Tải bản đầy đủ (.pdf) (5 trang)

Đánh giá kết quả cắt amidan bằng coblator so với dao điện

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (281.19 KB, 5 trang )

145

ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ CẮT AMIDAN BẰNG COBLATOR SO VỚI DAO ĐIỆN
Bùi Thị Xuân Nga, Ngô Vương Mỹ Nhân,
Nguyễn Xuân Nguyện, Nguyễn Thị Hạnh
TÓM TẮT
Đặt vấn đề:
Phẫu thuật cắt amiđan là một trong những phẫu thuật thường gặp nhất trong chuyên khoa tai
mũi họng Có nhiều phương pháp cắt amidan: cắt bóc tách thịng lọng, cắt bằng sluder, dao điện
đơn cực, lưỡng cực, bằng laser, coblator... Coblator là phương pháp điện mới được dùng trong
tai mũi họng tại bệnh viện ĐKTT An Giang.
Mục tiêu: Đánh giá hiệu quả của phương pháp cắt amidan bằng coblator so với dao điện.
Thiết kế nghiên cứu:
Tiến cứu ngẫu nhiên đánh giá số liệu trong lúc mổ và kết quả lâm sàng sau mổ giữa 2 phương
pháp cắt amidan bằng coblator và dao điện. Mỗi phương pháp có 50 bệnh nhân được chọn ngẫu
nhiên.
Kết quả:
Thời gian phẫu thuật: Coblator trung bình 27 phút (20 - 40phút) và Dao điện trung bình 17 phút
(10 - 30 phút); Lượng máu mất trong phẫu thuật: Coblator trung bình 10ml (4 – 23ml) và Dao
điện trung bình 13ml (4 – 30ml); Chỉ số đau giảm dần từ ngày 1 – ngày 7 sau phẫu thuật; Chảy
máu muộn có 4 bệnh nhân.
Kết luận:
Cắt amidan bằng Coblator là một phương pháp phẫu thuật an tồn, hiệu quả, ít mất máu và ít
đau sau mổ.
EVALUATE RESULT OF COBLATION VERSUS ELECTROCAUTERY
TONSILLECTOMY
ABSTRACT
Background:
Tonsillectomy is one of the most commonly performed surgical procedures in otolaryngology.
There are many surgical techniques and a variety of instruments have evolved:
electrocauterization, laser dissection, cryosurgery, bipolar dissection scissors, coblationassisted tonsillectomy. Coblation, is a new electrosurgical techniques, that has applied to


otolaryngological surgical in An Giang general hospital.
Objectives:
To assess the effectiveness of coblation compared with electrocautery tonsillectomy.
Study design and setting:
Prospective, randomized study was designed to evaluate the intraoperative records and
postoperative clinical outcomes between coblation and electrocautery tonsillectomy procedures.
The patients were randomly allocated into coblation II system (n=50) and electrocautery
tonsillectomy groups (n=50).
Results:
Operating time: coblator 27 minute (20-40 minute), electrocautery 17 minute (10-30 minute).
Intraoperative blood loss: coblator median 10ml (4-23ml), electrocautery 13ml (4-30ml); Pain
scores decrease from first to seventh day postoperation; Delayed postoperative hemorrhage
occurred in 4 patient in the electrocautery group and one patient in the coblator group.
Conclusion
Tonsillectomy by Coblation is a safety and effect method with time of surgery is short, less blood
loss and less pain.


146

I. ĐẶT VẤN ĐỀ:
Amidan là tổ chức lympho ở thành bên họng. Amidan viêm có thể điều trị bằng nội khoa
hay ngoại khoa. Phẫu thuật cắt amiđan là một trong những phẫu thuật thường gặp nhất trong
chuyên khoa tai mũi họng, được áp dụng khi điều trị nội khoa không đáp ứng.
Mỗi năm trên thế giới có hàng chục triệu ca cắt amidan. Có nhiều phương pháp cắt
amidan: cắt bóc tách thòng lọng, cắt bằng sluder, dao điện đơn cực, lưỡng cực, bằng laser,
coblator... Một trong những hạn chế thường gặp của các phương pháp trên là vấn đề đau, chảy
máu trong và sau phẫu thuật, thời gian lành vết thương. Việt Nam cũng áp dụng nhiều phương
pháp cắt amidan khác nhau.
Từ năm 1998, trên thế giới đã đưa vào áp dụng phẫu thuật cắt amidan bằng Coblation.

