn chữ tác</i>
<i>phẩm sẽ thô vụng, sống sượng, suy dinh dưỡng”</i> (Lê Đạt)<b>[4]</b><sub>. Cả vốn sống và vốn chữ đều</sub>


chất đầy trong cái bụng thơ của Thạch Quỳ, nó chứng minh cho một quan niệm sáng tạo
nhất quán. Giao thoa giữa thể thơ truyền thống và hiện đại, giữa chuyện xưa và chuyện
nay, giữa giọng điệu thân mật và giọng điệu lạnh lùng... ít nhiều Thạch Quỳ đã xây nên
bức tượng thơ cho mình. Một bức tượng đá cô đơn, bản ngã: <i>“Trơ trơ tảng đá/ Đá đổ mồ</i>
<i>hơi/ Biết hay khơng biết?/ Lầm lì mồ côi” </i>(Tảng đá). Một bức tượng không vô cảm, vơ
hồn trước những biến động cuộc đời. Nó phân biệt rạch ròi giữa cái ghét và cái đáng yêu:


<i>Ghét cái không đáng ghét</i>
<i>Yêu cái chẳng đáng yêu</i>
<i>Thà làm quách tảng đá</i>
<i>Nằm vô tư trong chiều</i>


(Bác Phùng dưới mộ)


Trong sự giao thoa ấy, hình như Thạch Quỳ chưa dứt khốt về góc độ sử dụng biện pháp
nghệ thuật ngơn từ để khắc đậm vào tâm thức độc giả. Sự nhập nhằng này giảm bớt lưu
lượng cái ngông thi sĩ. Cuồng tín và khai phóng ngơn ngữ là con dao hai lưỡi. Nếu sử
dụng đúng trạng huống tâm lý, ngôn từ sẽ tăng lên sức mạnh bội phần. Cái ngông thi sĩ
trở nên độc chiêu, đắc địa.


Tuy vậy, cái tôi dẫu cô đơn nhưng luôn luôn trong tâm thế nổi loạn, hướng đến tự do đã


làm nên dấu ấn cho “Bức tượng”. Có thể nói Thạch Quỳ là một nghệ sĩ điêu khắc, biết
sắp đặt cấu trúc sao cho “Bức tượng” của mình hài hịa, hợp lý trong không gian thơ.
Mở đầu tập thơ là khát vọng được trở thành bức tượng như xưa, chứ không muốn là


<i>“người bị đuổi giữa chiêm bao”</i>, kết thúc là một tảng đá kiên cố, trơ lì. Cách trình bày
thế này, Thạch Quỳ đã nói hết duyên thơ trọn vẹn trước sau như một của mình. Hóa thân
vào bức tượng không phải là sự chối bỏ cuộc sống mà để trêu ngươi, để thách thức với
thời thế. Đây cũng là cách nhà thơ khẳng định cốt cách thi sĩ của mình, đúng như cái tên
của nhà thơ: Thạch Quỳ - “một hòn đá thơ”.


</div>
<span class='text_page_counter'>(29)</span><div class='page_container' data-page=29>



---[1]. Thạch Quỳ, Bức tượng, NXB Nghệ An, 2009.


[2]. Nguyễn Đức Tùng, <i>Thơ đến từ đâu</i>, NXB Lao động, 2009, tr 424.
[3]. Đặng Tiến, <i>Thơ - thi pháp & chân dung</i>, NXB Phụ nữ, 2009, tr 55.
[4]. Lê Đạt, <i>Đối thoại với đời và thơ</i>, NXB Trẻ, 2008, tr 66


Nguồn:


/>


*


<b>NHÀ THƠ THẠCH QUỲ</b>



<b>từng đến tận nơi Lênin đi đày…</b>



<b>TƠ HỒNG</b>


NVTPHCM- Với cuốn sổ tay “ăn xin”, Thạch Quỳ đã vượt qua cả một


đoạn đường rất dài, đã đi cắt ngang nước Nga mênh mơng, để tìm
tới cái thị trấn xa xơi nơi Lênin từng bị đày ở vùng Siberia tuyết trắng
để… thăm cậu con trai.


</div>
<span class='text_page_counter'>(30)</span><div class='page_container' data-page=30>

Đất nơi đây đào nơi nào cũng đỏ,
Đập đá ra có ánh lửa ngời...


