Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (239.5 KB, 39 trang )
<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1></div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>
Anh trở về với gió biển nồng say
Con sóng vỗ vào chiều dịu êm nỗi nhớ
Đêm tĩnh lặng lắng nghe từng nhịp thở
Trao nụ hơn anh nhận diện trái tim mình
Biển mùa này hình như xanh hơn
Sơng thao thiết, cần cù gân guốc chảy
Hoa phượng vĩ nhớ hè về cứ cháy
Mặc ngồi kia bão tố vẫn rập rình
Chẳng cơng bằng nếu khơng hiểu về em
Nỗi vất vả cịn hằn trên đôi má
Những đại lộ vươn dài ra biển cả
Và sắt thép, xi măng...
đã thầm mách với anh rồi!
<i>1995</i>
Mùa hạ gọi về nắng bâng khuâng
Bến trưa vời vợi tiếng ve mong
Ta xa làng đã bao mùa nhỉ?
Mà dải sông q chẳng cạn dịng!
Nền mới, ngói hồng thay mái rạ
Đàn sẻ đuổi nhau trốn hiên nhà
Máy bơm, giếng nước thay ao cũ
Rau muống em còn bán chợ xa?
<i> Tặng K.T...</i>
Anh qua miền sông Trăng
Nơi em tắm suốt thời con gái
Trăng bồng bềnh huyền thoại
Ơi! Dáng em mềm mại
Và lời em chng ngân...
Anh về sau mùa xuân
Sông Trăng, áo chồng em giặt
Trăng vời vợi một vùng ký ức
Từ ấy, thơ anh thao thức...
Sông Trăng!
Sông Trăng!
<b> </b> Sông Trăng!
<i>06/2006</i>
Lúa gặt rồi
Ruộng loi thoi gốc rạ
Bộn bề những dấu bàn chân
Đâu dấu chân bà tôi?
Mẹ tôi?
Chị tôi?
... những thời con gái!
Dấu chân chưa kịp già
Đã thành bà nội, bà ngoại
Dắt díu dâu con
Gánh gánh, gồng gồng...
Sấp ngửa mùa màng
Đôn đáo ngày giáp hạt
Thời vụ chẳng bao giờ khác
Chỉ những dấu chân lớp lớp
Hằn lên đất đai
Những số phận nổi chìm...
Thị trấn trở mình
Trong lung linh ánh lửa
Vùng hoang sơ rực rỡ hội hoa đăng
Căng ngực trẻ
Nồng nàn đêm châu thổ
Mọng làn mơi
Say đắm gió sơng Rừng
Những giàn giáo vươn cao tầm núi dựng
Hái sao trời thả sáng rực lịng sơng
Phút tình tự
Trăng ghen thầm ánh điện
Giữa trời khuya
Thao thức...
Đợi mai hồng!
<i>Minh Đức, 06/1996</i>
Tìm xuân lạc đến Hàm Long
Gặp nàng yếm thắm liếc cong mái chùa
Chao ôi! Ánh mắt đong đưa
Cặp môi trầu mọng đến giờ vẫn say!
Chẳng mong dải yếm cầm tay
Xin em câu hát cho đầy thơ xn
Lẳng lơ tìm cái chính chun
Em làm thiên hạ phát phiền, lạ chưa?
Thì tơi xin nguyện lên chùa quanh năm!
Cầu phao anh bắc qua sông
Bàn chân em thả bềnh bồng như mây
Thương em sơng rộng, sóng dày
Anh hàn kỹ, sợ rồi đây bão bùng...
Mai em về Thiểm theo chồng
Có nghe nước chảy bâng khng lịng cầu?
<i> 05-1997</i>
Mùa xuân gửi ở chiến trường
Mang trên mình mấy vết thương, chị về
Cánh cị thơ thẩn đồng quê
Tìm câu ca dạt bên lề cỏ may
Bàn chân ngập dưới bùn lầy
Đôi vai gồng cả cơn say đất trời
Mong mùa màng lại sinh sôi
Mong vành nôi nhỏ với lời hát ru...
Đêm mơ còn đạp bom thù
Giật mình tỉnh giấc trăng thu đã gầy!
Xa quê đã lâu...
Giọng nói, điệu cười, dáng đi cũng khác
Mùi rơm rạ chẳng thể nào quên được
Dẫu quanh đây đầy ắp vị phố phường...
Như dịng sơng ngày một xa nguồn
Ra tới bể sẽ chẳng cịn tên nữa!
Tơi lạc giữa bộn bề, ồn ã
Nhấp nháp que kem thay tấm mía lùi
Chợt một ngày nỗi nhớ dậy trong tôi
Cái vị khoai bùi vùi trong tro rạ
Cố quên đi những mời chào đon đả
Chút vốn liếng cuối cùng
May cịn đủ hồi hương
Tơi ngỡ ngàng trước cổ kính rêu phong
Bám vào đất nên trường tồn như đất!
Ơi! Quê hương hiền lành thân thuộc
Hoa trái cứ sinh sôi dưới mưa nắng chất chồng
Tôi nghêu ngao hát giữa ruộng đồng
Ngắm cánh diều thảnh thơi trong gió
Ngắm chân dung mình già nua, méo mó
Từng lời em nhấp cạn
Say trong ta bất ngờ
Xn mùa em khơng hạn
Tình tràn qua xứ thơ...
