Tải bản đầy đủ (.docx) (25 trang)

Luat bien cua Viet Nam lam Trung Quoc noi doa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (713.99 KB, 25 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>Luật biển của Việt Nam làm Trung Quốc nổi đóa </b>



Quần đảo Hồng Sa của Việt Nam được chú thích là Xisha (Tây Sa) của Trung Quốc.

<b>Tú Anh</b>



<b>Hôm qua, ngay sau khi Quốc hội Việt nam thông qua Luật biển, bộ Ngoại giao </b>


<b>Trung Quốc triệu đại sứ Việt Nam tới nghe phản đối. Theo giới phân tích, pha biểu </b>


<b>diễn « cơn thịnh nộ của thiên triều » không dọa được dân chúng Việt Nam, mà còn</b>


<b>cho thấy Bắc Kinh e dè pháp lý, một nhược điểm của kẻ chỉ biết dùng sức mạnh.</b>


Theo phân tích của nhật báo Mỹ The New York Times, trong một « pha biểu diễn quyết tâm » đối đầu
với mọi tranh chấp tại « Nam Hải », Trung Quốc đã đả kích một cách mạnh mẽ Việt Nam thơng qua
Luật biển khẳng định chủ quyền trên quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.


Ngay sau khi Luật biển được Quốc hội Việt Nam thông qua, đại sứ Nguyễn Văn Thơ tại Bắc Kinh đã bị
bộ ngoại giao Trung Quốc triệu mời nghe phản đối « luật biển Việt Nam tuyên bố chủ quyền tại Tây Sa
và Nam Sa là một sự vi phạm nghiêm trọng chủ quyền của Trung Quốc » và « Trung Quốc cực lực
chống lại ».


Đây là lần đầu tiên Việt Nam trang bị cho mình một vũ khí pháp lý bảo vệ biển đảo sau khi Hoàng Sa bị
Trung Quốc đánh chiếm vào năm 1974 lúc đất nước phân đôi và một phần Trường Sa bị rơi vào tay
Trung Quốc năm 1988.


Dự luật này đã bị dời đi dời lại nhiều năm liền trước khi bất ngờ được biểu quyết hôm qua 21/06/2012.
Trong những ngày qua, giới thạo tin tại Hà Nội còn báo động là Bắc Kinh gây sức ép để ngăn chận.
Thái độ giận dữ của Trung Quốc được biểu lộ hai tuần trước khi diễn ra hội nghị cấp ngoại trưởng của
Hiệp Hội Asean tại Phom Penh, mà trong đó có sự tham dự của ngoại trưởng Mỹ Hillary Clinton. Theo
New York Times, hồ sơ tranh chấp biển Đông sẽ là một chủ đề trong chương trình nghị sự.


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

Cũng trong kế hoạch biến Biển Đông thành ao nhà, Trung Quốc tiếp tục duy trì tàu ngư chính và tàu
đánh cá bên ngoài vùng bãi đá ngầm Scarborough của Philippines, sau hơn hai tháng biểu dương sức
mạnh.



Theo nhận định của New York Times, hội nghị diễn đàn an ninh khu vực tại Phnom Penh trong hai tuần
tới sẽ mở ra trong bối cảnh căng thẳng tại Biển Đông và tranh giành ảnh hưởng giữa Hoa Kỳ và Trung
Quốc. Trong bối cảnh này, chưa rõ Việt Nam và Philippines sẽ được Hoa Kỳ hậu thuẩn cụ thể ra sao.
Nhưng Việt Nam đã chủ động đặt Trung Quốc « trước sự đã rồi », khẳng định chủ quyền biển đảo bằng
một đạo luật quốc gia.


Cũng chưa biết là quân đội Việt Nam sẽ bảo vệ ngư dân và vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam đến
đâu, nhưng ít ra những người có trách nhiệm cầm súng bảo vệ quốc gia hay đàm phán trên bàn hội
nghị kể từ nay có trong tay những cơ sở pháp lý.


Trong vấn đề biển Đơng, khi nói đến pháp lý, Bắc Kinh hồn tồn khơng đưa ra được một chứng cứ
nào để khẳng định Hoàng Sa và Trường Sa là của Trung Quốc.Có lẽ đây là lý do khiến cho Bắc Kinh «
nổi cơn thịnh nộ » và de dọa chống lại luật biển của Việt Nam một cách kịch liệt.


Đối với người dân Việt Nam, nhất là những người quan tâm đến sự tồn vong của đất nước, lời dọa nạt
của Bắc Kinh không làm họ lo sợ. Luật biển là ngọn gió làm giới thanh niên sinh viên lên tinh thần . Trên
mạng « Nhật Ký Yêu Nước » đã xuất hiện lời kêu gọi TUẦN HÀNH ƠN HỊA phản đối Trung Quốc, ủng hộ
Luật Biển vào chủ nhật 01/07/2012 tại hai thành phố lớn Hà Nội và Sàigòn, như cách nay đúng một năm
về trước.


<b>Việt Nam đang cố vơ hiệu hóa cơng hàm ông Phạm Văn </b>


<b>Đồng gửi Trung Quốc </b>



Cuối tháng trước, trên trang web của Chương trình Nghiên cứu biển Đơng thuộc Học Viện Ngoại giao Việt Nam,
có một bài viết bằng tiếng Anh, khẳng định, trong giai đoạn 1954-1975, Việt Nam đã từng có hai quốc gia riêng
biệt


<i>và cũng vì vậy, cơng hàm do ơng Phạm Văn Đồng – Thủ tướng Việt Nam Dân chủ Cộng hịa, ký ngày 14 tháng 9</i>
<i>năm 1958, gửi ơng Chu Ân Lai – Thủ tướng Trung Quốc, thừa nhận chủ quyền của Trung Quốc trên biển Đơng, </i>


<i>khơng có chút giá trị nào về mặt luật pháp quốc tế.</i>


<i>Đây là lần đầu tiên, một trang web thuộc chính quyền Việt Nam nêu chính kiến theo hướng này. Vì sao? Trân </i>
<i>Văn – thơng tín viên của Đài chúng tơi đã phỏng vấn ông Dương Danh Huy – một tiến sĩ đang sống tại Anh, </i>
<i>thành viên sáng lập Qũy Nghiên cứu biển Đông – và cũng là người đã từng khuyến nghị chính quyền Việt Nam </i>
<i>nên làm như thế, để tìm câu trả lời. </i>


<b>Thể diện chính quyền phải nhường chỗ cho chủ quyền quốc gia</b>


<b>Trân Văn:</b><i>Thưa ông, trong các cuộc tranh luận kéo dài suốt nhiều năm qua về chủ quyền trên biển Đông, tuy </i>
<i>Trung Quốc luôn dùng công hàm do ông Phạm Văn Đồng ký hồi 1958 như một trong những bằng chứng để </i>
<i>chứng minh rằng, Việt Nam đã chính thức thừa nhận chủ quyền của Trung Quốc đối với hai quần đảo Hoàng Sa </i>
<i>và Trường Sa, song gần như chưa bao giờ chính quyền Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam – hậu thân của </i>
<i>Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nêu quan điểm của họ về cơng hàm đó. </i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

<i>Là một người chuyên nghiên cứu, theo dõi và phân tích các sự kiện liên quan đến tranh chấp chủ quyền ở biển </i>
<i>Đông, ông nghĩ thế nào về sự kiện vừa xảy ra ấy? </i>


<b>Tiến sĩ Dương Danh Huy: </b>Trong tranh chấp Hoàng Sa – Trường Sa (HSTS), Trung Quốc mặc nhiên cho rằng
Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam(CHXHCN VN) là hậu thân của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (VN DCCH)
và chỉ của VN DCCH. Trên phương diện chính trị, có thể nói rằng, khi Việt Nam thống nhất ngày 2/7/1976 thì ý
thức hệ và lãnh đạo của CHXHCN VN chủ yếu là từ VN DCCH. Nhưng trên phương diện pháp lý, thì CHXHCN
VN là hậu thân của hai quốc gia: Mơt quốc gia phía Bắc vĩ tuyến 17 với tên VN DCCH và một quốc gia phía Nam
với tên Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam (CH MNVN) mà trước đó có tên Việt Nam Cộng Hịa (VNCH).


Trên phương diện chính trị, có thể nói rằng, khi Việt Nam thống nhất ngày 2/7/1976 thì ý thức hệ và lãnh đạo của
CHXHCN VN chủ yếu là từ VN DCCH. Nhưng trên phương diện pháp lý, thì CHXHCN VN là hậu thân của hai
quốc gia: Mơt quốc gia phía Bắc vĩ tuyến 17 với tên VN DCCH và một quốc gia phía Nam với tên Cộng Hịa Miền
Nam Việt Nam mà trước đó có tên Việt Nam Cộng Hịa.



<b>Tiến sĩ Dương Danh Huy:</b> Đúng là cho tới gần đây truyền thơng của Việt Nam tránh nói về vấn đề cơng hàm
Phạm Văn Đồng (CH PVĐ) và tránh câu hỏi, trước khi Việt Nam thống nhất vào ngày 2/7/1976 thì phía Bắc và
phía Nam vĩ tuyến 17 là mấy quốc gia (?), từ thời VNCH đến CH MNVN, có phải là một quốc gia khác biệt với VN
DCCH hay khơng.