Đâu đó từ cuối năm 1968 trở đi, máy bay Mỹ phong toả gắt gao
đoạn đường số 1 từ cầu Hàm Rồng vào tới phà Bến Thuỷ. Lính tráng
bổ sung cho chiến trường Bắc Quảng trị - Đường 9 hoặc vượt Trường
Sơn vào các chiến trường sâu đành đi qua đường Bị Lăn, lên Thanh
Chương, Đơ lương, đến một trạm nào đó ở Nam Đàn thì nghỉ lại, chờ
tới tối sẩm hôm sau đi tiếp. Qua một đêm bị xe lắc, ngủ gà ngủ vịt,
khoảng 8 giờ, 8 rưỡi sáng hôm sau chúng tôi bừng tỉnh trong tiếng
lao xao họp chợ ngay phía bên kia bờ giậu. Những tiếng chào mời,
mà cả, xen lẫn tiếng lợn kêu vịt cạc giữa thời buổi chiến tranh nghe
sao như muốn níu kéo cánh lính chúng tơi trở về với cuộc đời thanh
bình, n ả đến vậy? Càng lạ lùng hơn tiếng chào mời, mà cả kia lại
theo một đơn vị tiền tệ xa xưa hình như đã biến mất từ lâu: <b>một</b>
<b>tiền, một tiền rưỡi có bán khơng?...</b> Nhào dậy khỏi võng, chạy ra
sân định tìm tới giếng nước rửa mặt, đã nghe thấy tiếng cười tung
toé của các cô gái. Chao, con gái vùng này mới xinh làm sao? Áo nâu
non xẻ tà để hở một mảng lườn hồng hồng, săn chắc; mắt trịn to
đen thăm thẳm; đơi mơi tươi tắn lúng liếng nụ cười ghẹo trêu! Chạy
ngược vào nhà, lấy gương ra soi. Đến lượt chúng tôi phá ra cười:
Quần áo, mặt mũi, râu tóc thằng nào thằng nấy nhuộm sậm bụi đất
đỏ bazan! Thứ đất đỏ ấy, mãi những năm cịn sống sót sau này mới
hay là rất đặc trưng cho vùng Thanh Chương, Đô Lương. Chưa kịp
định thần các cô gái xứ Nghệ dạn dĩ đã ào tới, kéo tay chúng tôi đến
bên những chiếc giếng đá ong đáy sâu tun hút, múc những gàu nước



mát lạnh gíup chúng tơi gội đầu, rửa mặt. <b>“Đất đỏ xứ Nghệ rứa</b>


<b>đó! Các anh đi đâu, ở đâu cũng đừng quên đất đỏ q em</b>
<b>nghe...”</b>. Các cơ gái ríu ran. Hứa hẹn. Ghi vào sổ lưu niệm quê quán,
địa chỉ của nhau. Để khi chiều tắt nắng đành bịn rịn, dùng dắng chia
tay. Và thế rồi cho tới khi tóc bạc, da mồi cũng khơng tìm được dịp
may nào trở về nơi trú quân có những chiếc giếng đá ong, có phiên
chợ buổi sáng kỳ lạ và những con đường đất đỏ, mỗi khi trời đổ mưa
lòng đường đỏ sậm lại như một thân gỗ mới xẻ.Đành bám lấy hai câu
thơ của Thạch Quỳ mà tự làm dịu đi những nhung nhớ, tiếc nuối của
một thời trai trẻ…


</div>
<span class='text_page_counter'>(31)</span><div class='page_container' data-page=31>

Chí và phiên dịch viên là tôi muốn đi thăm người con trai đang lao
động xuất khẩu đâu đó tận Siberia. Anh đưa tơi xem chiếc phong bì
ghi địa chỉ nơi làm việc của con trai anh. Tôi quen biết nhiều cánh lao
động Việt Nam xuất khẩu đang làm việc tại các vùng ngọai ô Moskva
như Klin, Naghinxcơ... hay xa hơn như Riadan, Togliatti… nhưng cái
địa danh nơi con trai nhà thơ làm việc sao rất xa lạ, chưa từng nghe
thấy bao giờ. Nhà thơ Lê Chí nhờ tơi tìm hiểu xem nơi đó xa gần,
phương tiện đi lại ra sao? Buổi chiều tơi tìm xuống thư viện nhà
trường, khơng khó khăn gì tơi đã thu thập được một lượng thơng tin
dữ dằn. Điều đầu tiên cô thủ thư Nga cho biết thị trấn ấy ở cách
Moskva khoảng 3500 hay 4000 cây số. Đi máy bay thì khơng kể làm
gì, đáp tầu lửa chừng mất cả nửa tháng vừa đi vừa về. Cô gái Nga
nheo nheo mắt cười cho biết điều thứ hai cịn ghê gớm hơn: thị trấn
ấy chính là nơi xưa kia, dưới thời Sa Hoàng, trước ngày Cách mạng
tháng Mười bùng nổ, vị lãnh tụ của giai cấp vô sản Nga Vladimir
Iliyich Lênin đã từng bị đi đày. Nhiều năm trơi qua, bây giờ tơi khơng
cịn nhớ đích xác tên cái thị trấn nằm giữa vùng băng tuyết heo hút


