Tải bản đầy đủ (.docx) (32 trang)

On Tap TRuyen Kieu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (226.26 KB, 32 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b> Giá trị nội dung và giá tri nghệ thuật—</b>
<b>*Giá trị nội dung</b>


<b>-Giá trị hiện thực : Tác phẩm đã phản ánh sâu sắc hiện thực xã hộ đương thời với bộ mặt tàn </b>
bạo của tầng lớp thống trị và những con người bị áp bức đau khổ, đặc biệt là số phận bi khịc
của người phụ nữ


-Giá trị nhân đạo : Niềm cảm thương sâu sắc của con người. Sự lên án tố cáo những thế lực
tàn bạo, sự trân trọng, đề cao con người, từ vẻ đẹp hình thức, phẩm chất đến những ước mơ,
những khác vọng chân chính


<b>*Giá trị nghệ thuật </b>


-Có hai thành tựu nổi bật : ngơn ngữ và thể loại
+Nghệ thuật tự sự có bước phát triển vượt bật


+Nhân vật xuất hiện với dáng vẻ bên ngoài và đời sống nội tâm bên trong
-Nghệ thuật miêu tả thiên nhiên đa dạng, đặc biệt là tả cảnh ngụ tình


<b> Chị em Thúy Kiều—</b>


Đầu lịng hai ả tố nga,


Thúy Kiều là chị, em là Thúy Vân.
Mai cốt cách, tuyết tinh thần,
Một người một vẻ, mười phân vẹn mười.


Vân xem trang trọng khác vời,
Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang.


Hoa cười ngọc thốt đoan trang,


Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da.


Kiều càng sắc sảo, mặn mà,
So bề tài, sắc, lại là phần hơn.


Làn thu thủy, nét xuân sơn,


Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh.
Một, hai nghiêng nước nghiêng thành,


Sắc đành đòi một, tài đành họa hai.
Thông minh vốn sẵn tư trời,
Pha nghề thi họa, đủ mùi ca ngâm.


Cung thương làu bậc ngũ âm,
Nghề riêng ăn đứt Hồ cầm một trương.


Khúc nhà tay lựa nên chương,
Một thiên bạc mệnh, lại càng não nhân.


Phong lưu rất mực hồng quần,
Xuân xanh sấp xỉ tới tuần cập kê


Êm đềm trướng rủ màn che,
Tường đông ong bướm đi về mặc ai
<b> Cảnh ngày xuân-- </b>


Ngày xuân con én đưa thoi,


Thiều quang chín chục đã ngồi sáu mươi.


Cỏ non xanh tận chân trời,


Cành lê trắng điểm một vài bông hoa.
Thanh minh trong tiết tháng ba,
Lễ là tảo mộ, hội là đạp Thanh.


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

Chị em sắm sửa bộ hành chơi xuân.
Dập dìu tài tử, giai nhân,


Ngựa xe như nước áo quần như nêm.
Ngổn ngang gò đống kéo lên,
Thoi vàng vó rắc tro tiền giấy bay.


Tà tà bóng ngả về tây,
Chị em thơ thẩn dan tay ra về.


Bước dần theo ngọn tiểu khê,
Lần xem phong cảnh có bề thanh thanh.


Nao nao dòng nước uốn quanh,
Dịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc ngang.
<b> Kiều ở lầu Ngưng Bích-- </b>


Trước lầu Ngưng bích khóa xn,
Vẻ non xa, tấm trăng gần, ở chung.


Bốn bề bát ngát xa trông,
Cát vàng cồn nọ, bụi hồng dặm kia.


Bẽ bàng mây sớm đèn khuya,


Nửa tình, nửa cảnh như chia tấm lòng.


Tưởng người dưới nguyệt chén đồng,
Tin sương luống những rày trơng mai chờ.


Bên trời góc bể bơ vơ,
Tấm son gột rửa bao giờ cho phai.


Xót người tựa cửa hôm mai,
Quạt nồng ấp lạnh, những ai đó giờ ?


Sân Lai cách mấy nắng mưa,
Có khi gốc tử đã vừa người ôm?


Buồn trông cửa bể chiều hôm,
Thuyền ai thấp thống cánh buồm xa xa ?


Buồn trơng ngọn nước mới sa,
Hoa trôi man mác, biết là về đâu?


Buồn trông nội cỏ dàu dàu,


Chân mây mặt đất một màu xanh xanh.
Buồn trơng gió cuốn mặt ghềnh
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi
<b> Phân tích đoạn trích "Cảnh ngày xuân"-- </b>


Nguyễn Du là một đại thi hào của dân tộc Việt Nam. Tên tuổi của nhà thơ khơng chỉ nổi tiếng
trong nước mà cịn vang xa trên thi đàn thế giới. Sở dĩ tác giả đạt được niềm vinh quang đó là
vì ơng đã có một sự nghiệp sáng tác giá trị, trong đó xuất sắc nhất là Truyện Kiều - tác phẩm


lớn nhất của nền văn học Việt Nam. Cảm hứng nhân đạo và vẻ đẹp ngôn từ của truyện thơ này
đã chinh phục trái tim bao thế hệ bạn đọc trong gần hai trăm năm qua. Đọc đoạn trích "Cảnh
ngày xuân", chúng ta càng cảm phục bút pháp miêu tả cảnh vật giàu chất tạo hình và man mác
xúc cảm của tác giả:


<i>Ngày xuân con én đưa thoi,</i>


<i>Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi.</i>
<i>Cỏ non xanh tận chân trời,</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

<i>Thanh minh trong tiết tháng ba,</i>
<i>Lễ là tảo mộ, hội là đạp Thanh.</i>


<i>Gần xa nô nức yến anh,</i>


<i>Chị em sắm sửa bộ hành chơi xuân.</i>
<i>Dập dìu tài tử, giai nhân,</i>
<i>Ngựa xe như nước áo quần như nêm.</i>


<i>Ngổn ngang gị đống kéo lên,</i>
<i>Thoi vàng vó rắc tro tiền giấy bay.</i>


<i>Tà tà bóng ngả về tây,</i>
<i>Chị em thơ thẩn dan tay ra về.</i>


<i>Bước dần theo ngọn tiểu khê,</i>
<i>Lần xem phong cảnh có bề thanh thanh.</i>


<i>Nao nao dịng nước uốn quanh,</i>
<i>Dịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc ngang.</i>



Bên cạnh nghệ thuật tả người, nghệ thật tả cảnh là một thành công đặc biệt của "Truyện
Kiều". Bút pháp ước lệ tuy nghiêng về sự gợi tả, kích thích trí tưởng tượng của người đọc
nhưng vẫn giú ta hình dung rất rõ về bức tranh thiên nhiên mùa xuân tười đẹp và tâm trạng
của người du xuân trong giây phút trở về. Đoạn thơ có kết cấu theo trình tự thời gian của một
cuộc du xuân. Bốn dòng thơ đầu là khung cảnh mùa xuân. Tám dòng thơ tiếp theo là cảnh lễ
hội trong tiết Thanh minh. Và sáu dòng thơ cuối là cảnh và nỗi lịng của chị em Thúy Kiều lúc
bóng chiều buông xuống.


Mở đầu, Nguyễn Du đã phác họa một bức tranh mùa xuân thật ấn tượng. Không gian, thời
gian hiện ra trong hai dịng thơ khơi gợi trí tưởng tượng của người đọc:


<i>Ngày xuân con én đưa thoi,</i>


<i>Thiều quang chín chục đã ngồi sáu mươi.</i>


Khung cảnh thiên nhiên mang vẻ đẹp riêng của mùa xuân. Giữa bầu trời cao rộng, từng đàn
chim én rộn ràng bay lượn như chiếc thoi trên khung dệt vải. Hình ảnh "con én đưa thoi" gợi
bước đi của mùa xuân tương tự cách nói trong dân gian "Thời giờ thấm thoắt thoi đưa / Hết
mưa lại nắng, hết ngày lại đêm". Xung quanh tràn ngập "ánh thiều quang" - ánh sáng tươi đẹp
- đang rọi chiếu lên toàn cảnh vật. Ánh nắng mùa xuân có nét riêng, khơng nóng bức như mùa
hè cũng khơng dịu buồn như mùa thu mà trái lại, tạo một cảm giác tươi vui, trẻ trung, mới mẻ
trong sự nồng ấm của những ngay đầu năm. Thời gian đầu năm trôi qua thạt nhanh làm sao!
Cho nên cả hai câu thơ vừa miêu tả cảnh thiên nhiên tươi sáng đồng thời thể hiện niềm tiêc
nuối trước sự trôi nhanh của thời gian. Thoắt một cái đã cuối xuân rồi, cái đẹp của mùa mở
đầu một năm sắp hết.


Chỉ bằng một câu thơ lục bát, bức họa xuân hiện ra đẹp đến không ngờ:
<i>Cỏ non xanh tận chân trời,</i>



<i>Cành lê trắng điểm một vài bông hoa.</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

câu thơ lẫn bức tranh xuân, gợi hình ảnh lay động của hoa làm cho cảnh vật trở nên sinh động,
có hồn chứ không tĩnh lại. Những đường nét mềm mại, thanh nhẹ, sắc màu khơng sặc sỡ mà
hài hịa, khơng tả nhiều mà vẫn gợi được vẻ đẹp riêng của mùa xuân. Phải là người sống chan
hòa với thiên nhiên, cỏ cây và nhất là có tâm hồn rung động tinh tế, thi nhân mới có thể viết
được những câu thơ nhẹ nhàng mà đầy biểu cảm tuyệt vời đến thế. Dường như Nguyễn Du đã
thay mặt tạo hóa dùng ngịi bút để chấm phá bức tranh nghệ thuật cho riêng mình. Nhà thơ
Hàn Mặc Tử trong bài "Mùa xuân chín" cũng đã ít nhiều ảnh hưởng Nguyễn Du khi vẽ cảnh
mùa xn:


<i>Sóng cỏ xanh tươi gợn tới trời,</i>
<i>Bao cơ thiếu nữ hát trên đồi.</i>


Đoạn thơ có sự chuyển tiếp nhịp nhàng, tự nhiên. Từ khung cảnh mùa xuân tươi mới, êm đềm
ấy, nét bút của Nguyễn Du bắt đầu tập trung khắc họa những hoạt động của con người. Họ là
những người đi tảo mộ, đi chơi xuân ở miền quê kiểng. Và trong lễ hội dập dìu đó có những
nhân vật của Nguyễn Du - chị em Thúy Kiều - đang thong thả chơi xuân:


<i>Thanh minh trong tiết tráng ba</i>
<i>Lễ là tảo mộ, hội là đạp thanh.</i>


Tiết Thanh minh vào đầu tháng ba, khí trời mát mẻ, trong trẻo. Người người đi viếng, quét
dọn, sửa sang và lễ bái, khấn nguyện trước phần mộ tổ tiên. Sau "lễ tảo mộ" là đến "hội đạp
thanh", khách du xuân giẫm lên cỏ xanh - một hình ảnh quen thuộc trong các cuộc chơi xuân
đầy vui thú ở chốn làng quê. Cách sử dụng điệp từ "lễ là", "hội là" gợi ấn tượng về sự diễn ra
liên tiếp của các lễ hội dân gian, niềm vui tiếp nối niềm vui.


Khơng khí lễ hội rộn ràng, huyên náo bỗng hiện ra thật sinh động trong từng dịng thơ giàu
hình ảnh và nhạc điệu:



<i>Gần xa nô nức yến anh,</i>


<i>Chị em sắm sửa bộ hành chơi xuân.</i>
<i>Dập dìu tài tử giai nhân, </i>
<i>Ngừa xe như nước áo quần như nêm.</i>


Tài năng của Nguyễn Du được thể hiện qua cahs sử dụng ngôn từ. Sự xuất hiện của hàng loạt
các từ ngữ hai âm tiết bao gồm danh từ, động từ, tính từ như: gần xa, yến anh, chị em, tài tử,
giai nhân, nô nức, sắm sửa, dập dìu,... đã gợi lên bầu khơng khí rộn ràng của lễ hội đồng thời
làm rõ hơn tâm trạng của người đi trẩy hội. Hầu hết các câu thơ đều được ngắt nhịp đơi (2/2)
cũng góp phần gợi tả khơng khí nhộn nhịp, đơng vui của lễ hội. Cách nói ẩn dụ "nơ nức yến
anh" gợi hình ảnh từng đồn người náo nức du xuân như chim én, chim oanh bay ríu rít. Câu
thơ "Chị em sắm sửa bộ hành chơi xn", Nguyễn Du khơng chỉ nói lên một lờithoong báo mà
cịn giúp người đọc cảm nhận được những trơng mong, chờ đợi của chị em Kiều. Trong lễ hội
mùa xuân, nhộn nhịp nhát là những am thanh nữ tú, trai thanh gái lịch vai sánh vai, chận nối
chân nhịp bước. Họ chính là linh hồn của ngày hội. Cặp tiểu đối "tài tử"/"giai nhân", "ngựa xe
như nước"/"áo quần như nêm" đã khắc họa rõ nét sự hăm hở của tuổi trẻ. Họ đến với hội xuân
bằng tất cả niềm vui sống của tuổi xuân. Trong đám tài tử giai nhân ấy có ba chị em Thúy
Kiều. Có lẽ, Nguyễn Du đã miêu tả cảnh lễ hội bằng đôi mắt và tâm trạng của hai cô gái "đến
tuổi cập kê" trước cánh cửa cuộc đời rộng mở nên cái náo nức, dập diu từ đó mà ra. Tồn bộ
dịng người đơng vui, tưng bừng đó tấp nập ngựa xe như dòng nước cuốn, áo quần đẹp đẽ,
thướt tha đống đúc "như nêm" trên các nẻo đường. Thật là một lễ hội tưng bừng, sang trọng và
phong lưu.


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

tiên, của tình yêu con người trước cảnh sắc quê hương, đất nước mà còn gợi lên một vẻ đẹp
của đời sống tâm linh với phong tục dân gian cổ truyền:


<i>Ngổn ngang gị đống kéo lên,</i>
<i>Thoi vàng vó rắc tro tiền giấy bay.</i>



Người đã khuất và người đang sống, quá khứ và hiện tại như được kéo gần lại. Ta nhận ra một
niềm cảm thông sâu sắc mà Nguyễn Du đã gởi vào những dịng thơ: có thể hơm nay, sau hơn
hai trăm năm, suy nghĩ của chúng ta có ít nhiều thay đổi trước cảnh: "Thoi vàng vó rắc tro tiền
giấy bay" thế nhưng giá trị nhân đạo được gửi gắm vào những vần thơ của Nguyễn Du vẫn
làm ta thực sự xúc động.


"Ngày vui ngắn chẳng tày gang". Cuộc vui nào rồi cũng đến lúc tàn. Buổi du xuân vui vẻ cũng
dã tới chỗ phải nói lời tạm biệt. Vẫn là cảnh mùa xn, vẫn là khơng khí của ngày hội lễ,
nhưng bây giờ là giây phút cuối ngày:


<i>Tà tà bóng ngả về tây,</i>
<i>Chị em thơ thẩn dan tay ra về.</i>


<i>Bước dần theo ngọn tiểu khê,</i>
<i>Lần xem phong cảnh có bề thanh thanh.</i>


<i>Nao nao dịng nước uốn quanh,</i>
<i>Dịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc ngang.</i>


Nếu câu thơ mở đầu của "Cảnh ngày xuân" chan hòa ánh sáng "thiều quang" thì đến đây,
hồng hơn dường như bắt đầu nhuốm dần xuống phong cảnh và con người. Hội đã hết, ngày
đã tàn nên nhịp thơ khơng cịn cái rộn ràng, giục giã mà trái lại thật chậm rãi, khoan thai.
Cảnh vật vì thế mang cái vẻ nên thơ, diu êm, vắng lặng trong ánh nắng nhạt dần. Dịng khe có
chiếc cầu nho nhỏ cuối ghềnh tạo thành đường nét thể hiện linh hồn của bức tranh một buổi
chiều xuân. Nhịp chân có chút tâm tình man mác nên "thơ thẩn" và đến đây là "bước dần",
chẳng có gì nao nức, vội vàng. Các từ láy "tà tà", "thanh thanh", "nho nhỏ", "nao nao" góp
phần làm nên sự yên ắng và nỗi buồn của cảnh vật, của con người. Cảnh vật và thời gian được
miêu tả bằng bút phá ước lệ cổ điển nhưng vẫn gợi cho người đọc cảm giác gần gũi, thân quen
vì nó đã thấm hồn dân tộc, mang bóng dáng cảnh sắc quê hương Việt Nam.