Tơi cho rằng việc một trang mạng thuộc chính phủ Việt Nam đăng một bài phân tích về CH PVĐ với quan điểm
trước khi Việt Nam thống nhất thì phía Bắc và phía Nam vĩ tuyến 17 là hai quốc gia khác biệt, là một bước đi
đúng, theo hướng “công khai, công pháp quốc tế và công luận” mà một số nhà luật học Việt Nam đã đề cập đến.
Tôi hy vọng rằng việc Học viện Ngoại giao đăng bài đó, cũng như việc tạp chí Tia Sáng đăng một bản tiếng Việt
vào tháng 11 năm ngối, sẽ góp phần mở rộng thêm khơng gian tranh luận, phân tích cơng khai về CH PVĐ.
<b>Việt Nam Cộng hịa là “lõi” của kế hoạch vơ hiệu hóa </b>


<b>Trân Văn:</b><i> Bài viết bằng tiếng Anh, mới đăng trên trang web của chương trình Nghiên cứu biển Đơng thuộc Học </i>
<i>Viện Ngoại giao Việt Nam, chỉ là bản dịch của một loạt ba bài do bà Nguyễn Thái Linh viết và đã từng được tạp </i>
<i>chí Tia Sáng của Việt Nam, đăng hồi giữa tháng 11 năm 2011.</i>


<i>Sau sự kiện đó chừng một tuần, hơm 25 tháng 11 năm 2011, lần đầu tiên, một trong những viên chức cao cấp </i>
<i>nhất của chính quyền CHXHCN VN – ơng Nguyễn Tấn Dũng, Thủ tướng Việt Nam, chính thức tuyên bố tại diễn </i>
<i>đàn Quốc hội Việt Nam, rằng chính phủ VNCH, đã từng thay mặt Việt Nam, duy trì chủ quyền của Việt Nam trên </i>
<i>quần đảo Hoàng Sa, rằng năm 1974, Trung Quốc đã dùng vũ lực cưỡng chiếm toàn bộ quần đảo Hồng Sa từ </i>
<i>tay chính quyền VNCH,… </i>


<i>Theo dõi tình hình thời sự tại Việt Nam, chúng tôi không nghĩ rằng, tuyên bố của ông Nguyễn Tấn Dũng nhắm </i>
<i>vào mục tiêu hòa hợp, hòa giải, mà đơn thuần chỉ là chuẩn bị luận cứ, nhằm vô hiệu hóa các bằng chứng mà </i>
<i>Trung Quốc đã, đang cũng như sẽ còn tiếp tục sử dụng để chứng minh rằng, Việt Nam đã từng chính thức thừa </i>
<i>nhận chủ quyền của Trung Quốc, đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, trong số các bằng chứng này, </i>
<i>có cơng hàm mà ơng Phạm Văn Đồng ký năm 1958. </i>


<i>Đối chiếu tuyên bố của ông Nguyễn Tấn Dũng hồi cuối năm ngoái và sự kiện trang web của chương trình Nghiên</i>
<i>cứu biển Đơng, thuộc Học Viện Ngoại giao Việt Nam, mới vừa minh định về sự hiện hữu của VNCH trong giai </i>


<i>đoạn 1954-1975, với bài viết “Trong cuộc chiến 1954-1975, có một hay hai quốc gia trên hai miền Bắc, Nam?”, </i>
<i>đã được ông công bố hồi giữa năm ngối, chúng tơi có cảm giác, những khuyến nghị của ông qua bài viết ấy, </i>
<i>đang được chính quyền Việt Nam hiện nay áp dụng để có thể ứng dụng hữu hiệu luật pháp quốc tế, vào việc bảo</i>
<i>vệ chủ quyền của Việt Nam trên biển Đông. Bài viết của ông rất cặn kẽ, nhiều chi tiết, trong khi thời gian cho </i>
<i>cuộc trao đổi này lại có giới hạn, ơng có thể giải thích thật ngắn gọn, nhằm giúp thính giả của chúng tơi dễ hình </i>
<i>dung rằng, tại sao, cần phải thừa nhận, trong giai đoạn 1954-1975, Việt Nam từng có hai quốc gia riêng biệt? </i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

Việc miền Bắc và miền Nam là hai quốc gia cho đến ngày 2/7/1976 là rất quan trọng cho việc phản biện Trung
Quốc, vì nó có nghĩa CH PVĐ và các hành vi bất lợi khác của VN DCCH sẽ không gây phương hại cho chủ
quyền đối với HSTS mà một quốc gia khác, tức là miền Nam, đang duy trì lúc đó.


Tiến sĩ Dương Danh Huy


Đúng như ơng nói, có lẽ chính phủ Việt Nam cảm thấy khó có thể làm ngơ trước việc Trung Quốc đang sử dụng
vấn đề CH PVĐ trong việc tuyên truyền, họ cảm thấy Việt Nam phải phản biện nhiều hơn, và họ có thể cảm thấy
rằng lập luận mạnh mẽ nhất để phản biện là dựa trên các tuyên bố và hành động của VNCH về HSTS. Nhưng để
dựa trên các tuyên bố và hành động của VNCH về HSTS thì phải dựa trên việc lúc đó miền Bắc và miền Nam là
hai quốc gia.


Trên thực tế, chính phủ Việt Nam đã viện dẫn các tuyên bố và hành động của VNCH về HSTS từ lâu, thí dụ như
trong sách trắng của Việt Nam về HSTS năm 1981. Nhưng, có lẽ trên phương diện đối nội thì họ ngại, khơng
dám cơng nhận thẳng thừng là miền Bắc và miền Nam đã từng là hai quốc gia, mặc dù đó là quan điểm mà cả ba
chính thể: VN DCCH, CH MNVN và CHXHCN VN đã từng đưa ra với thế giới.


Việc miền Bắc và miền Nam là hai quốc gia cho đến ngày 2/7/1976 là rất quan trọng cho việc phản biện Trung
Quốc, vì nó có nghĩa CH PVĐ và các hành vi bất lợi khác của VN DCCH sẽ không gây phương hại cho chủ
quyền đối với HSTS mà một quốc gia khác, tức là miền Nam, đang duy trì lúc đó.


…nếu sự thống nhất đó là VN DCCH và CH MNVN cùng đồng ý thống nhất lại thành một quốc gia thì sẽ có lợi
cho Việt Nam, vì sẽ khơng có vấn đề gì cản trở việc CHXHCN VN, thừa kế danh nghĩa chủ quyền đối với HSTS


từ quốc gia phía Nam vĩ tuyến 17, tức là VNCH hay CH MNVN.


Tiến sĩ Dương Danh Huy


Nói cách khác, nếu chính phủ Việt Nam cho rằng ln ln chỉ có một quốc gia, thì CH PVĐ và các hành vi bất
lợi khác của VN DCCH sẽ gây phương hại cho chủ quyền Việt Nam đối với HSTS.


Ngoài ra, vấn đề không chỉ là miền Bắc và miền Nam đã từng là hai quốc gia, mà còn là cả tính cách pháp lý của
sự thống nhất ngày 2/7/1976. Nếu sự thống nhất đó là VN DCCH mở rộng lãnh thổ về phía Nam, hấp thụ quốc
gia phía Nam vĩ tuyến 17 thì sẽ bất lợi cho tranh cãi pháp lý về HSTS. Ngược lại, nếu sự thống nhất đó là VN
DCCH và CH MNVN cùng đồng ý thống nhất lại thành một quốc gia thì sẽ có lợi cho Việt Nam, vì sẽ khơng có
vấn đề gì cản trở việc CHXHCN VN, thừa kế danh nghĩa chủ quyền đối với HSTS từ quốc gia phía Nam vĩ tuyến
17, tức là VNCH hay CH MNVN.


Điểm cuối cùng ở đây là điểm có thể gây tranh cãi giữa người Việt. Trên phương diện chính trị, có thể có quan
điểm cho rằng CHXHCN VN chính là VN DCCH đã hấp thụ miền Nam và đổi tên thành CHXHCN VN. Nhưng,
trên phương diện thủ tục pháp lý, theo quan điểm của các quốc gia khác lúc đó, bao gồm cả Trung Quốc, và của
các cơ quan của Liên Hiệp Quốc, thì sự kiện Việt Nam thống nhất ngày 2/7/1976 là hai quốc gia thống nhất lại
thành một quốc gia mới.


<b>Trân Văn:</b><i>Xin cám ơn ông.</i>
<i>Thong tin vien RFA </i>


<b>TQ họp báo phản đối Luật Biển của VN</b>



</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc nói luật của Việt Nam là "trái luật và khơng có giá trị".
Trung Quốc đã ngay lập tức phản đối mạnh mẽ việc Việt Nam thơng qua Luật Biển trong đó ngay Điều
1 đã quy định về Trường Sa và Hồng Sa.


Bắc Kinh ln nói rằng hai đảo mà họ gọi là Nam Sa và Tây Sa thuộc quyền quản lý của Trung Quốc.


Người phát ngơn Hồng Lỗi tun bố hơm 21/5:


"Trung Quốc có chủ quyền không thể tranh cãi đối với đảo Nam Sa và các vùng lân cận. Bất cứ nước
nào đòi hỏi chủ quyền với Tây Sa và Nam Sa đều là phi pháp và vô giá trị."


Trung Quốc đặt hai đảo mà Việt Nam gọi là Hoàng Sa và Trường Sa dưới sự cai quản của thành phố
Tam Sa.


