Tải bản đầy đủ (.doc) (12 trang)

Nét độc đáo của tranh dân gian đông hồ, hàng trống

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (60.87 KB, 12 trang )

TIỂU LUẬN
Nét độc đáo của tranh dân gian Đông Hồ,
Hàng Trống
Treo tranh trong ngày tết đã trở thành một thú chơi tao nhã, một phong tục
đẹp của người nông dân Việt Nam xưa, cứ mỗi dịp Tết Nguyên đán, các gia đình
dù giàu hay nghèo, ngồi bánh chưng, thịt mỡ dưa hành cũng không thể thiếu câu
đối đỏ cùng những bức tranh tết. Những bức tranh dân gian màu sắc tươi tắn được
dán lên tường nhà cho khơng khí thêm phần rộn rã, ấm cúng. Trong các loại tranh
chơi tết của vùng châu thổ Bắc Bộ, phải kể đến những dòng tranh tiêu biểu như
Hàng Trống ở Hà Nội và tranh dân gian Đông Hồ.
Tranh dân gian Đông Hồ hay nói đầy đủ hơn là tranh khắc gỗ dân gian Đông
Hồ ra đời từ khoảng thế kỷ XVII, tại làng Đông Hồ tỉnh Bắc Ninh, một vùng đất
trù phú, nông nghiệp phát triển, đời sống văn hoá cao… tất cả tạo thành cái nơi cho
một dịng tranh chân q, đậm đà chất dân tộc. Mang trong mình những nét tinh
túy riêng với những giá trị văn hóa to lớn. Tranh tết Đông Hồ không phải là sự
minh họa về ngày tết mà thông qua nội dung của các bức tranh này là sự gửi gắm,
là lời chúc phúc cho những gì tốt đẹp nhất cho một năm mới, một năm phát tài,
phát lộc, bằng những hình ảnh biểu tượng dân dã, gần gũi nhưng lại chứa đựng
những thông điệp ẩn ngữ đầy tính nhân văn. Với sự phong phú, đa dạng cả về mẫu
mã, thể loại, chủ đề, tranh dân gian Đông Hồ phản ánh hầu như tất cả những gì
diễn ra trong đời sống bình dị của người lao động như: Chăn trâu thổi sáo, Hứng
dừa, Đấu vật, Đánh ghen... cho tới những ước mơ, khát vọng cuộc sống tốt đẹp hơn
như Lễ trí, Nhân Nghĩa, Vinh hoa, Phú Quý, Lợn đàn, Gà đàn... Cái hấp dẫn của
1


tranh dân gian Đông Hồ là không chỉ đề cập cuộc sống: thóc đầy bồ, gà đầy sân,
ước mong vinh hoa phú quý mà còn đề cập đến cuộc sống lứa đơi, vợ chồng với
cái nhìn hóm hỉnh mà sâu sắc. Tranh dân gian Đông Hồ càng xem càng cảm nhận
thấy ý nghĩa văn hóa sâu sắc, chứa đựng những ẩn ý, nhắc nhở, răn dạy chi tiết,
đầy đủ về mọi sự đúng sai, phải trái ở đời, mang đậm một cái nhìn lạc quan, trìu