Đắm cái nhìn mộng mơ
Mây vật vờ sóng mắt
Chiều thả vào vu vơ
Gió đương thì xanh ngắt!
<i>Xn 2004</i>
<i>Thân tặng đội văn nghệ NVH xã Đông Sơn</i>
Không chỉ lời ca
Khơng chỉ tiếng đàn
Điệu múa... sân đình
Thêm lung linh huyền thoại!
Bay bổng trong mơ màng đêm hội
Đôi cánh mùa xuân - Khúc luân vũ ruộng đồng
Mơn mởn mộng mơ như lúa nghén địng
Tần ngần con đường ngổn ngang rơm rạ
Chân trời là biển cả
Những cánh buồm bảng lảng trong sương
Hành trang đeo đẳng đường trường
Kỷ niệm tả tơi những mùa trăng vỡ
Thêm chiếc lược và chiếc gương đã cũ
Mỗi lần dừng chân để chị chải đầu
Mẹ chị khơng cịn, em chị giờ đâu?
Ngày chị lên đường khơng ai đưa tiễn
Thăm thẳm con đường ra biển
Cầu cho tóc chị cịn xanh!
<i>Tặng bạn Ch.</i>
Chân trần, nón lá, áo bông
Bạn tôi như một lão nông trong làng
Sớm theo đàn vịt lang thang
Tối chia mấy chú lợn nhàng nắm rau
Mấy mùa nước cả, ao sâu
Mấy mùa trở gió cịn đâu vốn nghèo?
Mưa tuôn ngập trắng ao bèo
Nắng thiêu bạc phếch mái lều gió lay
Dáng đi tỉnh cũng như say
Thói quen nghiệp lính tháng ngày lênh đênh
Trên đầu trăng sáng mông mênh
Dưới chân mặt nước bồng bềnh nghiêng chao
Đêm nằm ngửa mặt đếm sao
Sáng ra trời đổ ào ào cơn dông!
Mơn mởn sườn đồi căng trái chín
Rạo rực mùi hương níu chân người
Chia tay... nắng tắt cịn lưu luyến
Gió thả bỏng chiều những dấu mơi!
<i>Chính Mỹ - thu 2003</i>
Có một lần anh đến núi Bài Thơ
Ta trở về quê mẹ ta xưa
Nghe rạo rực tiếng gà gọi sáng
Bỏ lại sau lưng
... đêm vũ trường thác loạn
Những phố phường
... ồn ã bụi phù hoa
Trong hương đồng dào dạt khúc dân ca
Tìm thấy hồn mình rơi bên lề cỏ
Nâng chiếc lá cuối mùa
Lắt lay đầu ngọn gió
Thương một màu xanh
Bền bỉ đến không ngờ!
<i>1997</i>
<i>Tặng Th.B</i>
Thương con tấm áo chưa lành
Đêm nay mẹ thức thâu canh bên đèn
Ngày mai mở hội làng bên
Vào vai cô Tấm đã nền, ai thay?
Người mong vàng bạc cầm tay
Mẹ mong câu hát cho đầy yêu thương
Sợ mai con sẽ lạc đường
Trong bon chen chốn thị trường bán mua
Đã từng câu hát năm xưa
Mà nuôi nên mẹ bây giờ cho con
Dở, hay nào biết vng, trịn?
Cịn chăng câu hát véo von bên thềm...
Nâng niu sợi chỉ óng mềm
Mà nghe nặng trĩu nỗi niềm dân ca!
<i>Tặng miền đất tôi yêu</i>
Kha Lâm!
Kha Lâm!
Ký ức ì ầm bom dội
Đẩu Phượng, Nam Hà đất đai nghĩ ngợi
Thủơ chiến tranh khoai sắn cũng bùi...
Người lính trẻ bồi hồi
Trăng vành nón ngập ngừng mắt ướt
Sau loạt bom...
Đêm ngọt ngào như mật
Đồi Thiên Văn thông hát
Tiễn những vì sao khuya
Đồng dâng hương đương thì
Đợi mùa chim ngói
Tháng năm vời vợi...
Cuối xuân nắng úa, mưa nồm!
Ngã Năm bồn chồn
Ngả nào em đợi?
Chiều chiều Cống Đôi trai gái ôm nhau
Xe đời mới ngược xuôi hồ Hạnh Phúc
Người lính già chậm bước
Tìm dấu xưa trên đá lát vỉa hè...
Tôi lặng ngắm...
Những bông huệ trắng
Những cúc vàng như nắng mùa thu
Những đường cong chứa bao ẩn dụ
Chùm nho kia cũng rưng rức lên rồi!
Như có dịng sơng chảy trong tơi
Dịng sơng màu ngọn lửa...
Ngoài cửa
Một bàn tay nứt nẻ
Run run
Nhận đồng tiền bố thí...
Một bức tranh lập thể
Hình dấu hỏi và một dấu chấm than!
<i>09/2004</i>
Vũ điệu nhịp nhàng của những đôi tay
Làm bừng tỉnh muôn con mắt lưới
Những bắp thịt gồng lên
đỡ mặt trời xuống núi
Ngực biển phập phồng khát một ánh sao!