Người phát ngơn Hồng Lỗi nói Trung Quốc sẽ kiên quyết bảo vệ chủ quyền lãnh thổ:


"Hành động đơn phương của Việt Nam làm phức tạp và rắc rối thêm tình hình và đã vi phạm thỏa thuận
đạt được giữa lãnh đạo hai nước và tinh thần của Tuyên bố Ứng xử trên Biển Nam Trung Hoa, khơng
có lợi cho hịa bình và ổn định trong vùng Biển Nam Trung Hoa. Hành động của Việt Nam là phi pháp
và vô giá trị. Trung Quốc sẽ kiên quyết bảo vệ chủ quyền lãnh thổ. Trung Quốc yêu cầu Việt Nam dừng
và ngay lập tức sửa đổi các hành động và hành xử sai trái, kiềm chế để không làm xấu quan hệ song
phương và ảnh hưởng tới hịa bình và ổn định trong vùng Biển Nam Trung Hoa."


Việt Nam nói phản đối của Trung Quốc trước Luật Biển sẽ có hiệu lực trong năm sau là vơ lý.


<b>Quốc hội TQ phản đối Luật Biển VN</b>



</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

Người phát ngơn Bộ Ngoại giao Trung Quốc nói luật của Việt Nam là "trái luật và khơng có giá trị".


<b>Quốc hội Trung Quốc kêu gọi các nghị sĩ Việt Nam "sửa ngay lập tức" Luật Biển sẽ có hiệu lực </b>
<b>vào năm sau.</b>


Ủy ban đối ngoại Đại hội đại biểu nhân dân toàn quốc Trung Quốc đã gửi thư cho Ủy ban đối ngoại
Quốc hội Việt Nam.


Theo Tân Hoa Xã, lá thư kêu gọi Việt Nam "tôn trọng chủ quyền lãnh thổ của Trung Quốc, ngay lập tức


sửa sai và nỗ lực bảo vệ quan hệ đối tác chiến lược giữa hai nước".


Lá thư nói Luật Biển của Việt Nam "vi phạm nguyên tắc đồng thuận mà lãnh đạo hai nước đã đạt được
cũng như vi phạm các nguyên tắc của Tuyên bố ứng xử tại Nam Hải".


Lá thư nhắc lại Trung Quốc có chủ quyền "khơng thể tranh cãi" với Hồng Sa và Trường Sa.


Điều 1 của Luật Biển Việt Nam đã quy định về quần đảo Trường Sa mà Việt Nam đang chiếm giữ một
phần cũng như quần đảo Hoàng Sa vốn hoàn toàn nằm dưới sự quản lý của Trung Quốc từ năm 1974
sau trận hải chiến mà Việt Nam Cộng hòa thua cuộc.


Với 7 chương, 55 điều, Luật Biển Việt Nam chính thức có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 01 năm
2013.


Ngay sau khi Quốc hội Việt Nam thông qua Luật Biển trong ngày 21/6, Trung Quốc lần đầu xác nhận
thành lập thành phố cấp địa khu Tam Sa.


Trụ sở của chính quyền theo cấp mới này đặt trên đảo Phú Lâm mà Trung Quốc gọi là Vĩnh Hưng, nằm
trong quần đảo Hoàng Sa nhưng vẫn thuộc sự quản lý của thành phồ́ Tam Á, trên đảo Hải Nam.


</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

Luật Biển Việt Nam đã gây ra phản ứng hết sức mạnh mẽ từ Trung Quốc


Nhật báo China Daily đã dẫn lời một số chuyên gia Trung Quốc nhận xét rằng Luật Biển vừa được
Quốc hội Việt Nam thông qua sẽ làm tổn hại nghiêm trọng đến mối quan hệ giữa hai nước.


Trong một bài báo được đăng trên trang mạng của báo này hôm thứ Sáu ngày 22/6, China Daily cho
rằng Luật Biển Việt Nam đã ‘nhận vơ’ quyền tài phán đối với các hòn đảo thuộc sỡ hữu của Trung
Quốc.


“Hành động của Việt Nam đã biến mối quan hệ Trung-Việt thành con tin và làm quan hệ (giữa hai


nước) rất khó khăn,” China dẫn lời ơng Nguyễn Tơng Trạch, phó giám đốc Học viện Quan hệ Quốc tế
Trung Quốc, cho biết.


Ơng Nguyễn phân tích rằng Luật Biển này khơng có cơ sở pháp lý để khẳng định chủ quyền mà Việt
Nam tuyên bố với Tây Sa (Hoàng Sa) và Nam Sa (Trường Sa).


Luật Biển này khơng có cơ sở pháp lý bởi vì nó vi phạm luật pháp quốc tế, bà Cung Ảnh Xuân, chuyên
gia về luật pháp quốc tế tại Đại học Ngoại giao Trung Quốc ở Bắc Kinh, nói với China Daily.


Trong khi đó, từ Hà Nội, người phát ngơn Lương Thanh Nghị nói Luật Biển Việt Nam thơng qua là "hoạt
động lập pháp bình thường nhằm hồn thiện khn khổ pháp lý của Việt Nam, phục vụ cho việc sử
dụng, quản lý, bảo vệ các vùng biển, đảo và phát triển kinh tế biển của Việt Nam, tạo điều kiện thuận lợi
cho quá trình hội nhập quốc tế và tăng cường hợp tác với các nước, vì hịa bình, ổn định trong khu vực
và trên thế giới".


Thông cáo trên trang mạng Bộ Ngoại giao Việt Nam viết: "Đáng tiếc là Trung Quốc đã có những chỉ
trích vơ lý đối với việc làm chính đáng của Việt Nam."


"Nghiêm trọng hơn là Trung Quốc đã phê chuẩn thành lập cái gọi là 'thành phố Tam Sa' với phạm vi
quản lý bao gồm cả hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam. Việt Nam kiên quyết bác bỏ
sự chỉ trích vơ lý của phía Trung Quốc; đồng thời phản đối mạnh mẽ việc Trung Quốc thành lập cái gọi
là 'thành phố Tam Sa'".


Ơng Nghị nói tiếp: "Việc Luật Biển Việt Nam đề cập đến hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là sự
tiếp nối một số quy định trong các luật đã có trước đây của Việt Nam. Đây không phải là vấn đề gì mới
và khơng ảnh hưởng đến q trình tìm kiếm giải pháp cơ bản, lâu dài cho các tranh chấp ở Biển Đông."
Việt Nam luôn coi trọng quan hệ với Trung Quốc, sẵn sàng cùng Trung Quốc thúc đẩy mối quan hệ đối
tác hợp tác chiến lược toàn diện theo phương châm '16 chữ' và tinh thần '4 tốt' vì lợi ích của nhân dân
hai nước," ông tuyên bố.



</div>
<span class='text_page_counter'>(8)</span><div class='page_container' data-page=8>

Cập nhật: 13:27 GMT - thứ sáu, 22 tháng 6, 2012
TQ họp báo phản đối Luật Biển của VN


Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc nói luật của Việt Nam là "trái luật và khơng có giá trị". \


<b>Báo chí Trung Quốc đã đồng loạt phản đối động thái mới đây của Việt Nam thơng qua Luật Biển </b>
<b>trong đó tun bố chủ quyền với các quần đảo đang có tranh chấp trên Biển Đông.</b>


Nhật báo China Daily đã dẫn lời một số chuyên gia Trung Quốc nhận xét rằng Luật Biển vừa được
Quốc hội Việt Nam thông qua sẽ làm tổn hại nghiêm trọng đến mối quan hệ giữa hai nước.


Trong một bài báo được đăng trên trang mạng của báo này hôm thứ Sáu ngày 22/6, China Daily cho
rằng Luật Biển Việt Nam đã ‘nhận vơ’ quyền tài phán đối với các hòn đảo thuộc sỡ hữu của Trung
Quốc.


“Hành động của Việt Nam đã biến mối quan hệ Trung-Việt thành con tin và làm quan hệ (giữa hai
nước) rất khó khăn,” China dẫn lời ơng Nguyễn Tơng Trạch, phó giám đốc Học viện Quan hệ Quốc tế
Trung Quốc, cho biết.


<b>Khơng có cơ sở pháp lý</b>



Ơng Nguyễn phân tích rằng Luật Biển này khơng có cơ sở pháp lý để khẳng định chủ quyền mà Việt
Nam tuyên bố với Tây Sa (Hoàng Sa) và Nam Sa (Trường Sa).


"Hành động của Việt Nam đã biến mối quan hệ Trung-Việt thành con tin và làm quan hệ (giữa hai
nước) rất khó khăn."


Nguyễn Tơng Trạch, phó giám đốc Học viện Quan hệ Quốc tế Trung Quốc


Luật Biển này khơng có cơ sở pháp lý bởi vì nó vi phạm luật pháp quốc tế, bà Cung Ảnh Xuân, chuyên


gia về luật pháp quốc tế tại Đại học Ngoại giao Trung Quốc ở Bắc Kinh, nói với China Daily.


</div>
<span class='text_page_counter'>(9)</span><div class='page_container' data-page=9>

Bà cũng nói rằng cơ sở pháp lý mà Việt Nam tuyên bố cũng không tồn tại theo Hiến chương Liên Hiệp
Quốc.


Luật Biển Việt Nam đã gây ra phản ứng hết sức mạnh mẽ từ Trung Quốc


Theo bà thì Luật Biển Việt Nam khơng có giá trị gì đối với Trung Quốc bởi vì phía Việt Nam đã đơn
phương đánh dấu ‘cái mà họ gọi là vùng đặc quyền kinh tế’.


