Tải bản đầy đủ (.pdf) (21 trang)

Tải Top 8 bài Phân tích Thương vợ của Tú Xương hay nhất - HoaTieu.vn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (579.38 KB, 21 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>Phân tích bài thơ Thương Vợ - Mẫu 1</b>


“Văn học nằm ngoài những quy luật của băng hoại. Chỉ mình nó khơng thừa nhận cái
chết”. Thơ văn Tú Xương là một trường hợp như vậy. Thể xác của ơng hơn 100 năm
nay đã hịa tan làm một cùng với đất mẹ nhưng sự nghiệp văn chương của con người
tài hoa ấy chưa bao giờ ngừng sống làm lay chuyển lòng người, bất chấp mọi thử
thách của thời gian.


Nhắc đến Tú Xương ta không thể không nhắc đến “Thương vợ” bài thơ trữ tình thấp
thống nụ cười hóm hỉnh, trào phúng bản thân và bày tỏ tấm lòng u thương, kính
trọng của ơng đối với người vợ tần tảo hy sinh suốt một đời vì chồng, vì con, vì gia
đình.


Tú Xương lấy vợ năm ơng 16 tuổi, vợ ông là bà Phạm Thị Mẫn. Cuộc đời của Tú
Xương là cuộc đời của một nghệ sĩ nhưng trước hết ông là một nhà trí thức phong
kiến thuộc loại nhà Nho “Dài lưng tốn vải” phải sống nương tựa nhờ vào người vợ
của mình. Mọi chi tiêu trong gia đình đều do một tay bà Tú lo liệu. Điều đó đã đi vào
trong thơ ca của ơng “Tiền bạc phó cho con mụ kiếm” hoặc “Hỏi ra quan ấy ăn lương
vợ”.


Trong bài “Thương vợ” cũng vẫn là những vấn đề ấy được thể hiện sâu sắc qua tám
câu thơ thất ngôn bát cú Đường luật. Hai câu đề mở ra một không gian, thời gian và
công việc của bà Tú. Một công việc vất vả, cơ cực và gian nan vô cùng:


<i>“Quanh năm buôn bán ở mom sông</i>
<i>Nuôi đủ năm con với một chồng”</i>


Nghề buôn bán theo quan niệm của người xưa là con đường đầu tiên để làm giàu “Phi
thương bất phú” nhưng cơng việc của bà Tú thì lại đối lập hồn tồn. Chỗ bn bán ở
đây khơng phải là vùng đất tốt, bằng phẳng mà ở “mom sông”. Theo cách hiểu của
Xuân Diệu: “là cái địa điểm cheo leo chênh vênh, chứ không phải ở cái bến ngang


sơng tấp nập bình thường”.


“Mom sơng” đã cụ thể hóa địa điểm bn bán của bà Tú nơi “đầu sóng ngọn gió”, đối
mặt với bao nguy hiểm khi nước xuống thì cịn, nước lên thì mất. Thời gian ở đây là
“quanh năm” hết ngày này qua tháng khác. Thời gian đằng đẵng chẳng bao giờ được
nghỉ ngơi. Một công việc nhọc nhằn, vất vả mà người vợ phải gánh vác để lo cho gia
đình.


Trước đây với quan niệm “Trọng nam khinh nữ”, “Nhất nam viết hữu, thập nữ viết
vô” những việc lớn như kinh tế gia đình phải do người đàn ông lo liệu nhưng người
gánh vác trách nhiệm ấy ở đây là bà Tú - người đàn bà giàu lịng u thương, giàu
nghị lực có thể “Ni đủ năm con với một chồng”. Đủ ở đây nuôi cho đủ miếng cơm
manh áo. Một người làm mà bảy miệng ăn ta thấy trách nhiệm nặng nề đặt lên đôi vai
người phụ nữ gia đình.


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

tuổi bắt đầu đi thi, 22 năm ròng rã còn lại vẫn đi thi, trải liền tám khóa lều chõng mỗi
lần lên kinh dự thi là biết bao chi phí, tiền của do một tay bà Tú trang trải. Khép lại
hai câu đề miêu tả không gian, thời gian và công việc của bà Tú đến hai câu thực mở
ra một hình ảnh “thân cò”:


<i>“Lặn lội thân cò khi quãng vắng</i>
<i>Eo sèo nước mặt buổi đị đơng”</i>


Câu thơ gợi cho ta nhớ đến hình ảnh quen thuộc trong ca dao: “Con cò lặn lội bờ
sơng/ Gánh gạo đưa chồng tiếng khóc nỉ non”. Hình ảnh ấy gắn liền với thân phận
người phụ nữ Việt Nam tần tảo sớm hơm lo cho gia đình. Bà Tú ở đây là thân cò một
thân phận, số phận cụ thể gợi một sự mỏng manh, nhỏ bé trước cuộc đời. Tác giả sử
dụng lối viết đảo ngữ “lặn lội thân cị” làm cho hình ảnh ấy càng trở nên cụ thể, sâu
sắc hơn.



Chắc hẳn bà Tú cũng không quên lời dặn của cổ nhân “Sông sâu chớ lội, đị đầy chớ
qua” nhưng vì miếng cơm manh áo gia đình mà phải liều lĩnh đối mặt với chốn hiểm
nguy để rồi phải “eo sèo” nơi “đị đơng”. Hai tính từ ở đầu câu và cuối câu đối nhau
vừa có tính gợi hình lại gợi cảm.