Từ năm 2003 Bệnh viện đại học Y Dược Cơ sở 2 là đơn vị đầu tiên trong cả nước đã đưa kỹ
thuật Coblation vào phẫu thuật tai mũi họng. Hệ thống Coblation sử dụng đầu đốt lạnh (dịng
nước lưu thơng trong điện cực để làm mát và làm môi trường đệm truyền dẫn nhiệt) nên nhiệt
độ cắt đốt khá thấp (40-700C). Đầu dò vừa cắt vừa tưới nước, hút dịch và đốt cầm máu nên giảm
tổn thương mô xung quanh do nhiệt và điện
Hiện nay, Bệnh viện sử dụng 2 phương pháp cắt amidan: Dao điện và Coblator. Qua đó,
nhận thấy cắt amidan bằng Coblator là một phương pháp phẫu thuật ít đau, an toàn và hiệu quả
nên tiến hành nghiên cứu đánh giá cắt amidan bằng Coblator so với Dao điện.
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU:
Gồm 100 bệnh nhân được phẫu thuật cắt amidan bằng 2 phương pháp: 50 bệnh nhân cắt amidan
bằng Dao điện, 50 bệnh nhân cắt amidan bằng Coblator.
1. Thời gian nghiên cứu: tháng 6/2018 - tháng 7/2019 tại Bệnh viện ĐKTT An Giang.
2. Đối tượng nghiên cứu:
* Tiêu chuẩn chọn bệnh:
- Chỉ định cắt Amidan theo tiêu chuẩn của hiệp hội tai mũi và phẫu thuật đầu mặt cổ Hoa Kỳ
(AAO-HNS).
- Bệnh nhân được theo dõi hậu phẫu vào ngày thứ 1;2, được khám lại vào ngày thứ 7 và 14 sau
mổ.
- Chỉ chọn bệnh nhân thực hiện 1 phẫu thuật duy nhất là cắt amidan.
- Bệnh nhân đồng ý hợp tác nghiên cứu.
- Đối với bệnh nhân nữ dự đốn khơng có kinh trước và sau phẫu thuật 1 tuần.
* Tiêu chuẩn loại trừ:
- Bệnh nhân có chỉ định cắt Amidan nghi ngờ u, u nhú amidan, hoặc dài mỏm trâm.
- Bệnh nhân không hợp tác nghiên cứu hoặc không theo dõi đầy đủ.
- Bệnh nhân thực hiện nhiều phẫu thuật (như nạo VA tồn lưu…).
- Bệnh nhân có bệnh mạn tính: bệnh về máu, tăng huyết áp, đái tháo đường.
3. Phương pháp nghiên cứu:
* Thiết kế nghiên cứu: nghiên cứu tiến cứu mô tả từng trường hợp.
* Cỡ mẫu 100 chia 2 nhóm.
* Phương tiện nghiên cứu:

- Hồ sơ bệnh án của bệnh nhân.
- Phiếu điều tra nghiên cứu.
- Bảng đánh giá điểm đau.
- Dao điện
- Máy Coblator II (cài đặt ở chế độ cắt 7 đốt 3).
* Phương pháp tiến hành:
- Bệnh nhân phù hợp với tiêu chuẩn chọn bệnh sẽ đươc làm hồ sơ bệnh án nhập viện.
- Bệnh nhân được cho làm các xét nghiệm tiền phẫu, xquang phổi, đo điện tim cho kết quả bình
thường sẽ được phẫu thuật.