Nhân dân nhật báo, cơ quan ngôn luận của Đảng Cộng sản Trung Quốc, hôm 22/6 dẫn lời ông Cổ Tú
Đông, một nhà nghiên cứu tại Học viện Quan hệ Quốc tế Trung Quốc, cho rằng việc Việt Nam thông
qua Luật Biển đã xâm phạm chủ quyền, quyền chủ quyền và lợi ích của Trung Quốc ‘một cách trắng
trợn’, làm trầm trọng thêm mâu thuẫn Trung-Việt và làm xấu đi tình hình ở Biển Đông.


“Trung Quốc nên làm cho các quốc gia hiểu rõ rằng một khu đụng chạm tới chủ quyền của Trung Quốc
thì Trung Quốc sẽ bóp nghẹt khơng gian và thời gian xâm phạm của họ cho đến khi nào họ rút lui thì
thơi,” ơng Cổ nói được dẫn lời trong bài báo có nhan đề ‘Khiêu khích sẽ dẫn đến hành động đáp trả’.
Trong một bài xã luận có nhan đề ‘Cần có các biện pháp cứng rắn để bảo vệ chủ quyền ở Nam Hải’
được đăng tải hơm 22/6, tờ Văn Hối có trụ sở tại Hong Kong cho rằng ‘Trung Quốc nên có những ý
tưởng cứng rắn hơn, bao gồm cả việc sử dụng vũ lực để bảo vệ quyền lợi của mình khi cần thiết để
cho thấy sự quyết tâm và khả năng bảo vệ chủ quyền’.


“Đồng thời, Trung Quốc cũng đẩy nhanh các hoạt động của thành phố Tam Sa và đưa ra các chương
trình phát triển và quản lý Nam Hải thực chất để cho thấy sự thực thi và bảo vệ chủ quyền,” bài báo
viết.


Văn Hối cũng kêu gọi hai bờ eo biển Đài Loan cùng hợp tác để để vệ chủ quyền ở Nam Hải.

<b>‘Thành phố Tam Sa’</b>




Báo chí Trung Quốc cũng ca tụng và cổ động cho hành động mới đây của Quốc vụ viện nước này nâng
cấp nâng cấp hành chính hai quần đảo Tây Sa và Nam Sa cùng với quần đảo Trung Sa để thành lập
thành phố Tam Sa thuộc tỉnh Hải Nam.


</div>
<span class='text_page_counter'>(10)</span><div class='page_container' data-page=10>

"Việc sử dụng các phương tiện pháp lý để tuyên bố chủ quyền có lẽ là động thái hung hăng đầu tiên
của Việt Nam."


Độc Cơ Phong, Viện nghiên cứu châu Á-Thái Bình Dương Trung Quốc


“Việc thành lập thành phố Tam Sa cũng là một cơ hội hợp tác mới đối với các quốc gia có tranh chấp,”
bài báo viết.


Ơng Độc Cơ Phong thuộc Viện nghiên cứu châu Á-Thái Bình Dương thuộc Học viên Khoa học xã hội
Trung Quốc, trong cuộc phỏng vấn trên tờ Bưu điện Hoa Nam buổi sáng có trụ sở ở Hong Kong hôm
22/6 cho rằng động thái Tam Sa chỉ là sự thể hiện chủ quyền đơn thuần chứ không phải là một hành
động thực chất.


“Tuy nhiên nó dọn đường cho Trung Quốc gửi thêm nhiều cán bộ đến để quản lý các quần đảo này
trong tương lai,” ơng nói.


“Việc sử dụng các phương tiện pháp lý để tuyên bố chủ quyền có lẽ là động thái hung hăng đầu tiên
của Việt Nam,” ông này nhận định.


<b>Bắc Kinh mạnh mẽ chống lại Luật Biển của Việt </b>


<b>Nam</b>



RFA-22-06-2012


Quốc hội Trung Quốc hôm nay lên tiếng yêu cầu Việt Nam sửa lại Luật Biển mà quốc hội Việt Nam vừa
thông qua với tuyệt đại đa số vào ngày hơm qua và bắt đầu có hiệu lực từ đầu năm tới.



RFA


Khu vự lãnh hải tranh chấp giữa Việt Nam và Trung Quốc.


Tân hoa xã loan tin Ủy ban đối ngoại của quốc hội Trung Quốc đã gửi cho ủy ban đối ngoại quốc hội
Việt Nam lá thư bày tỏ quan điểm của phía Trung Quốc về Luật Biển của Việt Nam.


Nội dung lá thư đưa ra phản đối cho rằng việc thông qua luật biển của quốc hội Việt Nam đã vi phạm
nghiêm trọng chủ quyền của Trung Quốc, vi phạm nguyên tắc đồng thuận mà lãnh đạo của hai phía đã
đạt được cũng như vi phạm các nguyên tắc của Tuyên bố ứng xử tại Biển Đông.


</div>
<span class='text_page_counter'>(11)</span><div class='page_container' data-page=11>

Nội dung lá thư đưa ra phản đối cho rằng việc thông qua luật biển của quốc hội Việt Nam đã vi phạm
nghiêm trọng chủ quyền của Trung Quốc, vi phạm nguyên tắc đồng thuận mà lãnh đạo của hai phía đã
đạt được cũng như vi phạm các nguyên tắc của Tuyên bố ứng xử tại Biển Đông


Cái gọi là “thành phố Tam Sa” của Trung Quốc .Courtesy Sgtt.vn


Như tin đã loan, Bộ Ngoại giao Việt Nam hôm qua cũng đã lên tiếng bác bỏ những chỉ trích của Trung Quốc đối
với việc thông qua Luật Biển của Quốc hội Việt Nam.


Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam, ông Lương Thanh Nghị, cho rằng những chỉ trích đó là vô lý.


Việt Nam lập luận rằng việc thông qua Luật Biển của quốc hội là một hoạt động lập pháp bình thường nhằm hồn
thiện khn khổ pháp lý của Việt Nam. Hoạt động đó nhằm phục vụ việc sử dụng, quản lý, bảo vệ vùng biển, đảo
và phát triển kinh tế biển của Việt Nam.


Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam khẳng định là Việt Nam có đầy đủ cơ sở pháp lý chứng minh
chủ quyền tại hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.



Bộ Ngoại giao Việt Nam hơm qua cũng lên tiếng chỉ trích việc Trung Quốc đã phê chuẩn thành lập cái
gọi là ‘thành phố Tam Sa’ với phạm vi quản lý cả hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thuộc chủ
quyền của Việt Nam.


Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam khẳng định là Việt Nam có đầy đủ cơ sở pháp lý chứng minh
chủ quyền tại hai quần đảo Hồng Sa và Trường Sa.


Hiện có sáu nước tuyên bố chủ quyền tại khu vực Biển Đông gồm Trung Quốc, Đài Loan, Việt Nam,
Philippines, Malaysia và Brunei.


Copyright © 1998-2011 Radio Free Asia. All rights reserved.


<b>Nhà nghiên cứu Đinh Kim Phúc trả lời phỏng</b>


<b>vấn của báo Yomiuri (Nhật) về Luật Biển </b>



</div>
<span class='text_page_counter'>(12)</span><div class='page_container' data-page=12>

1. Xin hoi anh co binh luan gi ve viec Quoc Hoi moi thong qua Luat Bien?


Trước nhất có thể nói rằng việc Quốc hội Việt Nam ngày 21/6/2012 thông qua Luật Biển Việt Nam đã
thể hiện đúng ý chí và nguyện vọng của nhân dân Việt Nam. Một số người cho rằng luật này lẽ ra phải
được ban hành sớm hơn nhưng theo tơi đây mới chính là giai đoạn chính mùi để tỏ rõ quyết tâm khẳng
định chủ quyền của đất nước trước những địi hỏi vơ lý về chủ quyền của Trung Quốc ở Biển Đông.
Luật Biển Việt Nam vừa được quốc hội thông qua với 99,2% đại biểu tán thành và chủ quyền của Việt
Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa được khẳng định ngay trong Điều 1 đã cho thấy nhà
nước Việt Nam đã tiếp tục củng cố việc xác lập chủ quyền của mình trên hai quần đảo này mà các triều
đại phong kiến Việt Nam đã xác lập chủ quyền từ hàng trăm năm trước.


Theo luật vừa mới được quốc hội thông qua với những nội dung cơ bản như báo Nhân dân cơng bố thì
Việt Nam đã dựa trên Cơng ước của Liên hợp quốc về Luật biển năm 1982 mà Việt Nam là một nước
đã tham gia đã cho thấy Việt Nam tuân thủ nguyên tắc sử dụng biện pháp hịa bình để giải quyết tranh
chấp với những quốc gia khác nhưng cũng có qui định những biện pháp cần thiết, bao gồm cả quyền tự


vệ chính đáng để bảo vệ chủ quyền, quyền tài phán của quốc gia trên các vùng biển, đảo và quần đảo
của Việt Nam. Đó là những quyền cơ bản của một nước đã được thừa nhận bởi Hiến chương Liên Hợp
Quốc.


2. Theo anh su ra doi cua Luat Bien se gop phan nhu the nao trong viec giai quyet nhung xung dot hien
nay tren Bien Dong?


Việc thông qua một đạo luật là một hoạt động bình thường của một nhà nước pháp quyền nhưng đạo
luật đó có đi vào cuộc sống như mong muốn hay khơng thì cịn tuỳ thuộc vào rất nhiều yếu tố khác. Với
Luật Biển Việt Nam vừa được thông qua tơi cho rằng nó chưa phải là “cơng cụ vạn năng” để giải quyết
các tranh chấp về chủ quyền của hai quần đảo Hoàng Sa-Trường Sa của Việt Nam và trên Biển đơng
với các bên có liên quan bởi tham vọng tiến xuống phương Nam của nhà nước Trung Quốc với tư
tưởng bá quyền nước lớn chưa chấm dứt nhưng với Luật Biển Việt Nam nó sẽ là một cơng cụ pháp lý
phải có để đấu tranh bảo vệ chủ quyền trong khuôn khổ Hiến chương LHQ và UNCLOS.