Dường như nhà thơ đang rất cảm thơng và thương xót cho thân phận của vợ mình mà
như nhỏ lệ trước hình ảnh ấy. Hai câu thơ có thể được coi là hay nhất trong bài cũng
như khiến cho con người ta rung động nhất khi tái hiện về hình ảnh người vợ trong
thơ Tú Xương.


Nếu như ở bốn câu thơ đầu tác giả giữ vị trí, đóng vai trị là người chồng đứng ở bên
ngoài “khách quan” để quan sát, nhận xét và cảm thơng cho bà Tú thì bốn câu thơ sau
Tú Xương nhập thân vào trong tâm tư, nỗi niềm của người vợ để cất lên tiếng than
“chủ quan” và chân thực hơn. Hai câu luận là lời than thở mà Tú Xương nói hộ lịng
vợ:


<i>“Một dun hai nợ âu đành phận</i>
<i>Năm nắng mười mưa dám quản công”</i>


Chữ “duyên” theo nghĩa Hán Việt có nghĩa là duyên cớ làm phát sinh việc gì đó.
Dun theo quan niệm của Phật giáo là phần trời định cho con người gặp gỡ, có khả
năng yêu nhau và trở thành vợ chồng, giúp các cặp đôi yêu thương gắn kết trong cuộc
đời. “Tu trăm năm mới thành bạn đồng hành, tu ngàn năm mới được chung chăn gối”
dân gian tạo thành một cặp duyên và nợ.


Dưới cái nhìn của Tú Xương dun thì chỉ có một mà nợ thì hai, dun ít nợ nhiều.
Ngẫm cho kĩ bà Tú lấy được ông Tú cũng là một cái duyên nhưng với người chồng
“hờ hững” ấy thì nợ lại nhiều hơn. Chính vì điều đó đã khiến cho sự vất vả cực nhọc
của một thân phận được nâng lên thành định mệnh của cả một kiếp người. Vì là duyên
là nợ nên “âu đành phận”. Âu có nghĩa là cam chịu, đành là chấp nhận.



</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

công” được đặt ở cuối mỗi câu thơ cho thấy cách ứng xử của người làm vợ luôn nhẫn
nhục, chịu đựng tất cả vì chồng con.


Khép lại bài thơ hai câu kết được nâng lên thành tiếng chửi. Thác ra giọng bà Tú, Tú
Xương đã chửi rủa cái bạc bẽo của cha mẹ nhà chồng và vơ tích sự của bản thân đối
với vợ.


<i>“Cha mẹ thói đời ăn ở bạc</i>


<i>Có chồng hờ hững cũng như không”</i>


Những bà mẹ chồng xưa kia thường là “nỗi kinh hồng” của những nàng dâu, vì quan
niệm phong kiến hôn nhân gả bán cho phép người ta “mua” vợ cho con khác nào mua
người làm không công mà đối xử tệ bạc với con dâu. Ta đã từng bắt gặp tiếng chửi ấy
nhẹ nhàng mà thâm thúy trong ca dao như: “Tiếng đồn cha mẹ anh hiền/ Cắn cơm
không vỡ, cắn tiền vỡ đôi” hay “Trách cha trách mẹ nhà chàng/ Cầm cân chẳng biết là
vàng hay thau”.


Tú Xương khơng chỉ là một nhà thơ trữ tình mà cịn nổi tiếng là nhà thơ trào phúng.
Thơ ơng không chỉ là tiếng chửi bọn quan lại phong kiến dốt nát mà còn là những vần
thơ tự trào bản thân. Trong câu thơ trên nhà thơ mượn lời vợ mình để chửi chính bản
thân mình là một người chồng “hờ hững”, vơ tích sự khơng gánh đỡ gì được cho vợ
mà ngược lại còn làm nặng trĩu thêm cái gánh nợ đời trên đôi vai của bậc hiền phụ.
Nhà thơ coi mình là kẻ chẳng ra gì cũng là một cách để ca ngợi, đề cao vợ theo cái
cách chưa từng thấy trong thơ văn trung đại: “Vuốt râu nịnh vợ, con bu nó/ Quắc mắt
khinh đời cái bộ anh”. Cái đặc sắc của hai câu kết tuy là tiếng chửi nhưng vẫn mang
hàm ý đùa vui, tự cười, tự trách mình nhưng vẫn là để bày tỏ sự cảm thông với vợ.
Tú Xương cùng với Nguyễn Khuyến là hai đại diện cuối cùng cho nền văn học trung
đại Việt Nam cuối thế kỉ XIX, hai nhà thơ tiêu biểu và đặc sắc cho những vần thơ tự


trào. Thơ ông với những cách tân mới mẻ về ngôn ngữ viết theo xu hướng khẩu ngữ
hóa, sử dụng ngơn ngữ đời thường nhưng vẫn đảm bảo âm điệu trữ tình và có sức gợi
hình, gợi cảm.


“Thương vợ” là một bài thơ hay có sự kết hợp tài tình giữa ngơn ngữ dân gian với
ngôn ngữ bác học một cách tinh xảo, phong phú khắc họa được chân dung bà Tú và
bộ lộ được tâm trạng, tình cảm của Tú xương dành cho vợ của mình. Cùng với đó là
cách ngắt nhịp truyền thống trong thơ Đường luật là 4/3 và 2/2/3 càng làm cho bài thơ
trở nên mềm mại, uyển chuyển.