Nằm mơ màng nghe còng cáy lao xao
Cát mệt lả sau những ngày biển động
Con thuyền phổng phao bồn chồn mép sóng
Đợi triều lên nâng giấc mộng vươn khơi
Gió báo hỷ hân hoan từ phía mặt trời
Gửi lên làn mơi dấu mặn mịi của biển
Đèn Hịn Dáu đã sáng lên trong mắt người đưa tiễn
Ngùn ngụt chân trời vầng trăng đang lên!
Có điều gì khiến em đến cùng anh?
Khơng danh vọng, tiền tài, địa vị
Một cái bóng như mn vàn cái bóng
Đi ngả nào gió cũng thổi vào ta!
Đi cùng anh, em hứng chịu phong ba
Anh là lái, em - mũi thuyền gối sóng
Đâu ngọn bạc đầu?
...những ngày biển động!
Đâu đá ngầm?
...bất chợt dưới nông sâu!
Hai ta như hai nửa tinh cầu
Cõng trên lưng một mặt trời rực rỡ
Đêm đêm ...
Những câu thơ anh rút ra từ lửa
Vung lên trời thành những đốm sao!
<i>2006</i>
Ngồi buồn lại nhớ ngày xưa
Tóc dài người tết cho vừa mắt nhau
Bài thơ nón trắng che đầu
Lời vàng ngọc chẳng sai câu hẹn hò
Ngồi buồn lại tiếc ngẩn ngơ
Hội chèo ai mở mà chờ trăng lên
Hương nhu bỏ héo bên thềm
Nước hoa, son ngoại... đêm đêm đổi màu
Càng buồn ra tỉnh làm dâu
Ngại chi váy lửng qua cầu...gió bay!
Cần cẩu vươn mình vén màn sương mỏng
Rót ban mai lấp lánh xuống lòng boong
Dưới khoang thuyền bếp lửa em vừa nhóm
Mặt vịnh cháy lên như biển than hồng!
<i> </i> <i> Vùng than, 1996</i>
Hồng hơn chợt vừa rụng xuống
Sương về giăng tím mặt quê
Mảnh trăng thượng tuần bẽn lẽn
Tiễn anh qua bến ngày đi
Mắt ướt đọng đầy kỷ niệm
Mơi mềm chín buổi chia tay
Để lại giữa miền sóng nước
Góc trời man mác heo may...
Ngày chậm trơi qua thành phố
Chiều dâng nỗi nhớ ngang lịng
Đâu rồi sương rơi ngọn cỏ
Và em với nửa vầng trăng?
Như lạc vào thế giới thần tiên
Quanh tôi cầu vồng lên rực rỡ
Những ánh mắt vuốt ve
Khiến thịt da tấy đỏ
Những bộ ngực ngang tàng
Khiến sóng phải tan ra!
Biển nâng tơi lên với hồng hơn nhạt nhồ
Em lại dìm tơi bằng đơi mơi nóng hổi...
Tơi có thể tan ra như muối
Nếu bầu trời đêm ấy chẳng đầy sao!
<i> Đồ Sơn, 06/2000</i>
Thổn thức lên như muốn nói bao điều
Lúc chia tay, biển lại như hờn giận
Sóng đã làm tơi mềm ra
Mà biển thì vẫn mặn
Nắng đã chuếnh chống rồi
Men chuốc nữa sẽ hồng hơn
Một phút đắm say hơn tẻ nhạt đến muôn lần
Một chiều Đồ Sơn hơn ngàn ngày phố xá
Biển cứ đợi...
Cịn tơi thì nấn ná
Để bây giờ muối chát ở trong tôi!
Em tiễn tôi bằng tiếng sóng bồi hồi
Và cả trời xanh trong đáy mắt...
Vẫn tay trắng khi tôi yêu chân thật
Nên trái tim hành khất phía thủy triều!
Đêm vẫn gặp những cơn lũ nắng
Lòng mong mỏi... rồi một ngày Xứ Lạng
Áo chàm xưa đâu giữa phố đơng người?
Hang Giao Long nguồn cịn tn dào dạt
Cửa Thông Thiên mây đã ngập ngừng trôi!
Lầu Vọng Thị ngổn ngang lòng du khách
Núi xanh rêu khắc khoải nghĩ suy gì?
Có lời thề vùi chơn trong thành qch
Để nỗi buồn hoá đá đứng lâm ly!
Chợt gặp hương hoa hồi bịn rịn
Lửa hừng lên rưng rức một khoảng trời
Đêm Đồng Đăng ngọt như mận chín
Rượu Mẫu Sơn ta chuốc... ta say!
Tôi tin vào trời xanh
Dù có lúc bầu trời xám xịt
Tơi tin vào trăng trịn
Dù cho nhiều khi trăng khuyết
Tơi tin thiên đường có thật
Dù chưa một lần Chúa cứu rỗi tơi...
<i>2007</i>
Xin đừng đợi nữa người ơi!
Cỏ hoang ngăn lối một thời đón đưa
Tơi ơm gió thải, mây thừa
Cầm lịng nhìn giấc mơ xưa nát nhàu
Trắng làm chi nữa hoa cau
Xanh làm chi nữa vườn trầu hỡi em?
Chân quê thẹn với ánh đèn
Yếm đào, khăn vấn ngại chen phố phường
Dây tơ nối - nối nhạc chùng,
“Xênh tiền” ngơ ngác, “năm cung” rối bời
“Qua cầu” tơi trót đánh rơi
“Lới lơ” ai gọi hồn tôi bây giờ?
