Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (76.32 KB, 4 trang )
<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>
1.Ngày xưa có lần ở xã Nam Mẫu thuộc tỉnh Bắc Cạn mở ngày hội cúng Phật. Mọi người nô nức đi xem
hội. Ai cũng lo làm việc tốt lành để cầu phúc.
Hơm ấy bỗng có một bà cụ ăn xin khơng biết từ đâu đến. Trông bà thật gớm ghiết, thân thể gầy cịm, lở
lt, mùi hơi thối xơng ra rất khó chịu. Đến đâu bà cũng phều phào mấy tiếng: “ Dói lắm các ơng, các bà ơi!” Rồi
giơ rá ra bốn phía, cầu xin.
2.Nhưng đến đâu bà cụ cũng bị xua đuổi. Lê mình ra khỏi dám hội, vào nhà nào bà cũng bị đuổi ra. May
sao đến ngã ba, bà gặp mẹ con bà nông dân vừa đi chợ về. Thấy bà lão ăn xin tội nghiệp, người mẹ thương tình,
đưa bà cụ về nhà, lấy cơm cho ăn rồi mời về nhà nghĩ lại.
Khuya hơm đó, hai mẹ con bỗng thấy cho bà cụ nằm sáng rực lên. Nhưng lạ thay, ở đấy khơng cịn bà cụ
ăn xin già yếu, lở loét nữa mà có một con giao long to lớn đang cuộn mình, đầu gác lên xà nhà, đi thị xuống
đất. Mẹ con bà nơng dân rụng rời kinh hãi, dành nhắm mắt nằm im phó mặc cho số phận.
3.Nhưng sáng hôm sau, tỉnh dậy họ chẳng thấy giao long đâu. Trên chõng vẫn là bà cụ ốm yếu. Bà đang
sửa soạn ra đi. Bà nói: “Vùng này sắp có lũ lớn. Ta cho hai mẹ con chị gói tro này nhớ rắt xung quanh nhà mới
tránh được nạn”.
Người mẹ vốn là bà góa nghe vậy lấy làm lạ, bèn hỏi: “ Thưa cụ vậy làm sao để cứu mọi người khỏi chết
chìm?” Bà cụ suy nghĩ giây lát rồi nhặt một hạt thóc cắn vỡ ra , đưa vỏ trấu cho hai mẹ con và bảo: “ Hai mảnh vỏ
trấu này sẽ giúp mẹ con nhà chị làm việc thiện.”
Nói rồi, vụt một cái, khơng thấy bà cụ đâu nữa. Hai mẹ con vội làm theo dăn rồi đi kể cho mấy người gần
đó biết. Họ đều cười, cho đó là truyện bâng quơ.
4. Tối hơm đó, đám hội dang náo nhiệt, mọi người đang lễ bái , bỗng có một cột nước từ dưới đất phun
lên. Nước càng phun càng mạnh, đất xung quanh lỡ dần. Lúc ấy, ai nấy mới kinh hoảng, chen nhau chạy tháo
thân. Nhưng không kip nửa rồi. Đất dưới chân họ rung chuyển. Một tiếng ầm dữ dội nổi lên, nhà cửa, người vật
5. Trong khi tất cả đều ngập chìm trong biển nươc thì ngôi nhà nhỏ của hai mẹ con nhà kia vẫn khơ ráo vì
nền nhà của họ một lúc một cao lên. Đau xót trước cảnh nước lục bất ngờ tàn phá hai mẹ con đem hai mảnh vỏ
trấu ra. Vừa đặt xuống nước vỏ trấu hòa thành hai chiếc thuyền. Thế là mặt gió mưa họ chèo thuyền đi khắp nơi,
cố sức vớt nhũng người bị nạn.
Chỗ đất sụt ấy, nay là hồ Ba Bể còn cái nền nhà kia là thành một hòn đảo nhỏ trong hồ. Người địa phương
gọi hịn đảo nhỏ ấy là gị Bà Góa.