147

- Trong thời gian phẫu thuật ghi nhận các thông số: thời gian phẫu thuật, lượng máu mất trong
phẫu thuật.
- Theo dõi bệnh nhân ghi nhận mức độ đau và các biến chứng trong thời kỳ hậu phẫu.
- Hẹn bệnh nhân tái khám đánh giá bệnh nhân vào ngày 7 và ngày 14 sau mổ.
4. Các biến số nghiên cứu:
* Đánh giá trong phẫu thuật:
- Thời gian phẫu thuật (phút): được tính từ lúc đặt banh mở miệng đến khi lấy hết mơ amidan
hai bên và cầm máu hồn tồn.
- Lượng máu mất trong phẫu thuật (ml): lấy lượng nước và máu trong bình hút có phân vạch sau
mổ trừ đi lượng dung dịch NaCL 0,9% đã dùng.
* Theo dõi sau mổ:
- Chảy máu sau mổ: là chảy máu tính từ sau khi rút ống nội khí quản. Chảy máu sớm là chảy
máu trong 24h đầu sau phẫu thuật và chảy máu muộn là chảy máu sau 24h sau phẫu thuật. Tình
trạng chảy máu được đánh gồm 2 mức độ.
Mức độ chảy máu ít: nước bọt có lẫn dây máu.
Mức độ chảy máu nhiều: chảy máu phải can thiệp gây mê cầm máu
- Đánh giá mức độ đau theo thang điểm VAS (visual analog scales)

Mức độ đau từ 0 đến 10, giải thích bằng lời cho BN hiểu cách tự đánh giá điểm đau cho bản thân
trên thước hiển thị số.

Bệnh nhân cũng được đánh giá mức độ đau ở ngày thứ 1; 2 và 7 sau mổ.
- Tình trạng bong giả mạc.
5. Xử lý số liệu:
Số liệu nghiên cứu được xử lý bằng SPSS 20.0. Sự khác biệt giữa 2 nhóm được kiểm
định bằng phép kiểm T - Test và p < 0,05 có ý nghĩa thống kê.
III. KẾT QUẢ:
Từ tháng 6/2018 – 7/2019 có 100 bệnh nhân đủ tiêu chuẩn đưa vào nghiên cứu. Qua nghiên
cứu 100 trường hợp cắt amidan bằng Coblator so với dao điện tại Bệnh viện ĐKTT An Giang
có kết quả như sau:
Đặc điểm chung của đối tượng nghiên cứu: tuổi trung bình 28,28 ± 8,8, tuổi nhỏ nhất 11 tuổi,
tuổi lớn nhất 55 tuổi, giới tính : nam chiếm 41%, nữ chiếm 59%.
Thời gian phẫu thuật (phút): (bảng 1)
Coblator
Dao điện
P
20 – 40 (27 ± 4)
10 – 30 (17 ± 5)
0,000
Nhận xét: sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với P< 0,05.
Lượng máu mất trong phẫu thuật: (bảng 2)
Lượng máu mất
Coblator (%)
< 5ml
10 (20)
5 – 10ml
17 (34)
> 10ml

23 (46)

Dao điện (%)
5 (10)
11 (22)
34 (68)


148

Lượng máu mất trong phẫu thuật cắt amidan bằng Coblator 4 – 23ml (10 ± 6) và Dao điện 4 –
30ml (13 ± 6) với p = 0,016 (P<0,05) có ý nghĩa thống kê.
Mức độ đau sau phẫu thuật: (bảng 3)
Mức độ đau
Coblator (n = 50)
Dao điện (n = 50)
Ngày 1
Ngày 2
Ngày 7 Ngày 1
Ngày 2
Ngày 7
Không đau
4
Đau nhẹ
46
30
Đau vừa
23
47
6

45
20
Đau nặng
27
3
44
5
Mức độ đau trung bình sau phẫu thuật amidan bằng Coblator ngày 1 là 5 điểm, ngày 2 là 4 điểm,
ngày 7 là 1 điểm.
Mức độ đau trung bình sau phẫu thuật amidan bằng Dao điện ngày 1 là 6 điểm, ngày 2 là 5 điểm,
ngày 7 là 3 điểm với sig T-Test = 0,000 (p<0,05).
Nhận xét: sự khác biệt về mức độ đau giữa 2 phương pháp có ý nghĩa thống kê.
Chảy máu sau phẫu thuật:
Chảy máu sau phẫu thuật
Coblator (n = 50)
Dao điện (n = 50)
Chảy máu sớm
0
0
Chảy máu muộn
1
4
Chảy máu muộn sau cắt amidan bằng dao điện có 4 ca (3 ca chảy máu ít, 1 ca chảy máu nhiều),
Coblator có 1 ca chảy máu nhiều.
Qua 100 ca cắt amidan khơng có trường hợp nào nhiễm trùng hố amidan và có 2 ca sốt 390 C
nhưng cơng thức máu và CRP bình thường.
IV. BÀN LUẬN:
Qua nghiên cứu 100 ca cắt amidan của 2 phương pháp trong đó giới nữ chiếm 59%. Tuổi
trung bình của bệnh nhân là 28 (nhỏ nhất 11 và cao nhất 55 có độ lệch chuẩn 8,8). Coblation là
thiết bị dùng điện lưỡng cực ở tần số radio 500KHz nên rất an tồn, khơng có dịng điện chạy