Để cho “đào liễu” ngẩn ngơ
“Đường trường” xa lắc bến bờ dân gian...
Bâng khng tơi dạo phím đàn,
Chỉ vì thương mẹ cha nghèo
Cũng đành nhắm mắt mà theo chân người
Đài Loan vạn lý trùng khơi
Dặm trường thân gái biết rồi dở, hay?
Tháng ba lất phất mưa bay
Ga hàng không lạnh buốt ngày cháu đi
Hàng cây đương nghĩ ngợi gì
Tạnh mưa mà vẫn hàng mi ướt nhàu
Nghiêng nghiêng một dải sông Cầu
Nhà ai đám cưới rước dâu về làng
Cũng là một chuyến sang ngang
Người tuôn nước mắt, người đang mỉm cười
Thương cho phận gái một đời
Kẻ hay, người dở mệnh trời xưa nay...
Mong cho cháu đỏ vận này
Sớm thăm cha mẹ đỡ gầy niêu cơm!
<i> Nội Bài, 03/2006</i>
Ơi!
Những bơng hồng
rực rỡ
Mi chẳng cần hương
mà quyến rũ...
Nhân loại vẫn nhầm
chọn mi làm sứ giả!
<i> </i> <i> 2007</i>
Anh biết nơi em trời đẹp lắm
Mây vẫn xanh và nắng rất trong
Anh biết nơi em đông đến muộn
Gió cứ lang thang mãi cuối con đường
Em có sợ một ngày đơng sẽ đến?
Trăng lỡ thì trằn trọc bến sơng Ngân
Xn như kẻ hành hương về chậm
Ơm trên tay những xác lá vô hồn!
Tháng giêng ai về hội Lim
Tôi gửi áo khăn cho người Quan họ
Mùa này sơng Cầu buốt gió
Tím tê, run rẩy môi trầu
Chiêm bao: con nhện giăng mùng
Ngắn đêm, dài nỗi nhớ nhung...
Yếm khăn thổn thức một vùng dân ca
Sơng sâu, đị hẹp vẫn qua
Đâu hơn chẳng kết, mặn mà đợi nhau!
<i>Xuân 2008</i>
Tôi đợi em trong mùa xuân Hà Nội
Phiên chợ hoa nhộn nhịp tiếng cười
Phố tấp nập đơng vui mùa trảy hội
Tơi một mình lặng lẽ ngắm mưa rơi!
Hà Nội vắng em màu hoa cũng nhạt
Con phố dài hun hút gió heo may
Hàng Đào, Hàng Ngang ai cịn nhớ nữa
Nên niềm vui cũng phảng phất hao gầy
Tơi sẽ đợi ngày em về Hà Nội
Sao xuân này sắc hoa nhạt thế
Nắng rủ nhau di trú ở phương nào?
Gió lỗi hẹn từ miền băng giá
<i>Xn 2008</i>
Mưa lạnh lạnh trên kinh thành đổ nát
Chiều sông Hương man mác bến Văn Lâu
Thuyền mơ ngủ gối đầu lên câu hát
Gió ngẩn ngơ vạt tím áo qua cầu…
Trúc xanh biếc vườn xưa ai ngóng đợi?
Vĩ Dạ mờ sương khói ngợp hàng cau
Nón bài thơ mang chiều qua Gia Hội
Để mình tơi sợi nắng vướng ngang đầu!
Những vì sao yêu nhau
Về thiên hà sum họp
Vũ trụ sáng đêm thâu !
Những ý nghĩ khác nhau
Quay cuồng trên trái đất
Anh khơng thích
Em giống những đồ vật
Trong nghệ thuật xếp đặt
Anh khơng thích
Em như tấm biển quảng cáo
Đã được lập trình sẵn
Anh khơng thích
Em thành chiếc computer
Lưu trữ rồi truy xuất
Anh thích em
Như dịng điện xoay chiều
Sáng lên lung linh
Khi bóng đèn nối mạng!
Login vào một tên miền
Gặp câu thơ đang khóc
Câu khác đang cười...
Khi ta khóc
Có một người đang cười!
Có một người đang khóc!
Ai khơng khóc
Cũng chẳng thể cười
Nhân loại ngàn năm vẫn thế
Đừng vội trách Thượng đế!
<i>03.2008 </i>
Cất vào khoang nỗi niềm trĩu nặng
Con thuyền tôi ngược phía sơng Lơ
Nỗi nhớ cứ ào lên như lũ
Phù sa dâng bịn rịn đôi bờ!
Thanh Thuỷ, Thanh Sơn về đầy trong mơ
Lâm Thao, Việt Trì chập chờn giấc ngủ
Cơn mưa hạ tràn thêm nỗi nhớ
Ai hát “bên cầu em đợi anh…”!
Thấy dịng sơng tơi lại nhớ sông Thao
Xanh mượt bãi ngô ngược đường Yên Bái
Có bóng mẹ mẹ già lưng cịng cõng cháu
Có chị lụi lầm dưới nắng thiêu tháng sáu
Rồi lũ ống, lũ sông tàn phá quê nghèo!
Thấy ngôi trường tôi lại nhớ trung du
Ngày khai giảng em có cịn đến lớp?
Phương Xá, Tiên Lương ào ào nước xiết
Giấc mơ trôi theo trang giấy học trị !