mến và tha thiết đối với cuộc sống.
Về chất liệu, mầu sắc: Nét độc đáo đầu tiên thu hút người xem của Tranh dân
gian Đông Hồ chính là màu sắc và chất liệu giấy in. Giấy dùng in tranh là loại giấy
dó (làm từ vỏ cây dó) với đặc tính xốp, mềm, mỏng, dai, dễ hút màu mà khi in
khơng bị nhịe. Loại giấy này được quét lên một lớp hồ điệp để tạo nét sáng óng
ánh đặc thù: người ta nghiền nát vỏ con điệp, một loại sò vỏ mỏng ở biển, trộn với
hồ (hồ được nấu từ bột gạo tẻ, hoặc gạo nếp, có khi nấu bằng bột sắn) rồi dùng
chổi lá thơng qt lên mặt giấy dó. Chổi lá thơng tạo nên những nét ganh chạy theo
đường quét, và vỏ điệp tự nhiên cho màu trắng với ánh lấp lánh của những mảnh
điệp nhỏ dưới ánh sáng. Có thể nói trong tranh dân gian Đơng Hồ, chỉ ngun sự
óng ả của nền điệp cũng đủ sự hấp dẫn, nếu điệp lại được lướt thêm một nước hòe,
màu in lại được thay đổi màu một lần nữa, ngả sang màu óng ánh như màu tơ tằm,
các màu hòa quện với nhau tạo thành các màu kỳ diệu. Bên cạnh đó, màu in cũng
là một nét độc đáo trong quá trình sáng tạo, khám phá, tìm tịi và ứng dụng các
ngun vật liệu gần gũi từ tự nhiên vào hoạt động nghệ thuật (Màu đen lấy từ than
xoan hay than lá tre; Màu vàng lấy từ hoa hòe; Màu đỏ lấy từ sỏi non, gỗ vang;
Màu xanh từ lá chàm, gỉ đồng... ) điều này phản ánh cuộc sống và tâm hồn gần gũi
với thiên nhiên của con người Việt Nam. Cách pha chế màu cũng tùy thuộc vào
điều kiện thời tiết, chất giấy... Đây là kinh nghiệm, sự sáng tạo, thậm chí cịn là bí
quyết gia truyền của mỗi nghệ nhân. Chính nhờ sự cầu kỳ, cẩn thận trong cách chế
màu mà tranh Đông Hồ luôn tươi sáng, rực rỡ và không bị bay màu. Tranh Đông
Hồ gà lợn nét tươi trong - Màu dân tộc sáng bừng trên giấy điệp. Với 3 màu nền;
2


trắng điệp, vàng hòe và đỏ vang hòa quyện với bảng màu, tranh dân gian Đông Hồ
được bổ sung thêm các màu đen than lá tre, nâu sỏi, xanh chàm, cộng với màu rỉ
đồng, đỏ gấc, vàng thỏ tía... kết hợp cùng kỹ thuật pha trộn, đặc hay loãng; kỹ
thuật in chồng màu những màu đó được chắt lọc, khi đưa vào tranh tạo các hịa sắc
rất đẹp Màu khống tự nhiên làm cho các hạt màu tạo nên sắc tố có tính thuận mắt,

phù hợp với đời sống nơng nghiệp của người nơng dân Việt Nam. Chính sự tương
phản của các sắc tố, sự độc đáo trong sử dụng chất liệu làm cho tranh đạt một giá
trị thẩm mỹ độc đáo và khác biệt với các dòng tranh khác. Cách sử dụng màu sắc
của tranh dân gian Đông Hồ cịn chứa đựng giá trị biểu trưng mang tính triết lý của
học thuyết ngũ hành: như màu trắng ứng với hành kim, màu xanh ứng với hành
mộc, màu đen ứng với hành thủy, màu đỏ ứng với hành hỏa, màu vàng ứng với
hành thổ. Theo quan niệm của nghệ nhân Đông Hồ, tiếp thu quan niệm triết học
phương Đông: "màu xanh tượng trưng cho sự sống, sinh sôi; là màu của mùa xuân,
màu hợp với ánh mắt nhìn"; "màu đỏ tượng trưng cho lửa, nhiệt nóng, màu của
mùa hạ". Màu vàng thuộc hành thổ, là màu của đất, tượng trưng cho mẹ của thiên
nhiên... Cho nên, trong các tranh Đông Hồ thường thấy xử lý màu vàng làm nền
cho mặt tranh, có ý nghĩa quan trọng trong tổng hịa quan hệ của bức tranh. Ví dụ
trong tranh Ngũ hổ, hình tượng 5 chú hổ bố trí bốn con 4 góc, cịn chú hổ cịn lại
được bố trí ngay chính giữa tranh, được xử lý bằng gam màu vàng, tượng trưng
cho mẹ của mn lồi. 4 chú hổ xung quanh bố trí 4 màu tượng trưng cho 4 hành
theo chiều tương khắc ngược kim đồng hồ. Màu trắng trong tranh Đông Hồ thường
được các nghệ nhân khai thác từ độ lấp lánh của vỏ sò trộn với bột hồ tạo nên trên
mặt tranh, tạo hiệu quả đặc biệt, mang tính đặc trưng của dòng tranh. Tranh dân
gian Việt Nam khác với tranh của Nhật Bản bởi lối dùng mảng màu nguyên mang
tính đối lập in trên thớ điệp, giấy in tranh đồng thời là màu nền của tranh, với
những màu tươi vui rực rỡ làm làm nên bảng màu trong tranh dân gian Đơng Hồ
vừa đằm thắm vừa có được cái hồn của dân tộc, một nhà văn đã miêu tả như sau:
3