<b>Việt Nam bác bỏ phản đối của Trung Quốc về </b>


<b>Luật Biển VN </b>



</div>
<span class='text_page_counter'>(13)</span><div class='page_container' data-page=13>

Hải quân Việt Nam tuần phòng ở quần đảo Trường Sa


 Tweet




<b>Tin liên hệ </b>


<i><b>TQ nâng cấp quy chế hành chính tại các quần đảo ở Biển Đơng</b></i>


Chính quyền Trung Quốc vừa nâng cấp quy chế hành chính ba quần đảo Tây Sa, Trung Sa, và Nam Sa ở Biển


Đông từ cấp quận lên cấp huyện


 Xa lộ nối liền Việt Nam-Trung Quốc sẽ mở cửa cho giao thông năm 2013
 Việt Nam thuê thêm nhiều giảng viên Hoa ngữ từ Đài Loan


CỠ CHỮ
22.06.2012


Việt Nam kiên quyết bác bỏ chỉ trích vô lý của Trung Quốc đối với Luật Biển Việt Nam và phản đối việc Trung
Quốc thành lập thành phố Tam Sa để quản lý cả hai quần đảo Hoàng Sa-Trường Sa của Việt Nam.


Trang web Bộ Ngoại giao Việt Nam ngày 21/6 đăng tuyên bố của người phát ngôn Lương Thanh Nghị khẳng
định Luật Biển Việt Nam vừa thơng qua là một hành động lập pháp bình thường, chính đáng vì Việt Nam có đủ
cơ sở pháp lý và chứng cớ lịch sử về chủ quyền khơng thể tranh cãi tại hai quần đảo Trường Sa-Hồng Sa trên
Biển Đơng.


</div>
<span class='text_page_counter'>(14)</span><div class='page_container' data-page=14>

Ơng Nghị cũng lặp lại rằng Việt Nam luôn coi trọng quan hệ với Trung Quốc theo phương châm “Láng giềng hữu
nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai" mà Trung Quốc đưa ra định hướng phát triển quan
hệ hai nước Việt – Trung.


Luật Biển Việt Nam được Quốc hội thông qua ngày 21/6 với 495 phiếu thuận trên tổng số 496 đại biểu và sẽ
chính thức có hiệu lực vào đầu năm sau.


Ngay trong ngày 21/6, Trung Quốc đã lên tiếng cực lực chỉ trích, gọi Luật Biển Việt Nam là ‘phi pháp’ và ‘vô giá
trị’. Phát ngôn nhân Hồng Lỗi của Bộ Ngoại giao Trung Quốc nói:


“Hành động đơn phương của phía Việt Nam làm phức tạp thêm tình hình, đi ngược lại nhận thức chung của lãnh
đạo 2 nước, và không phù hợp tinh thần Tuyên bố ứng xử các bên ở Biển Đơng. Hành động của phía Việt Nam
là phi pháp và vô căn cứ. Trung Quốc kiên quyết bảo vệ chủ quyền của mình và yêu cầu Việt Nam chấm dứt
cũng như sửa đổi ngay những hành động sai trái.”



Thứ trưởng Ngoại giao Trung Quốc, Trương Chí Quân, đã triệu tập đại sứ Việt Nam, Nguyễn Văn Thơ, yêu cầu
Hà Nội phải chỉnh sửa ngay vì luật mới của Việt Nam ‘vi phạm nghiêm trọng chủ quyền Trung Quốc’ ở Biển
Đông.


Ngày 22/6, Ủy ban Đối ngoại Quốc hội Trung Quốc đã gửi thư cho Ủy ban Đối ngoại Quốc hội Việt Nam cũng đề
nghị sửa ngay lập tức Luật Biển Việt Nam mà phía Trung Quốc gọi là ‘sai trái’.


Thư viết rằng Ủy ban Đối ngoại Quốc hội Trung Quốc hy vọng Quốc hội Việt Nam thực sự tôn trọng chủ quyền
của Bắc Kinh và sửa chữa điều luật sai trái này để đảm bảo mối quan hệ đối tác hợp tác chiến lược tồn diện và
tình hữu nghị giữa đôi bên.


Tuyên bố của người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam đăng trên trang web của Bộ khẳng định Việt Nam kiên
quyết theo đuổi giải pháp ơn hịa dựa trên luật quốc tế, đặc biệt là Công ước Liên hiệp quốc về Luật Biển năm
1982 và Tuyên bố về cách ứng xử của các bên trong tranh chấp ở Biển Đơng.


VIỆT NAM - BIỂN ĐƠNG -


Bài đăng : Thứ sáu 22 Tháng Sáu 2012 - Sửa đổi lần cuối Thứ sáu 22 Tháng Sáu 2012


</div>
<span class='text_page_counter'>(15)</span><div class='page_container' data-page=15>

Một trạm gác nổi ở quần đảo Trường Sa của Việt Nam.
Reuters


<b>Thụy My</b>



<b>Hãng tin Pháp AFP hôm nay 22/06/2012 cho biết Hà Nội vào tối </b>


<b>qua đã bác bỏ phản đối « vơ lý » của Bắc Kinh về Luật Biển vừa </b>


<b>được Quốc hội Việt Nam thơng qua, trong đó khẳng định hai </b>


<b>q̀n đảo Hoàng Sa và Trường Sa thuộc chủ quyền Việt Nam.</b>


Quốc hội Việt Nam hôm qua đã thông qua Luật Biển với 495/496 phiếu, trong đó khẳng định hai quần

đảo Hoàng Sa và Trường Sa bị Trung Quốc tranh chấp là thuộc chủ quyền của Việt Nam. Ngay lập tức,
Bắc Kinh đã triệu tập đại sứ Việt Nam tại Trung Quốc Nguyễn Văn Thơ để phản đối.


Tối qua, phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Việt Nam Lương Thanh Nghị đã tuyên bố : Việt Nam kiên quyết
bác bỏ sự chỉ trích vơ lý của phía Trung Quốc, đồng thời phản đối mạnh mẽ việc Trung Quốc thành lập
cái gọi là « thành phố Tam Sa ».


Cũng theo tun bố trên, « Việt Nam có đầy đủ cơ sở pháp lý và chứng cứ lịch sử để khẳng định chủ
quyền không thể tranh cãi đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Việc Luật Biển Việt Nam đề
cập đến hai quần đảo này là sự tiếp nối một số quy định trong các luật đã có trước đây của Việt Nam.
Đây khơng phải là vấn đề gì mới và khơng ảnh hưởng đến quá trình tìm kiếm giải pháp cơ bản, lâu dài
cho các tranh chấp ở Biển Đông ».


Luật Biển Việt Nam gồm 7 chương, 55 điều, sẽ bắt đầu có hiệu lực kể từ ngày 01/01/2013. Theo báo
Nhân Dân, đây là bộ luật có tỉ lệ số đại biểu tán thành cao nhất trong số năm dự thảo luật và nghị quyết
được Quốc hội biểu quyết vào hôm qua 21/6.


Hôm nay trên mạng xã hội Facebook, trang Nhật ký yêu nước đã đưa ra lời kêu gọi « Tuần hành ơn
hịa chống Trung Quốc, ủng hộ Luật Biển của Việt Nam » vào sáng Chủ nhật 1/7 ở gần đại sứ quán
Trung Quốc tại Hà Nội và lãnh sự quán Trung Quốc ở Thành phố Hồ Chí Minh.


</div>
<span class='text_page_counter'>(16)</span><div class='page_container' data-page=16>

Nhóm Nhật ký yêu nước đề nghị những người tham gia chỉ mang những biểu ngữ có nội dung chống
Trung Quốc, khơng có hành động q khích. Được biết phong trào biểu tình phản đối thái độ gây hấn
của Trung Quốc tại Biển Đông, khởi đầu từ ngày 05/06/2011, cũng bắt đầu từ trang này.