Rõ ràng, cảnh ở đây được nhìn qua tâm trạng nhân vật tham gia vào lễ hội. Hai chữ "nao nao"
(Nao nao dòng nước uốn quanh) đã nhuốm màu tâm trạng lên cảnh vật. Dịng nước nao nao,
trơi chậm lưu luyến bên chân cầu nho nhỏ, phải chăng cũng là nỗi lưu luyến, tiếc nuối của
lịng người khi ngày vui chóng qua? Nguyễn Du đã từng viết: "Người buồn cảnh có vui đâu
bao giờ?". Vì vậy, khi vào lễ hội, người vui thì cảnh sắc rộn ràng tười mới. Lúc lễ hội tan rồi,
người về sao tránh khỏi sự xao xuyến, cảnh sắc sao tránh khỏi màu ảm đạm! Dường như có
một nỗi niềm man mác, bâng khuâng thấm sâu, lan tỏa trong tâm hồn vốn đa tình, đa cảm như
Thúy Kiều. Và ở sáu dịng cuối này, Nguyễn Du khơng chỉ nhằm nói tâm trạng buồn tiếc khi
lễ hội vừa tàn, mà hình như, ơng chuẩn bị đưa nhân vật của mình vào một cuộc gặp gỡ khác,
một thế giới khác. Như ta đã biết, ngay sau buổi Thanh minh, Nguyễn Du đã sắp đặt để Thúy
Kiều gặp Đạm Tiên và Kim Trọng. Vì thế, cảnh vật trong hồng hơn này cũng là một dự báo,
một linh cảm cho đoạn trường mà đời kiều sắp phải bước qua. Tả cảnh, tả tình như thế thật
khéo, cách chuyển ý cũng thật tinh tế, tự nhiên.


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

Ta yêu những Hịch, những Bình Ngơ gọi lịng ra hỏa tuyến,


Nhưng khơng qn ngọn lau trắng bên đường Kiều thồi lại tự xa xưa.
<b> Phân tích đoạn trích “Chị em Thúy Kiều”-- </b>


Khi khẳng định giá trị của “Truyện Kiều”, nhà thơ Chế Lan Viên đã từng ca ngợi: “Nguyễn
Du viết Kiều đất nước hóa thành văn”. Có thể nói, Đoạn Trường Tân Thanh với những dòng
lục bát tuyệt diệu là niềm tự hào cho nền văn chương Việt Nam. Dưới ngòi bút tài hoa của
Nguyễn Du, những phong cảnh tuyệt vời trong thiên nhiên, cỏ cây, những bức tranh tâm trạng
đã hiện ra tạo thành một thế giới thơ đầy quyến rũ. Bằng tấm lòng và sự nâng niu, trân trọng,
mến yêu nhân vật chân thành, ông đã để lại cho đời những rung cảm nghệ thuật trước cái đẹp
thật sâu sắc.Đến với đoạn trích “Chị em Thúy Kiều”, một lần nữa ta hiểu thêm về nghệ thuật
miêu tả của Tố Như thần tình ra sao và trái tim Nguyễn chan chứa yêu thương biết nhường
nào!


<i>Đầu lòng hai ả tố nga,</i>


<i>Thúy Kiều là chị, em là Thúy Vân.</i>


<i>Mai cốt cách, tuyết tinh thần,</i>
<i>Một người một vẻ, mười phân vẹn mười.</i>


<i>Vân xem trang trọng khác vời,</i>
<i>Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang.</i>


<i>Hoa cười ngọc thốt đoan trang,</i>
<i>Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da.</i>


<i>Kiều càng sắc sảo, mặn mà,</i>
<i>So bề tài, sắc, lại là phần hơn.</i>


<i>Làn thu thủy, nét xuân sơn,</i>


<i>Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh.</i>
<i>Một, hai nghiêng nước nghiêng thành,</i>


<i>Sắc đành đòi một, tài đành họa hai.</i>
<i>Thông minh vốn sẵn tư trời,</i>
<i>Pha nghề thi họa, đủ mùi ca ngâm.</i>


<i>Cung thương làu bậc ngũ âm,</i>
<i>Nghề riêng ăn đứt Hồ cầm một trương.</i>


<i>Khúc nhà tay lựa nên chương,</i>
<i>Một thiên bạc mệnh, lại càng não nhân.</i>


<i>Phong lưu rất mực hồng quần,</i>


<i>Xuân xanh sấp xỉ tới tuần cập kê</i>


<i>Êm đềm trướng rủ màn che,</i>
<i>Tường đông ong bướm đi về mặc ai</i>


Song song với nghệ thuật tả cảnh, nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật dã đạt dến trình độ điêu
luyện và là một thành cơng đặc biệt ở Truyện Kiều. Tuy sử dụng bút pháp ước lệ mà vẫ giúp
người đọc hình dung rõ bức chân dung tuyệt mĩ của hai chị em Thúy Vân, Thúy Kiều, gây
một ấn tượng khó phai trong lịng mỗi chúng ta.


Đoạn trích có kết cấu chặt chẽ như một truyện ngắn cổ điển. Mở đầu là bốn câu giới thiệu
chung về hai chị em Thúy Vân, Thúy Kiều:


<i>Đầu lòng hai ả tố nga,</i>
<i>Thúy Kiều là chị, em là Thúy Vân.</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

Hai cơ con gái đầu lịng của ông bà Vương viên ngoại đi vào trang viết của Nguyễn Du đều
xinh đẹp, tươi tắn cả hai, hệt như những nàng “tố nga”. Lời giới thiệu chng về hai chị em đã
khắc họa vẻ thanh cao, trong trắng từ hình dáng bên ngồi cho đến tam hồn bên trong. Thứ
bậc trong gia đình cũng đã được Nguyễn Du thể hiên qua lời giới thiệu khá giản dị: “Thúy
Kiều là chị, em là Thúy Vân”. Đặc biệt, ông chú trọng gây ấn tượng ở tinh thần, cốt cách của
hai Kiều: cốt cách thanh tao, duyên dáng như mai và tâm hồn, phẩm hạnh trắng trong, thuần
khiết như tuyết. Hình ảnh ẩn dụ nằm trong phép tiểu đối không chỉ đặc tả được cái thần của
bức tranh thiếu nữ: cả hai đều trinh trắng, sáng trong mà còn khơi gợi xúc cảm thẩm mỹ cho
người đọc về vẻ kiều diễm của hai chị em. Hai người họ với những vẻ đẹp khơng hồn tồn
như nhau mà là mỗi người đẹp theo một vẻ nhưng đều là những vẻ đẹp hoàn mỹ. Từ vóc dáng
cho đến tâm hồn, Thúy Kiều và Thúy Vân đều đạt đến mức vẹn toàn thật là tuyệt đối như tác
giả đã nhận định: “mười phân vẹn mười”. Mấy chữ ấy cho thấy ý thức lí tưởng hóa cao đọ của
nhà thơ. Bởi lẽ, ở đời mấy ai được “mười phân vẹn mười”. Câu thơ không chỉ nhằm thống báo
vẻ đẹp hoàn thiện của Thúy Vân, Thúy Kiều mà còn chất chứa niềm ngưỡng mộ trước cái đẹp


rất riêng của mỗi người.


Những ước lệ của văn chương cổ đi vào câu chữ của Nguyễn Du với biết bao tình cảm mến
yêu, trân trọng. Lời khen chia đều cho cả hai, nét bút muốn đặc tả “mỗi người một vẻ”. Chính
vì thế mà liền sau đó, thi sĩ tập trung khắc họa từng người. Đầu tiên, chân dung Thúy Vân hiện
ra với bốn câu thơ:


<i>Vân xem trang trọng khác vời,</i>
<i>Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang.</i>


<i>Hoa cười ngọc thốt đoan trang,</i>
<i>Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da.</i>


Vẻn vẹn bốn dòng thơ, Nguyễn Du đã thể hiện thật tài hoa vẻ đẹp tươi tắn, trẻ trung của một
cô gái đang độ trăng tròn. Ở Vân cũng khẳng định ngay từ câu thơ đầu cái điểm hơn người: vẻ
đẹp của Vân là vẻ đẹp phúc hậu, đoan trang nhưng cũng là sự “trang trọng khác vời”. Để rồi,
sau đó là sự cụ thể hóa ở khn mặt trịn đầy, ngời sáng như vầng trăng đêm rằm, đôi lông
mày cân đối, sắc nét như con ngài. Hiện diện trên khuôn mặt tươi sáng ấy là nụ cười tươi thắm
như hoa, giọng nói trong trẻo như ngọc. Hay là phải chăng “ngọc thốt” ở đây là để chỉ những
lời nói của nàng quý giá và đáng trân trọng như ngọc ngà? Một từ “thốt “ thơi mà có thể giúp
ta nhận ra vẻ dịu dàng , hiền thục hiếm thấy của Thúy Vân. Thật là tài tình! Khơng những thế,
nàng cịn sở hữu cả một mái tóc đen óng, nhẹ hơn mây và làn da mịn màng, trắng hơn cả
tuyết. Quả là một vẻ đẹp hoàn hảo, cao sang, quý phái! Sắc đẹp của Thúy Vân sánh ngang với
những nét kiều diễm, sáng trong của trăng hoa, ngọc vàng, mây tuyết,… tồn những báu vật
tinh khơi, trong trẻo của đất trời. Chỉ thống nhìn hình dáng, thống nghe Vân chuyện trị,
chũng ta cũng dễ dàng cảm nhận được tất cả sự dịu dàng, đoan trang của một cơ gái kh các.
Có lẽ, Nguyễn Du cũng đã rất có dụng ý khi sử dụng những tính từ chỉ độ trịn đầy, viên mãn
để miêu tả vẻ đẹp của Thúy Vân: “đầy đặn”, “nở nang”. Một vẻ đẹp căng tròn của tuổi trẻ!
Chắc chắn, Thúy Vân sẽ làm tròn thiên chức một người mẹ, người vợ sau này. Về mặt này,
con mắt nhìn của Nguyễn Du cũng thật “tinh đời”! Dựng lên hình ảnh của Thúy Vân với một


vẻ đẹp phúc hậu, quý phái khiến thiên nhiên, tạo vật cũng phải “thua”, “nhường”, nhà thơ đã
giúp ta nhận ra đấy là một vẻ đẹp có được sự hịa hợp, êm đềm với thế giới chung quanh.
Thêm vào đó là giọng thơ nhẹ nhàng, êm dịu nên Thúy Vân là hiện thân của cuộc đời yên ả,
ấm êm. Từ những thông điệp nghệ thuật trên, phải chăng đó là dự cảm về một cuộc sống bình
lặng, sn sẻ, hạnh phúc trong tương lai?


</div>
<span class='text_page_counter'>(8)</span><div class='page_container' data-page=8>

<i>Kiều càng sắc sảo, mặn mà</i>
<i>So bề tài sắc lại là phần hơn.</i>


Câu chuyển tiếp cho ta thấy từ sắc đến tài, Kiều hơn hẳn Thúy Vân, đó khơng phải là cái đẹp
hiền lành, phúc hậu mà trái lại vừa sắc sảo, lộng lẫy, vừa mặn mà, duyên dáng, yêu kiều. Thì
ra, Thúy Vân đã sắc nước hương trời, Thúy Kiều còn rực rỡ hơn thế nữa. Bằng thủ pháp đòn
bẩy, Nguyễn Du đã mượn vẻ đẹp của Thúy Vân làm nền để nêu bật vẻ đẹp, tài năng của Thúy
Kiều, giúp người đọc hình dung rõ hơn về bức chân dung của nàng bằng cái nhìn của riêng
mình. Thực tế, đến Thúy Kiều, ta thấy Nguyễn Du rất ít tả mà chỉ gợi. Ông lại thêm một lần
nữa chứng tỏ cốt cách nghệ thuật của một nghệ sĩ bậc thầy. Bởi, nếu bây giờ nhà thơ cũng lặp
lại trình tự tả y hệt như tả Thúy Vân thì hóa ra quá đỗi vụng về.


Đặc biệt, sức gợi của vẻ đẹp Thúy Kiều tốt lên từ đơi mắt:
<i>Làn thu thủy, nét xuân sơn,</i>


Nguyễn Du dường như chỉ nói về đôi mắt của nàng. Đôi mắt trong, sáng ngời, gợi tình như
sóng nước mùa thu và đơi mày cong cong mềm mại, thanh tú như dáng núi mua xuân. Cách
mieu tả khiến khi đọc lên, ta như thấy có ánh áng và làn sóng xao động bên trong. Chỉ vậy
thơi mà bao ẩn ý. Đơi mắt nhìn đời, nhìn người sâu thẳm. Đơi mắt dạt dào, ẩn chứa bao tình
cảm lai láng: biết yêu thương, căm hận, nhức nhối, sẻ chia,… Đôi mắt thể hiện một đời sống
nội tâm phong phú. Đôi mắt “tinh đời” chứ không như đôi mắt đẹp mà vơ hồn, vơ cảm của
Thúy Vân. Thì ra, cụ Nguyễn Du cố tình bỏ sót đơi mắt nàng Vân là vì lẽ đó. Một lần nữa, ta
lại thấy nhà thơ sử dụng tối đa nghệ thuật ẩn dụ và tiểu đối trong thơ cổ điển cũng với ý nghĩa
tượng trưng để tô đạm, tạo ấn tượng về nhan sắc của Kiều nhưng không gây rườm rà, phức tạp


mà trái lại giá trị diễn đạt vẫn hay và tự nhiên. Nhan sắc nàng tuyệt mĩ đến nỗi:


<i>Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh.</i>


Thêm một lần nữa thiên nhiên được sử dụng để nói về vẻ đẹp của người thiếu nữ. Thiên nhiên
vốn là vẻ đẹp vĩnh cửu vậy mà cũng phải “ghen”, “hờn” trước một nàng Kiều “sắc sảo mặn
mà”. Hoa không tươi thắm bằng dung nhan của nàng, liễu kém phần tươi non so với sức sống,
tuổi trẻ mơn mởn của Kiều. Nguyễn Du đã sử dụng biện pháp nhân hóa để thổi linh hồn vào
câu thơ làm ý thơ thêm phần sống động và trước mắt ta hiện ra một náng Kiều trẻ trung với
tuổi xuân tràn đầy như hoa vừa đang độ nở, liễu đến kì xanh tươi. Mà cũng vì thế mà ta càng
thấp thỏm hơn khi nghĩ tới tương lai của đời Kiều. Liệu với vẻ đẹp “nghiêng nước nghiêng
thành” ấy, Kiều sẽ phải sống thế nào trong bể đời vốn “Thiên địa phong trần, hồng nhan đa
truân”.


Bút pháp miêu tả của Nguyễn Du tài hoa ở chỗ: không chỉ miêu tả ngoại hình để thể hiện tính
cách, mà cịn thơng qua đó dự đốn số phận, cuộc đời nhân vật. Khơng phải ngẫu nhiên mà
Nguyễn Du dùng cặp từ “thua, nhường” để miêu tả Thúy Vân và cặp từ “ghen, hờn” để miêu
tả Thúy Kiều. Ảnh hưởng, tác động của nét đẹp hai Kiều với tạo hóa lại đi theo hai hướng
khác nhau. Tả Vân, câu thơ Kiều thanh thản bao nhiêu thì khi tả Kiều, câu chữ Tố Như lại trăn
trở bấy nhiêu. Như vậy đó, chỉ mới mươi câu Kiều mà đã giúp ta thấu hiểu tấm lòng ưu ái sâu
sắc, bao la của nhà thơ nhân đạo Nguyễn Du: ông yêu thương, nâng niu tất cả. Có điều, với
Thúy Kiều là cả một sự yêu thương, nâng niu đầy băn khoăn, lo lắng so với Thúy Vân. Thật
vậy, trong Truyện Kiều, có lúc Nguyễn Du đã để sư bà Tam Hợp đạo cơ đốn định tương lai
bất ổn của Kiều qua lời thơ:


<i>Thúy Kiều sắc sảo khôn ngoan,</i>
<i>Vô duyên là phận hồng nhan đã đành.</i>


<i>Lại mang lấy một chữ tình, </i>



</div>
<span class='text_page_counter'>(9)</span><div class='page_container' data-page=9>

Chuyện thế thái, nhân tình cũng thật sâu sắc trong cách nhìn, cách cảm của Nguyễn Du


Miêu tả Thúy Kiều, Nguyễn Du cịn đề cao trí tuệ và tài năng của nàng, cho thấy rằng Kiều
không phải chỉ có nhan sắc tuyệt trần mà cịn là người con gái vốn có thiên tư thơng minh bẩm
sinh và rất mực tài hoa:


<i>Thông minh vốn sẵn tư trời,</i>
<i>Pha nghề thi họa, đủ mùi ca ngâm.</i>


<i>Cung thương làu bậc ngũ âm,</i>
<i>Nghề riêng ăn đứt Hồ cầm một trương.</i>


<i>Khúc nhà tay lựa nên chương,</i>
<i>Một thiên bạc mệnh, lại càng não nhân</i>


Tài năng của Kiều đã đạt tới mức lí tưởng. Làm thơ, vẽ tranh, ca ngâm, âm nhac, mọi thứ
Kiều đều tỏ ra thành thạo. Đặc biệt, nàng rất sành chơi Hồ cầm. Nguyễn Du một lần nữa lại
rất công phu khi dành cho Kiều các chữ: “vốn sẵn tính trời”, “đủ mùi” “làu bậc”, “ăn đứt” làm
cho cái gìcũng đầy đủ và toàn vẹn. Tài năng của Thúy Kiều qua cách khắc họa của Nguyễn
Du họa chăng chỉ có thể so sánh với tài thơ vè xuất sắc của cung nữ trịn tác phẩm “Cung ốn
ngâm khúc” của Nguyễn Gia thiều:


<i>Câu cẩm tú đàn anh họ Lý,</i>
<i>Nét đan thanh bậc chị chàng Vương.</i>


Quả là “Sắc đành đòi một tài đành họa hai”! Lại thêm một lần nữa ta hiểu tại sao Nguyễn Du
không miêu tả cái tài của Thúy vân. Tạo hóa đã dành cả cho Thúy Kiều, để rồi lại tỏ ra đố kị
mà đan tâm chơi trò nhỏ nhen:


<i>Lạ gì bỉ sắc tư phong,</i>



<i>Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen.</i>


Ông bà ta xưa cũng đã từng nói: “Một vừa hai phải ai ơi / Tài tình chi lắm cho trời đất ghen”.
Vậy mà, Thúy Kiều của Nguyễn Du tột đỉnh hơn người. Câu chữ, lời thơ chất chứa sự ngợi ca,
ngưỡng mộ mà nỗi băn khoăn, lo lắng cứ xốn xang trê mỗi chữ dùng của Tố Như. Nguyễn Du
biết thế. Bởi, có lúc ơng đã phải thốt lên rằng:


<i>Có tài mà cậy chi tài,</i>
<i>Chữ tài liền với chữ tai một vần.</i>


Nhưng là sao khác được. “Thiên bạc mệnh” ai oán đã vận vào Kiều mất rồi. Trái tim yêu
thương mênh mông của Nguyễn Du cũng chẳng thể nào bảo vệ được Kiều trước vịng xốy
nghiệt ngã cuẩ định mệnh.