Bài thơ “Thương vợ”của Trần Tế Xương thể hiện được ân tình sâu nặng và tình cảm
chân thành của nhà thơ đối với hiền phụ của mình. Trước Tú Xương hiếm có thi nhân
nào mà có những bài thơ viết về vợ hay và lắng đọng, sâu sắc như ông. Bài thơ không
chỉ cho thấy một tâm hồn cởi mở, đơn hậu của nhà thơ đối với vợ mà cịn chứng tỏ tài
năng, thi bút của một thi sĩ biết vận dụng và sáng tạo ngơn ngữ dân gian.


<b>Phân tích bài thơ Thương Vợ - Mẫu 2</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

cả giá trị thiêng liêng nhất là tình thương cũng bị mai một, tình người với người chỉ
cịn là thứ tình cảm hời hợt bán mua, đổi chác quá ư dễ dàng.


Giữa xã hội nhố nhăng ấy, nhà thơ tự giữ lại cho mình tình cảm cao quý nhất là tình
yêu đối với người vợ. Thương vợ là bài thơ hay ghi lại tình yêu chân thành của nhà
thơ dành cho người vợ vừa có sự cảm thơng, chia sẻ và biết ơn vừa là lời tự thán, tự
trách bản thân về trách nhiệm của người chồng. Tú Xương ngay mở đầu đã tỏ ra là
người chồng biết quan tâm đến vợ, am hiểu công việc làm ăn của vợ:


<i>Quanh năm buôn bán ở mom sông</i>
<i>Nuôi đủ năm con với một chồng.</i>



Bà Tú bn bán ấy là cơng việc chính bà làm để nuôi chồng nuôi con. Quanh năm
chứ đâu phải là ngày một ngày hai bà tiến hành việc buôn bán mà là quanh năm suốt
tháng, liên tục, không ngừng nghỉ. Nỗi vất vả của bà Tú kéo dài theo năm tháng.
Mom sơng là khơng gian làm ăn của bà.


Đó là chỗ đất nhơ ra ở bờ sơng Vị hồng chảy qua thành phố Nam Định, một thế đất
rất chênh vênh, cheo leo, không vững vàng, sẵn sàng đổ ụp xuống sông bất cứ lúc nào.
Thế mới thấy sự nguy hiểm cho tính mạng của bà cùng nỗi vất vả, cực nhọc trong
công việc làm ăn. Ở đây không gian mom sơng, thời gian quanh năm tơ đậm hơn hình
ảnh của bà Tú tần tảo, ngược xi. Đó là người phụ nữ của bao đời và đến bà Tú càng
rõ nét hơn.


Câu thơ sau nâng vị thế của bà trở thành người trụ cột của gia đình, cịn ơng chồng bị
hạ xuống hạng ăn bám, là gánh nặng cho vợ. Nuôi đủ năm con với một chồng. Cách
đếm năm con với một chồng thật đặc biệt. Nhà thơ đặt ông chồng như những đứa con
cũng phải nuôi tựa như ông bé bỏng như con nên phải đếm ngang một miệng ăn, hai
miệng ăn.


Từ đủ làm toát lên mức độ của việc nuôi nấng ấy. Bà nuôi ông không chỉ cơm no, áo
đủ mặc mà cịn phải có ít rượu cho ông ngân nga, bộ áo mới cho ông vui vẻ cùng bè
bạn. Bà Tú lo tất, bà vừa nuôi, vừa cung phụng cho ông. Gánh nặng chồng con đè
nặng lên đôi vai bà Tú.


Người phụ nữ như địa vị của bà chỉ làm việc nâng khăn sửa túi cho chồng, việc làm
ăn để chồng lo, vậy mà bà phải bứt ra khỏi cảnh sống êm ả bước vào dòng đời xô bồ
để lo cơm áo cho sáu miệng ăn, làm thay việc của chồng đủ thấy bà đã hi sinh tất cả vì
chồng con. Thấu hiểu hồn cảnh của vợ, đánh giá xứng đáng công lao của vợ chứng
tỏ nhà thơ yêu vợ, thương vợ tha thiết lắm. Hai câu thực tiếp tục mạch cảm xúc cảm
thông, chia sẻ:



<i>Lặn lội thân cò khi quãng vắng</i>
<i>Eo sèo mặt nước buổi đò đông</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

nhốn nháo trên sông. Câu thơ gợi ta nhớ đến thân phận của người phụ nữ xưa qua câu
ca:


<i>Cái cị lặn lội bờ sơng</i>


<i>Gánh gạo ni chồng tiếng khóc nỉ non.</i>


Con cị xưa và thân cị dường như có sự đồng dạng. Hình ảnh so sánh độc đáo đó càng
làm cho tình cảnh bà Tú thêm tội nghiệp đáng thương. Bà Tú có khác gì dáng cị đâu,
gầy lêu khêu, bước lững thững, một thân một mình, lếch thếch, lủi thủi. Đối lập cái
đơn độc, lẻ loi của bà với vẻ quạnh hiu khi quãng vắng và vẻ tấp nập, đơng đúc của
buổi đị đơng, nhà thơ cực tả những cực nhọc, gian lao của bà để duy trì sự sống cho
chồng, con.


Ơng Tú thấu hiểu điều ấy. Và ơng đâu có dửng dưng. Đằng sau từng câu chữ là nỗi
niềm chất chứa tâm can. Ông cảm phục vì sức dẻo dai quanh năm làm việc của bà, ca
ngợi bà vì bà hết lịng vì chồng con, nhưng một nỗi xót xa, hổ thẹn ngự trị trong lịng
ơng: Tự trách mình chưa làm trịn trách nhiệm của người chồng.