"tranh gà, tranh lợn đỏ như xôi gấc, vàng như màu lúa chín, xanh như lá mạ hay
vàng như nghệ kho cá, xanh như cốm non, đỏ như ngô già, nâu như đất cày, toàn
những màu sắc thân mến từ bao đời rồi, những màu sắc ấy đã in vào tâm trí người
nơng dân từ thế hệ này đến thế hệ khác thành những màu sắc dân tộc".
Về bố cục: Nếu phối cảnh không gian xa gần của hội họa phương Tây đã tạo

ra lối bố cục tuân thủ quy luật thị giác thì ở tranh dân gian Đơng Hồ các nghệ nhân
đã dùng phối cảnh ước lệ Phương Đông làm cơ sở để tạo ra lối bố cục không gian
tượng trưng và khái quát, chắt lọc về đường nét, về màu sắc. Bố cục của tranh
thường được thể hiện đầy đủ, trọn vẹn theo lối vẽ đơn tuyến bình đồ, do đó xem
tranh dân gian Đơng Hồ ta thường bắt gặp cái thú vị ở những nét ngây ngô, đơn
giản nhưng hợp lý hợp tình. Một nét độc đáo nữa trong tranh dân gian Đơng Hồ,
đó là bên cạnh các hình thể, trong tranh thường có chữ đề thơ, mảng chữ là một
phần tạo nên sự chặt chẽ và hồn chỉnh trong bố cục khơng gian của tranh bên
cạnh việc thể hiện rõ ý tưởng về nội dung. Nét chữ cũng là nét vẽ trong tranh, hài
hòa, ăn ý với nét vẽ ở các hình thể khác. Bởi vậy trong tranh dân gian Đông Hồ,
với chỉ vài nhân vật được tạo hình một cách đơn giản, khơng gian mang tính ước lệ
cùng những chữ đề thơ nhưng người xem vẫn cảm nhận thấy hết ý vị của tranh, dễ
dàng nắm bắt được ý nghĩa cũng như tư tưởng mà người nghệ nhân muốn truyền
đạt. Ta có thể thấy, trong tranh Đánh ghen, nghệ nhân sử dụng phối cảnh ước lệ
"đơn tuyến bình đồ" tạo ra bố cục khơng gian tượng trưng và khái quát, cách tạo
hình nhân vật mang yếu tố biếm họa, thể hiện ở sự cường điệu hóa các hình thể và
đường nét trong tranh, tạo nên sự sôi động, nhưng không kém phần hài hước, vui
nhộn trước một tình huống bi kịch gia đình. Các hình ảnh được khắc họa một cách
chắt lọc về đường nét; tỉ lệ hình ước lệ theo một sự hợp lý của bản năng nghệ thuật
và cảm thức trong sáng, hồn hậu, dí dỏm. Trong tranh là hình ảnh người vợ cả dữ
tợn, cầm kéo xông vào cô vợ trẻ đang thách thức chìa tóc ra, vênh váo, cịn anh
chồng lấy thân hình của mình che chắn cho người vợ bé trước đường tiến của vợ
4