TRUYỆN DÂN GIAN VIỆT NAM
1. Ngày xưa, ở vương quốc Đa-ghét-xtan có một ong vua nổi tiếng bạo ngược, dưới triều đại ông ta, nhân
dân hết sức lầm than. Thế rồi khắp nơi bổng truyền đi một bài hát thống thiết, lên án thói hóng hách bạo tàn của
nhà vua và phơi bài nỗi thóng khổ của nhân dân. Mọi người dân, từ người lớn đến trẻ con, ai ai cũng say sưa ca
bài hát này.
Một ngày kia bài hát lọt đến tai nhà vua. Ngài lập tức ra lệnh lùng bắt kì được kẻ sáng tác bài ca phản loạn
ấy. Các quan đại thần và lính cận vệ ra sức sục sạo cũng khơng thể tìm được ai là tác giả của bài hát. Vì vậy, nhà
vua hạ lệnh tống giam tất cả các nhà thơ và những nghệ nhân hát rong’
2. Ba hôm sau, tất cả những người đó được giải vào cung, mỗi người phải hát cho nhà vua nghe một bài
hát chính mình sáng tác.
Các nhà thơ, các nghệ nhân lần lượt tấu lên những bài ca tụng trí tuệ sáng láng, trái tim nhân hậu, sức
mạnh kì dịu của nhà vua, ánh hào quang chói lọi xung quanh sự nghiệp vĩ đại của ngài. Duy chỉ có ba nhà thơ im
lặng khơng chiụ hát.
Nhà vua ra lệnh thả tất cả, còn ba người này thì đem tống giam vào ngục tối. Ba tháng sau, ngài cho giải
họ từ trong ngục ra và phán :
Một trong ba người đó lập tức cất lời ca tụng quốc vương Đa-ghét-xtan. Ông ta được tha ngay. Nhà vua
sai đem hai người còn lại đến giàn hỏa thiêu và phán :
- Hãy hát lên cho trẫm nghe. Đây là cơ hội cuối cùng cứu sống các ngươi. Một trong hai người hát lên một
bài ca ngợi nhà vua và cũng được tha ngay. Còn người cuối cùng vẫn im lặng. Nhà vua tức giận, hét lên :
- Trói hắn lại ! Nổi lửa lên.
3. Bị trói chặt vào vào giàn hỏa thiêu, nhà thơ cuối cùng bỗng cất tiếng hát. Bài hát vạch trần tội ác của nhà
vua. Đó chính là bài ca phản loạn đã lưu truyền khắp đất nước.
Tiếng hát vang lên cả hoàng cung rung động cùng với ngọn lửa bùng bùng bốc cháy như giận dữ. Nhà vua
bất ngờ hét lên :
- Dập mau lửa đi, dập mau ! Cởi trói ngay cho ông ta. Trẫm không thể để mất nhà thơ chân chình độc nhất
của đất nước này !
THEO TRUYỆN CỔ DÂN GIAN NGA.
(Qúy Thanh kể)
1. Quê ngoại tơi có một phong tục đáng u : Vào đêm trăng rằm tháng Giêng, tất các các cô gái trong làng
tròn 15 tuổi đều được đến hồ Hàm Nguyệt, một hồ nước đẹp và rộng nằm trong khuôn viên làng để rửa mặt bằng
nước hồ và nói lên điều nguyện ước của đời mình dưới ánh trăng. Người xưa truyền lại rằng hầu hết lời nguyện
ước của các cô gái sau này đều ứng nghiệm.
2. Năm nay, chị gái tôi đi học ở xa cũng tròn tuổi trăng rằm. Trước rằm tháng Giêng vài ngày, bà đã cho gọi
chị về để hưởng tục lệ linh thiêng. Đêm thiêng liêng ấy, chị tơi đi rồi, tơi tị mị theo chị để xem . Ra đến cổng ,
tôi gặp chị Ngàn. Chị Ngàn chạc tuổi như chị tôi. Chị bị mù từ nhỏ nhưng đẹp người đẹp nết. Mái tóc chị dài và
óng mượt hiếm thấy. Lúc nào mái tóc ấy cũng thoang thoảng mùi hoa bưởi, hoa nhài, hoa lan được chị kín đáo
gài sau chiếc kẹp tóc. Chị làm bánh, làm mứt ngon nhất làng. Trông thấy chị lần bước ra đường, tôi hiểu chị cũng
đi ra hồ như chúng bạn cùng trang lứa. Thương chị, tôi đến bên, dắt chị đi.