qua người nên hạn chế được những tác hại của dịng điện đối với tồn thân [1]. Thiết bị này rất
an toàn cho bệnh nhân và ê kíp phẫu thuật. Thời gian phẫu thuật amidan bằng Coblator trung
bình 27 phút ( ngắn nhất 20 phút, dài nhất 40 phút) và bằng Dao điện trung bình 17 phút ( ngắn
nhất 10 phút, dài nhất 30 phút). Kết quả này cho thấy cắt amidan bằng Dao điện nhanh hơn
Coblator. Tương tự, nghiên cứu của Shah thời gian cắt Amidan bằng Dao điện là 16 ± 3 phút và
Coblator là 23 ± 8 phút [7].
Theo nghiên cứu của Phạm Anh Tuấn, thời gian phẫu thuật amidan bằng Coblator trung
bình 12 phút (2 - 20 phút) và bằng Dao điện trung bình 22 phút (5 - 35 phút) [3]. Nghiên cứu này,
phẫu thuật bằng Coblator nhanh hơn Dao điện.
Theo Sung – Moon Hong, thời gian phẫu thuật trung bình của 2 phương pháp khơng có
sự khác biệt, Coblator là 12 phút và Dao điện là 10 phút [8].
Theo bảng 1, thời gian phẫu thuật amidan của 2 phương pháp có sự khác biệt. Thời gian cắt
amidan bằng Coblator dài hơn Dao điện. Và qua các nghiên cứu nhận thấy, thời gian phẫu thuật
còn tùy thuộc vào phẫu thuật viên. Nếu thành thạo có kinh nghiệm thì thời gian này có thể rút
ngắn hơn vì hệ thống đầu Coblator vừa cắt đốt vừa hút nên không cần sự hợp tác nhịp nhàng của
người phụ hút dịch.
Lượng máu mất trong phẫu thuật amidan (bảng 2) bằng Coblator < 5ml chiếm 20%, >
10ml chiếm 46% và Dao điện < 5ml chiếm 10%, > 10ml chiếm 68%. Theo nghiên cứu của
Nguyễn Hữu Quỳnh lượng máu mất trung bình trong cắt Amidan bằng dao điện là 9ml [2]. Nghiên
cứu của Trần Anh Tuấn lượng máu mất trung bình trong cắt Amidan bằng Coblator là 7ml [4].
Như vậy, lượng máu mất của Coblator ít hơn so với Dao điện. Sự khác biệt này có ý nghĩa thống
kê. Do hệ thống coblator vừa cắt vừa đốt cầm máu nên hạn chế được lượng máu mất trong phẫu
thuật. Lượng máu mất này giảm dần theo kỹ thuật và sử dụng quen đầu đốt.


149

Theo bảng 3, mức độ đau giữa 2 phương pháp giảm dần những ngày sau phẫu thuật.
Ngày thứ 7 sau phẫu thuật amidan bằng Coblator có 4 ca hết đau, 46 ca đau nhẹ (92%) và Dao
điện có 30 ca đau nhẹ (60%) còn lại là đau vừa. Tương tự nghiên cứu của Lê Thanh Tùng, ngày