cả, tay trái ơm lấy bờ vai trần, lịng bàn tay vẫn không rời khỏi "bầu ngọc" của
nàng, tay phải đưa ra phía trước nửa như chống đỡ, nửa như phân trần, vừa như
van nài được thể hiện rõ ý qua 2 câu thơ đề phía trên: “Thơi thơi bớt giận làm lành
- Chi đừng sinh sự, hại mình nhục ta” . Bên cạnh hình tượng các nhân vật và khơng
gian ước lệ được hình tượng hóa gia cảnh của các nhân vật bằng các mảng tường

hoa, bình phong... khiến người xem cảm nhận được cái dư vị bi hài muôn thuở của
đời sống "chồng chung vợ chạ” thường xảy ra trong các gia đình giàu, có của ăn
của để. Thưởng thức bức tranh Đàn lợn âm dương nhìn một cách tổng thể, đây là
một bố cục hình chữ nhật được đặt trong khung hình chữ nhật. Bức tranh diễn tả
lợn mẹ và đàn lợn con trông thật sinh động, các nét cong của mông, lưng và đầu
lợn con trông mềm mại và nhịp nhàng song không làm mất đi hình mảng cơ bản
của nó. Để tăng thêm sự hài hịa, cân bằng của đường nét, trên mình lợn được điểm
xuyết bởi các vịng xốy âm dương, vừa khiến các mảng đỡ đặc, vừa thể hiện tính
hài hịa trong trang trí. Những con lợn trong tranh khơng giống lợn thực, những đặc
điểm của mắt, mũi, miệng, tai, lưng được nghệ nhân khai thác triệt để và cường
điệu hóa trong cách nhìn trang trí. Đặc biệt sự sắp xếp các con lợn quây quần bên
nhau, giữa đàn lợn con và lợn mẹ hoà vào nhau tạo ra một bố cục chặt chẽ, thể hiện
rõ chủ đề "chúc tụng" của tranh, chúc cho sự sinh sôi nảy nở, con cháu đầy đàn. Về
mảng, nét và phối màu: Trong tranh dân gian Đông Hồ, nét là một phần cực kỳ
quan trọng, quyết định đến vẻ đẹp cũng như nội dung của tranh, đó là nét thực, nét
tạo nên hình mảng trong tranh. Nét khoanh lấy các mảng màu giữ cho màu đằm
trên giấy, nét tạo nên sự nhất quán giữa hình và mảng, diễn tả được tình cảm, tính
cách nhân vật bằng những nét viền to nhỏ đậm đà, dứt khoát. Nét trong tranh dân
gian Đông Hồ khỏe khoắn nhưng không thô cứng, chắc chắn nhưng mềm mại,
uyển chuyển, thanh thoát, tạo nên vẻ đẹp riêng của mình. Dưới bàn tay của các
nghệ nhân, nét rất được chú trọng. Nét và mảng trong tranh rất phong phú, không
những nêu bật được nội dung, chủ đề, tư tưởng của tác phẩm, mà còn gợi khối, tả
5


chất rất giỏi. Chú trọng lột tả giá trị nội dung hơn là hình thức của tác phẩm. Trên
tinh thần đó, tranh dân gian Đơng Hồ thốt ra yếu tố tả thực. Xây dựng diện hình,
mảng hình dẹt, bỏ qua vờn khối. Vai trò của thủ pháp ước lệ trong tạo hình được đề
cao và khai thác. Chính nhờ thủ pháp đó, người nghệ nhân khi làm tranh đã bỏ qua
các yếu tố đúng sai, đẹp xấu về mặt hình thức; chú trọng biểu cảm về mặt nội