Thấy trời xanh tơi lại nhớ trung du
Vạt cọ, đồi chè xanh vào kí ức…
Những nơng dân vồng căng lồng ngực
Mai lúa ngô lên thơm cùng bưởi Đoan Hùng!
<i>Tặng B.A</i>
Ai đứng một mình bên hàng cổ thụ
Cỏ dưới chân xanh như nỗi mong chờ
Đâu biết có một chàng thi sỹ
Mang đơi mắt buồn vào cả giấc mơ!
Núi ngủ vùi triệu năm
Chợt bừng tỉnh một ngày nắng mới
Gió Đằng Giang lộng lẫy
Giao dun cùng lị cao xi-măng
Sơng Rừng sục sôi ngàn năm
Sáng nay cười rạng rỡ
Minh Đức miền đất hứa
Bao cơng trình cao thêm!
Về tràng Kênh cùng em
Mải mê guồng máy chạy
Bỏ quên một buổi chiều...
Như men say!
Bao ngày trôi vào lãng qn
Cùng bộn bề, trăn trở
Sáng nay lịng mình bỗng mở
Khi ta đến sơng Rừng
Sơng đón ta bằng sóng trùng trùng
Và bao la gió...
Bên con tàu tầm cỡ
Bên núi Hồng Tơn uy nghiêm
Em mải dõi bóng chim
Đâu biết tơi mơ...
Đôi chân không nghỉ
Dẫn tôi lạc miền nắng xanh!
<i>Mến tặng các học viên lớp Tin học EDV-KI của tôi! </i>
Mùa hạ dùng dằng như chẳng vội
Hoe hoe cánh phượng dưới trưa vàng
Khản tiếng ve sầu mong thu tới
Đường Hải Triều ai dắt nắng đi ngang?
Tôi thầm đếm những cánh hoa kiêu hãnh
Bay ngang trời oi ả gió Tây sang
Những cánh hoa một thời thắp lửa
Cháy hết mình cho mùa hạ hân hoan!
Em đẹp thế! Hỡi mùa hoa thiếu nữ
Cho anh quên năm tháng đã vơi rồi
Muốn hóa cơn mưa bóng mây thủ thỉ
Cho trưa hè dịu bớt nỗi nồng oi!
Rồi thu đến hàng cây thiêm thiếp ngủ
Gửi màu son về biêng biếc khung trời!
Mùa thi qua! Ai cười? Ai nức nở?
Ai bồn chồn mong đợi mưa rơi?
<i>Mến tặng các học viên lớp Tin học EDV- KII của tơi</i>
Em lặn lội từ vùng đất mỏ
Bụi than cịn sạm ngấn mồ hôi!
Anh vượt mấy con sông đến quê tôi
Mở trang sách ngai ngái mùi đồng bãi!
Vào lớp học, mái tóc chưa kịp chải
Em đã vội trả bài hơm trước tôi ra
Cơn mưa chiều ào ạt thổi qua
Đường xa lắm... lo em về ướt áo!
Kỳ thi đến, thầy trò cùng “chạy rảo”
Bài chưa thơng thì ta học cả ngày
Cơm bụi, nước chai ấm áp tình người
Mái tóc xanh nương mái đầu điểm bạc
Ngày chia tay, nụ cười cay khoé mắt
Lưu luyến... bàn tay chẳng muốn rời!
Ai giấu màu mây xanh ngắt bầu trời
Vào đôi mắt tiễn mùa đi lặng lẽ...
Lớp học chênh vênh bên đồi cao
Mây buổi sớm treo ngang khung cửa
Tán lá vươn xòe bàn tay bỡ ngỡ
Chạm vai trịn em gái vùng than
Màn hình bừng cửa tri thức mở toang
Bàn phím lần đầu bỡ ngỡ ngõ nhầm ln
Chiều Hà Khẩu cơn gió hồn nhiên
Mang hơi ấm dập dìu mái lá
Tiếng chim hót ở đây cũng lạ
Nghe mơ màng như nhịp thời gian
Câu thơ của tôi chợt sáng bừng lên
Dấu sắc, dấu huyền giờ em đã thuộc
Đêm thao thức bài thơ tôi viết tiếp
Những con chữ rưng rưng... như giọt sao trời!
Thương nhau thương cả cánh đồng
Bao nhiêu ngọt mát mà sông vẫn đầy?
Thái Bình trở lại chiều nay
Đơi bờ Trà Lý mượt dầy phù sa!
Nhớ nhung hò hẹn đường xa
Mong mùa lúa chín anh qua Hưng Hà
Cốm Thanh Hương chọn làm quà
Em trao từ độ hai ta hẹn thề!
Vấn vương tháng bảy bộn bề
Theo hương ổi chín tìm về làng Bo
Đơng Hưng ơi! Thuở hẹn hò…
Gừng thơm bánh cáy đến giờ vẫn thơm!
Giã từ thành phố bình yên
Giấc mơ chợt đến rồi đi
Những vì sao chưa kịp chín
Vị mơi cịn bịn rịn
Trái tim đã giá băng
Làn Quan họ bồng bềnh trăng
Ngơ ngác cánh đồng rơm rạ
Sông Trúc bồn chồn nắng hạ
Mong một ngày mưa...
<i>Mùa hạ 2008</i>
Tháng năm mưa nắng dãi dầm
Trái tim tưởng đã âm thầm ngủ yên
“Trường xưa” ai gọi mình lên
Thấy hoa phượng vẫn làm duyên đợi chờ
Câu thơ người thả vu vơ
Vô tư tơi lượm, ai ngờ bùa mê
Cau già thì lắm người chê
Thương tơi, em gói gừng này giùm tôi!