Đoạn trích khép lại trong bốn câu miêu tả cuộc sống phong lưu, khuôn phép trong đức hạnh,
mẫu mực của hai chị em Kiều:


<i>Phong lưu rất mực hồng quần,</i>
<i>Xuân xanh sấp xỉ tới tuần cập kê</i>


<i>Êm đềm trướng rủ màn che,</i>
<i>Tường đông ong bướm đi về mặc ai</i>


Vẻ đẹp chung của hai chị em được đúc kết lại trong cuộc sống nhung lụa, phú quí. Hai cô gái
họ Vương đang ở vào giai đoạn đẹp nhất, thơ mộng nhất của đời người, đó là tuổi dậy thì vơ
tư, trong trắng. Đã đến tuổi cài trâm nhưng hai thiếu nữ không hề quan tâm đến những chuyện
“ong bướm”, tâm hồn như băng tuyết, họ đang sống trong cảnh êm đềm của một gia đình gia
phong, nề nếp. Một lần nữa, Nguyễn Du khẳng định lại nếp sống phong lưu, đài các của hai
chị em Kiều. “Êm đềm”, “mặc ai” là phong thái cao giá của người đẹp chứ nào phải sự vô


cảm trước những rạo rực của tuổi trẻ. Chữ dùng của Nguyễn Du tinh tế lắm chứ đâu phải
bng lơi hờ hững, vơ tình!


</div>
<span class='text_page_counter'>(10)</span><div class='page_container' data-page=10>

lướt qua; khi tả, khi gợi, kết hợp nhuần nhuyễn tính ước lệ của sách vở và cách nói dân gian;
vừa làm nghệ thuật, vừa gởi gắm tâm tư, tình cảm. Để người đời yêu mến Tố Như và nhân vật
của ông khi đến với Truyên Kiều, đều cảm nhận được một ẩn ý sâu sắc: ẩn sau bức chân dung
mĩ nữ là tiếng lòng chan chứa yêu thương của đại thi hào dân tộc Nguyễn Du.


<b> Phân tích đoạn trích "Kiều ở lầu Ngưng Bích-- </b>


Từ một thiếu nữ tài sắc sống trong cảnh "êm đềm trước rủ màn che". Kiều đã trở thành món
hàng trong màn mua bán của Mã Giám Sinh và giờ nàng đang sống trong cô đơn, nhớ thương
đau buồn, lo âu nơi lầu Ngưng Bích. Hai mươi hai câu thơ trong đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng
Bích đã thể hiện rõ bức tranh tâm cảnh của kiều.


Sống nơi lầu Ngưng Bích là kiểu sống trong sự cơ đơn tuyệt đối:
<i>"Trước lầu Ngưng Bích khóa xn</i>
<i>Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung</i>


<i>Bốn bề bát ngát xa trông</i>
<i>Cát vàng cồn nọ bụi hồng dặm kia</i>


<i>Bẽ bàng mây sớm đèn khuya</i>
<i>Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lịng."</i>


Kiều bị giam lỏng ở lầu Ngưng Bích, hai chữ "khóa xn" đã nói lên điều đó. "Khóa xn" ở
đây khơng phải nói tới những cơ gái cịn cấm cung mà là sự mỉa mai, chua xót cho thân phận
nàng kiều. Nàng trơ trọi giữa thời gian mênh mông, không gian hoang vắng trong hồn cảnh
tha hương, cơ đơn, giờ lại bị đầy vào chốn lầu xanh ô nhục. Trong cảnh ngộ như thế. Kiều chỉ
cịn biết lắng nghe tiếng nói từ sâu thẳm lịng mình. Tâm trạng Kiều trải ra theo cái nhìn cảnh


vật. Nhìn lên trên là vầng trăng đơn cơi, nhìn xuống mặt đất thì bên là cồn cát nhấp nhơ lượng
sóng bên là bụi hồng cuốn xa hàng vạn dặm. Lầu Ngưng Bích là một chấm nhỏ giữa thiên
nhiên trơ trọi, giữa mênh mang trời nước. Cái lầu cao ngất nghểu, trơ trọi ấy giam hãm một
thân phận trơ trọi. Khơng một bóng người, khơng một sự chia sẻ, chỉ có một thiên nhiên câm
lặng làm bạn. Kiều chỉ có một mình để tâm sự, để đối diện với chính mình. Trong cái khơng
gian rợn ngợp và thời gian dài dặc, quẩn quanh "mây sớm đèn khuya" gợi vịng tuần hồn
khép kín của thời gian, tất cả như giam hãm con người, như khắc sâu thêm nỗi đơn côi khiến
Kiều càng thấy "bẽ bàng" chán ngắn, buồn tủi. Sớm và khuya, ngày và đêm Kiểu thui thủi một
mình nơi đất khách quê người, nàng chỉ còn biết làm bạn với mây và đêm. Trong nỗi cô đơn
tuyệt đối ấy, lịng Kiều dồn tới lớp lớp những chua xót. Buồn vì cảnh hoang vu, rợn ngợp và
buồn vì ái tình riêng khiến lịng như bị xé:


<i>"Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng"</i>


Nguyễn Du từ cảnh vật trước lầu Ngưng Bích đã nói lên những nỗi lịng của Thúy Kiều. Đó là
sự cơ đơn, vơ vọng đến tuyệt đối và đó là những dư vị của bao tháng ngày gian khổ sưng tấy.
Tạm quên đi những chia xẻ trong lòng. Kiều nhớ về những người thân:


<i>"Tưởng người dưới nguyệt chén đồng</i>
<i>Tin sương luống những rày trông mai chờ".</i>


Đối với những quy định phong kiến. Kiều nhớ về người yêu rồi nhớ đến cha mẹ. Trong lúc
này, nỗi đau đớn tình người u nữa cịn xa xiết. Kỷ niệm cịn mới đây thôi. Hơn thế nữa Kiều
lại bị Mã Giám Sinh mua chuộc, ssớm đó bị đưa vào lầu xanh nên nỗi đau lớn nhất của nàng
lúc này là:


<i>"Tấm son gột rửa bao giờ cho phai"</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(11)</span><div class='page_container' data-page=11>

cùng chàng uống chén rượu thề nguyền son sắc, một lòng cùng nhau một đời mà nay mối tình
duyên đã chia đột ngột. Câu thơ như có nhịp thổn thức của trái tim rỉ máu. Kiểu đau đớn hình


dung Kim Trọng vẫn ngày ngày hướng về nàng để chờ tin mà uổng cơng vơ ích. Càng nhớ
chàng Kim bao nhiêu thì Kiều lại thương cho thân mình bấy nhiêu. Thương mình bơ vơ bên
trời góc bể, càng nuối tiếc mối tình đầu, càng hiểu rằng tấm son mà nàng dành cho chàng Kim
chẳng bao giờ nguôi ngoai. Không chỉ vậy mà tấm son đã bị hoen ố của nàng đến khi nào mới
rửa cho được. Trong nỗi nhớ cịn có cả nỗi xót xã, ân hận, tủi hổ. Đặt trong hồn cảnh cơ đơn.
Kiều đã tạm để nỗi lịng mình lắng xuống và nhớ tới Kim Trọng. Đó là sự vị tha và tấm lòng
chung thủy của một con người.


Nếu khi nhớ tới Kim Trọng. Kiều "tưởng" thì khi nghĩ tới cha mẹ Kiều "xót":
<i>"Xót người tựa cửa hơm mai</i>


<i>Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ?</i>
<i>Sân lai cách mấy nắng mưa</i>
<i>Có khi gốc tử đã vừa người ôm".</i>


Nàng thương cha mẹ từ bấy đến nay vẫn sớm chiều tựa cửa chờ tin đứa con lưu lạc. Nàng xót
thương da diết và day dứt khơn ngi vì khơng thể quạt nồng, ấp lạnh, phụng dưỡng song thân
khi già yếu. Thành ngữ "quạt nồng ấp lạnh", điển cố "Sân Lai, gốc tử" đều nói lên tâm trạng
nhớ thương, tấm lịng hiếu thảo của Kiều. Nàng tưởng tượng nơi quê nhà tất cả đã đổi thay.
Cha mẹ thì mỗi người thêm một già yếu mà nàng thì chẳng thể ở bên chăm sóc. Giờ đây
khoảng cách không gian giữa nàng và cha mẹ là cách mấy nắng mưa. Thiên nhiên không chỉ
tàn phá cảnh vật mà còn tán phá cả con người. Lần nào khi nhớ tới cha mẹ. Kiều cũng nhớ ơn
chín chữ cao sâu và ln ân hận mình đã phụ cơng sinh thành nuôi dưỡng của cha mẹ. Nỗi
nhớ của nàng được gửi vào chiều dài thời gian, vào chiều sâu không gian bởi vậy mà càng
thêm da diết, sâu xa. Dù đau buồn bất hạnh nhưng trái tim Kiều đầy yêu thương, nhân hậu, vị
tha. Nàng là người tình chung thủy, là người con rất mực hiếu thảo, là người có tấm lịng vị
tha đáng trọng. Hai nỗi nhớ được biểu hiện khác nhau đó cũng là sự cảm thơng lạ lùng của
nhà thơ, tấm lòng nhân đạo của Nguyễn Du đối với con người.


Vẫn việc sử dụng bút pháp tả cảnh ngụ tình quen thuộc, những nỗi buồn khác nhau với lí do


buồn khác nhau, trong lịng Kiều đã buồn tác động lại khiến càng buồn hơn và nỗi buồn ngày
một ghê gớm, mãnh liệt hơn.


<i>"Buồn trông cửa bể chiều hơm</i>
<i>Thuyền ai thấp thống cánh buồm xa xa?</i>


<i>Buồn trơng ngọn nước mới sa</i>
<i>Hoa trôi man mác biết là về đâu?</i>


<i>Buồn trông nội cỏ dầu dầu</i>


<i>Chân mây mặt đất một màu xanh xanh.</i>
<i>Buồn trơng gió cuốn mặt duềnh</i>
<i>Ẩm âm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi."</i>


Tám câu thơ vừa là bức tranh tâm cảnh mà cũng là thực cảnh. Cảnh được miêu tả theo kiểu tứ
bình trong con mắt trơng bốn bề và từ xa tới gần. Cảnh đầu tiên mà Kiều trông thấy là bể lúc
chiều hôm:


<i>"Buồn trông cửa bể chiều hơm</i>


<i>Thuyền ai thấp thống cánh buồm xa xa?"</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(12)</span><div class='page_container' data-page=12>

đơn và khát khao sum họp. Cánh hoa trôi man mác trên ngọn nước mới sa gợi trong lòng Kiều
nỗi buồn về thân phận trôi nổi, không biết rồi sẽ bị trôi dạt, bị vùi dập ra sao:


<i>"Buồn trông ngọn nước mới xa</i>
<i>Hoa trôi man mác biết là về đâu!"</i>


Cách làm Kiều xót xa cho duyên phận, số kiếp của mình. Sau một cửa biển một cách hoa giữa


dịng nước là cảnh của một nội cỏ.


<i>"Buồn trơng nội cỏ dầu dầu</i>


<i>Chân mây mặt đất một màu xanh xanh".</i>


Cả một nội cỏ trải ra mênh mông nhưng khác với cỏ trong ngày Thanh minh. Đó là "cỏ non
xanh rợn trân trời", còn cỏ ở đây "dầu dầu". Một màu vàng úa gợi tới sự héo tàn, buồn bã.
Màu xanh nhàn nhạt trải dài từ mặt đất tới chân mây không phải màu xanh của sự sống của hy
vọng mà chỉ gợi nỗi chán ngán vơ vọng vì cuộc sống vô vị, tẻ nhạt, cô quạnh này không biêé
bao giờ mới kết thúc. Cảnh mờ mịt cũng giống như tương lai mờ mịt, thân phận nội cỏ hoa
héo của Thúy Kiều. Và cuối cùng là cảnh con sóng nổi lên ầm ầm sau cơn gió:


<i>"Buồn trơng gió cuốn mặt duềnh</i>
<i>Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi."</i>


Tiếng sóng như báo trước sóng gió dữ dội của cuộc đời hay cũng chỉ là tiếng kêu đau đớn của
Kiều đồng vọng với thiên nhiên. Kiều khơng chỉ buồn mà cịn lo sợ, kinh hãi như đang đứng
trước sóng gió, bão táp của cuộc đời này sắp đổ xuống đầu nàng. Cảnh được miêu tả từ xa đến
gần, màu sắc từ nhạt đến đậm, âm thanh từ tĩnh đến động. Cảnh ngày một rõ hơn để diễn tả
nỗi buồn từ man mác mông lung đến âu lo kinh sợ dồn đến bão táp nội tâm. Thiên nhiên chân
thực, sinh động nhưng mờ ảo bởi nó được nhìn theo quy luật "cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu,
người buồn cảnh có vui đâu bao giờ". Và đó cũng là hiện thân, là tang vật của quá khứ khổ
đau, hiện tại lẻ loi bất hạnh và báo hiệu một tương lai khủng khiếp. Tất cả đều là hình ảnh về
sự vơ định, mong manh, vơ vọng, sự trôi dạt, bế tắc. Đoạn thơ gồm bốn cặp câu lục bát cũng
là bốn cảnh và cặp câu được liên kết nhớ điệp ngữ "buồn trông".


<i>"Buồn trông cửa biển chiều hôm</i>
<i>... Buồn trông ngọn nước mới xa</i>



<i>...Buồn trông nội cỏ dầu dầu</i>
<i>...Buồn trơng gió cuốn mặt duềnh".</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(13)</span><div class='page_container' data-page=13>

trị nhân bản sâu sắc đồng thời thể hiện tấm lòng nhân hậu, cảm thương chia sẻ của Nguyễn Du
với nỗi đau của Thúy Kiều.


<b> Nghệ thuật tả cảnh của đại thi hào Nguyễn Du trong "Truyện Kiều"</b>


--Bút pháp của đại thi hào Nguyễn Du được coi là điêu luyện, tuyệt bút trong đó nghệ thuật tả
cảnh tả tình được người đời sau khen ngợi "như máu chảy ở đầu ngọn bút" và "thấu nghìn
đời". Xin giới thiệu với các em bài viết của nhà phê bình Trần Ngọc về Nghệ Thuật Tả Cảnh
của Thi Hào Nguyễn Du trong Truyện Kiều.


Đoạn Trường Tân Thanh hay Truyện Kiều của thi hào Nguyễn Du là một áng văn chương
tuyệt tác trong lịch sử văn học nước ta. Truyện Kiều có giá trị về mọi mặt : tư tưởng , triết lý ,
luân lý , tâm lý và văn chương.