dung, sao cho tác phẩm mang được tiếng nói riêng, tình cảm của người sáng tác.
Hơn thế nữa, sự tượng trưng, ước lệ về cách phối màu, dùng màu, thoát li bản chất
của cấu trúc tự nhiên sự vật, nâng lên bằng những gam màu, mảng màu có tính
khái qt cao... Các nghệ nhân đã quy các hình tượng nhân vật trong tranh vào các
dạng hình học cơ bản: như hình tam giác, hình thang, hình trịn, ví dụ như trong tác
phẩm Đánh vật, Hứng Dừa, Ngũ hổ... Trên cơ sở đó, nghệ nhân kết hợp các thủ
pháp nhấn mạnh và lược bỏ. Tập trung chú trọng vào những nhân vật, đối tượng
chính, quan tâm những nhận vật trung tâm để xử lí hình, mảng hay biểu cảm nội
tâm nhân vật qua đó, chuyển tải nội dung của tác phẩm đến người xem với hiệu
quả trực cảm mạnh mẽ. Tiêu biểu là bức tranh Đấu vật. Đây là một trong những
bức tranh nổi tiếng của tranh dân gian Đông Hồ, vẽ về cảnh đấu vật của nam giới
trong ngày xuân. Bức tranh chỉ tập trung diễn tả các đô vật (trong tranh không có
cảnh cờ hoa, mái đình, người xem...) cùng mầu sắc cực kỳ đơn giản với chỉ có 3
mầu bao gồm cả mầu nền, nhưng với cách sử dụng nét, mảng tài tình, nghệ nhân
đã tạo nên hình cân xứng, khống đạt trong tranh. Hình ảnh các đơ vật với vóc
dáng lực lưỡng đang đấu trí, đấu sức, quyết tìm các thế vật khác để quật ngã đối
phương, dành phần thắng về mình. Trên nền đỏ tươi thắm của nền tranh, chất óng ả
của vỏ điệp, trên thân hình các đơ vật được viền bằng những nét đen chắc, khỏe,
làm tôn vẻ đẹp của tinh thần thượng võ và gợi nên không gian trong ngày hội.
Trong tranh với 3 đôi vật tạo thành mảng tam giác ở giữa tranh tạo nên một bố cục
cho người xem cảm giác vững chắc, các mảng rất phong phú và ăn nhập với nhau
và tạo nên thế cân bằng. Kết hợp với nét đen chắc, khỏe, nghệ nhân đã tạo nên hình
6


cân xứng, khoáng đạt trong tranh. Mảng chữ nhật hai bên với cách diễn tả nét cho
thấy 2 đô vật đang ngồi ơm đùi, thu chân trước ngực, như nói lên cái khơng khí se
lạnh của tiết trời cũng như thể hiện sự nơn nóng đợi đến lượt mình lên sới. Phía
trên là 2 mảng hình chữ nhật, nhìn vào ta có cảm giác như 2 xâu tiền thưởng hay
hai xâu bánh pháo đang được treo nơi sân đình. Chỉ với những hình ảnh đơn giản

đó nhưng người thưởng ngoạn như vẫn cảm nhận hết cái gay cấn của cuộc thi, cái
se lạnh của tiết xn, khơng khí rộn ràng, vui tươi của lễ hội dân tộc. Giá trị thẩm
mĩ trong tranh dân gian Đông Hồ nằm ở vẻ đẹp hài hịa, cân bằng, nét ln đạt giá
trị cân bằng cần thiết trong tranh. Đó là sự cân bằng về lượng và chất, là hậu thuẫn
cho mảng và nét tồn tại một cách vững chắc. Nét trong tranh dân gian Đơng Hồ
mang tính chất phóng khống của người nơng dân thuần hậu, nét to, chắc, khỏe,
dứt khoát khiến cho người xem có những tình cảm gần gũi với cuộc sống ruộng
đồng và đầy màu sắc quê hương. Trong hội họa; mảng nét, tả chất và hình thành
khối rất cần thiết, trong tranh dân dân Đơng Hồ mảng nét góp phần hình thành
khối, trong bức tranh Thầy đồ cóc với cách sử dụng nét kết hợp với mảng đã diễn
tả thành cơng hình khối nhân vật. Thầy đồ cóc nhân vật chính được diễn tả bằng
mảng hình to nhất, thầy đồ cóc ngồi chễm chệ trên sập, nét vẽ thầy đồ cóc là những
nét cong tả khối bụng, khối lưng, khối cổ và các nét chấm diễn tả chất xù xì của da
cóc, trong tranh thầy đồ cóc được thể hiện to nhất đầy tính hách dịch, phía dưới là
những học trị với những mảng, hình to nhỏ khác nhau và kích thước nhỏ hơn Thầy
đồ cóc rất nhiều. Các nhân vật học trò được diễn tả với những hoạt động khác nhau
cùng nét, mảng và màu sắc được thay đổi liên tục tạo nên tổng thể bức tranh là một
lớp học lộn xộn: chỗ thì học trị đang chịu hình phạt, chỗ thì đọc sách, chỗ thì đang
lo điếu đóm... Hay bức tranh Đàn gà mẹ con, với cách sử dụng mảng nét khơng
những nêu được đặc điểm mà cịn gợi được khối và cảm giác về chất. Bằng cách
dùng mảng nét để tả khối hình, các nghệ nhân đã tạo nên bức tranh có sức hút đặc
biệt với người xem tranh, mỗi chú gà trong tranh đều có những nét mảng chuyển
7