Mai em về sông Thao vấn vương
Anh gửi nhớ thương dọc dài quốc lộ
Con đường xưa ai mòn chân vác gỗ
Sương nắng mấy mùa phồng giộp giấc mơ!
Mai em về gói lại cơn mưa
Anh gửi vần thơ theo mùa nước lũ
Gửi vạt nắng về thung lũng nhớ
Cho những chiều bớt gió heo may!
Mai em về không phải chia tay
Nước mắt sẽ làm anh bối rối
<i>Kính dâng hương hồn mẹ!</i>
Cuối xuân cái nắng chập chừng
Nghĩa trang cỏ dại ngập ngừng trổ hoa
Con vào thăm mẹ tháng ba
Mộ xanh ngăn ngắt như là chiêm bao!
Ngày chong nắng thét, mưa gào tái tê
Ngược xuôi tần tảo bộn bề
Bây giờ nấm đất vỗ về chân linh!
Suốt đời nặng gánh mưu sinh
Ngày đi tay trắng một mình nhẹ tênh?
Sống thân gửi chốn lênh đênh
Thác hồn về cõi an nhiên vĩnh hằng!
Đất sâu thăm thẳm mẹ nằm…
Trời cao ngọn gió ngàn năm vẫn buồn!
Bằng lăng tím đến bồi hồi
Môi nồng hương đã vơi rồi men cay
Nhớ nôn nao thuở cầm tay
Tan vào nhau phút nồng say vụng về
Phố còn xanh mướt tiếng ve
Chương Dương cầu đã dầm dề hạt mưa
Tóc ai hong đợi gió lùa
Ước cịn một chút nắng trưa để dành
Một Thăng Long với giã từ vẹn nguyên!
Anh ra đi
Trong chiều bão dơng
Phía sau lưng
Hạ Long đầy biển gió
Phía trước mặt
Mây trời vần vũ
Anh lao vào cơn mưa
Như kẻ khơng hồn…
Gió xốy vào lịng anh
Những ký ức vui, buồn
Những kỷ niệm ngọt ngào
Và đắng cay ùa đến
Cơn áp thấp
Chiều nay đã hóa thành bão lớn!
Rồi ngày mai
Khi trời yên, biển lặng
Mây Hạ Long lại xanh đến vô cùng
Cánh buồm xanh… xa mãi…
<i><b>TRUYỆN NGẮN </b></i>
Tốt nghiệp kỹ sư cầu đường năm 1972, Sơn được biên chế vào binh đồn 51 cơng binh đi
mở đường mịn Hồ Chí Minh. 1975, nước nhà thống nhất, anh về công tác ở Xí nghiệp Cầu
đường I với một vết sẹo giữa trán như hình một con mắt, anh em thường gọi đùa là “ơng ba
mắt”. Đó là một “kỷ niệm” buồn của chiến tranh!
Vào mùa mưa năm 1974, đơn vị Sơn được lệnh mở đường tắt về Buôn Mê Thuột. Theo
khảo sát, con đường sẽ phải đi qua một dòng suối sâu, nước chảy xiết. ở điều kiện bình thường
thì bắc cầu bê tông là giải pháp tốt nhất. Nhưng lúc này bắc cầu bê tông là điều không tưởng!
- Thế thì ta bắc cầu phao – có một ý kiến đưa ra.
- Cầu phao sẽ không chịu nổi sức cuốn của nước dù cho chúng ta có tăng cường dây neo,
chưa kể đến sức nặng của xe, pháo! Theo tôi ta bắc cầu gỗ, dầm thép chữ I một nhịp - ý kiến
Sơn đưa ra được mọi người chấp nhận sau hàng loạt tính tốn.
Gỗ ở đây sẵn lắm nhưng không thể lấy gỗ tại chỗ để bắc cầu, như vậy chẳng khác gì “lạy
ơng tơi ở bụi này!”. Anh em phải ngược phía thượng nguồn đến bốn, năm cây số để khai thác gỗ
rồi thả trơi theo dịng suối. Nhưng việc gom gỗ tưởng như đơn giản mà lại hoá ra nan giải. Gỗ
lao xuống trơi theo dịng suối, gặp đợt mưa lớn, nước chảy xiết, những thân gỗ bị dòng nước
cuốn đi với một tốc độ chóng mặt, trơng chúng chẳng khác gì những quả ngư lơi vừa được
phóng ra khỏi tàu chiến! Làm cách nào? Mọi người nhìn nhau ngơ ngác. Tiếc bao cơng sức bỏ
Sơn suy nghĩ nung nấu: “Chỉ còn cách lái dòng suối, tạo ra một khúc ngoặt bất ngờ, theo đà
quán tính gỗ sẽ xô vào bờ”. - Phải rồi! Sơn bật reo to. Phương án của anh được đưa ra bàn bạc
và thống nhất triển khai. Ba ngày sau những dầm thép đầu tiên đã được lao sang bờ nam dòng
suối như một niềm tự hào của đơn vị. Nhưng trong lúc Sơn đang say sưa hướng dẫn anh em thao
tác thì một “quả ngư lôi” gỗ đã văng vào đầu anh! Đúng cái thời khắc quyết liệt nhất thì anh
phải đi nằm viện...