Bà Tú biết được tâm sự như thế của ông chắc gánh nặng sẽ vơi đi chút nào và trong
tâm chắc cũng được an ủi, động viên. Khó nhọc, gian nan là vậy nhưng bà Tú không
một lời than vãn. Ngày tháng, công việc cứ trôi qua im lặng như chính cuộc đời bà:


<i>Một duyên hai nợ âu đành phận</i>
<i>Năm nắng mười mưa dám quản công.</i>


Câu thơ như lời nói rất tự nhiên, đa thanh, có thể coi là lời của ông hoặc bà đều được.


Nhưng xưa nay bà có than thân bao giờ, bà chấp nhận tất cả, giấu kín lịng mình với
bao nỗi xót xa tủi cực. Ơng Tú vì tấm lịng thương vợ cất lên lời nói thay cho bà.
Dùng lối nói dân gian vợ chồng là duyên là nợ.


Tú Xương vận rất đúng để nói về bà Tú, cuộc đời bà như vậy vừa là duyên, vừa là nợ,
duyên một thì nợ hai, hạnh phúc do duyên mang lại ít, cực nhọc do nợ là phần nhiều,
số phận là thế thì đành chấp nhận. Dám quản công tức không dám nề hà, không dám
kể công dù có vất vả sương gió nhiều, năm nắng mười mưa. Đã vận vào cái số phận
làm sao thoát ra, câu thơ kết thúc bằng thanh trắc âu đành phận cũng khiến cho cảm
xúc bị dồn nén nhiều hơn.


Hẳn bà Tú khơng ít lần bực mình, thấy đời sao q bất cơng, muốn phản kháng nhưng
bà đã dặn lịng an phận, chấp nhận im lặng đến nhẫn nhuc, cam chiu. Nước mắt bà
chảy ngược vào trong, bà giữ chặt lòng mình, khơng muốn cho ai biết nỗi khổ tâm,
đau xót ấy. Các số đếm một, hai, năm, mười cùng nhịp thơ ngắn 2/2/3 thể hiện tâm
trạng tức tưởi, lắng sâu và kéo dài cuộc đời bà gắn với công việc khơng bao giờ
ngừng nghỉ.


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

<i>Cha mẹ thói đời ăn ở bạc</i>


<i>Có chồng hờ hững cũng như khơng.</i>


Tiếng chửi khơng phải của bà Tú vì bà chấp nhận, cam chịu suốt đời, ông Tú mong bà
chửi để gánh nặng lịng ơng được vơi bớt, chí ít vì bà coi ông khác lũ con. Sự dồn nén,
bức bối buộc ông mượn lời bà để tự chửi mình. Một đấng chồng mà chỉ ngồi ăn bám,
vơ lo, có khi hạch sách, lên mặt, nhìn vợ tất tả ngược xi vất vả cịn xứng là chồng
khơng? Ơng tự kết án mình đã ăn ở bạc bẽo, lạnh lùng, thờ ơ, vô trách nhiệm.


Sự hờ hững ấy của ông khiến cho bà càng đau khổ hơn gấp ngàn lần. Gánh nặng vật
chất dù chồng chất đến mấy bà Tú củng cố chèo lái lo toan, chịu được nhưng bị hờ


hững, bị đối xử tệ bạc, không được sẻ chia sẽ làm cho bà gục ngã ngay. Một ông
chồng như thế bà đâu cần, có cũng như khơng. Lấy bản thân mình, nhà thơ khái quát
hiện tượng trên thành thói đời nghĩa là nó rất phổ biến, thường diễn ra.


Đó chính là đặc trưng của xã hội đồng tiền buổi giao thời mà nhà thơ sống. Ý nghĩa tố
cáo của câu thơ là vạch rõ bản chất xấu xa của xã hội coi nhẹ tình cảm, trọng sĩ diện,
danh vọng, tiền tài. Câu thơ khép lại bằng từ không tưởng nhẹ nhàng mà hướng người
đọc đến chiều sâu tâm trạng chất chứa nỗi chua xót, tự giận của chồng và niềm đau
khổ của người vợ.


Bài thơ là tiếng lòng chân thành vừa ngợi ca, cảm phục, chia sẻ, cảm thông trước vất
vả, gian nan của bà Tú vừa là lời tự trách, tự lên án của ông Tú. Phải yêu vợ, thương
vợ đến mức sâu sắc nhà thơ mới viết nên bài thơ giàu cảm xúc, chân thực như vậy.
Chất trữ tình và trào phúng quyện hòa trong nhau đưa người đọc đến những cung bậc
tình cảm rất sâu sắc bình dị, đáng trân trọng, ẩn chứa trong lòng nhà thơ vốn căm ghét
thế thái nhân tình đổi thay. Tú Xương qua bài thơ gửi đến những người chồng bức
thơng điệp: hãy nói lời yêu thương chia sẻ thật nhiều với người vợ.