động khác nhau, có con trèo lên lưng mẹ, có con quay đi quay lại, tạo nên sự liên
kết giữa gà mẹ và gà con. So sánh bức tranh Đánh ghen với bức tranh Hứng dừa
chúng ta đều thấy hai bức tranh đều giống nhau về cách tạo hình, khơng gian, màu
sắc, mang yếu tố hài hước dí dỏm nghịch ngợm. Các nghệ nhân Đông Hồ luôn chú
ý đến sự hài hòa giữa đường nét, mảng và màu sắc cũng như sự hài hịa về hình thể

và khoảng trống sao cho giữa chúng có một tỉ lệ hợp lý, các mảng mầu tươi được
đặt cạnh nhau, được làm dịu bởi nét đen thông qua tác dụng tương phản và bổ túc.
Tất cả những mầu sắc, giấy dó, và bàn tay tài hoa của người nghệ nhân đã tạo nên
những tác phẩm có giá trị lớn mang tính nghệ thuật. Trong hai bức tranh Vinh hoa Phú quý, hình vịt, gà, hoa sen, hoa cúc, các mảng to nhỏ, dài ngắn khác nhau tạo
nên sự phong phú về mảng nhưng vẫn đảm bảo sự cân bằng và hài hịa. Ở đó, cách
sử dụng nét và lượng rất tài tình, tạo nên sự cân bằng, mảng to mảng nhỏ đặt khéo
léo. Nét to, nhỏ hợp lý, chắc khỏe, có chỗ lại dùng nét đứt tạo chất, tạo chu vi hình
thể trên con vật. Có chỗ thì mảng nhỏ nhưng dùng nét để vẽ (vịng yếm), vừa tạo
hình, vừa có tính trang trí. Có thể nói, cách sử dụng mảng nét và màu sắc tạo nên
vẻ đẹp của tranh dân gian Đông Hồ, nét xác định hình màu, nét xác địch hình, xác
định màu, nét giữ cho mảng màu đằm trên giấy, tạo ra hòa sắc, tăng thêm vẻ đẹp
của bức tranh, nét cịn tạo sự nhất qn của hình và các mảng màu, diễn tả được
tình cảm, tính cách nhân vật bằng những nét, to nhỏ đậm nhạt, mạnh mẽ khác nhau
nhưng không làm cho bức tranh khô cứng, chắc nhưng uyển chuyển thanh thốt, có
thể nói mảng nét trong sự phối hợp với màu sắc đã đạt đến một tầm cao của nghệ
thuật. Tranh dân gian Đông Hồ với ngôn ngữ tạo hình đơn giản, dễ hiểu, hình
tượng rõ ràng, đã đáp ứng được những nhu cầu về tâm lý, tư tưởng, tình cảm và
mong ước của người dân lao động, vì vậy tranh dân gian Đơng Hồ dễ đi vào lòng
người với những ấn tượng sâu sắc, phản ánh các đề tài gần gũi với đời sống sinh
hoạt của người dân, phản ánh ước mơ, khát vọng sống của con người về một cuộc
sống no đủ, hạnh phúc. Các nghệ nhân Đơng Hồ đã chuyển hóa những lời hay - ý
8