***
Đất nước sau cuộc chiến nơi nào cũng ngổn ngang, hoang tàn như sau nạn đại hồng thuỷ.
Công việc thật bộn bề, hết cầu Rào, cầu Niệm, cầu An Dương rồi đường Đình Vũ, đường 5...
Đối với một kĩ sư thì đây là một dịp thuận lợi để trổ tài năng, nhưng cũng lại là một thử thách rất
lớn. Những cơng nghệ mới, những máy móc mới, những giải pháp mới lần đầu tiên được áp
dụng ở Việt Nam làm anh nhiều đêm phải thức trắng bên bàn giấy.
- Anh nghỉ tay ăn một chút đi đã, mì tơm em nấu với cải xoong đây, anh ăn cho ấm bụng. –
Cơ nhân viên văn phịng dáng người nhỏ nhắn nhưng rắn chắc, nước da hơi nâu như bao cơ gái
vùng biển, vừa nói vừa đặt tơ mì lên bàn nước.
- Cảm ơn! Cô cho tôi xin một ấm trà đặc nhé. – Sơn nói nhỏ nhưng khơng quay lại. Sau một
hồi ghi ghi, xố xố anh mệt mỏi vươn vai, ngả đầu ra sau ghế, chợt nhận ra Thủy vẫn cịn ngồi
đó.
- Tự nhiên hôm nay em cảm thấy không buồn ngủ. Anh ăn mì đi, để lâu nó nở q ăn không
ngon đâu!
Anh trở ra bàn nước, ngồi đối diện với Thủy, vừa ăn vừa nói chuyện. Anh linh cảm thấy
dạo này Thủy có vẻ quan tâm đến anh nhiều, nhưng rất kín đáo, tế nhị.
Thủy đã ngồi ba mươi, nhưng cịn kém Sơn những sáu tuổi, bố cơ đã hy sinh ở chiến
trường Nam Bộ năm 1968, anh trai hy sinh năm 1972 ở Quảng Trị, nhà chỉ còn hai mẹ con. Học
xong cấp II, Thủy nộp đơn vào trường Trung cấp Tài chính - Kế tốn. Tốt nghiệp, cơ định xin về
huyện nhà làm việc để có điều kiện chăm sóc mẹ già đã ngồi sáu mươi. Nhưng số phận đã đưa
đẩy cô đi theo một hướng khác. ấy là vào năm 1978 có một đội cơng nhân cầu đường về xã cô
xây lại cây cầu Mới trên trục đường Mười đi qua huyện. Tốp công nhân ở trọ nhà cơ có hai
người, một gìa, một trẻ. Người cơng nhân già nhìn thấy tấm ảnh cha cơ trên ban thờ đã nhận ra
vị chỉ huy cũ của mình ở chiến dịch Điện Biên Phủ năm nào. Sau một buổi trị chuyện với mẹ
cơ, ơng ngỏ ý xin cho cơ được vào làm việc ở Xí nghiệp ơng:
- Tôi muốn giúp cháu cũng là để tri ơn với người đã khuất, chị nghĩ kỹ đi rồi cho tôi biết ý
kiến.
- Vâng! Cảm ơn chú, nhưng cái này tơi cịn hỏi ý cháu đã.
Thế là vài tháng sau Thủy đã trở thành “người nhà nước” không chỉ với một lý do trên. Trái
tim cô đã xao xuyến trước cái nhìn như hớp hồn của Tồn, chàng kỹ thuật viên cầu đường trẻ ở
trọ nhà cô.
Cây cầu chưa kịp hồn thành thì chiến tranh biên giới phía Bắc bùng nổ. Tồn tái ngũ.
Nhưng chưa đầy ba tháng sau thì cái tin đau buồn nhất đã đến với cơ: “Tồn đã anh dũng hy
sinh ở mặt trận Lạng Sơn!”. Thủy như người mất hồn, bỏ ăn mấy bữa liền, người rũ ra như tàu
chuối sau bão. Mọi người động viên, an ủi; cô chỉ cảm ơn rồi im lặng. Dẫu chưa là vợ chồng,
nhưng mối tình đầu dễ đâu mà một sớm, một chiều đã nguôi ngoai được. Từ đó Thủy ít nói hẳn
đi, lảng tránh tất cả những gì dính líu tới chuyện u đương, sàm sỡ. Chợt như bừng tỉnh sau
những dòng ký ức, Thủy giục Sơn:
- Anh cũng nên đi nghỉ đi!
- Cảm ơn Thủy nhiều nhé!
- Sao anh khách sáo thế? Có gì đâu! Thơi... - Thủy bỏ lửng câu nói đứng dậy chạy vụt ra
ngồi cửa.
***
Nằm trên giường đến gần tiếng đồng hồ mà Sơn không thể nào chợp mắt được. Hình ảnh
người vợ yêu qúy của anh cứ hiện lên như trong mơ với mái tóc dài đen mượt như nhung, cặp
mơi mọng như trái nho chín...
Sơn và Hà yêu nhau từ ngày anh về công tác ở Hải Phòng. Hà, cán bộ khảo sát; cái dáng
người thanh mảnh chẳng hợp với công việc của cô chút nào. Suốt ngày lặn lội ngoài hiện
trường, hết mom sông lại cuối bãi, nước da của Hà cũng sạm đi vì nắng gió. Hai người thành vợ
chồng đúng vào cái hơm khánh thành cầu Niệm. Tối hơm đó Hải Phịng như một ngày hội.