Truyện Kiều vì thế đã trở thành quyển truyện thơ phổ thông nhất nước ta: từ các bậc cao sang
quyền quý , trí thức khoa bảng , văn nhân thi sĩ , cho đến những người bình dân ít học , ai
cũng biết đến truyện Kiều , thích đọc truyện Kiều , ngâm Kiều và thậm chí bói Kiều.
Giá trị tuyệt hảo của truyện Kiều là một điều khẳng định mà trong đó giá trị văn chương lại
giữ một địa vị rất cao. Trong phạm vi bài viết này, chúng tôi xin được bàn đến nghệ thuật tả
cảnh của thi hào Nguyễn Du trong tác phẩm Đoạn Trường Tân Thanh hay Truyện Kiều ..
Nghệ thuật tả cảnh của ï Nguyễn Du nói chung rất đa dạng , tài tình và phong phú. Chính
Nghệ thuật tả cảnh này đã làm tăng rất nhiều thi vị và giá trị cho truyện Kiều.
Lối tả cảnh diễm tình . Đây là lối tả cảnh mang tính cách chủ quan , man mác khắp trong
truyện Kiều . Cảnh vật bao giờ cũng bao hàm một nỗi niềm tâm sự của nhân vật chính hoặc
phụ ẩn chứa trong đó.Nói một cách khác , Nguyễn Du tả cảnh mà thâm ý luôn luôn đem cái
cảm xúc của người đối cảnh cho chi phối lên cảnh vật. Điều này khiến cho cảnh vật trở thành
linh hoạt như có một tâm hồn hay một nỗi xúc cảm riêng tư nào đó. Chính Nguyễn Du đã tự


thú nhận sự chủ quan của mình trong lúc tả cảnh qua hai câu thơ:


<i>“Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu</i>
<i>Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”</i>


Trong khuynh hướng này , nghệ thuật tả cảnh của Nguyễn Du vượt khác hẳn các thi nhân
khác , kể cả những thi sĩ Tây Phương , vốn rất thiện nghệ trong lối tả cảnh ngụ tình . Trong
khi các thi sĩ này chỉ đi một chiều , nghĩa là chỉ tìm những cảnh vật nào phù hợp với tâm trạng


của con người thì mới ghi vào , cịn ï Nguyễn Du thì vừa đưa cảnh đến tâm hồn con người, lại
đồng thời vừa đưa tâm hồn đến với cảnh , tạo nên một sự giao hòa tuyệt vời hai chiều giữa


cảnh và người , giữa cái vô tri và cái tâm thức để tuy hai mà một, tuy một mà hai..
Ví dụ như khi chị em Kiều đi lễ Thanh Minh về , tới bên chiếc cầu bắc ngang một dịng sơng
nhỏ gần mả Đạm Tiên , thì cả người lẫn cảnh đếu cảm thấy nao nao tấc dạ trong buổi chiều tà


<i>“Nao nao dòng nước uốn quanh</i>
<i>Nhịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc ngang”</i>


“Nao nao” chỉ tâm sự con người, nhưng cũng chỉ sự ngập ngừng lãng đãng của dịng nước trơi
dưới chân cầu.


Hình ảnh một mảnh trăng khuyết soi nghiêng nhìn Kim Trọng khi chàng nửa tỉnh nửa mê,
chập chờn với hình ảnh Kiều sau lần gặp gỡ đầu tiên:


<i>‘Chênh chênh bóng Nguyệt xế mành</i>
<i>Tựa ngồi bên triện một mình thiu thiu”</i>


Chàng biếng nhác cả việc sách đèn , để phòng đọc sách lạnh tanh với tiếng gió quạnh hiu phập
phồng qua màn cửa :



</div>
<span class='text_page_counter'>(14)</span><div class='page_container' data-page=14>

<i>Mành Tương phất phất gió đàn</i>
<i>Hương gây mùi nhớ trà khan giọng tình.</i>


Rồi những giờ phút thề ước ba sinh đã qua, khi phải tạm xa nhau thì dịng sông kia bỗng sao
trở thành kẻ khắt khe để chia rẽ dun tình:


<i>Sơng Tương một giải nơng sờ</i>
<i>Bên trơng đầu nọ bên chờ cuối kia</i>


Một đoạn tả cảnh khác , tình người ẩn sâu trong cảnh vật . Đó là cảnh Kim Trọng sau khi hộ
tang cha , về tìm lại Kiều nơi vườn Lãm Thúy, nhưng người xưa nay còn thấy đâu , chỉ còn
cảnh vườn hoang cỏ dại lạnh lùng dưới ánh trăng.


<i>Đầy vườn cỏ mọc lau thưa</i>


<i>Song trăng quạnh quẽ vách mưa rã rời</i>


Lần thứ hai , Kim Trọng tìm về nhà Vương Viên Ngoại để hỏi thăm Kiều thì cảnh nhà bây giờ
thật sa sút , sân ngoài cỏ hoang mocï dại, ướt dầm dưới cơn mưa , tiêu điều như nỗi buồn tênh
trong lòng chàng:


<i>Một sân đất cỏ dầm mưa</i>


<i>Càng ngao ngán nỗi càng ngơ ngẩn dường</i>


Khi Kiều ở lầu Ngưng Bích , nhìn qua song cửa thấy cảnh biển chiều hôm , với những cánh
buồm xa xa lại tưởng tới thân phận bọt bèo khơng định hướng của mình :


<i>Buồn trơng cửa biển chiều hơm</i>


<i>Thuyền ai thấp thống cánh buồm xa xa</i>


<i>Buồn trơng ngọn nước mới sa,</i>
<i>Hoa trôi man mác biết là về đâu?</i>


Lúc Kiều theo Mã Giám Sinh về Lâm Tri , thì lịng nàng cũng chẳng thực sự là vui mà buồn
hiu hắt như hàng lau bên vệ đường:


<i>Gió chiều như gợi cơn sầu</i>
<i>Vi lô hiu hắt như màu khơi trêu</i>


Và khi theo Sở Khanh để trốn Tú Bà , thì cảnh một đêm thu có trăng sáng , nhưng cũng lạnh
lùng cũng chẳng khác chi tâm sự rối bời của Kiều :


<i>Lối mòn cỏ nhạt màu sương</i>
<i>Lòng quê đi một bước đường một đau</i>


Lúc thất vọng não nề , muốn gieo mình xng sơng Tiền Đường cho rũ nợ trần, tâm sự Kiều
cũng như mảnh trăng sắp tàn , chẳng cịn chút gì lưu luyến nơi thế gian:


<i>Mảnh trăng đã gác non đồi</i>


<i>Một mình luống những đứng ngồi chưa xong</i>


Lối tả chân. Ngồi lối tả cảnh diễm tình, Nguyễn Du còn điểm trang cho truyện Kiều bằng
nhiều bức tranh tả chân, tả rất thực, và thuần túy là những họa xinh đẹp, khơng ngụ tình.
Những bức tranh bằng thơ có khi tươi tắn, có khi sầu mộng được viết theo lối văn tinh xảo
.Chỉ cần một vài nét phác họa với những điểm chính hiện hữu .


Đây là cảnh một túp lều tranh bên sơng vắng lúc hồng hôn , vừa giản dị , mộc mạc nhưng


cũng rất nên thơ:


<i>Đánh tranh chụm nóc thảo đường</i>
<i>Một gian nước biếc mây vàng chia đôi.</i>


Hoặc chỉ một vài nét chấm phá mà người đọc đã hình dung ra cảnh một mái tranh nghèo rách
nát tơi tả theo tháng ngày:


<i>Nhà tranh vách đất tả tơi</i>
<i>Lau treo rèm nát trúc cài phên thưa</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(15)</span><div class='page_container' data-page=15>

<i>Long lanh đáy nước in trời</i>


<i>Thành xây khói biếc non phơi ánh vàng</i>


Hay bóng liễu rủ bên cầu và thướt tha soi bóng trên sơng tạo nên một khung cảnh đẹp mộng
thơ :


<i>Dưới cầu nước chảy trong veo</i>
<i>Bên cầu tơ liễu bóng chiều thướt tha</i>


Khi chị em kiều đi viếng mộ Đạm Tiên, thì cảnh vật cũng theo đó đìu hiu ảm đạm : cơn gió
đìu hiu lay động một vài cành lau trên vùng cỏ mờ nhạt theo sương chiều :


<i>Một vùng cỏ áy bóng tà</i>
<i>Gió hiu hiu thổi một vài bông lau.</i>


Cảnh thanh tịnh của ngôi chùa Giác Duyên nơi Kiều đã được cứu vớt , mà đường tới thì quanh
co theo giải sơng ,có khu rừng lau như cách biệt với cuộc sống rộn rã bên ngoài :



<i>Quanh co theo giải giang tân</i>
<i>Khỏi rừng lau đã tới sân Phật Đường</i>


Nghệ thuật tả cảnh của Nguyễn Du tuyệt vời đến nỗi Giáo sư Nghiêm Toản đã có nhận định
như sau: “trong Đoạn Trường tân thanh, ln ln có những bức tranh nho nhỏ như những hạt
kim cương rải rác đính trên một tấm thêu nhung” ( Việt Nam văn Học Sử Trích Yếu)
Hãy xem cảnh bóng trăng chênh chếch soi mình trên sóng nước , đẹp lãng đãng như nỗi tưởng
nhớ miên man của Kiều về Kim Trọng sau buổi gặp gỡ lần đầu. Chỉ vài nét đon sơ giữa trăng ,
nước và sân nhà đã đủ diễn tả một khung cảnh tuyệt nhã đẹp như một bức tranh :


<i>Gương nga chênh chếch dòm song</i>
<i>Vàng gieo ngấn nước , cây lồng bóng sân</i>


Lối tả cảnh tượng trưng: Nguyễn Du cũng rất nhiều khi phô diễn lối tả cảnh tượng trưng,
nghĩa là chỉ dùng một vài nét chấm phá, thành một nghệ thuật đã đạt đến mức uyển chuyển và
tinh tế . Hãy nghe hai câu thơ :


<i>Vi lô san sát hơi may</i>


<i>Một trời thu để riêng ai lạnh lùng</i>


Đó là một cảnh một rừng vi lơ trong mùa thu xám có gió heo may, lành lạnh. Lối tả cảnh này
có thể Nguyễn Du chỉ viết theo nghệ thuật cảm quan của mình chứ khơng hề nghĩ rằng mình
đang tạo ra một lối vẽ cảnh một cách tượng trưng bằng những vần thơ . Mãi đến hơn một thế
kỷ sau ,tức vào thế kỷ 19 , lối tả cảnh tượng trưng nay mới phát triển thật mau tại Pháp mà các
nhà phân tích văn học gọi là “Symbolists”. Đó là sự nhận định của Giáo sư Hà Như Chi.
Nên để ý nghệ thuật của Nguyễn Du là mang cái gì rộng lớn mênh mông , để rồi đem vào hàm
chứa trong một cái gì nhỏ bé ( luận giải của Giáo Sư Hà Như Chi trong Việt Nam Thi Văn
Giảng Luận ) . Trong hai câu thơ trên, “một trời thu”mang một ý niệm không gian rộng lớn
bao la , trong khi bốn chữ “ riêng ai một mình”lại chỉ một phạm vi nhỏ bé , một tâm tình đơn


lẻ cá nhân.


Một vài câu thơ khác cũng mang cùng một khuynh hướng như :
<i>Hiên tà gác bóng nghiêng nghiêng</i>
<i>Nỗi riêng riêng chạnh tấc riêng một mình</i>


Đó là cảnh mặt trời chiều bâng khng nghiêng mình soi bóng trước mái hiên nhà để rồi
chuyển sang , ẩn vào tâm tư riêng của một cõi lịng Kiều cơ đơn. ( Cần chú ý thêm là cách
dùng điệp ngữ một cách tài tình khéo léo của Nguyễn Du , với chữ “ nghiêng và “riêng”được
lập đi lập lại nhiều lần mà vẫn cảm thấy hay .)


Có khi Nguyễn Du lại dùng một lối tả cảnh tượng trưng ngược lại , nghĩa là đem tấc lòng nhỏ
bé của con người cho tỏa rộng bay hòa vào cái rộng lớn của trời đất.


</div>
<span class='text_page_counter'>(16)</span><div class='page_container' data-page=16>

<i>Người lên ngựa kẻ chia bào</i>


<i>Rừng phong thu đã nhuốm màu quan san.</i>


Đó là sự phân ly buồn bã tuy chỉ giữa hai người , nhưng đã làm ảm đạm cả một vùng cảnh vật
chung quanh.


Hay cảnh Kiều thất vọng cuộc đời , mở cửa phịng nhỏ bé để gieo mình xuống dịng bao la của
sơng Tiền Đường :


<i>Cửa bồng vội mở rèm châu</i>
<i>Trời cao sơng rộng một màu bao la.</i>


Nói về nghệ thuật tả cảnh tượng trưng này, giáo sư Dương Quảng Hàm đã viết: “ tả cảnh thì
theo lối phác họa mà cảnh nào cũng linh hoạt.”



Lối tả cảnh dùng màu sắc. Nghệ thuật tả cảnh bằng thơ của Nguyễn Du cũng dùng rất nhiều
màu sắc như bức tranh của một người họa sĩ. Trước tiên phải là ánh sáng , một yếu tố cơ bản,
rồi sau đó mới tới các màu sắc với sự c pha chế sao cho làm nổi được cảnh chính và cảnh phụ
Hãy xem một cảnh Xuân tươi mát trên đồng quê qua ngòi bút tả cảnh đầy màu sắc của
Nguyễn Du:


<i>Cỏ non xanh tận chân trời</i>
<i>Cành lê trắng điểm một vài bông hoa</i>


Thật là một bức tranh màu sắc thanh nhã tuyệt hảo: trên thảm cỏ xanh mướt bao la, nổi những
bơng hoa lê trắng tinh . Chỉ có hai màu xanh và trắng như nỗi thanh khiết của tâm hồn chị em
Kiều đi dự lễ Thanh Minh . Ở đây cũng cần để ý tới lối đảo chữ tài tình của Nguyễn Du. Thay
vì “ cành lê điểm một vài bơng hoa trắng” thì Nguyễn Du đã viết:”cành lê trắng điểm một vài
bông hoa” . Tất nhiên có thể Nguyễn Du đã phải đảo chữ chỉ vì tôn trọng luật “bằng trắc” của
thơ lục bát , nhưng cũng phải cơng nhận đó là một lối đảo chữ tài tình mà khơng phải ai cũng
làm được .


Cũng một cảnh cỏ xanh nữa , nhưng lần này là màu xanh thẫm soi mình cạnh màu nước trong:
<i>Một vùng cỏ mọc xanh rì</i>


<i>Nước ngâm trong vắt thấy gì nữa đâu.</i>
Hay cảnh lung linh ánh nước soi chiếu mây vàng của hồng hơn:


<i>Long lanh đáy nước in trời</i>


<i>Thành xây khói biếc non phơi ánh vàng.</i>


Một cảnh khác mà màu sắc lại buồn ảm đạm , chỉ có màu nâu của đất , màu xanh vàng của cỏ
úa chen chân bên cái thấp lè tè của gò đất mả Đạm Tiên:



<i>Sè sè nắm đất bên đường</i>
<i>Rầu rầu ngọn cỏ nửa vàng nửa xanh</i>


Nói chung, Nguyễn Du chú trọng nhiều đến màu sắc của thiên nhiên, đặc biệt là của hồng
hơn ,của cây cỏ , của trăng và của nước là những màu sắc thi vị, nhưng lại gieo ấn tượng cho
một nỗi buồn xa xăm , cũng chỉ vì truyện Kiều mang bản chất nhiều nỗi buồn hơn vui.


Giáo sư Hà Như Chi dẵ nhận định về lối dùng màu sắc của cụ Nguyễn Du như sau :” Nguyễn
Du khi tả ánh sáng không những chỉ trực tiếp mô tả ánh sáng ấy , mà lại còn tả một cách gián
tiếp , cho ta thấy sự phản chiếu trên ngọn cỏ , lá cây mặt nước,đỉnh núi ..”(Việt Nam Thi Văn
Giảng Luận)


Đúng như thế, hãy xem cảnh khu vườn với hoa lựu nở đỏ như ánh lửa lập lòe trong mùa hạ ,
khi mùa nắng đã được đón chào bởi tiếng quyên ca lúc khởi một đêm trăng :


</div>
<span class='text_page_counter'>(17)</span><div class='page_container' data-page=17>

Lối dùng chữ trang nhã và bình dân trong tả cảnh.


Nguyễn Du là một thi nhân thuộc dòng dõi quan quyền phú quý , nhưng gặp phải cảnh loạn
lạc đổi chúa thay ngôi giữa nhà Lê và nhà Nguyễn , đã phải về quê cũ ở Huyện Tiên Điền để
ẩn cư. Cụ đã trải qua những ngày sống trong phú quý và những ngày sống thanh đạm nơi thôn
dã , nên trong tâm hồn đã thu nhập được hai cảnh sống . Cụ đã hài hòa kết hợp được hai cảnh
sống đó , nên trong lãnh vực văn chương tả cảnh trong truyện Kiều , cụ có khi dùng những
chữ thật trang nhã quý phái , có khi lại dùng những chữ thật giản dị bình dân.
Những chữ dùng trang nhã quý phái đă được kể nhiều qua những câu thơ ở trên, thiết tưởng
chẳng cần lậïp lại. Bây giờ chúng ta hãy xem những chữ rất bình dân mà Nguyễn Du dùng
trong lúc tả cảnh.