Trên đường đi, tôi hỏi chị :
- Chị Ngàn ơi, lát nữa chị định ước điều gì ? Chị có thể cho em biết được không ?
Chị Ngàn không trả lời tôi. Chị lặng lẽ nghĩ ngợi điều gì đó. Chắc chị cũng sẽ ước như bao cơ gái khác : ước
sao cho có một cuộc sống gia đình hạnh phúc. Chị tuy khơng lành lặn như những người khác nhưng đẹp người và
chăm chỉ, khéo léo như vậy, chị đang được hưởng hạnh phúc lắm chứ !
Ánh trăng bát ngát, dịu dàng đậu xuống trần gian. Mặt đất và mọi vật như được nhuộm một màu vàng trong
trẻo. Dưới ánh trăng đẹp, tơi nhìn thấy gương mặt chị Ngàn vừa chứa đựng niềm vui thánh thiện, vừa có vẻ gì bia
ẩn.
3. Chị em tơi ra tới hồ, dù có khá nhiều cơ gái cùng tới đây nhưng khơng khí nơi này vẫn tĩnh mịch và chứa
đầy thiêng liêng. Tôi đưa chị Ngàn đến mép hồ. Chị quỳ xuống, rồi từ từ đưa hai bàn tay xuống mặt hồ “vốc” làn
nước đẫm ánh trăng áp lên mặt. Ánh trăng lung linh hôn lên má, chảy lên tóc chị. Sau đó, chị chắp hai tay trước
ngực, nén xúc động nói khẽ lời cầu nguyện linh thiêng của đời mình :
- Con ước gì ... mẹ chị Yên ... bác hàng xóm bên nhà con được khỏi bệnh.
Nói xong, chị từ từ đứng vậy, gương mặt rạng hạnh phúc.
Tôi nhìn chị ngỡ ngàng : “Cả đời người chỉ được ước một lần, sao chị lại dành điều ước tốt lành cho bác
hàng xóm ?”
4. Tôi đưa chị Ngàn về trong lặng lẽ và phân vân. Gần đến nhà, chị Ngàn siết chặt tay tơi, nói :
- Em ạ, nhà chị Yên xóm mình nghèo nhất làng. Năm ngối, chị n trịn mười lăm tuổi. Đêm rằm tháng
Giêng, mẹ chị ấy đổ bệnh, chị ấy phải chăm sóc mẹ suốt đêm. Khi trăng lặn, biết mình khơng cịn cơ hội nói điều
ước thiêng liêng, chị ấy đã khóc như mưa. Nay mẹ chị ấy vẫn bệnh, chị ước thay cho chị Yên. Chị mồi côi mẹ nên
chị hiểu nỗi bất hạnh khi không cịn mẹ.
Tơi đã hiểu ra rồi. Chị Ngàn ơi, khi nào em mười lăm tuổi, em sẽ ...
1. Ký bị liệt hai cánh tay hồi cịn nhỏ. Thấy các bạn được cắp sách tới trường, Ký thèm lắm. Em quyết
định đến lớp xin vào học
Sáng hôm ấy, cô giáo Cương đang chuẩn bị viết bài học vần lên bảng thì thấy một cậu bé thập thị ngồi
cửa. Cơ bước ra, dịu dàng hỏi :
- Em muốn hỏi gì cơ phải khơng ?
Cậu bé khẽ nói :
Thưa cơ, em xin cơ cho em vào học. Có được không ạ ?
Cô giáo cầm tay Ký. Hai cánh tay em mềm nhũn, buông thõng, bất động. Cô giáo lắc đầu :
- Khó lắm em ạ. Em hãy về nhà. Đợi lớn lên ít nữa xem sao đã.
Cơ thống thấy đơi mắt Ký nhịa ướt. Em quay ngoắt lại, chạy về nhà. Hình như em vừa chạy, vừa khóc.
Cơ giáo trở vào lớp. Suốt buổi học hơm ấy, hình ảnh cậu bé với hai cánh tay buông thõng luôn hiện lên
trước mắt cô.