Siberia, nhưng tơi đoan chắc với các bạn nó đã được ghi rành rõ
trong cuốn Lịch sử Đảng Cộng sản Liên Xô hoặc Tiểu sử Lênin! Nghe
tôi báo tin ấy khơng chỉ đồn trưởng Lê Chí mà các đồn viên như
Trung Trung Đỉnh, Chu Lai, Bế Kiến Quốc, Pờ Sảo Mìn, Vũ Quần
Phương, Trần Mạnh Hảo, Ngơ Thị Kim Cúc… đều phát hoảng cả lên.
Đường xá xa xôi cách trở như vậy, nhà thơ xứ Nghệ lại mới ra nước
ngịai, mới đến nước Nga lần đầu, tiếng Nga hồn tồn khơng rành.
Nhỡ anh lạc đường hoặc đau ốm, cảm mạo thì sao đây? Cũng khơng
ai có thể bỏ dở chương trình tập huấn để tháp tùng anh cả. Cịn
chuyện nhờ vả nhà trường trợ giúp xem ra rất phiền phức, lơi thơi.
Đồn trưởng Lê Chí nói với chúng tơi cùng xúm vào khuyên Thạch
Quỳ mau gạt phắt dự định đó đi. Nghe vậy, Thạch Quỳ nổi quạu:
- Tau sang đây đi học là phụ, đi thăm con là chính- Thạch Quỳ thủng
thẳng nhưng cương quyết- Bọn mi đặt vào địa vị tau mà coi- con làm
ăn, luơng bổng ra răng, sống chết ra răng thằng cha không hay, liệu
ngồi học chữ có vơ đầu?


Ai đó nhẩy vào cuộc:


</div>
<span class='text_page_counter'>(32)</span><div class='page_container' data-page=32>

- Ơng Lênin bị đi đầy ở đó đâu có chết mà vẫn trở về làm được cả
một cuộc cách mạng. Bay dọa tau, tau nỏ sợ mô!


Cứ thế! Nhà thơ không chịu thua ai.


Ba ngày sau, Thạch Quỳ khoe Lê Chí và tơi tấm vé tầu anh đã mua.
Anh kéo tơi ra một góc, móc túi trao cho tơi một cuốn tập vở học trị.
Tơi chưa biết chuyện gì xẩy ra, nhà thơ nói ln:


- Sách XIN ĂN đấy! Tau học tập bọn giặc lái Mỹ đó mà! Chương mục
đã chia đàng hồng. Phía tiếng Việt tau đã ghi rành rõ, mi dịch cho


tau qua tiếng Nga.


Chờ Thạch Quỳ đi khỏi, tôi lật từng trang cuốn vở tập học trị mà
khơng khỏi bật cười. Cuốn tập được chia như một thứ tự điển, có
những tiểu mục hẳn hoi, tên tiểu mục ghi bằng bút đỏ. Ví như: XUẤT
XỨ, LẠC ĐƯỜNG, MẤT TIỀN-XIN ĂN, MẮC BỆNH. Dưới mỗi tiểu mục
là những dòng chữ Việt xếp thành hàng ngang, tôi sẽ giúp anh
chuyển ngữ sang tiếng Nga. Ví như ở tiểu mục XUẤT XỨ. Tên: Thạch
Quỳ. Cơng dân: Nước Cộng Hịa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Nghề
Nghiệp: Nhà thơ. Công tác: Hiện đang theo học khóa bồi dưỡng viết
văn tại Viện Văn học Gorki. Địa chỉ cần liên hệ: Thành phố Moskva.