<b>THƯ RIÊNG, SAO GỌI LÀ “CÔNG HÀM”?</b>



* <i>Đại tá</i> <b>Bùi Văn Bồng</b>


Bvbqd - <b>Theo từ điển </b><i><b>Wiktinorya tiếng Việt</b></i><b>: </b><i><b>Công hàm là công văn ngoại giao của nước này</b></i>


<i><b>gửi cho nước khác...</b></i><b>(trao đổi cơng hàm giữa hai nước). Ví dụ như: Ngày 15/1/1950, Bộ</b>
<b>trưởng Bộ Ngọai giao Nước Việt Nam DCCH Hoàng Minh Giám gửi công hàm đến Bộ trưởng</b>
<b>Bộ Ngoại giao CHND Trung Hoa Chu Ân Lai với nội dung </b><i><b>tun bố cơng nhận Chính phủ</b></i>
<i><b>nhân dân Trung Quốc do Chủ tịch Mao Trạch Đông lãnh đạo (1-10-1949) và thiết lập quan hệ</b></i>
<i><b>ngoại giao chính thức và trao đổi Đại sứ với Chính phủ nhân dân Trung Quốc. </b></i><b>Ngày</b>
<b>18/1/1950, Bộ trưởng Ngọai giao CHND Trung Hoa Chu Ân Lai đã gửi cơng hàm phúc đáp</b>
<b>thơng điệp. Cịn bức thư ngày 14-9-1958 của ông Phạm Văn Đồng, lúc đó ở cương vị Thủ</b>
<b>tướng, khơng thể đại diện cho nhà nước VNDCCH, và hình thức cũng như nội dung chỉ là</b>
<b>thư trao đổi giữa hai cá nhân với nhau trên tình đồng chí.</b>


Ngày 4-9-1958, Thủ tướng Trung Quốc Chu Ân Lai đã công khai tuyên bố với quốc tế quyết
định của Chính phủ Trung Quốc về hải phận 12 hải lý kể từ đất liền của Trung Quốc và các đảo
ngoài khơi, bao gồm cả quần đảo Tây Sa và Nam Sa (tức quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của
Việt Nam). Mười ngày sau, ngày 14-9-1958, Thủ tướng Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hịa
Phạm Văn Đồng gửi một bức thư cho Thủ tướng Chu Ân Lai, nguyên văn như sau:


<i>"Thưa Đồng chí Tổng lý,</i>


<i>Chúng tơi xin trân trọng báo tin để Đồng chí Tổng lý rõ: Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ</i>
<i>Cộng hịa ghi nhận và tán thành bản tuyên bố ngày 4 tháng 9 năm 1958 của Chính phủ nước Cộng</i>
<i>hồ Nhân dân Trung Hoa quyết định về hải phận của Trung Quốc.</i>


<i>Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hịa tơn trọng quyết định ấy và sẽ chỉ thị cho các</i>
<i>cơ quan Nhà nước có trách nhiệm triệt để tơn trọng hải phận 12 hải lý của Trung Quốc trong mọi</i>
<i>quan hệ với nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa trên mặt biển. Chúng tơi xin kính gửi Đồng chí</i>
<i>Tổng lý lời chào rất trân trọng”.</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(17)</span><div class='page_container' data-page=17>

Nhìn lại bối cảnh năm 1958, Việt Nam mới qua
cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp. Đất nước còn nghèo, lại bị Mỹ phản lại Hiệp
định Genève 20-7-1954, dựng lên chế độ bù nhìn tay sai Ngơ Đình Diệm để thực hiện âm mưu xâm


lược Việt Nam. Trước đó, ngày 26-5-1950, chiến tranh Triều Tiên bùng nổ, Tổng thống Hoa Kỳ
Harry S. Truman đã ra lệnh cho Hạm đội 7 tiến vào eo biển Đài Loan, ngăn chặn cuộc tấn công của
Trung Quốc nhắm vào các đảo trên eo biển Đài Loan. Với hành động này, Mỹ đã thực sự bảo hộ
Đài Loan, mặc cho Trung Quốc kịch liệt lên án.


Năm 1958, tiếp tục xảy ra cuộc khủng hoảng eo biển Đài Loan lần thứ hai. Ngày 23-8-1958
Trung Quốc đột ngột tăng cường nã pháo vào đảo Kim Môn. Theo Hiệp định Phòng thủ tương hỗ
giữa Đài Loan-Hoa Kỳ, Tổng thống Eisenhower đã ra lệnh cho tàu chiến Hoa Kỳ đến bảo vệ đường
tiếp tế hậu cần từ đảo Đài Loan đến 2 đảo tiền tiêu Kim Môn và Mã Tổ.


</div>
<span class='text_page_counter'>(18)</span><div class='page_container' data-page=18>

Quốc lúc đó "vừa là đồng chí vừa là anh em”. Thực chất chính phủ Hà Nội lúc đó nêu quan điểm
ủng hộ tuyên bố lãnh hải của Trung Quốc là muốn cho Hạm đội 7 của Mỹ tôn trọng vùng biển như
tuyên bố chủ quyền của Trung Quốc mà không gây hấn phức tạp trên biển Bắc bộ, nhằm tránh sự
xô xát, tranh chấp phức tạp để VN n tâm bảo vệ nền hịa bình mới được lập lại trên miền Bắc và
xây dựng cuộc sống mới.


Về vấn đề này, ngày 24-1-2008 phóng viên đài BBC (Tiếng Việt) đã phỏng vấn Tiến sĩ
Balazs Szalontai, một nhà nghiên cứu về châu Á đang sống ở Hungary. Theo Tiến sĩ Balazs
Szalontai: Trong các năm 1955-1958, ban lãnh đạo Bắc Việt chưa đạt tới mục tiêu thống nhất đất
nước vì phải đối phó với khó khăn nội bộ và thiếu ủng hộ của quốc tế. Đồng minh chính của họ lúc
này là Trung Quốc. Trong hoàn cảnh này, Hà Nội khơng thể hy vọng xác lập quyền kiểm sốt đối
với Hoàng Sa và Trường Sa trong tương lai gần, và vì vậy họ khơng thể có sự bất đồng lớn với
Trung Quốc về các hịn đảo.


Lúc này, chính phủ Bắc Việt tìm cách có được giúp đỡ của Trung Quốc, và họ chỉ cố gắng
tránh đưa ra tuyên bố công khai ủng hộ những tuyên bố chủ quyền cụ thể của Trung Quốc hay ký
vào một văn kiện bắt buộc mà sẽ công khai từ bỏ chủ quyền của Việt Nam đối với các đảo này. Cái
mà Trung Quốc gọi là “công hàm” thực chất chỉ là một lá thư ngắn, mà ông Phạm Văn Đồng gửi
cho cá nhân Thủ tướng Chu An Lai, gọi thân mất, hữu nghị là “Đồng chí Tổng lý”, rằng: "Chúng tơi
xin trân trọng báo tin...", hồn tồn khơng phải là Tun bố của nhà nước Việt Nam dân chủ Cộng


hịa có đủ giá trị về mặt pháp lý.


Sang năm 1974, tình hình hồn tồn khác. Việc thống nhất Việt Nam khơng cịn là khả năng
xa vời. Giả sử Trung Quốc có khơng can thiệp, Hà Nội có thể dễ dàng lấy các đảo cùng với phần
còn lại của miền Nam. Từ 1968 đến 1974, quan hệ Việt - Trung đã xuống rất thấp, trong khi Liên Xô
tăng cường ủng hộ cho miền Bắc. Trong tình hình đó, quan điểm của Bắc Việt dĩ nhiên trở nên
cứng cỏi hơn trước Trung Quốc so với thập niên 1950.


</div>
<span class='text_page_counter'>(19)</span><div class='page_container' data-page=19>

chiếm dảo Hoàng sa vào ngày 19-1-1974, nhưng cũng chưa dám đụng đến Trường Sa, có lẽ cịn
sợ Mỹ quay lại…


Bức thư ngày 14-9-1958 của Thủ tướng Phạm Văn Đồng xuất phát từ mối quan hệ rất đặc
thù với Trung Quốc trong thời điểm Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đang rất cần tranh thủ sự ủng hộ
và giúp đỡ của các nước trong phe xã hội chủ nghĩa bấy giờ và là một cử chỉ ngoại giao tốt đẹp thể
hiện quan điểm ủng hộ của Việt Nam Dân chủ Cộng hịa trong việc tơn trọng lãnh hải 12 hải lý của
Trung Quốc trước các diễn biến quân sự phức tạp trên eo biển Đài Loan.


Điều tất nhiên là khi Pháp rút, Mỹ can thiệp vào Đơng Dương, thì hai nước theo đường lối
XHCN Trung-Việt phải thực sự hịa hiếu, đồn kết để chống kẻ thù chung. Việc trao đổi thư giữa
các vị lãnh đạo hai nước bày tỏ tình cảm và quan điểm là chuyện đương nhiên. Do vậy, trong tình
hình lãnh thổ Trung Quốc đang bị đe dọa chia cắt, cuộc khủng hoảng eo biển Đài Loan lần thứ hai
khiến Hải quân Hoa Kỳ đưa tàu chiến vào can thiệp, việc Trung Quốc ra tuyên bố về lãnh hải bao
gồm đảo Đài Loan trước hết nhằm khẳng định chủ quyền trên biển của Trung Quốc trong tình thế bị
đe dọa tại eo biển Đài Loan là có sự liên quan cả đến sự an nguy của Việt Nam. Hơn nữa, vùng
biển vịnh Bắc bộ của VN tiếp giáp với TQ, khi vùng biển này theo Tuyên bố của TQ rộng 12 hải lý
thì Việt Nam dân chủ cộng hòa thấy cần ủng hộ để được n phía Biển Đơng.


</div>
<span class='text_page_counter'>(20)</span><div class='page_container' data-page=20>

Bức thư của Thủ tướng Phạm Văn Đồng khơng hề nói đến hai quần đảo Hồng Sa, Trường
Sa, cũng như khơng có một chữ nào cơng nhận Hồng Sa và Trường Sa thuộc chủ quyền lãnh hải
Trung Quốc. Một lý do nữa là ơng Phạm Văn Đồng lúc đó khơng thể thay mặt nhà nước gửi “công


hàm” về chủ quyền hai quần đáo HS, TS, bởi theo Hiệp định Genève 1954, hai quần đảo Hồng Sa
và Trường Sa nằm phía Nam vĩ tuyến 17 tạm thời thuộc quyền quản lý của Chính phủ Việt Nam
cộng hịa của Tổng thơng Ngơ Đình Diệm được Mỹ dựng lên. Đọc thư thấy có hai nội dung rất rõ
ràng: Một là, Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa ghi nhận và tán thành việc Trung Quốc mở
rộng lãnh hải ra 12 hải lý; Hai là, Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hịa chỉ thị cho các cơ quan
nhà nước tôn trọng giới hạn lãnh hải 12 hải lý mà Trung Quốc tuyên bố.