Ví dụ chị em Kiều du Xuân ra về thì trời vừa ngả bóng hồng hơn , Nguyễn Du dùng hai chữ
“tà tà “ chỉ một hành động chậm rãi, có thể là chị em Kiều thong thả bước chân ra về, mà cũng
có thể chỉ sự xuống chầm chậm của mặt trời chiều:



<i>Tà tà bóng ngả về tây</i>
<i>Chị em thơ thẩn dan tay ra về.</i>


Thế rồi gặp cảnh mả Đạm Tiên đắp vội , chỉ còn một nắm đất thấp “ sè sè “ bên đường, chen
lẫn vài ngọn cỏ úa :


<i>Sè sè nắm đất bên đường</i>


<i>Rầu rầu ngon cỏ nửa vàng nửa xanh.</i>
Rồi ngọn gió gọi hồn “ ào ào “ thổi tới như muốn nhắn nhủ điều chi :


<i>Ào ào đổ lộc rung cây</i>


<i>Ở trong dường có hương bay ít nhiều.</i>


Hay cảnh vườn Thúy khi Kim Trọng trở lại tìm Kiều mà khơng thấy nàng , chỉ thấy cánh én
xập xè bay liệng trên mặt đất hoang phủ đầy rêu phong:


<i>Xập xè én liệng lầu không</i>
<i>Cỏ lan mặt đất rêu phongdấu giầy .</i>


Và đêm xuống ánh trăng soi “ quạnh quẽ “ lẻ loi nơi vườn vắng, tri âm chỉ còn là những cọng
cỏ dại mọc lưa thưa:


<i>Đầy vườn cỏ mọc lau thưa</i>


<i>Song trăng quạnh quẽ vách mưa rã rời</i>


Chính vì Nguyễn Du đã kết hợp được cả hai lối hành văn bác học và bình dân một cách tài


tình nên truyện Kiều đã được tất cả mọi giai tầng trong xã hội đón nhận thưởng thức một cách
nhiệt thành. Những chữ mộc mạc bình dân đã chứng tỏ một bước tiến của nền văn chương
Việt Nam trên con đường xa dần ảnh hưởng của chữ Hán chữ nôm mà ï Nguyễn Du đã tiên
phong dấn bước.


Lối dùng điển tích trong tả cảnh .


Nguyễn Du là một thi hào dùng rất nhiều điển tích trong tác phẩm của mình. Nhưng khác với
những nhà thơ khác , thường dùng điển tích chỉ vì chưa tìm được chữ quốc ngữ thích đáng để
thay thế . Nguyễn Du thì khác , cụ đã dùng điển tích để “ làm câu thơ thêm có ý vị đậm đà mà
vẫn lưu lốt tự nhiên, khơng cầu kỳ thắc mắc “như Giáo sư Hà Như Chi đã nhận định. (Việt
Nam Thi Văn Giảng Luận) Nhưng phải nói, những điển tích mà Nguyễn Du dùng chính đã
làm giàu cho nền văn chương quốc ngữ Việt Nam , thậm chí nhiều điển tích đã trở thành ngơn
ngữ hồn tồn Việt Nam , mà nói tới ai ai cũng hiểu ý nghĩa đại cương của nó . Chẳng hạn
những chữ Biển dâu, Gót sen, Sư tử Hà Đông, kết cỏ ngậm vành , mây mưa, ba sinh, chắp
cánh liền cành ..v...v .


</div>
<span class='text_page_counter'>(18)</span><div class='page_container' data-page=18>

Riêng trong lãnh vực tả cảnh là chủ điểm của bài này, chúng ta khơng gặp nhiều điển tích cho
lắm . Nhưng cũng xin đan cử vài ví dụ.


Chẳng hạn như đoạn tả cảnh Kiều nhớ Kim Trọng bên dòng nước trong xanh phản chiếu ánh
trăng ngà :


<i>“ Gương nga chênh chếch dịm song</i>
<i>Vàng gieo ngấn nước cây lồng bóng sân ”</i>


“Gương Nga”chỉ mặt trăng , do tích Hằng Nga , mỹ nhân , vợ của Hậu Nghệ , đánh cắp và
uống hết thuốc tiên mà Hậu Nghệ xin được của bà Tây Vương Mẫu . Hằng Nga hóa tiên và
bay lên mặt trăng . Từ đó người ta thường gọi mặt trăng là Gương Nga hay chị Hằng , chị



Nguyệt .


Hai câu thơ khác :


<i>Sông Tần một giải xanh xanh</i>
<i>Loi thoi bờ liễu mấy cành Dương Quan</i>


Sông Tần lấy từ câu “ dao vọng Tần Xuyên, can trường đoạn tuyệt” ý nói ở xa nhìn nước sơng
Tần như nát gan xé ruột . Dương Quan là tên một cửa ải xa ở phía tây nam tỉnh Cam Túc. Cả
hai điển tích trên đều mang ý nghĩa một sự nhớ nhung khi xa cách. Đó là lúc Thúy Kiều tiễn
đưa Thúc Sinh trở về thăm vợ cũ là Hoạn Thư.


Hay:


<i>Trước lầu Ngưng Bích khóa xn</i>
<i>Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung</i>


Chữ Khóa Xn lấy từ điển tích Châu Du bị gió đơng cản việc phóng hỏa đốt trại Xích Bích ,
nên Đài Đồng Tước khơng bị cháy , nhưng chính vì đó mà đã khóa chặt tuổi xn hai chị em
tên Đại Kiều và Tiểu Kiều ,một người vợ Tôn Sách và một người vợ Châu Du..


<i>Đông phong bất dữ Chu lang tiện,</i>
<i>Đồng Tước xuân thâm tỏa nhị Kiều .</i>


Hai câu thơ trên ngụ ý tả cảnh lầu Ngưng Bích như là nơi đã khóa kín tuổi xn của Thúy
Kiều.


Một đoạn khác khi Kim Trong trở về vườn Thúy để tìm Kiều , nhưng nàng đã khơng cịn ở đó,
chỉ còn ngàn cánh hoa đào hồng thắm đang cười như tiễn biệt gió đơng:



<i>Trước sau nào thấy bóng người</i>
<i>Hoa đào năm ngối cịn cười gió đơng</i>


Hai câu này lấy từ điển tích nho sinh Thơi Hộ đời nhà Đường , trở về Đào Hoa Trang để thăm
người con gái năm xưa đã dâng cho chàng nước uống trong lúc dự hội Đạp Thanh. Nhưng
người đẹp đã vắng bóng dù cảnh cũ vẫn cịn đấy, chìm ngập trong ngàn cánh hoa đào phe
phẩy dưới nắng xuân . Thôi Hộ đã viêt hai câu thơ nguyên văn văn :


<i>Nhan diện bất tri hà xứ khứ ,</i>
<i>Đào hoa y cựu tiếu đông phong</i>


Kết luận .


</div>
<span class='text_page_counter'>(19)</span><div class='page_container' data-page=19>

cũng đủ truyện Kiều không hổ thẹn để xứng đáng là một tác phẩm văn chương quốc ngữ hay
nhất trong kho tàng văn học của nước ta.


Hãy nghe học giả Đào Duy Anh nhận xét về truyện Kiều “ Chúng ta sở dĩ yêu chuộng truyện
Kiều khơng phải nó có thể làm quyển sách ln lý cho đời , mà chỉ vì trong sách ấy, Nguyễn
Du đã dùng những lời văn kỳ diệu để rung động tâm hồn ta...” ( Khảo Luận về Kim Vân
Kiều)..


Thật đúng như vậy , những rung động trong tâm hồn được khơi dậy khi đọc truyện Kiều hẳn
là một điều không ai trong chúng ta có thể phủ nhận bởi vì chúng ta đã từng có những cảm
giác này . Truyện Kiều vì thế đã sống mãi với thời gian và không gian , từ thế hệ này qua thế
hệ khác , lúc nào cũng được mọi người trân trọng và yêu mến .


<b> Bức tranh tâm trạng qua 8 câu cuối đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích”</b> <b></b>
--Nền văn học Việt Nam xưa được ví như bức tường cao dày của xúc cảm và tri thức. Trước
những bước đi của thời gian, dường như nó càng thêm vững chãi, uy nghi và lộng lẫy hơn bao
giờ hết. Bằng chứng là, dù có mấy trăm, mấy nghìn năm trơi qua, người ta vẫn khơng ngừng


lần mị, tìm về với tinh hoa nghệ thuật của nền cổ văn vốn đã ít nhiều nằm khuất dưới lớp bụi
mờ thời gian. Một trong những thi phẩm cho đến tận bây giờ vẫn không giảm sức hút, vẫn
được cho là còn quá nhiều để hiểu, để khám phá, chính là Đoạn trường tân thanh- kiệt tác của
đại thi hào Nguyễn Du, biểu tượng lớn cho văn học trung đại Việt Nam. Xuyên suốt tác phẩm
là nét gợi hình, tả cảnh, lối tự sự độc đáo, đầy sáng tạo. Không ngoại lệ, nghệ thuật tả tâm
cũng là yếu tố đẩy Truyện Kiều lên đỉnh cao rực rỡ. Hai mươi dòng lục bát Kiều ở lầu Ngưng
Bích thể hiện rõ ánh nhìn sâu của Nguyễn Du trong từng xúc cảm mỏng manh của Kiều.
Đoạn trích nằm ở phần thứ hai của truyện- Gia biến và lưu lạc, như những cụm mây đen đầu
tiên che phủ lên cuộc đời Kiều. Đành đoạn dứt tình với Kim Trọng, nàng nguyện hiến thân
cứu cha. Cái trong trắng của một tiểu thư từ nhỏ được mẹ cha bảo bọc, tình phụ tử sâu nặng và
lòng hiếu thảo của đứa con ngoan đã đẩy nàng Kiều vào vòng lừa lọc từ những kẻ buôn người.
Nỗi uất ức của nàng được Tú Bà xoa dịu bằng ngày tháng giam cầm ở lầu cao với cớ rằng để
nàng tịnh tâm, bình phục. Ngọn lầu ấy tên là Ngưng Bích, một cái tên quá đẹp so với những
cô đơn, tẻ nhạt mà nàng Kiều phải trải qua tại đây. Tọa lạc ở một vùng nổi tiếng với kỹ nghệ
ngọc trai thu hút nhiều thương gia, lầu Ngưng Bích như hạt ngọc bích quý giá ngưng đọng, cốt
để khóa chặt cái thời xuân sắc tươi đẹp nhất của người con gái họ Vương. Trái hẳn với khơng
khí bn bán sầm uất bên ngồi, bao trùm lấy khơng gian trong lầu chỉ là tiếng sóng vỗ ào,
ngọn gió biển nặng nề lướt qua, và những suy tư khó nhọc của một phận hồng nhan. Lầu
Ngưng Bích nói cho cùng cũng chỉ mới là điểm khởi đầu cho đắng cay về sau của Kiều,
nhưng âm điệu buồn da diết của cả đoạn trích đã cho thấy bao đau thương dồn nén trong hồn
người, thấm đẫm cả một vùng trời đất rồi lại sắt se vào lòng. Một khoảng mênh mang trĩu
nặng trao qua nhận lại giữa người với cảnh đã làm nên khúc thiên sầu Kiều ở lầu Ngưng Bích,
đặc biệt là tám dịng tuyệt bút cuối cùng.


</div>
<span class='text_page_counter'>(20)</span><div class='page_container' data-page=20>

sớm cho đến khuya, Kiều chỉ biết quanh quẩn với mây với đèn. Nàng đối cảnh nhiều tới nỗi
một phần đất trời quạnh quẽ như hóa tâm trạng, làm dâng đầy cái niềm xót xa đau đáu trong
lòng bấy lâu. Càng hướng ra thiên nhiên, Kiều càng thấy rõ sự cơ đơn vây kín từng ngày, càng
day dứt khôn nguôi, nhớ cha, nhớ mẹ và nhớ chàng Kim ngày nào cùng hẹn ước. Với Kim
Trọng, nàng vẫn chưa thể dẹp yên suy nghĩ phụ bạc, chính nàng đã tự tay cắt đứt sợi tơ hồng,
đã đẩy chàng vào mỏi mịn trơng ngóng. Niềm tin sắt đá vào lời thề dưới trăng đêm ấy sẽ là


lưỡi dao nhọn đâm vào tim chàng, khi mà giờ đây, thân phận nàng đã “hạc nội mây ngàn”,
không biết rồi lưu lạc về đâu. Kiều bây giờ có lẽ đã thấm thía cái trơ trọi, bơ vơ nơi đất khách,
nhưng mối tình đầu đẹp như mộng ngày ấy vẫn gieo cho Kiều khát vọng son sắt, thủy chung.
Với cha mẹ, nàng thương xót hình dung cảnh đấng phụ thân, phụ mẫu thấp thỏm chờ trông.
Qua cơn biến cố, rồi mẹ cha sẽ như thế nào? Nàng đi rồi, ai lo phụng dưỡng bậc sinh thành?
Đành là dứt tình vì cha, nhưng trong tận thâm tâm một đứa con hiếu thảo, bấy nhiêu vẫn chưa
thật tròn đạo làm con. Hết cái day dứt phụ tình Kim, nàng lại nghĩ đến cái tội phụ cơng sinh
dưỡng, khơng thể chăm sóc cha mẹ khi về già là một trong những nỗi niềm cứ canh cánh
trong Kiều lúc bấy giờ. Từ những nỗi niềm buồn thương đó, cụ Nguyễn Du đã khéo léo tơ
thêm màu xám trên ánh nhìn xa xăm của Kiều, đẩy sầu não lên thành đỉnh điểm, qua tám câu
khép lại đoạn trích:


<i>Buồn trơng cửa bể chiều hơm, </i>
<i>Thuyền ai thấp thống cánh buồm xa xa?</i>


Tâm trạng buồn nhớ của Kiều giờ đi cả vào ánh mắt. Người buồn thì cảnh cũng buồn. Vẫn là
cảnh đó, khơng gian đó, nhưng đã chất chứa phần nào nỗi lòng Kiều. Khung tranh buồn thứ
nhất mở ra ngay thời điểm chiều hôm- là thời điểm quen thuộc của nghệ thuật, của những lưu
luyến khó tả. Cửa bể chiều hơm gợi trước mắt ta hình ảnh những tia nắng leo lắt cuối ngày
phản chiếu lên mặt biển xanh thẳm rồi lan ngay ra không gian xung quanh, khiến mọi thứ
nhuốm màu sẫm tối, có cái gì da diết như đêm luyến ngày, như niềm lưu luyến tha thiết của
Kiều về ngày tháng êm đềm xưa kia. Cửa biển trong ánh chiều tà yếu ớt bao trùm luôn cả
những con thuyền căng buồm lộng gió ngồi xa- những con thuyền chở hy vọng của nàng
Kiều được một lần tự do ngoài bầu trời rộng mở, vượt khỏi cái tù túng tẻ nhạt nơi lầu son gác
tía. Những cánh buồm đều ở rất xa, thoắt ẩn thoắt hiện trong ánh hồng hơn trĩu buồn, như
niềm hy vọng của nàng chỉ là những chấm nhỏ ngoài khơi xa mịt mờ, những từ thấp thoáng,
xa xa càng khiến hy vọng nhạt nhịa.


<i>Buồn trơng ngọn nước mới sa, </i>
<i>Hoa trơi man mác biết là về đâu?</i>



Qua khung tranh thứ hai, vẫn là ánh nhìn vào nước, nhưng đã gần hơn. Có lẽ nào nàng Kiều
đã bắt đầu nhượng bộ trước những xa xăm của cuộc đời, nhìn gần để có thêm ít hy vọng, dù
nhỏ. Ngờ đâu, cái mà nàng trông thấy còn dữ tợn hơn bội phần. Cánh hoa mỏng manh dập dìu
trước ngọn nước từ trên cao đổ xuống. Thử hỏi, cánh hoa mỏng manh ấy làm sao chịu nổi sức
nước tràn? Thân phận Kiều cũng vậy, quá bé nhỏ trước dịng đời. Chỉ bấy nhiêu thơi cũng cho
thấy sự nhạy cảm của Kiều. Cái man mác trôi của hoa thể hiện cái băn khoăn, lo lắng cho thân
phận lạc lồi, vơ định của nàng. Kiều bây giờ cũng như bơng hoa kia, khơng cịn người thân
bên cạnh, tự nàng phải bước lên những chông gai của cuộc đời.


<i>Buồn trông nội cỏ rầu rầu, </i>
<i>Chân mây mặt đất một màu xanh xanh.</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(21)</span><div class='page_container' data-page=21>

tràn. Cảnh buồn hay vì người buồn nên cảnh mới buồn thì khơng biết, chỉ biết lần này, nàng
Kiều đã thật sự tuyệt vọng, chẳng còn đối cảnh nào khiến nàng thấy ý muốn níu kéo của mình
là đúng. Mọi thứ đều đưa nàng vào suy nghĩ dằn vặt và đau xót hơn.