đẹp, những kinh nghiệm đúc rút trong cuộc sống từ ngàn đời để lại vào tranh với
những cách thể hiện rất riêng, độc đáo, tinh tế và giàu chất biểu cảm.
Ngày nay "Nghề làm tranh dân gian Đông Hồ" đã được cơng nhận là Di sản
Văn hóa phi vật thể cấp Quốc gia và đang được lập hồ sơ trình UNESCO để xét
tặng danh hiệu Di sản văn hóa phi vật thể cần được bảo vệ khẩn cấp.
Cùng với tranh Đơng Hồ, tranh Kim Hồng và một vài chi nhánh tranh nhỏ

khác ở các nơi trong nước, tranh Hàng Trống đã góp phần rất lớn tạo nên nét độc
đáo, có một không hai, sự đa dạng, sâu sắc, vẻ đẹp rực rỡ của tranh dân gian Việt
Nam.
Tranh Hàng Trống cũng góp phần quan trọng vào tiến trình phát triển nghề làm
tranh dân gian, làm cho nghề làm tranh truyền thống Việt Nam trở nên phồn thịnh
một thời. Những sản phẩm nghệ thuật đặc sắc của dòng tranh Hàng Trống, cũng
như tranh Đơng Hồ và kể cả tranh của cả dịng tranh Kim Hồng nữa, từ lâu đã rất
nổi tiếng khơng chỉ ở trong nước, mà còn ở nhiều nước trên thế giới.
Có thể dễ dàng bắt gặp tranh Hàng Trống ở nơi linh thiêng nhất trong các đền,
miếu, điện thờ, trong các bộ sưu tập tranh quý giá nhất của các tư nhân và các viện
bảo tàng ở nhiều nứơc trên khắp các châu lục. Người ta làm và bán các hàng thủ
công ấy quanh năm, nhiều hơn cả là dịp Tết Nguyên đán, phần lớn bán trong các
cửa hiệu. Riêng tranh dân gian, ngoài các cửa hiệu, người ta còn bầy bán từng quầy
trên hè phố, nhất là vào dịp cuối năm, để tiện phục vụ khách hàng sắm Tết.
Các đề tại của tranh Hàng Trống thường là :
Tranh Thờ: loại tranh này phục vụ cho nhu cầu thờ cúng trong các điện, miếu.
Do yêu cầu ấy, tranh thờ mang mầu sắc tơn giáo, hình tượng được thể hiện là con
người và vật tuy gần gũi mà vẫn rất thần bí.
Đáp ứng ước vọng của tầng lớp trên và thị dân, có loại tranh “Phúc Lộc Tthọ”
(Tam Đa), đơng con cháu để nối dõi “Thất Đồng”, Tôn Tử Vạn Đại”,…
9


Tranh sinh hoạt và thiên nhiên: “Chợ Quê”, “Canh nông chi đồ”, “Chim
Công”, “Lý Ngư Vọng Nguyệt”, “Tứ Quý”, “Tố Nữ”,…
Tranh truyện và tranh vui: “Chuột vinh quy”, “Thầy đồ cóc”, “Truyện Kiều”,
Phạm Cơng Cúc Hoa”,…
Tranh Hàng Trống có kỹ thuật và phong cách khác biệt Tranh Đông Hồ trên
đất Kinh Bắc (Hà Bắc). Nếu như ở Tranh Đông Hồ, in viền nét và in màu đều dùng
bản khắc gỗ thì ở Tranh Hàng Trống in tranh chỉ dùng ván khắc gỗ in nét tranh trên