<b>Phân tích bài thơ Thương Vợ - Mẫu 3</b>


Nói đến thơ trào phúng khơng ai có thế qn ơng, một giọng thơ đả kích, phê phán sắc
sảo, cay độc, mạnh mẽ hiếm có. Chế Lan Viên từng viết: “Tú Xương cười như mảnh
vỡ thủy tinh”. Nhưng Trần Tế Xương không chỉ là một nhà thơ hiện thực chủ nghĩa
như vậy, nói như Nguyễn Tuân, chất hiện thực ấy chỉ là “chân trái”, cịn “chân phải”
của ơng là chất trữ tình. Trân trọng cảm phục và nhớ tới thơ Tú Xương nhiều hơn có
lẽ do người đời được nghe nhịp đập của một trái tim chân thành, giàu cảm xúc, biết
trọng nhân cách, mang một nỗi đau vời vợi khơng ngi. Buồn vì khơng có tiền để
giúp một người ăn mày, một đồng bào cùng cảnh ngộ, ông thề độc: “Cha thằng nào có
tiếc khơng cho”. Mang nỗi nhục nơ lệ của một tri thức, ơng chua chát: “Nhân tài đất
Bắc kìa ai đó! Ngoảnh cổ mà trơng cảnh nước nhà”...



Đó là ngồi xã hội, cịn trong gia đình ơng ln bị dày vò bởi cảm giác thiếu trách
nhiệm, Tú Xương “thương vợ”, có chồng mà phải gánh vai trụ cột, ơng tự xỉ vả cái
vai trị “hờ hững” của mình.


</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

càng ít. Thế kỉ XIX, có hai nhà thơ cùng người thành Nam, Nguyễn Khuyến và Tú
Xương, đã không ngần ngại nói lên tình thương u của người chồng đối với vợ ngay
khi các bà còn đang sống. Nhưng về chủ đề này, Thương vợ của Tú Xương là bài thơ
nổi tiếng hơn cả:


<i>Quanh năm buôn bán ở mom sông,</i>
<i>Nuôi đủ năm con với một chồng.</i>
<i>Lặn lội thân cò khi qng vắng,</i>
<i>Eo sèo mặt nước buổi đị đơng.</i>
<i>Một dun hai nợ âu đành phận,</i>
<i>Năm nắng mười mưa dám quản công</i>
<i>Cha mẹ thói đời ăn ở bạc,</i>


<i>Có chồng hờ hững cũng như khơng.</i>


Nổi bật trong bài thơ là hình ảnh hai con người: một người vợ tần tảo giàu đức hi sinh
và một người chồng biết cảm thông chia sẻ, thương yêu và quý trọng vợ rất mực.
Hai câu thơ đầu giới thiệu về nghề nghiệp của bà Tú cũng như trách nhiệm nặng nề
của bà:


<i>Quanh năm buôn bán ở mom sông,</i>
<i>Nuôi đủ năm con với một chồng.</i>


Buôn bán cũng là một nghề như mọi nghề khác, người ta hành nghề để kiếm sống.
Người xưa còn coi đây là nghề duy nhất nếu muốn làm giàu (phi thương bất phú).


Nhưng việc bn bán của bà Tú thì khơng được thế. Chẳng có cửa hàng, cửa hiệu,
qn xá gì, mà chỗ bà “kinh doanh” là ở “mom sông”. Hai chữ “mom sông” đã gợi
lên hình ảnh một khoảng đất nhơ ra ở bờ sơng, có thể nước xuống thì cịn, nước lên
thì mất, có thuyền qua thì thành chợ khơng thì thơi, cũng có thể chợ họp một lát vào
buổi sáng hoặc buổi chiều. Lèo tèo đôi ba gánh hàng, chỗ dành cho người bn thúng
bán bưng, lưng vốn ít ỏi, lấy công làm lãi, chắc chắn thu nhập chẳng đáng là bao. Thế
mà cơng việc khó nhọc ấy, bà Tú khơng chỉ chịu đựng một hai buổi mà phải theo đuổi
“quanh năm”. Chữ “quanh năm” gợi một thời gian đằng đẵng, là 12 tháng, từ tháng
giêng đến tháng chạp, cũng có nghĩa là hết năm này đến năm khác. Cái công việc
nặng nề ấy dường như theo đuổi bà Tú suốt cả đời, bởi nó chẳng làm cho bà khá hơn
lên để có việc khác nhàn nhã hơn hoặc phát triển việc “bn bán” lên một cấp độ cao
hơn.


Cơng việc thì nhọc nhằn, thu nhập thì ít ỏi, nhưng bà Tú lại phải lo lắng cho cả một
gia đình sáu miệng ăn. Hơn nữa, không phải là sáu mà là “năm con với một chồng”,
“Năm con” là số nhiều, nhưng dù sao cũng chịu được, lo cho chúng chỉ cần bát cơm,
manh áo. Nhưng ông chồng, là “một”, nhưng là chi phí bằng cả năm đứa con kia. Có
khi cịn hơn thế nữa! Mỗi khi ông lều chõng đi thi, tiền lưng gạo bị lại đổ lên đầu vợ,
chưa nói đến khi đồng chè đồng rượu, cao hứng còn lên phố đi hát, cũng tiền vợ nốt..
Nhiều khoản chi như thế nhưng lúc nào bà cũng lo “đủ”. Thật là đảm đang tháo vát
biết chừng nào, chiều chồng biết chừng nào!


</div>
<span class='text_page_counter'>(8)</span><div class='page_container' data-page=8>

<i>Lặn lội thân cò khi quãng vắng</i>
<i>Eo sèo mặt nước buổi đị đơng.</i>


Câu thơ gợi hình ảnh con cò trong những câu ca dao quen thuộc:


<i>... Con cò lặn lội bờ sơng</i>


<i>Gánh gạo đưa chồng tiếng khóc nỉ non;</i>


<i>... Con cò mà đi ăn đêm</i>


<i>Đậu phải cành mềm lộn cổ xuống ao</i>


Hình ảnh về một lồi chim hiền lành, chăm chỉ âm thầm nhặt nhạnh, kiếm ăn nơi
ruộng lúa, bãi sông đã trở thành biểu tượng về những người phụ nữ lam lũ suốt đời vì
chồng, vì con, chẳng mấy khi nghĩ đến bản thân mình.