thứ 7 sau phẫu thuật amidan bằng Coblator có 83% bệnh nhân hết đau hoặc đau ít [1]. Parsons
cũng ghi nhận cắt amidan bằng Coblator có chỉ số đau thấp hơn so với Dao điện [6]. Do đó, cắt
amidan bằng Coblator hậu phẫu bệnh nhân ít đau hơn so với Dao điện.
Có 5 trường hợp chảy máu muộn, khơng có trường hợp nào chảy máu sớm. Cắt Amidan bằng
Dao điện có 4 ca chảy máu muộn (8%), trong đó 3 ca chảy máu ít và 1 ca chảy máu nhiều. Với
Coblator chỉ có 1 ca chảy máu muộn (2%) với lượng nhiều. 3 ca chảy máu ít khơng xử trí gì. 2
ca chảy máu nhiều xử trí gây mê cầm máu. Nghiên cứu của Sung – Moon Hong chỉ có 1 trường
hợp chảy máu muộn trong nhóm cắt Amidan bằng Dao điện [8]. Nghiên cứu của Nguyễn Thanh
Thủy thì tỷ lệ chảy máu sau cắt Amidan là 2% [5]. Qua nghiên cứu nhận thấy tỉ lệ chảy máu sau
cắt Amidan khá thấp và nhóm cắt Amidan bằng Dao diện có số ca chảy máu nhiều hơn Coblator.
Tình trạng bong hết giả mạc đa số vào ngày 14 ( 90%).
V. KẾT LUẬN:
Qua nghiên cứu phẫu thuật Amidan bằng Coblator và Dao điện có kết quả như sau:
- Máy Coblator an toàn cho bệnh nhân và ê kíp phẫu thuật.
- Thời gian cắt amidan bằng Coblator dài hơn Dao điện. Nhưng nếu thành thạo có kinh
nghiệm thì thời gian này có thể ngắn hơn.
- Lượng máu mất trong phẫu thuật của Coblator ít hơn so với Dao điện.
- Cắt amidan bằng Coblator hậu phẫu bệnh nhân đau ít hơn.
- Tần suất chảy máu sau cắt Amidan bằng Coblator ít hơn.
Tóm lại, phương pháp Coblator là phương pháp phẫu thuật an tồn, lượng máu mất ít và hậu
phẫu ít đau.
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1. Lê Thanh Tùng, Võ Lâm Phước, Nguyễn Tư Thế, Phạm Ngọc Quang(2011). Đánh giá kết quả phẫu thuật cắt amidan ở trẻ em
bằng kỹ thuật coblation tại BV.Trung ương Huế. Nội san TMH 2012,tr 96-101.
2. Nguyễn Hữu Quỳnh, Đặng Hoàng Sơn, Nguyễn Văn Đức (2003). So sánh hai phương pháp cắt Amidan bằng phẫu tích thịng
lọng với cắt amidan bằng phương pháp dao điện kim đơn cực ở trẻ em. Y học TP Hồ Chí Minh, tập 7. Tr 107-110.
3. Phạm Anh Tuấn (2017). Đánh giá kết quả cắt Amidan bằng dao điện, comblator và plasma. Luận văn bác sĩ nội trú. Trường
Đại học Y Hà Nội.
4. Trần Anh Tuấn, Nguyễn Văn Đúc, Nguyễn Hữu Khôi. Đánh giá kết quả cắt amidan bằng kỹ thuật coblator. Y học TP Hồ Chí
Minh, tập 11. Tr 158-162.

5. Trần Cơng Hịa, Nguyễn Khắc Hịa, Nguyễn Thanh Thủy (2003), “Phẫu thuật cắt amiđan: nhận xét 3962 trường hợp tại viện
tai mũi họng”, Nội san TMH 2003, tr.23.
6. Parsons SP, Cordes SR, Comer B (2006). Comparison of posttonsilectomy pain using the ultrasonic scalpel, coblator, and
electrocautery. Otolaryngology - Head and Neck Surgery, 134:106–13.
7. Shah UK, Galinkin J, Chiavacci R, Briggs M (2002). Tonsillectomy by means of plasma-mediated ablation: prospective,
randomized, blinded comparison with monopolar electrosurgery. Archives of Otolaryngology - Head and Neck
Surgery;128(6):672–6.
8. Sung - Moon Hong, Jeong-Soo Woo. Coblation vs. Electrocautery Tonsillectomy: A Prospective Randomized Study
Comparing Clinical Outcomes in Adolescents and Adults - Clinical and Experimental Otorhinolaryngology 2013; 6(2):
90-93.



×