<i>Buồn trơng gió cuốn mặt duềnh, </i>
<i>Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi.</i>


Trong lúc tuyệt vọng nhất, Kiều thấy mình dường như chao đảo. Từng ngọn gió mạnh thổi
sóng vỗ ầm ầm. Quang cảnh đã thơi n lặng, mặt biển dậy sóng, lịng Kiều cũng dậy sóng.
Những đợt sóng dữ dội như dự báo trước điều bất an, như cảnh báo một tương lai bão táp
đang chờ Kiều trước mắt. Người con gái tài sắc trong hồn cảnh đó đã hoảng loạn vơ cùng.
Tám dòng thơ cuối này tạo nên bốn khung tranh tâm trạng của nàng Kiều. Mỗi khung tranh là
một trạng thái tâm lý khác nhau. Điệp từ buồn trông diễn tả cái tăng tiếnđến choáng ngợp của
từng cung bậc xúc cảm trong Kiều. Nỗi buồn tủi ban đầu đã dồn nghẹn trong lòng thành niềm
lo sợ về thân phận lạc loài, cái héo hắt, tuyệt vọng trước thực tại, trào ra thành nỗi hoảng sợ
tột độ, hoàn toàn mất phương hướng. Yếu tố không nhỏ giúp cho sự tăng tiến về cảm xúc trở
nên dữ dội mà lại sít sao, tự nhiên vơ cùng chính là hệ thống từ láy tầng tầng lớp lớp, khiến


mấy dòng thơ từ tha thiết trở thành mạnh mẽ, từ mạnh mẽ lại trở về tha thiết. Có thể nói, đại
thi hào Nguyễn Du là một nhà bác học của ngôn từ và cảm xúc. Những từ ngữ ông sử dụng
luôn uyên thâm nhưng vững nghĩa và dễ hiểu. Nghệ thuật dụng từ trong tám câu cuối của
đoạn trích này đã góp phần đưa nó thành thiên sầu khúc. Ngoài ra, cái tài của cụ Nguyễn là
vừa để cho Kiều nhìn cảnh bằng con mắt chủ quan của tâm trạng, lại vừa ngầm thể hiện sự xót
thương thân phận người trong cảnh từ địa vị của một nhà nhân đạo chủ nghĩa, làm cho dòng
thơ có sức gợi cảm mãnh liệt, chinh phục bao tầng lớp độc giả.


Nếu tồn cảnh Truyện Kiều có bộ tranh thơ Tứ Bình nổi tiếng, thì ở một góc độ nào đó, bốn
khung tranh tâm trạng độc đáo này cũng là bộ Tứ Bình về cảm xúc. Vừa có nhạc điệu từ điệp
từ liên hồn buồn trơng, vừa khắc họa cảnh sắc từ nhiều góc độ, tám câu cuối Kiếu ở lầu
Ngưng Bích thật đúng là một trong những đoạn thơ đỉnh cao trong hơn ba nghìn dịng thơ
Truyện Kiều.


<b>Phân tích nghệ thuật miêu tả nhân vật được thể hiện qua ngơn ngữ đới thoại nhằm khắc</b>
<b>hoạ tính cách nhân vật Thuý Kiều, Hoạn Thư trong đoạn trích “Thuý Kiều báo ân, báo</b>
<b>ốn” (Trích trong Truyện Kiều của Nguyễn Du)</b>


Trải qua “hết hạn nọ đến hạn kia”, Kiều đã nếm đủ hết mọi điều cay đắng, tưởng rằng nàng sẽ
buông xuôi trước số phận “biết thân chạy chẳng khỏi trời - cũng liều mặt phấn cho rồi ngày
<i>xanh”. Chính lúc kiều đang vơ vọng thì Từ Hải xuất hiện. Kiều găph Từ Hải- một bước ngoặt</i>
quan trọng đã mở ra trên hành trình số phận của người con gái họ Vương. Người anh hùng
“đội trời, đạp đất” chẳng những cứu Kiều thốt khỏi cuộc sống ở lầu xanh mà cịn đưa nàng
từ thân phận “con ong, cái kiến” bước lên địa vị một quan tồ cầm cán cân cơng lý “ơn đền,
ốn trả”. Đoạn trích “Th Kiều báo ân, báo oán” miêu tả cảnh thuý Kiều đền ơn những người
đã cưu mang, giúp đỡ nàng đồng thời trừng trị những kẻ bất nhân, tàn ác.


Nghệ thuật xây dựng nhân vật của Nguyễn Du có khi được thể hiện qua bút pháp ước lệ miêu
tả ngoại hình (đoạn trích “chị em Th Kiều”) , có khi được thể hiện qua ngơn ngữ độc thoại,
qua bút pháp tả cảnh ngụ tình để miêu tả tâm trạng (đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích”).


Trong đoạn trích “Th Kiều báo ân, báo ốn”, nghệ thuật miêu tả nhân vật được thể hiện qua
ngôn ngữ đối thoại để làm nổi rõ tính cách nhân vật Thuý Kiều, Hoạn Thư.


Trước hết, nhà thơ miêu tả cảnh Thuý Kiều trả ơn Thúc Sinh trong mười hai câu thơ đầu “<i>cho</i>
<i>gươm mời đến Thúc lang .... mưu sâu cũng trả nghĩa sâu cho vừa”.</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(22)</span><div class='page_container' data-page=22>

<i>“Cho gươm mời đến Thúc lang</i>
<i>Mặt như chàm đổ mình dường dẽ run”.</i>


Trước những “gươm lớn, giáo dài”, chàng thúc hoảng sợ đến mức “mặt như chàm đổ”, người
run lên như đi khơng vững. Hình ảnh tội nghiệp này hồn tồn phù hợp với tính cách có phần
nhu nhược của Thúc Sinh. Hình ảnh tội nghiệp của Thúc Sinh làm cho nàng Kiều động lòng
trắc ẩn và họ tạo nên sự bất ngờ trong việc trả ơn, báo oán tiếp theo. Qua lời nói của Kiều
“nghĩa nặng nghìn non”, “sâm thương chẳng vẹn chữ tòng, tại ai há dám phụ lòng cố
<i>nhân” ... , có thể nói rằng nàng rất trọng tấm lòng và giúp đỡ mà Thúc Sinh dành cho nàng</i>
trong cơn hoạn nạn.


Thúc Sinh đưa Kiều ra khỏi lầu xanh, cứu nàng thốt khỏi cảnh đời ơ nhục. Cùng với chàng
thúc, Kiều có những tháng ngày êm ấm trong cuộc sống gia đình. Nàng gọi đó là <i>“nghĩa nặng</i>
<i>nghìn non”. Trong hình thức của cách nói văn chương, sách vở là tấm lòng biết ơn chân thật</i>
của Kiều. “Lâm Tri người cũ chàng cịn nhớ khơng?”. Hai chữ “người cũ”, tiếng việt mang
sắc thái thân mật, gần gũi.


Vì gắn bó với Thúc Sinh mà đời kiều thêm một lần khổ với thân phận làm lẽ đau đớn hơn một
kẻ tơi địi. Tuy nhiên Kiều hiểu nỗi đau khổ của nàng không phải do Thúc Sinh gây ra mà thủ
phạm là Hoạn Thư. Thuý Kiều hiểu hoàn cảnh của Thúc Sinh: “tại ai há dám phụ lòng cố
<i>nhân?”. Với Kiều thì dù có “gấm trăm cuốn, bạc nghìn cân” cũng chưa xứng với ân nghĩa của</i>
Thúc Sinh. Tấm lòng ”nghĩa nặng nghìn non” thì gấm vóc, bạc vàng nào có thể cân cho được?
Khi nói với Thúc Sinh, Kiều dùng những từ Hán - Việt “<i>nghĩa tòng”, “cố nhân”, ... tiễn cố</i>
“sâm thương”. Cách nói trang trọng này phù hợp với chàng thư sinh họ Thúc, đồng thời diễn


tả được tấm lòng biết ơn trân trọng của nàng Kiều.


Trong khi nói với Thúc Sinh, Kiều đã nói về Hoạn Thư, điều đó chứng tỏ vết thương lịng mà
Hoạn Thư gây ra cho Kiều đang cịn qua xót xa. Lúc nói về Hoạn Thư thì ngơn ngữ của Kiều
lại hết sức nơm na, bình dị. Nàng dùng những thành ngư quen thuộc “ kẻ cắp, bà già gặp
<i>nhau”, “kiến bò miệng chén” với những từ tiếng Việt đễ hiểu. Hành động trừng phạt cái ác</i>
theo quan điểm của nhân dân phải được diễn đạt bằng lời ăn, tiếng nói của nhân dân.


Đoạn thơ sau, cịn lại trong đoạn trích là cuộc đối đáp giữa Kiều và Hoạn Thư trong cảnh báo
oán “thoắt trông nàng đã chào thưa ... truyền quân lệnh xuống trướng tiền tha ngay”. Hành
động và lời nói của Kiều biểu thị thái độ mỉa mai đối với Hoạn Thư. Nàng vẫn dùng cách
xưng hơ như hồi cịn làm hoa nô cho nhà họ Hoạn, vẫn một điều “<i>chào thưa”, hai điều “tiểu</i>
<i>thư”. Cách xưng hơ này trong hồn cảnh giữa Kiều và Hoạn Thư đã có sự thay bậc, đổi ngơi</i>
là một địn mỉa mai quất mạnh vào danh gia họ Hoạn. Trong lời nói của Kiều có cả giọng đay
nghiến, câu thơ như dằn ra từng tiếng; từ ngữ được lặp lại, nhấn mạnh: (<i>dễ có, dễ dàng, mấy</i>
<i>tay, mấy mặt, mấy gan, đời xưa, đời nay, càng cay nghiệt, càng oan trái, ..</i>. ) cách nói này
hoàn toàn phù hợp với dối tượng Hoạn Thư, phù hợp với con người “bề ngồi thơn thớt nói
<i>cười - bề trong nham hiểm giết người không dao”. Giọng điệu mỉa mai, đay nghiến của Kiều</i>
cho thấy nàng quyết trừng trị Hoạn Thư theo đúng quan niệm “mưu sâu cũng trả nghĩa sâu
<i>cho vừa”.</i>


Trong lời nói, thái độ của Kiều, phút giây đầu Hoạn Thư có “<i>hồn lạc phách xiêu” nhưng ngay</i>
trong hoàn cảnh ấy, Hoạn Thư vẫn kịp “liệu điều kêu ca”. đây quả là con người khôn ngoan,
giảo hoạt. Lời “kêu ca” của Hoạn Thư thực chất là cách lí giải để gỡ tội cho mình.


</div>
<span class='text_page_counter'>(23)</span><div class='page_container' data-page=23>

chế độ đa thê. Tiếp đến, Hoạn Thư kể lại “công” đã cho Kiều ra viết kinh ở gác Quan Âm và
không bắt giữ khi nàng bỏ trốn khỏi nhà Hoạn Thư:


<i>“Nghĩ cho khi gác viết kinh</i>
<i>Với khi khỏi cửa dứt tình chẳng theo”.</i>



Cuối cùng, Hoạn Thư nhận tất cả tội lỗi về mình, chỉ cịn biết trơng cậy vào tấm lòng khoan
dung, độ lượng rộng lớn như trời biển của Kiều “còn nhờ lượng bể thương bài nào chăng”.
Trước những lời kêu ca của Hoạn Thư, Kiều đã phải thừa nhận đây là con người <i>“khôn</i>
<i>ngoan đến mực nói năng phải lời”. Hoạn Thư đã đưa Kiều tới chỗ khó xử “tha ra thì cũng</i>
<i>may đời - làm ra thì cũng ra người nhỏ nhen”</i>. Nàng có răn đe Hoạn Thư nhưng rồi lại khoan
dung độ lượng “đã lịng tri q thì nên”. Hoạn Thư đã biết lỗi, đã xin tha thì Kiều cũng cư xử
theo quan điểm triết lý dân gian “đánh người chạy đi chứ khơng đánh người chạy lại”!


Qua cách lí lẽ để gỡ tội, có thể thấy Hoạn Thư “sâu sắc nước đời” đến “quỷ quái tinh ma”.
Tuy nhiên, việc Hoạn Thư được tha bổng khơng hồn tồn phụ thuộc vào sự <i>“tự bào chữa”</i>
mà chủ yếu là do tấm lòng độ lượng của Kiều.


Đoạn “Thuý Kiều báo ân, báo oán” một lần nữa đã làm ngời lên tấm lòng vị tha, nhân hậu của
người con gái họ Vương. Từ thân phận con người bị áp bức, đau khổ, Thuý kiều đã trở thành
vị quan tồ cầm cán cân cơng lý. Đoạn trích này là sự phản ánh khát vọng, ước mơ cơng lý
chính nghĩa của thời đại Nguyễn Du. Đó cũng chính là ước mơ cơng lý chính nghĩa theo quan
điểm của quần chúng nhân dân: những con người bị áp bức, đau khổ vùng lên đòi sự cơng
bằng cho chính họ - “ở hiến gặp lành, ở ác gặp ác”.


<b>Phân tích đoạn thơ trích “Mã Giám Sinh mua Kiều”.</b>


Đang sống trong hạnh phúc của mối tình đầu say mê, trong trắng với Kim Trọng thì bất ngờ
gia đình Kiều bị vu oan, giáng hoạ. Khơng đành lịng để cho gia đình tan nát, Th Kiều đau
đớn trao duyên cho Thuý Vân, tự nguyện bán mình để lấy tiền cứu cha và em trai. Lợi dụng
tình cảnh đau đớn của Kiều, Mã Giám Sinh “vốn là một đứa phong tình đã quen” đánh tiếng
cưới nàng về làm thiếp nhưng thực sự là hắn mua Kiều về cửa hàng thanh lâu của hắn với mụ
Tú Bà ở Lâm Tri. Đoạn trích này miêu tả màn kịch mua bán, qua đó “<i>lột mặt nạ” của Mã</i>
Giám Sinh và thể hiện nỗi đau đớn ê chề, mở đầu cho đoạn trường mười lăm năm lưu lạc đầy
cay đắng của nàng Kiều.



Với ngòi bút sắc sảo trong miêu tả và nỗi căm ghét của nhà thơ, Nguyễn Du đã lột tả bộ mặt bỉ
ổi, tàn ác, ghê tởm của bọn “<i>buôn bán thịt người”. Trong màn kịch này, Mã Giám Sinh đóng</i>
vai chàng sinh viên Quốc Tử Giám đến để làm “lễ vấn danh”, xem mặt, dạm hỏi Thuý Kiều
về làm vợ lẽ. Gã sinh viên giả hiệu “người viễn khách” mờ ám này, mù mờ từ tên họ đến tên
qn. Và ngịi bút thần tình của Nguyễn Du cứ mỗi nét lại khắc hoạ rõ hơn chân dung của Mã
Giám Sinh và cái bản chất con buôn ghê tởm của hắn:


<i>“Quá niên trạc ngoại tứ tuần</i>
<i>Mày râu nhẵn nhụi, áo quần bảnh bao.</i>


<i>Trước thầy, sau tớ xôn xao</i>


<i>Nhà băng đưa mối, rước vào lầu trong”...</i>
<i>...“Ghế trên ngồi tót sỗ sàng”</i>


Mã Giám Sinh đã “ngoại tứ tuần” mà vẫn “áo quần bảnh bao”, “mày râu nhẵn nhụi”, rõ ra
một gã trai lơ. Lũ thầy, tớ chúng kéo đến nhà Kiều thật là nhốn nháo, lố lăng ... và cái cử chỉ
“ghế trên ngồi tót sỗ sàng” đã làm rơi cái mặt nạ sinh viên, phơi bày chân tướng của một tên
vô học, thô lỗ của hắn.


</div>
<span class='text_page_counter'>(24)</span><div class='page_container' data-page=24>

quyệt nhưng diện mạo, thái độ, cử chỉ, hành vi và ngôn ngữ của hắn vẫn tự tố cáo bản chất
đích thực của một tên “buôn thịt bán người” đê tiện.


Trong con mắt của Mã Giám Sinh, nàng Kiều cùng với tài sắc của nàng chỉ là một món hàng
rồi đây sẽ sinh lợi cho hắn. Hắn đắn đo khi “cân sắc, cân tài”, hắn “ép”, hắn “thử” tài nghệ
của nàng; nhấc lên, đặt xuống, xoay vần đủ kiểu hệt như người ta mua bán một món hàng. Khi
đã hồn tồn vừa ý, bản chất con bn của hắn vẫn cịn lộ ra ở cái thái độ “<i>tuỳ cơ dặt dìu” khi</i>
mặc cả. Bản chất đó cịn được che đậy bằng những lời lẽ mĩ miều, sang trọng:



<i>“ Rằng mua ngọc đến Lam Kiều</i>
<i>Sính nghi xin dạy bao nhiêu cho tường?”</i>
Thì cuối cùng bộc lộ một cách trắng trợn và bỉ ổi nhất:


<i>“Cò kè bớt một, thêm hai</i>


<i>Giờ lâu ngã giá vàng ngồi bốn trăm”</i>


Với sự mặc cả “cị kè” ti tiện, bẩn thỉu này, màn kịch “lễ vấn danh” lộ rõ thực chất là một
cảnh “mua thịt bán người” một cách trắng trợn và Mã Giám Sinh hiện nguyên hình là một tên
con buôn ghê tởm và đê tiện nhất.


Trong đoạn trích này, hình ảnh Th kiều hiện ra với tất cả những buồn khổ, xót xa, ê chề, tủi
hổ. Là một cơ gái tài sắc vẹn tồn, đang sống trong cảnh <i>“êm đềm trướng rủ, màn che, tường</i>
<i>đong ong bướm đi về mặc ai”, lại đang ngây ngất trong hạnh phúc của mối tình đầu trong</i>
trắng thì thình lình tai hoạ ập đến, Kiều trở thành một món hàng cho bọn <i>“bn thịt, bán</i>
<i>người” trao tay mua bán, cị kè, mặc cả. Tâm hồn nhạy cảm của nàng đã cảm nhận sâu sắc</i>
cảnh ngộ éo le, vừa hổ thẹn, vừa dơ dáy, vừa đau đớn, nhục nhã của mình:


<i>“ Nỗi mình thêm tức nỗi nhà</i>
<i>Thềm hoa một bước, lệ hoa mấy hàng!</i>


<i>Ngại ngùng dợn gió, e sương,</i>


<i>Ngừng hoa bỗng thẹn, trơng gương mặt dày”.</i>


Kiều vừa xót xa cho mối tình của mình (nỗi mình), vừa xót xa cho gia đình (nỗi nhà), lệ rơi
khơn cầm. Kiều ra với Mã Giám Sinh như cành hoa đem ra trước sương gió, cho nên “ <i>dợn</i>
<i>gió, e sương”, vì sương gió làm cho hoa tàn, hoa rụng. Và vì tự ví mình với hoa nên thẹn</i>
thùng khi nhìn thấy hoa, tự thấy khơng xứng với hoa. Đó là cái đạo đức thầm kín của Kiều.