Trong thơ Tú Xương, khơng phải là con cị mà là thân cị. Khơng cịn là một con vật
cụ thể mà là thân phận, số phận, một cái gì rất mỏng manh, nhỏ bé trước biết bao vần
vũ của cuộc đời (Thương thay thân phận con rùa/Thân em như chẽn lúa đòng
đòng/Thân em như hạt mưa sa...). Yếu đuối quá, bị động quá mà ln phải lăn lộn,
bươn chải. Khi qng vắng thì lặn lội; buổi đị đơng thì chịu cảnh eo sèo. Hai tính từ
được đối nhau ở đầu hai câu thơ vừa giàu tính tạo hình vừa giàu tính biểu hiện. Kia
một người phụ nữ gầy yếu như thân cò, gánh nặng trên vai, một thân một mình, bước
trầy trật trên con đường lầy lội. Hàng chất về rồi, tránh mưa gió thì mất tiền, nên phải
lặn lội ra đi. Và kia nữa cũng thân cị ấy lại phải xù lơng xù cánh chao chát, cãi cọ
tranh mua tranh bán, tranh xuống cho kịp đò, tranh lên cho kịp chợ. Chỗ đơng người
thì vã mồ hơi, qng vắng thì trào nước mắt.


Nhưng đó là bà Tú trong con mắt của ơng Tú, cịn với bà khơng hề có một lời kêu ca
phàn nàn mà là một thái độ chịu đựng vốn thường có của người phụ nữ phương Đơng.


<i>Một dun hai nợ âu đành phận,</i>
<i>Năm nắng mười mưa dám quản công.</i>


Những số từ được dùng rất khéo, vừa theo thứ tự tăng dần vừa đối nhau: một, hai,
năm, mười, gợi được những khó khăn chồng chất ngày một tăng dần, và sức lực phi
thường của người vợ, gánh vác tất cả. Thật là kiên cường nhưng sao mà tội nghiệp!
Phần lớn phụ nữ nhờ chồng mà được hưởng niềm sung sướng, cịn với bà Tú chỉ là


thêm một món nợ cả đời. Nhập thân vào nhân vật, Trần Tế Xương nói hộ những nỗi
thiệt thòi của vợ nhưng đồng thời cũng thấy rõ cái đức hi sinh của người bạn đời. Kết
thúc hai câu thơ cũng là sau những khó khăn được đưa ra là lời khẳng định: âu đành
phận / dám quản cơng. Một thái độ dứt khốt, một sự chấp nhận không cần bàn cãi,
một cách ứng xử hiển nhiên. Người phụ nữ Việt Nam là vậy, bà Tú Xương là vậy, họ
coi “giang sơn nhà chồng” là việc của mình, họ tự nguyện gánh vác khơng so đo oán
than.


Bà chỉ âm thầm chịu đựng, cho nên ông Tú đã trách hộ bà:


<i>Cha mẹ thói đời ăn ở bạc,</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(9)</span><div class='page_container' data-page=9>

Lời thơ như là tiếng chửi. Mà là chửi thật: “Cha mẹ thói đời...”. Khơng phải là người
vợ chịu nhiều vất vả thiệt thòi chửi mà người chồng tự chửi mình đấy thơi. Chữ “hờ
hững” nghe sao mà chua chát. Bà Tú lấy phải một ông chồng bạc bẽo, chẳng giúp gì
cho gia đình, cho vợ, chẳng làm được trụ cột lại cịn để vợ phải ni báo cơ. Thật là
có chồng mà như khơng có, thậm chí cịn khổ hơn khơng chồng. Câu thư có chút vị
đắng trong thơ Lấy lẽ của Hồ Xuân Hương:


<i>Cố đấm ăn xôi, xôi lại hẩm</i>


<i>Cầm bằng làm mướn mướn không công.</i>
<i>Thân này ví biết dường này nhỉ</i>


<i>Thà trước thơi đành ở vậy xong.</i>


Tóm lại, nổi bật trong bài thơ là hình ảnh bà Tú hiện thân của cuộc đời vất vả lận đận,
là hội tụ của bao đức tính tốt đẹp: tần tảo, đảm đang, nhẫn nại quên mình lo toan cho
cuộc sống của chồng con.



Có một con người khơng xuất hiện trực tiếp là ông Tú, những con mắt và trái tim của
ơng thì ln ln hiện hữu. Con mắt ông nhìn thấy rõ mọi nỗi đắng cay cực nhọc hàng
ngày, và con tim thì thấu hiểu những nỗi cơ đơn, tâm trạng âm thầm chịu đựng của bà.
Bài thơ Thương vợ là một bản tự kiểm điểm, tự khiển trách hết sức chân thành và
nghiêm khắc của Tú Xương. Mỗi lời thơ như một tiếng thở dài đau xót của một con
người rất có ý thức trách nhiệm, nhưng bất lực. Đó là tấm lịng thương u cảm phục
và biết ơn rất chân thành của người chồng đối với người vợ vì mình mà chịu nhiều
đắng cay vất vả.