Nếu chỉ xét về câu chữ trong một văn bản có tính chất thư ngoại giao cũng dễ dàng nhận
thấy mọi suy diễn cho rằng “Công hàm 1958” đã tuyên bố từ bỏ chủ quyền của Việt Nam đối với hai
quần đảo Hồng Sa và Trường Sa và coi đó là bằng chứng khẳng định Việt Nam đã thừa nhận chủ
quyền của Trung Quốc đối với hai quần đảo này là xun tạc lịch sử và hồn tồn khơng có cơ sở
pháp lý. Do vậy, phần tuyên bố về chủ quyền của Trung Quốc liên quan tới hai quần đảo Hoàng Sa
và Trường Sa của Việt Nam với sự mượn cớ bức thư riêng ngày 14-9-1958 về cơ sở pháp lý quốc
tế đương nhiên là khơng có hiệu lực.


Tại Hội nghị San Francisco 1951, các quốc gia tham dự đã bác bỏ yêu sách về chủ quyền
của Trung Quốc trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Cũng tại hội nghị này, Việt Nam đã
long trọng tuyên bố chủ quyền lâu đời và liên tục của Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa và
Trường Sa trong phiên họp tồn thể mà khơng có bất kỳ sự phản đối hay ý kiến gì khác của tất cả
các quốc gia tham dự, kể cả Trung Quốc. Điều đó có nghĩa là kể từ năm 1951, cộng đồng quốc tế
đã thừa nhận chủ quyền lịch sử và pháp lý của Việt Nam tại hai quần đảo Hoàng Sa và Trường
Sa. Cho đến hiện nay, Việt Nam có đầy đủ cơ sở lịch sử và pháp lý về chủ quyền không thể chối
cãi với 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.


Năm 1956, Liên hợp quốc bắt đầu tiến hành các hội nghị quốc tế bàn về Luật Biển, sau đó
một số hiệp định được ký kết vào năm 1958, tuy nhiên vẫn chưa làm thỏa mãn yêu sách về lãnh
hải của một số quốc gia.


Cho nên, một lần nữa cần xác định cho rõ: Các tuyên bố nói trên của Trung Quốc cũng như
thư của ông Phạm Văn Đồng ra đời trong bối cảnh có nhiều chuyển biến phức tạp và cấp bách đối


với Trung Quốc về tình hình lãnh thổ trên biển theo luật pháp quốc tế cũng như diễn biến căng
thẳng của vấn đề quân sự xung quanh eo biển Đài Loan như đã nêu và phân tích trên đây.


</div>
<span class='text_page_counter'>(21)</span><div class='page_container' data-page=21>

chủ quyền thực tế trên hai quần đảo, đưa các đơn vị hải quân ra giữ đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Trong suốt thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước của Việt Nam, Trung Quốc vẫn nghiễm nhiên
công nhận việc bảo vệ chủ quyền của lực lượng hải quân Việt Nam cộng hòa, mà khơng có ý kiến
gì. Chắc một phần là sợ Mỹ, một phần là tự thấy không đủ căn cứ pháp lý. Nay khơng cịn ai để
phải sợ, Trung Quốc lại “bắt nạt” Việt Nam để tranh giành chủ quyền Hoàng Sa và Trường Sa. Đỉnh
cao của sự khẳng định chủ quyền Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa trong giai
đoạn này là trận hải chiến quyết liệt của Hải quân Việt Nam Cộng hòa chống lại sự xâm lược của
tàu chiến và máy bay Trung Quốc tại quần đảo Hoàng Sa năm 1974.


Một bức thư riêng chỉ có 127 chữ với nội dung trao đổi giữ hai vị thủ tướng hai nước có tính
chất ”hữu hảo” cùng lý tưởng Cộng sản nếu có chăng chỉ đơn thuần về mặt ngoại giao thời điểm,
thế mà gần đây Trung Quốc luôn rêu rao cái gọi là “Cơng hàm”, rằng họ có chủ quyền khơng thể
tranh cãi đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Có thể nói, giải thích xun tạc bức thư
1958 là một trong chuỗi những hành động có tính tốn nhằm tạo cớ, từng bước hợp thức hóa yêu
sách chủ quyền phi lý của Trung Quốc đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam.
Việc Trung Quốc diễn giải nội dung “Công hàm” ngày 14/9/1958 của Thủ tướng Phạm Văn
Đồng và xuyên tạc nội dung, ý nghĩa của bức thư đó như là một chứng cứ cho thấy Việt Nam đã
công nhận chủ quyền của Trung Quốc đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là hết sức chủ
quan và thể hiện rõ sự tìm mọi cớ thực hiện dã tâm xâm lấn Biển Đông, hoàn toàn xa lạ với diễn
tiến lịch sử, nền tảng pháp lý của Việt Nam cũng như luật pháp quốc tế, bất chấp thực tế khách
quan của bối cảnh lịch sử đương thời, không thể coi là văn bản pháp lý để đưa ra tranh chấp chủ
quyền trên Biển Đông.


Sắp tới, Nhà nước Việt Nam chính thức ban hành Luật Biển theo biểu quyết thông qua của
99,2% số phiếu tán thành tại Kỳ họp thứ 3 (Quốc hội khóa XIII), ngày 21-6 mới là văn bản pháp lý
chính thức của nước Việt Nam về chủ quyền biển-đảo. Luật Biển của VN lần này sẽ thực sự chấm
dứt mối nghi ngờ và lắm ý kiến nhiều chiều về bức thư năm 1958 của Thủ tướng Phạm Văn Đồng.



Hiệp định Genève 1954, mà Trung Quốc là một nước tham gia chính thức, cũng thừa nhận
chủ quyền hai quần đảo Hồng Sa và Trường Sa thuộc về Việt Nam. Các điều khoản trong Hiệp
định cũng yêu cầu các quốc gia tham dự Hội nghị cam kết tôn trọng chủ quyền độc lập, nền thống
nhất quốc gia và sự toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam. Luật Biển mà Việt Nam sắp ban hành cũng
dựa trên những giá trị các chứng cứ lịch sử đó và đúng với Cơng pháp Quốc tế về Luật biển năm
1982. (BVB)




</div>
<span class='text_page_counter'>(22)</span><div class='page_container' data-page=22>

<b>"TRONG NỘI THỦY, LÃNH HẢI VIỆT NAM, TÀU NGẦM VÀ CÁC PHƯƠNG TIỆN ĐI NGẦM KHÁC CỦA </b>
<b>NƯỚC NGOÀI PHẢI HOẠT ĐỘNG Ở TRẠNG THÁI NỔI"... </b>


<b>... Điều 29. Hoạt động của tàu ngầm và các </b>
<b>phương tiện đi ngầm khác của nước ngoài trong nội thuỷ, lãnh hải Việt Nam.</b>


Trong nội thủy, lãnh hải Việt Nam, tàu ngầm và các phương tiện đi ngầm khác của nước ngoài phải hoạt động ở
trạng thái nổi trên mặt nước và phải treo cờ quốc tịch, trừ trường hợp được phép của Chính phủ Việt Nam hoặc
theo thỏa thuận giữa Chính phủ Việt Nam và chính phủ của quốc gia mà tàu thuyền đó mang cờ.


<i>(Trích <b>Chương III: Hoạt động trong vùng biển Việt Nam, Luật Biển Việt Nam</b>)</i>.


<b>Quốc tế 'bực mình' với Hải giám Trung </b>


<b>Quốc</b>



Cập nhật lúc :11:15 PM, 22/06/2012


<b>Đã 3 năm kể từ ngày Trung Quốc thất bại trong nỗ lực yêu cầu tàu USNS Impeccable của Mỹ rời </b>
<b>khỏi khu vực biển Đông.</b>



<b>(ĐVO)</b> Đây không phải là lần đầu, cũng không phải lần cuối, các tàu Trung Quốc có hành động "bất lịch
sự" trên vùng biển quốc tế. Vậy mà giờ đây, Trung Quốc đang không ngừng phát triển Hải giảm, lực
lượng tàu khoác áo dân sự tham gia vào các vụ tranh chấp trên biển.


Ba tuần trước Bộ ngoại giao Philippines đã bày tỏ “sự lo lắng sâu sắc” của mình tới Đại sứ quán Trung
Quốc sau khi một hạm đội tàu Trung Quốc được cử đến khu vực bãi đá Scarborough và đe doạ các tàu
cá bản địa đánh bắt trong khu vực. Căng thẳng chỉ tạm chấm dứt khi cả 2 nước rút tàu của mình khỏi
khu vực tranh chấp vì lý do thời tiết. Một trong những nhân tố tham gia “tích cực” vào vấn đề tranh chấp
như vậy chính là Hải giám


Tàu của lực lượng này thường là những tàu lớn, có nhiều dáng dấp của tàu chiến Mỹ hồi những năm
đầu thế kỉ 20. Trong đó, tàu lớn nhất của lực lượng này chỉ kém tàu chiến USS Caroline 20m chiều dài.
Tuy chỉ được trang bị những loại vũ khí hạng nhẹ, nhưng những chiếc tàu này cũng đủ để đe doa các
tàu cá và sẽ rất có tác dụng trong trận chiến chống lại các mục tiêu lớn hơn trong tương lai.