Đường phố… số nhà...Điện thọai… Ví như tiểu mục MẤT TIỀN-XIN


ĂN. Lý do xin ăn: bị mất sạch cả tiền. Đã chịu đói mấy… ngày. Cám
ơn đã nuôi sống tôi… ngày. Mua cho tôi tấm vé trở về Moskva và
cung cấp cho tôi… ngày thực phẩm, nước uống... Ví như ở tiểu mục


MẮC BỆNH. Thấy người ớn lạnh, hâm hấp sốt. Tôi không mang theo


nhiệt kế, hãy đo nhiệt độ cho tôi. Tôi bị đau bụng đã… ngày không
khỏi. Tiền sử nghi bị loét bờ cong dạ dày…


Hôm sau khi trao lại cuốn tập vở cho nhà thơ, tôi sững người hỏi
anh:


- Tôi dịch chuẩn cả rồi! Nhưng anh không biết tiếng Nga, sao anh
phát âm nổi để người Nga hiểu?


Nhà thơ nạt nộ:



</div>
<span class='text_page_counter'>(33)</span><div class='page_container' data-page=33>

ngón trỏ di ngang sang câu mi đã dịch qua tiếng Nga, người Nga
khắc hiểu.


Nói như cánh M.C bây giờ, tôi huơ tay cao trên đầu và reo vang:
Tuyệt! Vâng, với cuốn sổ tay “ăn xin” đó, Thạch Quỳ đã vượt qua cả
một đoạn đường rất dài, đã đi cắt ngang nước Nga mênh mơng, để
tìm tới cái thị trấn xa xôi ở vùng Siberia tuyết trắng kia thăm cậu con
trai. Mũ lông, thả cả hai dải che tai xuống, buộc chặt ở cầm; chiếc áo
dạ màu nâu vừa cũ vừa đã sờn rách, không rõ nhà thơ mượn ở đâu,
bng vạt lệt xệt chấm gót chân; chiếc balơ lép kẹp lắc lẻo phía sau
lưng, nom nhà thơ xứ Nghệ vừa giống một nhà truyền giáo Nga thế
kỷ 16, vừa giống một gã mudic Nga nghèo đói đương đại, cứ thế lên
tầu nhắm hướng Đông thẳng tiến! Một ngày, ba ngày, một tuần trôi
qua vẫn biệt vô âm tín. Thuở đó chưa hề có điện thọai di động. Tàu
chạy băng băng, chắc nhà thơ cũng khó tìm ra chòi bưu điện ở
những ga xép trên đường mà nhắn tin cho chúng tơi. Hoặc anh đã
quyết chí đi, việc thông báo anh đã đến đâu, khỏe hay bệnh- theo
anh cũng là điều vơ ích?


Nói thành thật, khi chúng tôi hầu như quên bẵng sự hiện diện của
Thạch Quỳ trong khóa học lần đó, nhà thơ bỗng sừng sững xuất hiện
ngay trước mặt chúng tôi. Vẫn như một nhà truyền giáo hay một gã
mudic, song vui vẻ, tươi tắn, đầy tự tin, Thạch Quỳ lặp đi lặp lại chỉ
một câu: “Bọn bay thấy chưa! Có chết được mơ?”.


Nhà thơ cho biết con trai anh khỏe mạnh, lương bổng hậu hĩ, ăn
uống đầy đủ, lên 3 ký, không những không xin tiền bố mà còn gửi bố
tiền để bố mua quà mang về cho mẹ, cho các em. Có ai đó cất tiếng
hỏi, cả đoạn đường đi, về có lúc nào anh cần phải dùng tới cuốn sổ


XIN ĂN không, nhà thơ cười hơ hơ hồn nhiên, tay xua xua thủng
thẳng kể cho chúng tôi nghe câu chuyện sau đây…


</div>
<span class='text_page_counter'>(34)</span><div class='page_container' data-page=34>

rượu vốt ca ủ trong làn mây, bị cói được kéo ra. Cá muối, thịt xơng
khói, bơ miếng, hành lá, rau mùi...được kéo ra. Ly cụng ly chan chát.
Rượu chảy xuống bao tử Nga, bao tử Việt ồng ộc. Thêm một vài ly
nữa, cao hứng nhà thơ xứ Nghệ đập tiếp vào ngực mình, thốt ra một
chữ tiếng Nga khá chuẩn: “Poet” (nhà thơ). Lập tức những tràng vỗ
tay, những tiếng “Ura, ura” (Hoan hô) rộ lên hưởng ứng.