<b>Phân tích bài thơ Thương Vợ - Mẫu 4</b>


Tú Xương là nhà thơ trào phúng bậc thầy trong nền văn học Việt Nam. Ngoài những
bài thơ trào phúng sắc nhọn, lấy tiếng cười làm vũ khí chế giễu và đả kích sâu cay bộ
mặt xấu xa, đồi bại của cái xã hội thực dân nửa phong kiến, ơng cịn có một số bài thơ
trữ tình, chứa chất bao nỗi niềm của một nhà nho nghèo về tình người và tình đời sâu
nặng.


“Thương vợ” là bài thơ cảm động nhất trong những bài thơ trữ tình của Tú Xương.
Nó là một bài thơ tâm sự, đồng thời cũng là một bài thơ thế sự. Bài thơ chứa chan tình
thương yêu nồng hậu của nhà thơ đối với người vợ hiền thảo.


Sáu câu thơ đầu nói lên hình ảnh bà Tú trong gia đình là một người vợ rất đảm đang,
chịu thương chịu khó. Nếu bà vợ của Nguyễn Khuyến là một phụ nữ “hay lam hay
làm, thắt lưng bó que, xắn váy quai cồng, tất tả chân nam đá chân chiêu, vì tớ đỡ đần
trong mọi việc” (câu đối của Nguyễn Khuyến) thì bà Tú lại là một người đàn bà:


<i>“Quanh năm buôn bán ở mom sông,</i>
<i>Nuôi đủ năm con với một chồng”</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(10)</span><div class='page_container' data-page=10>

cay cực, phải vật lộn kiếm sống, mới “nuôi đủ năm con với một chồng”.



Một gánh gia đình đè nặng lên đơi vai người mẹ, người vợ. Thông thường người ta
chỉ đếm mớ rau, con cá, đếm tiền bạc,... chứ ai “đếm” con, “đếm” chồng. Câu thơ tự
trào ẩn chứa nỗi niềm chua chát về một gia cảnh gặp nhiều khó khăn: đơng con, người
chồng đang phải “ăn lương vợ”.


Có thể nói, hai câu thơ trong phần đề, Tú Xương ghi lại một cách chân thực hình ảnh
người vợ tần tảo, đảm đang của mình.


Phần thực, tơ đậm thêm chân dung bà Tú, mỗi sáng mỗi tối đi đi về về “lặn lội” làm
ăn như “thân cò” nơi “quãng vắng”. Ngôn ngữ thơ tăng cấp, tô đậm thêm nỗi cực
nhọc của người vợ. Câu chữ như những nét vẽ, gam màu nối tiếp nhau, bổ trợ và gia
tăng; đã “lặn lội” Lại “thân cò”, rồi còn “khi quãng vắng”. Nỗi cực nhọc kiếm sống ở
“mom sông” tưởng như khơng thể nào nói hết được! Hình ảnh “con cò” cái cò trong
ca dao cổ: “Con cò lặn lội bờ sơng…”, “Con cị đi đón cơn mưa…”, “Cái cị, cái vạc,
cái nông,..” được tái hiện trong thơ Tú Xương qua hình ảnh “thân cị” lầm lũi, đã đem
đến cho người đọc bao liên tưởng cảm động về bà Tú, cũng như thân phận vất vả, cực
khổ, của người phụ nữ Việt Nam trong xã hội cũ:


<i>“Lặn lội thân cò nơi qng vắng</i>
<i>Eo sèo mặt nước buổi đị đơng”</i>


“Eo sèo” là từ láy tượng thanh chỉ sự làm rầy rà bằng lời đòi, gọi liên tiếp dai đẳng:
gợi tả cảnh tranh mua tranh bán, cảnh cãi vã nơi “mặt nước” lúc “đị đơng”. Một cuộc
đời “lặn lội”, một cảnh sống làm ăn “eo sèo”. Nghệ thuật đối đặc sắc đã làm nổi bật
cảnh kiếm ăn nhiều cơ cực. Bát cơm, manh áo mà bà Tú kiếm được “nuôi đủ năm con
với một chồng’” phải. “lặn lội” trong mưa nắng, phải giành giật “eo sèo”, phải trả giá
bao mồ hồ, nước mắt giữa thời buổi khó khăn! Tiếp theo là hai câu luận, Tú Xương
vận dụng rất sáng tạo hai thành ngữ: “một duyên hai nợ” và “năm nắng mười mưa”,
đối xứng nhau hài hòa, màu sắc dân gian đậm đà trong cảm nhận và ngôn ngữ biểu


đạt:


<i>“Một duyên hai nợ, âu đành phận,</i>
<i>Năm nắng, mười mưa dám quản công.”</i>


“Duyên” là duyên số, duyên phận, là cái “nợ” đời mà bà Tú phải cam phận, chịu đựng.
“Nắng”, “mưa” tượng trưng cho mọi vất vả, khổ cực. Các số từ trong câu thơ tăng dần
lên: “một… hai… năm… mười… làm nổi rõ đức hi sinh thầm lặng của bà Tú, một
người phụ nữ chịu thương, chịu khó vì sự ấm no, hạnh phúc của chồng con và gia
đình. “Âu đành phận”, … “dám quản cơng” … giọng thơ nhiều xót xa, thương cảm,
thương mình, thương gia cảnh nhiều éo le.