Trong khi đó mụ mối cứ giới thiệu Kiều như một món hàng, một đồ vật: “vén tóc, bắt tay” cho
khách xem. Bắt nàng làm thơ, đánh đàn cho khách thấy. Cịn Kiều thì “nét buồn như cúc, điệu
<i>gầy như mai”.</i>


Trong màn kịch “lễ vấn danh” này, dưới sự “đạo diễn” của mụ mối và theo đòi hỏi, nài ép của
Mã Giám Sinh, Kiều “nhất cử, nhất động” đánh đàn , làm thơ như một “cái máy”. Bán mình
để chuộc cha, cứu em là hành động tự nguyện của nàng nên nàng chịu đựng và cam chịu tất
cả. Qua ngòi bút của Nguyễn Du, nàng Kiều hiện lên với sự im lặng tuyệt đối mà vẫn không
sao dấu được sự đau đớn, xót xa, tủi nhục, ê chề bởi nàng là người ln có ý thức về nhân
phẩm mà lại bị chà đạp lên nhân phẩm một cách nhục nhã. Kiều đau uất trước cảnh đời ngang
trái, đau khi nghĩ tới”nỗi mình” - tình duyên dang dở, uất bởi “nỗi nhà” bị “vu oan giáng
<i>hoạ”, Bao trùm lên tâm trạng của Kiều là sự đau đớn, tái tê “thềm hoa một bước, lệ hoa mấy</i>
<i>hàng”!</i>


Phải nói, trước sau, Nguyễn Du cũng đã miêu tả cảnh bán người như là cảnh “<i>cành hoa đem</i>
<i>bán cho thuyến lái buôn” </i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(25)</span><div class='page_container' data-page=25>

<b>Hãy phân tích đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” để thấy rằng: Nguyễn Du đã dựng</b>
<b>nên một bức tranh tâm tình đầy xúc động.</b>


Sau khi tự nguyện bán mình để cứu cha, Kiều khơng ngờ phải rơi vào một tên cò mồi Mã
Giám Sinh và mụ chủ lầu xanh Tú Bà. Biết chưa ép được Kiều tiếp khách làng chơi, Tú Bà
bèn đưa Kiều ra ở lầu Ngưng Bích. Thực ra, đây cũng chỉ là khoảnh khắc tạm thời yên thân để
rồi sau đó, đời nàng bị xô đẩy đi giữa bao mưu mô độc ác của mụ Tú Bà mà nàng chưa lường
hết được. Đoạn thơ trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” đúng là một bức tranh tâm tình đầy xúc
động. Nguyễn Du đã đặt nhân vật Thuý kiều vào cảnh ngộ ấy để cho Kiều tự bộc lộ tâm trạng
của mình.


Trong giờ phút mà bên ngồi tưởng như n tĩnh này thì chính trong lòng nàng Kiều đang
ngổn ngang, tăm tối. Tất cả những gì xảy ra trước đó lại được tái hiện, để rồi chỉ cịn lại cảm


giác đau buồn, nhớ thương vơ hạn xoáy sâu vào tâm can nàng.


Ngồi trên lầu cao, nhìn phía trước là núi non trùng điệp, ngẩng lên phía trên là vầng trăng
như sắp chạm đầu, nhìn xuống phía dưới là những đoạn cát vàng trải dài vô tận, lác đác như
<i>“bụi hồng” nhỏ bé.</i>


Cả một không gian mênh mơng, hoang vắng khơng một bóng người, khơng một tiếng chim,
càng tô đậm thêm cuộc sống cô đơn, lẻ loi của nàng lúc này:


<i>“Trước lầu Ngưng Bích khố xuân</i>
<i>Vẻ non xa, tấm trăng gần ở chung</i>


<i>Bốn bề bát ngát xa trông</i>
<i>Cát vàng cồn nọ, bụi hồng dặm kia”</i>


Nàng cảm thấy buồn tủi, chán chường, cảnh thế nào lòng mình thế ấy: <i>“Trống trải, đơn</i>
<i>cơi”: </i>


<i>“Bẽ bàng mây sớm đèn khuya</i>
<i>Nữa tình nữa cảnh như chia tấm lịng”</i>
Nàng tự đối thoại với lịng mình, biết tâm sự cùng ai nữa.


Trước hết, nàng nhớ tới Kim Trọng, nhớ đến những lới thề nguyền dưới ánh trăng vằng vặc,
nàng hình dung được nổi sầu muộn, chờ mong của chang và tự hứa với lịng mình giữ trọn
mối tình chung thuỷ.


Có lẻ lúc này, nàng thương chàng Kim vô hạn, bởi trước lúc chia li khơng nói với nhau được
một lời, nổi oan gia quá ư đột ngột:


<i>“Tưởng người dưới nguyệt chén đồng</i>


<i>Tinh sương luống những rày trông mai chờ</i>


<i>Bên trời góc bể bơ vơ</i>


<i>Tấm son gột rửa bao giờ cho phai”</i>


Với cha mẹ cũng vậy, mặc dầu nàng đã “liều đem tấc cỏ, quyết đền ba xuân”, cứu được cha,
em thốt khỏi vịng tù tội, nhưng lúc này nàng vẫn cảm thấy xót xa, cảm thấy chưa xứng là
phận làm con. Bởi lúc cha mẹ già yếu, mình khơng được chăm sóc, khơng được hầu hạ:


<i>“Xót người tựa của hơm mai</i>
<i>Quạt nồng ấm lạnh những ai đó giờ?</i>


<i>Sân Lai cách mấy nắng mưa</i>
<i>Có khi gốc tử đã vừa người ơm”</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(26)</span><div class='page_container' data-page=26>

Nhìn vào đầu nàng cũng thấy buồn, cảnh vật dù có đổi thay nhưng nơi buồn của nàng thì như
cố định. Nàng cảm nhận được những gì sẽ đến với mình, đối với người con gái họ Vương
tài-sắc này như một định mệnh khơng sao thốt được!


Từ tâm trạng nhớ người yêu, nhớ cha mẹ, nhưng cuối cùng nàng Kiều lại quay về với chính
cảnh ngộ của mình, sống với tâm trạng và thân phận hiện tại của chính mình.


Mỗi một cảnh vật qua con mắt, cái nhìn của Kiều gợi lên trong tâm trí của nàng một nét buồn.
Và Kiều mỗi lúc lại càng chìm sâu vào nổi buồn của mình. Nổi buồn sâu sắc của Thuý Kiều
được ngòi bút bậc thầy-Nguyễn Du mỗi lúc lại càng tơ đậm thêm bằng cách dùng điệp ngữ
liên hồn rất độc đáo “Buồn trông”


<i>...”Buồn trông cửa bể chiều hôm”</i>
<i>...”Buồn trông ngọn nước mới sa”</i>



<i>...”Buồn trông nội cỏ rầu rầu”</i>
<i>..”Buồn trơng gió cuốn mặt duềnh”</i>


Từng cảnh vật dưới con mắt của Kiều đều nhuộm một nổi buồn khó tả, cũng có trời
nước, nhưng mây trời thì nhàn nhạt, dịng nước thì mãi miết cuốn trơi những càng hoa rơi.
Cùng với gió, sóng nhưng là “gió cuốn”, “sóng xơ”....giữa cái mênh mơng của biển trời, lại
vào


lúc hoang hôn buông xuống, nàng chỉ đủ sức để nhận ra một con thuyền, một cách buồng thấp
thống phía xa “Thuyền ai thấp thống cánh buồm xa xa”.


Mỗi cảnh vật như gợi một nổi buồn riêng trong mối dây liên tưởng với tâm trạng buồn chán về
cuộc đời, về số phận của mình.


Nếu như “Thuyền ai thấp thống” làm nàng chạnh nghĩ đến cuộc đời trơi nổi, bấp bênh thì
cảnh “nước chảy hoa trơi” lại gợi đến cảnh đời lưu lạc-một cuộc sống vơ định, khơng cịn
phương hướng “biết là về đâu”. Đến cái hướng cuối cùng thì nổi buồn hầu như đã dâng lên
tột đỉnh:


<i>“Buồn trơng gió cuốn mặt duềnh</i>
<i>Âm ầm tiếng sóng kêu quang ghế ngồi”</i>


Tiếng sấm ầm ầm, dữ dội vây khắp bốn phía như muốn cuốn đi cái thân phận bé nhỏ bất cứ
lúc nào. Ta tưởng nàng có thể ngất lịm đi trong âm thanh khủng khiếp đó. Phải
chăng như Nguyễn Du đã viết: “Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ” . Qua điệp khúc
<i>“Buồn trông....” của Kiều, ta cảm nhận được nổi đau đớn mà nàng phải trải qua trong suốt</i>
quảng đời 15 năm lưu lạc, có lửa nồng, có <i>“Thanh y hai lượt, thanh lâu hai lần”-“Cười ra</i>
<i>tiếng khóc -khóc trên trận cười”.</i>



Trong đoạn thơ này, chúng ta nhận ra được một đặc điểm trong bút pháp Nguyễn Du: cảnh
và tình bao giờ cũng hồ hợp, tả cảnh là để tả tình, trong tả cảnh đã có tả tình. Truyện Kiều có
hơn ba ngàn câu (3254 câu). Đoạn trích ở trên chỉ chiếm một phần rất nhỏ trong kiệt tác đó.
Nhưng đây là đoạn thơ được nhièu người biết đến và quý trong nhất, vì cái tài lớn của nhà thơ,
nhưng trước hết là vì cái tình lớn của nhà thơ đối với nhân vật, đối với con người, đối với cuộc
đời.




<b>Phân tích đoạn trích “Chị em Thuý Kiều” để thấy rỏ “Với bút pháp tinh diệu, Nguyển</b>
<b>Du không những xây dựng lên hai chân dung “Mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười”</b>
<b>mà dường như cịn nói được cả tính cách, thân phận...tốt ra từ diện mạo của mỗi vẻ đẹp</b>
<b>riêng”.</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(27)</span><div class='page_container' data-page=27>

biệt của Nguyễn Du đối với nhân vật của mình. Qua ngịi bút của Nguyễn Du, hai chị em
Thuý Kiều đều xinh đẹp, nhưng “mỗi người (tài tình) mỗi vẻ” với dự báo trước số phận, tính
cách, cuộc đời của mỗi nhân vật, đặc biệt là Thuý Kiều, nhân vật của truyện.


Mở đầu đoạn trích, Nguyễn Du giới thiệu vẻ đẹp chung về hai chị em với bốn câu thơ:
<i>“Đầu lòng hai ả tố nga</i>


<i>Thuý Kiều là chị, em là Thuý Vân</i>
<i>Mai cốt cách, tuyết tinh thần</i>
<i>Mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười”</i>


Cả hai chị em đều có vẻ đẹp tồn mỹ, từ hình thức bên ngồi <i>“Mai cốt cách” đến vẻ đẹp bên</i>
trong tâm hồn “Tuyết tinh thần”. Vẻ đẹp của Thuý Vân được miêu tả ở bốn câu thơ tiếp:


<i>“Vân xen trang trọng khác vời</i>
<i>Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang</i>



<i>Hoa cười ngọc thốt đoan trang</i>
<i>Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da”</i>


Vẻ đẹp của Thuý Vân được Nguyễn Du miêu tả một cách tồn vẹn từ khn mặt, nét ngài,
màu da, mái tóc đến tiếng nói, nụ cười và cốt cách. Thuý Vân hiện ra qua những hình ảnh,
những tính chất ước lệ của văn học cổ trung đại. Nguyễn Du tập trung tô đậm vẻ đẹp phúc
hậu, đoan trang của Thuý Vân. Vẫn là cách thức quen thuộc của văn học cổ, lấy vẻ đẹp của
thiên nhiên làm chuẩn mực cho vẻ đẹp con người, nhưng bức chân dung của Thuý Vân, qua
nét vẻ thân tình của Nguyễn du bổng rở nên sống động là nhờ đã chứa đựng trong đó quan
niệm về tài sá của chính nhà thơ. Gương mặt xinh đẹp đầy đặn, vẻ đẹp đoan trang phúc hậu
của Thuý Vân-một vẻ đẹp và thiên nhiên sẵn lịng nhường nhịn “Mây thua nước tóc tuyết
<i>nhường màu da”-như dự báo trước một cuộc đời, một số phận êm đềm, trịn trịa, bình n của</i>
nàng.


Quả thật, với những từ ngữ trau chuốt, những hình ảnh ước lệ tượng trưng vẻ đẹp và giàu sức
gợi tả, được lọc qua tâm hồn mẫn cảm, tinh tế, Ng.Du đã khắc hoạ khá sống động vẻ đẹp đài
các, đoan trang viên mãn, mơn mởn sức sống của Thuý Vân, biểu hiện một tâm hồn vô tư, dự
báo trước một cuộc đời yên ổn, vinh hoa, phú quý sẽ mỉm cười, vui vẻ rước đón nàng.


Song, việc miêu tả vẻ đẹp của Th Vân, khơng phải là chủ đích nghệ thuật của tác giả. Đó
thực chất chỉ là việc tạo tiền đề, tao ra một điểm tựa nghệ thuật <i>“tả khách hình chủ” để làm</i>
nổi bật hơn tài sắc của Thuý Kiều, nhân vật trung tâm của tác phẩm.


Khác với Thuý Vân, Th Kiều có một vẻ đẹp “sắc sảo mặn mà” cả tài lẫn sắc đạt tới mức tuyệt
vời.Cũng những từ ngữ, hình ảnh ước lệ tượng trưng, qua ngịi bút miêu tả tài hoa của Ng Du,
hình ảnh nàng Kiều hiện lên lộng lẫy, sắc nước hương trời đến hoa phải “ghen”, liễu phải
<i>“hờn”.</i>


Đôi mắt đẹp của nàng trong như nước mùa thu, lông mày xin xắn, tươi non như sắc núi mùa


xuân “làn thu thuỷ, nét xuân sơn”. Nếu như vẻ đẹp của Thuý Vân trời xanh cịn có thể
nhường nhịn, thì trước sắc đẹp của Thuý Kiều, thiên nhiên tạo hoá cũng trở nên đố kị ghen
ghét


<i>“ Kiều càng sắc sảo mặn mà,</i>
<i>So bề tài sắc lại là phần hơn</i>


<i>Làn thu thuỷ nét xuân sơn,</i>


<i>Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh”</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(28)</span><div class='page_container' data-page=28>

<i>“ Thơng minh vốn sẳn tính trời</i>
<i>Pha nghề thi hoạ đủ mùi ca ngâm</i>


<i>Cung thương lầu bậc ngũ âm</i>
<i>Nghề riêng ăn đứt hồ cầm một trương”.</i>


Cả diện mạo bên ngoài và diên mạo tâm hồn cũng hé mở dần tính cách số phận của nàng
Kiều.


Rõ ràng, Ng.Du khi miêu tả sắc đẹp của nàng Kiều đã gửi gắm quan niệm “Tài hoa bạc
<i>mệnh” vào đấy - dự báo trước cuộc đời, số phận long đong, lận đận, đầy bất hạnh của nàng.</i>
Sử dụng bút pháp miêu tả ước lệ tượng trưng của văn học cổ điển, với ngòi bút tài hoa, chắt
lọc, trau chuốt ngôn từ, Ng.Du đã khắc hoạ thật sinh động hai bức chân dung Th.Vân và
Th.Kiều, mỗi người một vẻ đẹp riêng, toát lên từ tính cách, từng số phận riêng, khơng lẫn vào
nhau, không thể phai nhạt trong tâm hồn người đọc. Đây là thành công trong bút pháp nghệ
thuật miêu tả người của Ng.Du. Đã hơn hai thế kỉ rồi, với truyện Kiều và nghẹ thuật tả người
đặc sắc, tinh tế của Ng.Du, đẫ là bậc thầy làm rung động và sự cảm phục, trân trọng của bao
thế hệ đối với đại thi hào dân tộc Ng.Du.



<b>Qua việc tìm hiểu cớt truyện và các đoạn trích trong SGK ngữ văn 9, tập I, em hãy phân</b>
<b>tích nhân vật Thuý Kiều để làm nổi bật giá trị nhân đạo của Truyện Kiều.</b>


Kiệt tác truyền Kiều của đại thi hào Ng.Du có 2 giá trị lớn là giá trị hiện thực và giá trị nhân
đạo. Truyện Kiều là bức tranh hiện thực về một xã hội bất công, tàn bạo (nửa cuối thế kỉ
XVIII đầu thế kỉ XIX - cuối Lê đầu Nguyễn), là tiếng nói của thương cảm trước số phận (thời
đại) bi kịch của con người, tiếng nói lên án, tố cáo những thế lực xấu xa, tiếng nói khẳng định,
đề cao tài năng, nhân phẩm và những khát vọng chân chính của con người như khát vọng về
quyền sống, khát vọng tự do, công lý, khát vọng tình u hạnh phúc...