</div>
<span class='text_page_counter'>(23)</span><div class='page_container' data-page=23>

Trước đó, tháng 5/2011, tàu của lực lượng này gây rối với tàu thăm dò địa chất của Việt Nam trên vùng
lãnh thổ ngoài khơi Việt Nam.


Tàu hải giám Trung Quốc.


Tuần trước, The Hindu của Ấn Độ đưa tin một tàu hộ tống INS Shivalik (Foxtrot-47) của Hải quân Ấn
Độ rời Philippines đến Hàn Quốc thì nhận được thông điệp từ tàu Trung Quốc rằng: “Chào mừng các
bạn đã đến biển Hoa Nam (cách Trung Quốc gọi tên biển Đông)”.


Theo bản báo cáo này thì những tàu Trung Quốc này đã “hộ tống” 4 tàu Ấn Độ trong vòng 12 giờ khi họ
đang di chuyển trên 1 trong những tuyến đường biển quan trọng nhất trên thế giới. “Giọng điệu của
thơng điệp đó vừa có vẻ chào đón, vừa như có ý nhắc nhở chúng tôi rằng chúng tôi đang đi vào vùng
biển của Trung Quốc”, một quan chức đã nói với tờ The Hindu như vậy.


Động thái đầy hung hăng này khiến nhiều quan chức Hải quân Ấn Độ ngạc nhiên bởi sắp tới, cả 2 nước


sẽ tiến hành những cuộc đối thoại hải quân lần đầu tiên và sau đó có thể đẩy mạnh hợp tác thơng qua
những cuộc tập trận chung chống hải tặc tại vùng vịnh Aden, Ấn Độ Dương.


Nhiều chuyên gia thắc mắc rằng rồi chuyện gì sẽ đến sau đây? Với số lượng lớn tàu mới đưa vào sử
dụng của hải quân và hải giám, Trung Quốc đã hoạch định những gì cho tương lai?


Theo The Telegraph, đến năm 2015, Hải giám Trung Quốc có khoảng 16 máy bay, 350 tàu mới và đến
năm 2020, lực lượng này sẽ được bổ sung thêm khoảng hơn 15.000 người.


Trong những năm tới, lực lượng này sẽ có khả năng tiến hành nhiệm vụ giám sát trên tồn khu vưc
biển Đơng. Lực lượng này đã theo dõi hải trình của khoảng 1.303 tàu nước ngoài và 214 máy bay trong
năm 2010.


Một chuyên gia hải quân Mỹ cho rằng với số lượng 350 tàu, bằng tổng số tàu đang hoạt động của Hải
quân Mỹ, Hải giám Trung Quốc sẽ có khả năng theo dõi và hộ tống hầu hết số tàu đi lại trong khu vực”.
Tranh chấp dầu khí biển Đơng mới chỉ bắt đầu


</div>
<span class='text_page_counter'>(24)</span><div class='page_container' data-page=24>

<b>Hiện giàn khoan 981 của Trung Quốc đang hoạt động ở địa điểm cách Hong Kong 320 km về </b>
<b>phía Nam, nhưng theo các chuyên gia thì ý đồ của Trung Quốc khơng dừng ở đó.</b>


Trung Quốc đã chi gần 1 tỷ USD cho việc xây dựng một giàn khoan biển sâu 981 để hoạt động thăm dò
tại vùng biển xa . Đây là giàn khoan của cơng ty dầu khí nhà nước Trung Quốc CNOOC và được mô tả
là “lãnh thổ di động”.


<b>Di chuyển sang vùng tranh chấp?</b>


Cho đến nay, việc thăm dò ngồi khơi của CNOOC và hai “ơng lớn” dầu khí nhà nước Trung Quốc là
PetroChina và Sinopec Corp phần lớn giới hạn ở vùng nước dọc theo bờ biển hoặc gần với thềm lục
địa Trung Quốc.



Trong khi đó, các chuyên gia năng lượng Trung Quốc cho hay Bắc Kinh cuối cùng rồi sẽ di chuyển giàn
khoan này đến thăm dị tại những vùng biển sâu và nhiều dầu khí hơn ở Biển Đông. Những vùng biển
này là nơi một số nước Đông Nam Á cũng tuyên bố chủ quyền. Với sự cải thiện trong cơng nghệ khoan
ngồi khơi của Trung Quốc, việc CNOOC tiến sâu vào những khu vực ở giữa và phía Nam Biển Đơng
chỉ cịn là vấn đề thời gian.


Giàn khoan nước siêu sâu 981 của Trung Quốc. <i>Ảnh: THX</i>


Lin Boqiang, giáo sư và giám đốc của Trung tâm Nghiên cứu Kinh tế Năng lượng tại Đại học Hạ Môn
Trung Quốc, cho hay: "Nếu CNOOC không di chuyển giàn khoan đến vùng biển tranh chấp, các nước
khác sẽ làm. Vậy tại sao CNOOC lại không?" Tuy nhiên, CNOOC đã từ chối cho biết có di chuyển giàn
khoan 981 vào vùng biển tranh chấp hay khơng.


Thêm vào đó, sự triển khai giàn khoan CNOOC và việc có những đề xuất rằng Trung Quốc phát triển
lĩnh vực chuyên môn cần thiết để xây dựng những thiết bị phụ trợ phức tạp khác, bao gồm cả tàu đặt
đường ống, cho thấy việc thăm dị có thể di chuyển về phía nam nơi có vùng nước rất sâu. Trước đó,
Tân Hoa Xã cho hay khoảng 70% các nguồn tài ngun dầu khí tại Biển Đơng nằm ở vùng biển sâu.
Các nhà địa chất nói rằng hầu hết tài nguyên ấy có thể nằm ở những vùng nước sâu từ hàng trăm mét
đến 3.000 m, có những nơi sâu đến 4.700m.


</div>
<span class='text_page_counter'>(25)</span><div class='page_container' data-page=25>

Nguồn tài nguyên dầu khí phong phú được cho là nằm dưới trung tâm và phía nam của Biển Đơng, nơi
đang xảy ra tranh chấp. Ước tính trữ lượng dầu chưa được khai thác trong toàn bộ phạm vi biển này là
từ 28 tỷ đến 213 tỷ thùng dầu, khiến truyền thông Trung Quốc gọi biển Đông là "Vịnh Ba Tư thứ hai".
Các khu vực nước sâu của Biển Đông vẫn chưa được khai thác, chủ yếu do căng thẳng giữa các bên
tranh chấp địi chủ quyền. Việc này khiến các cơng ty dầu và những công ty tư nhân xây dựng giàn
khoan lo sợ về những phiền tối.


Tình trạng thiếu thiết bị cũng ngăn cản các cơng ty nước ngồi thăm dị vùng biển nước sâu của Biển
Đơng, thêm vào đó họ cũng miễn cưỡng đối với việc liên doanh để thăm dò những khu vực đang tranh
chấp.



Trong khi đó, Trung Quốc muốn biến mộng thành thực sau khi đã phải chờ đợi mới có giàn khoan nước
rất sâu này của riêng mình, và khơng dễ th các giàn khoan tư nhân. 90-100% các giàn khoan nước
sâu đều đã được sử dụng.


<b>“Lãnh thổ di động”</b>


Giàn khoan 981 thuộc sở hữu của CNOOC (Tập đồn Dầu khí Quốc gia Trung Quốc). Đây là một cơng
ty có số vốn 89 tỷ USD với tài sản trải đều ở Indonesia, Iraq, Australia, châu Phi, Bắc và Nam Mỹ, và
Trung Quốc.


Sử dụng giàn khoan 981, Trung Quốc lần đầu tiên có khả năng khoan dầu ở vùng biển sâu 3.000m.
Giàn khoan này hiện đang khoan ở độ sâu chỉ 1.500 m. Đây là lý do khiến một số chuyên gia nói giàn
khoan 981 này có thể được di chuyển đến phía nam.


Giàn khoan 981 dài 114 m, rộng 90 m, có năm tầng cao 136 m (tương đương tòa nhà 45 tầng). Trọng
tải tịnh hơn 30.000 tấn. Diện tích boong tương đương sân vận động bóng đá đúng tiêu chuẩn. Giàn
khoan này có đầy đủ hệ thống phục vụ cho 160 công nhân làm việc và nghỉ ngơi.


Đây là giàn khoan hoạt động như một pháo đài trá hình, là cơ sở nghiên cứu khoa học đại dương
và nhà máy khoan dầu khổng lồ. Vì thế giới quan sát quan ngại nó sẽ là hiểm họa đối với các nước
láng giềng về quốc phòng an ninh, về khai thác tài nguyên khoáng sản biển sâu.


Tuy nhiên, bất kỳ quyết định nào liên quan đến khu vực tranh chấp sẽ phải được giới hoạch định chính
sách tại Bắc Kinh đưa ra, khơng phải là CNOOC. Một số nhà quan sát trong ngành cho biết bất kỳ sự
thăm dị nào đều khơng thể tiến hành được trong khu vực khi căng thẳng vẫn cao. Dù vậy, người ta
vẫn quan ngại rằng sự tìm kiếm dầu khí của Trung Quốc sẽ đưa Bắc Kinh tiến sâu vào khu vực tranh
chấp tại Biển Đơng và có khả năng xảy ra một cuộc đối đầu mới.


</div>


<!--links-->
<a href=' /> Một số giải pháp liên quan đến nhập siêu của Việt Nam từ Trung Quốc.pdf
  • 16
  • 764
  • 1
  • ×