Dịng sơng như được khốc lên một giải lụa lấp lánh kim cương. Hội trường Xí nghiệp cũng trở
nên náo nhiệt khác thường; tiếng cười nói, lời chúc tụng cô dâu chú rể, tiếng vỗ tay đến gần nửa
đêm mới ngớt...
Sơn xoa nhẹ tay lên bụng vợ:
Thì “cơng chúa”, chứ sao! “Ruộng sâu, trâu nái khơng bằng con gái đầu lịng!” Các cụ
chẳng dạy thế là gì!
- Nhưng đàn ơng các anh ai cũng thích con trai đầu lịng nghĩa là sao?
- Sao lại các anh? Phải trừ anh ra, hiểu khơng? Cưng! – Anh ghì chặt lấy vợ.
- Ối! Nhẹ thôi, đau em quá!
- ...
“Tuần trăng mật” của đơi vợ chồng trẻ chỉ có hai ngày rồi lại phải lao ngay vào công việc
***
Có tiếng chng điện thoại réo hối hả. Sơn nhấc máy:
- Cái gì? Ai? Bom nào? ở đâu? - Giọng anh lạc đi. Anh đặt vội máy rồi lao ra ngồi cửa,
khơng kịp mặc áo khốc ngồi...
Bên bờ sơng Cấm, cái mùa đông năm 1986 định mệnh ấy; cái ngày những đợt gió mùa
Đơng Bắc đầu tiên thổi về đã để lại một vết thương sâu thẳm trong lòng Sơn. Tại sao Hà lại phải
chết trong những ngày tháng thanh bình này? Tàn dư chiến tranh thật là khủng khiếp! Ai biết
đâu dưới làn nước mát lành của dịng sơng kia, dưới lớp đất nâu màu mỡ kia kẻ thù còn ẩn nấp?
Hôm nay là Hà, mai sẽ là ai nữa?!
Từ nghĩa trang trở về đầu óc Sơn căng lên như sợi cáp dự ứng lực! Sơn nằm vật xuống
giường, mắt đỏ hoe, ngấn lệ: “Sao em lại bỏ anh đi lúc này, chúng ta còn bao nhiêu dự án. Hơn
nữa, từ ngày cưới em, anh hứa nghỉ phép sẽ đưa em về quê chào họ hàng... anh thật có lỗi. Mà
cũng không phải tại anh, đến ba năm nay chúng ta có được nghỉ phép năm đâu, cơng việc nó
cuốn hút, mình nghỉ khơng đành phải khơng em? Thơi, lỗi ở anh tất cả! Giá đợt này anh nghỉ
phép như đã hẹn với em thì em đâu có chết! Tại anh tất cả! Tại anh! Tại anh!”.
Mấy tháng ròng Sơn bị cái chết của Hà ám ảnh làm anh mất ngủ, người gầy tọp đi. Nhưng
rồi công việc cuốn hút anh cùng với thời gian như liều thuốc diệu kì xoa dịu dần những nỗi
đau...
***
Cuộc đời người thợ cầu đường như con chim, nay đây, mai đó; hết Hải Phịng rồi Bắc Ninh,
Hồ Bình...nay lại Hà Giang, âu cũng là cái nghiệp – Nghiệp đam mê sáng tạo. Những cơng
trình của họ hồn thành là những tác phẩm nghệ thuật bất hủ để lại cho đời; ở đó khơng những
“Anh đi xây dựng những cơng trình
Ngày lại qua ngày ngủ lán gianh
Những lúc tường cao lên ngói đỏ
Là lúc ba lơ lại khởi hành!”
Khơng biết cái ơng thi sĩ đó có phải là “dân kiến trúc” khơng mà viết máu thịt thế nhỉ? Anh
tự hỏi. Rồi, cùng với những suy nghĩ miên man, tiếng dịng sơng thầm thì ru anh chìm vào giấc
ngủ...
Anh thấy Hà vừa xới cơm vừa nói:
- Trước sau gì rồi mơ ước của chúng ta cũng trở thành hiện thực em ạ! Lỗi đâu phải tại em!
- Nhưng mà... em biết là em khơng thể...
Hà bật khóc rưng rức, bát cơm trên tay cô chợt rơi xuống đất đánh “choang!”.
Sơn giật mình tỉnh dậy, mồ hơi cịn túa ra trên trán lấm tấm.
- Em vô ý quá phải không? Xin lỗi đã làm anh thức giấc! – Thủy vừa nói vừa cúi xuống
gom những mảnh thủy tinh vỡ trên sàn nhà. – Mà anh dậy cũng đúng lúc rồi. Hồi nãy có điện
thoại trên Tổng cơng ty gọi đến, mời anh tuần tới về họp mặt Chiến sỹ thi đua toàn ngành đấy.
Thấy anh vừa chợp mắt em không nỡ đánh thức. Nước đây, anh đánh răng, rửa mặt đi! À, để em
đi lấy cái cốc khác. Người ta bảo vỡ cốc là điềm lành, có phải khơng anh?
Nói rồi Thủy nhanh nhẹn đi ra ngồi. Còn lại Sơn ngồi như “thiền” ở trên giường với mùi
hương nhu, hương sả vây quanh dìu dịu...