Tiếng nói nhân đạo ấy tốt lên từ hình tượng nhân vật Thuý Kiều trong truyện Thuý Kiều.
Thuý Kiều là hiện thân của nổi đau và bất hạnh. Nàng là một người con gái tài sắc, giàu tình
cảm nhưng bị xã hội phong kiến vùi dập, đoạ đày.


Nhân vật Thuý Kiều là hiện thân những bi kịch của người phụ nữ trong xã hội phong kiến
trước đây. Đời Kiều là một tấm gương oan khổ. Số phận Kiều hội đủ những bi kịch của người
phụ nữ. Tuy nhiên hai bi kịch lớn nhất ở Kiều là bi kịch tình yêu tan vỡ và bi kịch bị chà đạp
nhân phẩm.


Tình yêu Kim Trọng- Thuý Kiều là một tình yêu lí tưởng với <i>“Người quốc sắc,kẻ thiên tài”,</i>
nhưng cuối cùng “giữa đường đứt gánh tương tư”, “nước chảy hoa trơi lỡ làng”. Tình u
tan vỡ và khơng bao giờ hàn gắn được-tuy “màn đồn viên” có hậu về cơ bản cũng chỉ là
<i>“một cung gió thảm mưa sầu”.Hạnh phúc nàng toan được nắm trong tay thì cuộc đời cướp</i>
mất.


Kiều là người ln có ý thức về nhân phẩm nhưng cuối cùng lại bị chà đạp về nhân phẩm.
Nàng trở thành “món <i>hàng” để kẻ bn người họ Mã “cị kè bớt một thêm hai”. Rồi nàng</i>
phải thất thân với những kẻ như Mã Giám Sinh, phải “Thanh lâu hai lượt thanh y hai
lần”-Nổi đau nhất của cuộc đời Kiều chính là: “Thân lươn bao quản lần đầu- chút lịng trinh bạch
<i>từ sau xin chừa”. Có nổi đau nào lớn hơn khi con người trọng nhân phẩm, ln có ý thức về</i>


nhân phẩm mà cuối cùng phải tuyên bố từ bỏ nhân phẩm?


Đời Kiều không phải chỉ là một tấm bi kịch, mà là những chuổi dài những bi kịch nối tiếp
nhau, mỗi lần nàng cố cất đầu ra khỏi bùn nhơ là một lần bị dúi xuống, bị đạp xuống sâu thêm
một tầng nữa.


</div>
<span class='text_page_counter'>(29)</span><div class='page_container' data-page=29>

<i>“ Một hai nghiêng nước nghiêng thành</i>
<i>Sắc đành đồi một tài đành hoạ hai”.</i>


Tâm hồn đẹp đẽ của người con gái họ Vương thể hiện ở tấm lòng vị tha, nhân hậu. Nàng hi
sinh tình yêu để cứu gia đình, cha mẹ. Khi ở lầu Ngưng Bích, Kiều nhớ tới cha mẹ với những
tình cảm chân thực. Nàng tưởng tượng bóng dáng tội nghiệp “Tựa cửa hôm mai” của người
sinh dưỡng Nàng. Kiều day dứt khơng ngi vì một nổi là khơng được chăm sóc cha mẹ già<i>:</i>
<i>“Quạt nồng ấm lạnh những ai đó giờ”. Th Kiều là người chí tình chí nghĩa “Ơn ai một chút</i>
<i>chẳng qn”. Khi có điều kiện, nàng đã trả ơn, hậu tạ những người cưu mang mình, nhưng</i>
nàng vẫn thấy cơng ơn đó khơng gì có thể đền đáp nổi


<i>“Nghìn vàng gọi chút lễ thường</i>
<i>Mà lòng phiếu mẫu mấy vàng cho cân”.</i>


Thuý Kiều là hiện thân của nổi khát vọng tình yêu tự do, khát vọng hạnh phúc và khát vọng về
quyền sống.


Khát vọng tình yêu tự do đậm màu sắc lãng mạn được thể hiện qua mối quan hệ Thuý
Kiều-Kim Trọng. Mới gặp chàng Kiều-Kim lần đầu, hai bên chưa tiện nói với nhau một lời, mà mối tình
khơng lời ấy đã như một chén rượu nồng, khiến người ta choáng váng đê mê:


<i>“Tình trong như đã mặt ngồi cịn e</i>
<i>Chập chờn cơn tỉnh cơn mê...”</i>



Yêu nhau nàng chủ động xây dựng tương lai với người yêu. Gót chân nàng thoăn thoắt đi sang
nhà Kim Trọng, cái hình ảnh nàng “Xăm xăm băng nẻo vườn khuya một mình” Thật là nhiệt
thành cho một mối tình đầu trong trắng. Ng.Du đã dành tất cả tài năng và tâm huyết để viết
lên một bản tình ca say đắm có một khong hai trong lịch sử văn học Việt Nam.


Mối tình Kim-Kiều vượt ra ngồi lễ giáo phong kiến bằng tình yêu tự do , chủ động của hai
người. Khác với nhiều người phụ nữ xưa phải chịu sự sắp đặt của cha mẹ, Kiều chủ động đến
với tình yêu theo tiếng gọi của trái tim. Kiều táo bạo, chủ động nhưng đồng thời cũng là người
thuỷ chung nhất trong tình yêu.


Khát vọng về hạnh phúc, về quyền sống đã đưa Kiều trở thành đại diện cho con người bị áp
bức vùng lên làm chủ số phận của mình trong tư thế chiến tháng, tư thế chính nghĩa:


<i>“Nàng rằng: Lồng lộn trời cao</i>
<i>Hại nhân nhân hại sự nào tại ta”.</i>


Ở đây, Thuý Kiều đẫ gặp gở bao nhiêu người phụ nữ bị áp bức khác vùng lên địi quyền sống,
địi lẽ cơng bằng, trừng trị kẻ ác. “Cái thế giằng co giữa sự sống và sự chết ở trong Tấm Cám,
<i>Thạch Sanh, trong nhiều truyện nôm khuyết danh khác cũng như trong truyện Kiều, về căn</i>
<i>bản nào có khác gì nhau, chỉ khác... Một bên nhiều khi con người mượn yếu tố thần linh phụ</i>
<i>trợ, một bên đã vươn tới tư tưởng trị nhân dân và con người quyết định theo cơng lí của</i>
<i>mình”- (Cao Huy Đỉnh)</i>


Với nhân vật Thuý Kiều Ng.Du là nhà nhân đạo chủ nghĩa rất mực yêu thương rất mực đề cao
con người, đề cao những khát vọng chân chính của con người- đặc biệt là thân phận người phụ
nữ trong xã hội phong kiến đầy rẫy bất công, tàn bạo và lễ giáo phong kiến.


<b>Vẻ đẹp của Thuý Vân và Thuý Kiều </b>


Văn bản “Chị em Thuý Kiều ”trích “Truyện Kiều” của Nguyễn Du là một trong


những đoạn thơ tả người hay nhất ,đẹp nhất không chỉ bởi ngôn ngữ thơ trong sáng mà cịn
bởi ở đó có hai chị em nhà họ Vương nhan sắc, tài năng đều hội tụ đủ đầy .


Đọc truyện Kiều mấy ai không nhớ vẻ đẹp sắc nước hương trời của hai người con gái đầu
lịng của ơng bà Vương viên ngoại:


</div>
<span class='text_page_counter'>(30)</span><div class='page_container' data-page=30>

<i>Mai cốt cách, tuyết tinh thần</i>
<i>Mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười</i>


Chỉ bốn câu thơ thôi tác giả đã giới thiệu với chúng ta hình ảnh hai người con gái xinh
đẹp, dáng hình mảnh dẻ, thanh tao như mai và tâm hồn trắng trong như tuyết .Vẻ đẹp của cả
hai đều đạt đến mức “mười phân vẹn mười ”nhưng nét bút của Nguyễn Du vẫn muốn đậm
nhạt “mỗi người một vẻ” . Đến với người đọc trước hết là vẻ yêu kiều của Thuý Vân :


<i>Vân xem trang trọng khác vời</i>
<i>Khuân trăng đầy đặn, nét ngài nở nang</i>


<i>Hoa cười, ngọc thốt đoan trang</i>
<i>Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da .</i>


Vân mới đẹp làm sao! Con người nàng toát lên vẻ trang trọng khác vời ,từng đường nét
dường như đều là một kỳ cơng của tạo hố :gương mặt trịn đầy ,tươi sáng như ánh trăng ,đơi
mày dài thanh thốt,miệng cười tươi thắm như hoa ,tiếng nói trong như ngọc ,mái tóc mềm
hơn mây ,làn da trắng mịn màng hơn tuyết …Cô gái ấy đã đẹp người lại ý nhị, đoan trang .
Mỗi câu thơ thực sự là một nét vẽ tài hoa về bức chân dung giai nhân .Vẻ đẹp của nàng sánh
ngang sự sáng trong của trăng,hoa,ngọc, vàng, mây,tuyết -những báu vật tinh khôi trong trẻo
của đất trời. Dường như phải tả như thế mới nói hết vẻ yêu kiều của một giai nhân.Vẻ đẹp của
Thuý Vân đươc thiên nhiên ưu ái nhường nhịn nên có lẽ cuộc đời sẽ phẳng lặng ấm êm.


Đẹp như Thuý Vân tưởng đã là tuyệt thế ,nhưng không :


<i>Kiều càng sắc sảo mặn mà</i>
<i>So bề tài sắc lại là phần hơn .</i>


Kiều đến với người đọc bằng ấn tượng đầu tiên : “sắc sảo mặn mà” .Các từ mang ý nghĩa so
sánh:“càng”, “so bề”,“phần hơn”cho thấy nàng khơng chỉ có vẻ đẹp như Thuý Vân mà nàng
còn đẹp hơn thế nữa.Cái “sắc sảo mặn mà” của người con gái đang độ trăng tròn được Nguyễn
Du phác hoạ bằng vài nét chấm phá:


<i>Làn thu thuỷ nét xuân sơn</i>


<i>Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh .</i>
<i>Một hai nghiêng nước nghiêng thành</i>


<i>Sắc đành đòi một ,tài đành hoạ hai .</i>


Không chi tiết như khi tả Thuý Vân ,tả Kiều tác giả chỉ tập trung đặc tả đôi mắt.Đôi mắt đẹp
như làn nước mùa thu được điểm tô bằng đôi mày thanh nhẹ ,tươi tắn như dáng núi mùa
xuân.Phải chăng khi miêu tả đôi mắt của Thuý Kiều Nguyễn Du muốn người đọc hiểu rằng :
đằng sau đôi mắt trong veo ấy là một tâm hồn đa cảm ?Có thể là như thế .Chỉ biết rằng nàng
đẹp lắm ,đẹp đến mức hoa phải ghen, liều phải hờn .Phép nhân hố tài tình khiến người chợt
liên tưởng :phải chăng hoa ghen với nàng bởi kém nàng hương sắc ,liễu hờn với nàng bởi
kém nàng sự mềm mại thướt tha ?Không bằng những nét vẽ chi tiết ,chỉ vẫn là bút pháp ước lệ
tượng trưng nhưng Kiều đã thật sự hiện ra trước mắt người đọc với đầy đủ vẻ đẹp lộng lẫy của
một trang quốc sắc thiên hương .Vài cái nhìn của nàng đủ khiến cho thành xiêu nước đổ .
Buồn thay, chính vẻ đẹp sắc sảo mặn mà khiến thiên nhiên cũng phải hờn ghen, đố kỵ ấy đã
dự báo trước một cuộc đời đầy sóng gió sẽ ập đến với nàng .


Khơng chỉ có nhan sắc tuyệt đỉnh,Th Kiều cịn là người con gái thông minh, đa tài :
<i>Thông minh vốn sẵn tính trời</i>



<i>Pha nghề thi hoạ đủ mùi ca ngâm.</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(31)</span><div class='page_container' data-page=31>

mà“hồng nhan đa truân”,”chữ tài liền với chữ tai một vần ”.Triết lý đó đã được người học trò
xuất sắc của đạo Khổng vận dụng để dự đoán trước cuộc đời của người con gái sắc nước
hương trời ấy.


Dẫu vẫn sử dụng bút pháp miêu tả ước lệ tương trưng của văn thơ cổ song với tâm hồn mẫn
cảm tài hoa,với cách sử dụng ngôn từ chắt lọc,chau chuốt,Nguyễn Du đã khắc hoạ thật sinh
động hai bức chân dung Thuý Vân và Thuý Kiều,mỗi người một vẻ đẹp riêng, tốt lên từng
tính cách số phận riêng,không lẫn vào nhau và càng không dễ phai nhoà trong tâm hồn người
đọc .


Với một tấm nhân đạo ,một quan điểm thẩm mỹ và triết lý vì con người ,ở đoạn trích này
Nguyễn Du đã thực sự tạo nên một viên ngọc bằng ngôn ngữ đẹp nhất ,lấp lánh nhất và cũng ý
nghĩa nhất .Đúng như nhận định :“Với bút pháp tinh diệu, Nguyễn Du không những tạo nên
được hai bức chân dung mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười mà dường như cịn nói lên
được cả tính cách ,thân phận …tốt ra từ diện mạo của mỗi vẻ đẹp riêng ” (Hồi Thanh ).
<b>Phân tích 4 câu thơ miêu tả Thuý Vân</b>


Trải qua bao năm tháng “Truyền Kiều” của Nguyễn Du vẫn lu dấu trong tâm khảm bạn đọc
không chỉ bởi ngôn ngữ trong sáng ,các biện pháp tu từ điêu luyện mà còn bởi tác phẩm có
những câu thơ hay nhất,đẹp nhất,tiêu biểu cho bút pháp tả người của tác giả:


<i>Vân xem trang trọng khác vời</i>
<i>Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang</i>


<i>Hoa cười ngọc thốt đoan trang</i>
<i>Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da.</i>


<i>(Đoạn trích “Chị em Thuý Kiều”)</i>



Bốn câu thơ-28 chữ mà giống như 28 viên ngọc bằng ngôn ngữ toả sáng lấp lánh trong cả
trang thơ.Vừa chiêm ngưỡng dáng hình mảnh dẻ thanh tao và tâm hồn trắng trong như tuyết
của hai người con gái đầu lịng nhà ơng bà Vương viên ngoại, người đọc chợt sững sờ trước
bức chân dung giai nhân được hé lộ bằng những đường nét đầu tiên:


<i>Vân xem trang trọng khác vời</i>


Dòng thơ giới thiệu khái quát đủ để người đọc cảm nhận vẻ đẹp cao sang, q phái của Th
Vân,để rồi liền sau đó,như một nhà nhiếp ảnh tài ba,Nguyễn Du hướng ống kính của mình vào
từng đường nét cụ thể trên gương mặt của người con gái:


<i>Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang.</i>
<i>Hoa cười, ngọc thốt, đoan trang</i>
<i>Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da.</i>


Mỗi câu thơ là một nét vẽ tài hoa về bức chân dung giai nhân, từng đường nét dường như đều
là một kì cơng của tạo hố,gương mặt trịn đầy,tươi sáng dịu hiền như ánh trăng,đơi mày dài
thanh thốt,miệng cười tươi thắm như hoa,tiếng nói trong như ngọc,mái tóc đen,mềm,óng ả
hơn mây,làn da trắng mịn màng hơn tuyết…Tả về nàng, Nguyễn Du phải tìm đến
hoa,lá,ngọc,vàng,mây,tuyết-những báu vật tinh khơi trong trẻo của đất trời mới lột tả hết vẻ
yêu kiều của người con gái ấy.


</div>
<span class='text_page_counter'>(32)</span><div class='page_container' data-page=32>

nhịn:“mây thua”;“tuyết nhường”nên nàng sẽ có một cuộc đời bình lặng, sn sẻ, êm ấm và
một tương lai tươi sáng đón chờ.


Đoạn thơ khép lại sau khi đã hoàn thiện trong tâm khảm bạn đọc hình ảnh một nàng Thuý Vân
sắc nước hương trời bằng ngôn ngữ thơ tinh luyện, những nét vẽ có thần,hàm xúc, gợi
cảm,các biện pháp tu từ được vận dụng tài tình.Hàm ẩn đằng sau bức chân dung mĩ nhân là cả
một tấm lịng q mến trân trọng,ngợi ca con người mà đặc biệt là người phụ nữ của đại thi


hào dân tộc Nguyễn Du.


Đọc đoạn thơ,tìm hiểu kĩ về đoạn thơ, càng kính phục Nguyễn Du em càng trân trọng sự tinh
tế trong ngôn ngữ Tiếng Việt.Bất giác em mong muốn được thay vài chữ trong câu thơ lúc
sinh thời của đại thi hào dân tộc để diễn tả những suy nghĩ của mình:


</div>

<!--links-->

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×