2. Mấy hôm sau, cô giáo đến nhà Ký. Bước qua cổng, cô vừa ngạc nhiên, vừa xúc động : Ký đang ngồi
Thế rồi Ký lại đến lớp. Lần này em được nhận vào học. Cơ giáo dọn một chỗ ở góc lớp, trải chiếu cho Ký
ngồi tập viết ở đó. Em cặp cây bút vào ngón chân và tập viết vào trang giấy. Cây bút không làm theo ý muốn của
Ký. Bàn chân em dẫm lên trang giấy, cựa quậy một lúc là giấy nhàu nát, mực giây bê bết. Mấy ngón chân Ký mỏi
nhừ. Cơ giáo thay bút chì cho Ký. Ký lại kiên nhẫn viết. Mấy ngón chân quắp lại giữ cho được cây bút đã khó, ,
điều khiển cho nó viết thành chữ cịn khó hơn, nhưng Ký vẫn gắng sức đưa bút theo nét chữ. Bỗng cậu nằm ngữa
ra , giơ lên, mặt nhăn nhó, miệng xuýt xoa đau đớn. Cô giáo và mấy bạn chạy vội tới. Thì ra, bàn chân Ký bị
chuột rút, co quắp lại, khơng duỗi ra được.Các bạn phải xoa bóp mãi mới ổn. Cái giống “chuột rút” làm khổ Ký
rất nhiều. Nó đã rút một lần thì sau quen cứ rút mãi. Có lần đau tái người, Ký quẳng bút vào góc lớp định thôi
học. Nhưng cô giáo Cương an ủi, khuyến khích em hãy kiên nhẫn tập dần từng tí một. Các bạn cũng mỗi người
nói một câu, giúp một việc. Lời khuyến khích dịu dàng của cơ giáo, những cử chỉ thân thương của bạn bè tiếp sức
cho Ký. Ký lại quắp bút vào ngón chân hì hục tập viết.
Ký kiên nhẫn, bền bỉ. Ngày nắng cũng như ngày mưa, người mệt mỏi, ngón chân đau nhức, có lúc chân bị
chuột rút liên hồi ... nhưng Ký khơng nản lịng. Buổi học nào cũng vậy, trong góc lớp, trên mảnh chiếu nhỏ không
bao giờ vắng mặt Nguyễn Ngọc Ký.
3. Nhờ luyện tập kiên trì, Ký đã thành cơng. Hết lớp Một Ký đã đuổi kịp các bạn. Chữ Ký ngày một đều
hơn. Có lần Ký được 6 điểm, 9 điểm rồi 10 điểm về môn Tập viết. Bao năm khổ công, thế rồi Ký thi đại học, trở
thành sinh viên Trường Đại học Tổng hợp.
Nguyễn Ngọc Ký là tấm gương sáng về ý chí vượt khó. Ngày Bác Hồ cịn sống, đã hai lần Bác gửi tặng
huy hiệu của Người cho cậu trò nhỏ dũng cảm, giàu nghị lực ấy.
Phỏng theo BÀN CHÂN KÌ DIỆU
1. Nga là cơ bé ham chơi và chóng chán. Dạo hè, Nga địi bằng được mẹ mua cho một con búp bê khá đẹp.
Nhưng chơi được ít lâu Nga đã bỏ mặc búp bê trên nóc tủ cùng với các đồ chơi khác cho bụi bám.
Trời trở rét, búp bê chỉ có độc chiếc quần lót. Bộ váy áo của búp bê đã bị Nga nghịch lột ra, vứt đi đâu
không rõ. Một đêm, lạnh q, búp bê khóc thút thít. Chị lật đật tròn xoay đang ngủ, tỉnh dậy hỏi :
- Sao em khóc ?
- Cơ ấy tệ thật. – Chị lật đật chép miệng – Cơ ta bắt mình làm trò vui, nhưng chẵng bao giờ chú ý tới
chúng mình.
Búp bê nức nở :
- Em khơng muốn sống với chị ấy nữa. Em đi đây.