chất liệu giấy dó…Các ván khắc in tranh đều phải theo mẫu tranh, các mẫu tranh
do các nghệ nhân đảm nhiệm, gọi là “ra mẫu”. Người “ra mẫu” tranh thường là
người giỏi nhất của từng nhóm thợ, rất tinh tế, giàu kinh nghiệm, nên khi đặt bút vẽ
trên tờ giấy bản là lập tức hiện ra hình ảnh như bay như múa. Người vẽ mẫu cũng
là người đặt lời trên tranh. Chữ trên tranh phải đạt mức: làm rõ nghĩa của tranh,
làm cân đối thêm bố cục tác phẩm, mà khơng bị rườm rà. Có mẫu tranh phải sáng
tác hàng tháng mới xong.
Tiếp sau đó đến công đoạn bồi tranh.., công đoạn này là một khâu quan trọng
trong quá trình hình thành một tác phẩm, sự thành công, và tồn tại lâu bền của tác
phẩm phụ thuộc vào cơng đoạn này, nó là sự truyền đạt kinh nghiệm tích luỹ, khéo
léo của những nghệ nhân đời trước để lại cho đời sau. Sau khi đã có được bản in
hồn chỉnh thì người vẽ tranh dùng bút lông chấm màu để tô lên từng mảng màu
đậm nhạt, tuỳ theo nội dung, đường nét và các loại tranh. Do cách tô màu bằng tay
(vờn màu bằng tay, nét cản) của tranh Hàng Trống có đặc điểm ở mỗi tờ tranh đều
có nét sáng tạo riêng.
Mặc dù có những hạn chế nhất định – do hoàn cảnh lịch sử, môi trường địa lý
và đặc điểm tâm lý thị dân, nhưng dịng tranh Hàng Trống vẫn có những đóng góp
đáng kể vào kho tàng nghệ thuật dân gian Việt Nam, đã để lại những kiệt tác sống
mãi với thời gian. Đó là bức tranh: “Lý Ngư Vọng Nguyệt”, bộ tranh “Tố Nữ”, bộ
tranh “Tùng Cúc Trúc Mai”, “Chim Công”, “Thất Đồng”, “Tam Đa”, “ Chợ
10


Quê”, .vv… và hàng loạt tranh thờ như : “ Ngũ Hổ”, “Bạch Hổ”, “Hắc Hổ”, “Đức
Thánh Trần”, “Ơng Hồng Ba”, “ Mẫu Thượng Ngàn”, “ Tứ Phủ Công Đồng”,
“Tam Phủ”.vv,… Bằng những tác phẩm ấy, tranh dân gian Hàng Trống cịn lưu lại
mãi mãi trong tâm trí mỗi người Việt Nam chúng ta. Những tác phẩm của dòng
tranh dân gian Hàng Trống kể trên, quả là những kiệt tác, chúng toát lên cái sinh
động, tinh tế, ý nhị và sâu sắc lạ thường cả về nội dung lẫn hình thức. Phải nhận
rằng, ở những bức tranh này đã bộc lộ đầy đủ tài năng của những người nghệ nhân

vẽ tranh Hàng Trống. So với tranh Đông Hồ, tranh Hàng Trống có phần uyển
chuyển hơn, sắc độ trên tranh cũng êm ái hơn.
Phường tranh Hàng Trống tồn tại và phát triển rất lâu đời, rất nổi tiếng và trở
nên phồn thịnh một thời. Những sản phẩm của trung tâm sản xuất tranh dân gian
này hết sức độc đáo. Khá nhiều tranh Hàng Trống đã đạt mức kiệt tác, tiêu biểu
cho nghệ thuật tạo hình dân gian Việt Nam. Từ nội dung, hình thức đến chất liệu,
tranh Hàng Trống mang màu sắc đặc trưng riêng của Hà Nội, nhưng cũng rất Việt
Nam, không thể trộn lẫn. Những bức tranh tuyệt mỹ của dòng tranh này được nhân
dân Việt Nam đến nay vẫn ưa chuộng và là một niền tự hào của chúng ta.
Với sự thành công cũng như sự quan tâm đó, mong rằng tranh dân gian Đơng
Hồ và Hàng Trống sẽ mãi "tồn tại, phát triển", lưu giữ và phát huy những giá trị
vốn có của mình, trở thành một phần không thể thiếu trong đời sống của nhân dân
lao động.

*Tài liệu tham khảo :
- Di sản thủ công mỹ nghệ Việt Nam – Ths Bùi Văn Vượng.
11


- Tranh dân gian Đông Hồ & giá trị nghệ thuật độc đáo – Lê Trọng Nga (webside Hội Mỹ
thuật Việt Nam).

12



×