- Ơng đọc thơ bằng tiếng Nga sao? – Có ai hỏi móc máy.
Thạch Quỳ:


- Tau nỏ biết tiếng Nga, nhưng tau đọc thơ tau theo kiểu ông
Maiakovsky. Sợ chi mô! Nghĩa là vung tay ra, rút tay vào, ngửa mặt
nhìn lên trời, cúi mặt nhìn xuống đất, tiến lên một bước, lùi lại môt
bước...Đám hành khách Nga hiểu hết những điều thơ mình định nói.
Cứ thế lu bù say ngày qua ngày, đêm qua đêm. Rượu vốtca và tuyết
trắng vùng Siberia, cịn gì hài hòa, uyển chuyển hơn! Tốp hành
khách này xuống ga, họ liền giới thiệu tau với tốp hành khách khác.
Tầu tới ga, họ còn đưa tau tới tận nơi thằng con trai tau làm việc. Đi
cũng tưng bừng, vui vẻ như thế. Mà về cũng vui vẻ, tưng bừng vậy.
Chẳng tốn cắc bạc nào!


Câu chuyện trên xẩy ra vào những ngày đầu đông năm 1988. Mùa hè
năm 2001, tôi được đi trong chuyến xuyên Việt với các văn nghệ sĩ
tên tuổi do hãng Toyota tài trợ. Mười chiếc xe mới cóng thong dong
từ Hà Nội đưa chúng tôi lên thăm Nà Lừa, thị xã Cao Bằng, hồ Ba Bể,
sau đó tiếp tục xi về qua Hà Nội, rẽ vào thăm cố đô Hoa Lư, Nam
Đàn quê Bác. Buổi chiều đoàn dừng ở Vinh, Hội Văn học nghệ thuật


Nghệ An mở tiệc khoản đãi khá thịnh soạn. Tôi nhận ngay ra bóng
dáng cao gầy cùng vẻ khắc khổ của Thạch Quỳ từ xa. Vốn ngại ngồi
chung bàn với những tên tuổi văn chương quá nổi tiếng, tôi muốn tới
bắt tay anh song lưỡng lự, chần chừ. Nhưng Thạch Quỳ đã nhận ra
tôi, anh chạy tới xiết chặt tay tơi, thăm hỏi rối rít. Giữa chừng câu
chuyện nhà thơ đột ngột hỏi tôi:


</div>
<span class='text_page_counter'>(35)</span><div class='page_container' data-page=35>

Tôi chúc mừng Thạch Quỳ và trong đầu bỗng bật nhớ hai câu thơ
của anh về đất, về đá xứ Nghệ:


Đất nơi đây đào nơi nào cũng đỏ.
Đập đá ra có ánh lửa ngời… Nguồn:


<b>T.H</b>


<i>Nguồn: </i>
/>


*


<b>MỖI TUẦN MỘT CHÂN DUNG VUI</b>
<b>Trần Nhương</b>


Thạch Quỳ quê ở Nghệ An


Thơ hay ngơ ngác Nam Đàn, Quỳnh Lưu
Làm thày vội vã hồi hưu (1)


Làm thơ vào cuộc thấy nhiều cam go


<b>Sao và đất</b> ây trời cho



</div>
<span class='text_page_counter'>(36)</span><div class='page_container' data-page=36>

<b>Cuối cùng vẫn một mình em</b>
<b>Con chim Tà Vặt</b> nằm im mất rồi


<b>Đêm Giáng sinh</b> cũng thế thôi (2)


Đô Lương thì vẫn một thời Đơ Lương (3)
Bây giờ ít thịt nhiều xương (4)


Thạch Quỳ một chút họ Vương để đời…(5)




---(1) Nhà thơ Thạch Quỳ vốn là thày giáo.


(2)- Các chữ in đâm, gạch dưới là tên tác phẩm của Thạch Quỳ.


(3)- Quê ông ở Đô Lương, Nghệ An.


(4)- Thạch Quỳ gày da bọc xương.


(5)- Thạch Quỳ chính tên là Vương Đình Huấn.


<i>Nguồn: </i> />


.


</div>
<span class='text_page_counter'>(37)</span><div class='page_container' data-page=37>

.


</div>
<span class='text_page_counter'>(38)</span><div class='page_container' data-page=38>

.



Nhà thơ Võ Quê & Nhà thơ Thạch Qùy, TP. Vĩnh Yên ngày 13.9.2011. Ảnh: Vũ Thị
Khương.


</div>
<span class='text_page_counter'>(39)</span><div class='page_container' data-page=39></div>

<!--links-->
<a href='o/2010/05/26/thach-quy-ong-do-gan-xu-nghe/'>o/2010/05/26/thach-quy-ong-do-gan-xu-nghe/</a>
<a href=' /><a href=' /><a href=' /><a href=' /> Bí quyết thành công của nhà thơ Tố Hữu
  • 6
  • 1
  • 2
  • Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

    Tải bản đầy đủ ngay
    ×