2. Nói đoạn, búp bê tụt xuống khỏi tủ, tìm cách leo lên tường, chui qua lỗ thông hơi trên cửa ra vào, nhảy
ra phố. Chị lật đật gọi lại thế nào cũng không được. Chị gọi Nga. Nhưng Nga vẫn ngủ vùi trong chăn. Chị lật đật
tiếc rằng mình trịn xoay, khơng có chân. Nếu có, chị cũng sẽ bỏ đi nốt.
Sáng hơm sau, bảy giờ hơn, Nga thức dậy. Nhìn về phí tủ thấy trống trơn, Nga kêu rầm lên :“ Ai lấy búp
bê của con rồi ?” Mẹ bảo Nga hãy chịu khó tìm búp bê ở góc tủ, trong gầm giường. Nga miễn cưỡng làm theo.
Nhưng cịn tìm đâu ra búp bê nữa !
3. Đêm hơm trước, thốt được ra ngồi, búp bê sung sướng quá, chạy một mạch sang phố bên. Nhưng đêm
tối, trời lạnh, không thể đi tiếp được, búp bê phải tìm đến một góc cây to, chui vào đống lá khô ai đã quét vun lại
để trốn rét. Sáng hơm sau có một cơ bé đi ngang qua nom thấy búp bê trong đống lá, reo lên :
- Ôi, con búp bê xinh quá, ai vứt đi như thế này, hồi của.
Hỏi mấy nhà xung quanh khơng có ai nhận, cơ bé ơm búp bê về, lau rửa cẩn thận. Cô bào :
Thế rồi, ngay tối đó, cơ bé hí húi cắt may cho búp bê một bộ váy áo rất đẹp. Rồi cơ ơm cả búp bê đi ngủ.
Trong vịng tay âu yếm của cô, dưới chăn len ấm áp, búp bê vơ cùng sung sướng. Nó thỏ thẻ bên tai cô bé đang
mơ màng trong giấc ngủ :
- Chị ơi, Em muốn ở với chị suốt đời.
HỒ PHƯƠNG
1. Ma-ri-a là một cơ bé rất thích quan sát. Một hơm, trong phịng khách, cơ bé nhận thấy mỗi lần gia nhân
bưng trà lên, bát đựng trà thoạt đầu rất dễ trượt trong đĩa. Nhưng khi nước trà rót ra đĩa thì dù tay của gia nhân có
run rẩy tới mức nào đi nữa, chiếc đĩa có bị nghiêng đi nhiều hơn nữa thì bát nước trà vẫn như dính trên đĩa, không
hề di chuyển. Cái đĩa và cái bát đựng trà đã hấp dẫn cơ bé.
2. “Thế là vì sao nhỉ ? Mình nhất định phải tìm hiểu cho rõ !”- Ma-ri-a nghĩ vậy, rồi lẻn ra khỏi phòng
khách, bắt đầu làm thí nghiệm.
3. Khơng thấy Ma-ri-a đâu, anh trai cơ bé bèn chạy đi tìm. Khi đi ngang qua nhà bếp, cậu bỗng nhìn thấy
Ma-ri-a đang làm gì đó với đống bát đĩa trên bàn ăn, bèn trêu em :
- Em không muốn làm nhà khoa học, định làm bà chủ gia đình hả ?
4. Đâu có, em phát hiện ra một điều bí mật. Chỉ cần giữa chiếc bát đựng nước trà và chiếc đĩa có một chút
nước thì bát đựng nước trà khơng bị trượt đi nữa.- Ma-ri-a nói với vẻ đầy tự hào về “thành quả nghiên cứu của
mình ”.
- Làm gì có chuyện đó ? Anh khơng tin ! Sau khi nước rót ra thì bát lại càng dễ trượt. Lần trước,mẹ lau
- Khơng tin thì anh hãy thử mà xem !
Cậu anh bèn cầm chiếc bát, chiếc đĩa lên để thử. Kết quả đúng như Ma-ri-a nói.
5. Hai anh em đang tranh luận, bàn tán thì cha đến. Cả hai cùng hỏi cha về hiện tượng kì lạ này. Người cha
ơn tồn bảo :
- Đó là vì có lực ma sát. Cac con lớn lên thì sẽ biết thôi mà !