</div>
<span class='text_page_counter'>(11)</span><div class='page_container' data-page=11>

Hai câu kết, Tú Xương sử dụng từ ngữ thông tục, lấy tiếng chửi nơi “mom sơng” lúc
“buổi đị đơng” đưa vào thơ rất tự nhiên, bình dị. Ơng tự trách mình:


<i>“Cha mẹ thói đời ăn ở bạc,</i>


<i>Có chồng hờ hững cũng như khơng!”</i>


Trách mình “ăn lương vợ”, mà “ăn ở bạc”. Vai trị người chồng, người cha chẳng giúp
ích được gì, vơ tích sự, thậm chí cịn “hờ hững” với vợ con. Lời tự trách sao mà chua
xót thế! Ta đã biết, Tú Xương có văn tài, nhưng cơng danh dở dang, thi cử lận đận.
Sống giữa một xã hội “dở Tây, dở ta”, chữ nho mạt vận, lúc mà “Ơng Nghè, ơng
Cống cũng nằm co”, cho nên nhà thơ tự trách mình đồng thời cũng là trách đời đen
bạc. Ơng khơng xu thời để vinh thân phì gia “tối rượu sâm banh, sáng sữa bò”.


Hai câu kết là cả một nỗi niềm tâm sự và thế sự đầy buồn thương, là tiếng nói của một
trí thức giàu nhân cách, nặng tình đời, thương vợ con, thương gia cảnh nghèo. Tú
Xương thương vợ cũng chính là thương mình vậy: nỗi đau thất thế của nhà thơ khi
cảnh đời thay đổi!



Bài thơ “Thương vợ” được viết theo thể thơ thất ngơn bát cú. Ngơn ngữ thơ bình dị
như là tiếng nói đời thường nơi “mom sơng” của những người bn bán nhỏ, cách đây
một thế kỉ. Các chi tiết nghệ thuật chọn lọc vừa cá thể (bà Tú với “năm con, một
chồng”) vừa khái quát sâu sắc (người phụ nữ ngày xưa). Hình tượng thơ hàm súc, gợi
cảm: thương vợ, thương mình, buồn về gia cảnh thêm nỗi đau đời. “Thương vợ’” là
bài thơ trữ tình đặc sắc của Tú Xương nói về người vợ, người phụ nữ ngày xưa với
bao đức tính tốt đẹp, hình ảnh bà Tú được nói đến trong bài thơ rất gần gũi với người
mẹ, người chị trong mỗi gia đình Việt Nam.


Tú Xương chiếm một địa vị vẻ vang trong nền văn học Việt Nam. Tên tuổi ông sống
mãi với non Côi, sông Vị.


<b>Phân tích bài thơ Thương Vợ - Mẫu 5</b>


Thơ xưa viết về người vợ đã ít, mà viết về người vợ khi còn sống càng hiếm hoi hơn.
Các thi nhân thường chỉ làm thơ khi người bạn trăm năm đã qua đời. Kể cũng là điều
nghiệt ngã khi người vợ đi vào cõi thiên thu mới được bước vào địa hạt thi ca.


Bà Tú Xương có thể đã phải chịu nhiều nghiệt ngã của cuộc đời nhưng bà lại có niềm
hạnh phúc mà bao kiếp người vợ xưa khơng có được: Ngay lúc cịn sống bà đã đi vào
thơ ơng Tú Xương với tất cả niềm thương yêu, trân trọng của chồng. Trong thơ Tú
Xương, có một mảng lớn viết về người vợ mà bài Thương vợ là một trong những bài
xuất sắc nhất.


Tình thương vợ sâu nặng của Tú Xương thể hiện qua sự thấu hiểu nỗi vất vả gian lao
và phẩm chất cao đẹp của người vợ.


</div>
<span class='text_page_counter'>(12)</span><div class='page_container' data-page=12>

sông, cái doi đất nhô như lời giới thiệu, lại như một bối cảnh làm hiện lên hình bà Tú
tần tảo, tất bật ngược xuôi:



Quanh năm buôn bán ở mom sơng.


Thấm thía nỗi vất vả, gian lao của vợ, Tú Xương mượn hình ảnh con cị trong ca dao
để nói về bà Tú. Có điều hình ảnh con cị trong ca dao đầy tội nghiệp mà hình ảnh con
cị trong thơ Tú Xương còn tội nghiệp hơn. Con cò trong thơ Tú Xương không chỉ
xuất hiện trong cái rợn ngợp của khơng gian (như con cị trong ca dao) mà cái rợn
ngợp của thời gian. Chỉ bằng ba từ khi quãng vắng tác giả đã nói lên được cả thời gian,
không gian heo hút, rợn ngợp, chứa đầy lo âu cái rợn ngợp của thời gian, đã làm hao
hụt cả ý thơ. So với câu ca dao: Con cò lặn lội bờ sông, câu thơ của Tú Xương:


<i>Lặn lội thân cò khi quãng vắng</i>


Là cả một sự sáng tạo. Cách đảo ngữ – đưa ra từ lặn lội lên đầu câu, cách thay từ –
thay từ con cò bằng thân cò, càng làm tăng nỗi vất vả gian truân của bà Tú. Từ thân
cò gợi cả nỗi đau thân phận, so với từ con của Tú Xương cũng sâu sắc, thấm thía hơn.
Nếu câu thơ thứ ba gợi nỗi vất vả đơn chiếc thì câu thứ tư lại làm rõ sự vật lộn với
cuộc sống của bà Tú:


<i>Eo sèo mặt nước buổi đị đơng</i>


Câu thơ gợi cảnh chen chúc, bươn bả trên sông nước của những người buôn bán nhỏ.
Sự cạnh tranh chưa đến mức sát phạt nhau nhưng cũng khơng thiếu lời qua tiếng lại.
Buổi đị đơng đâu phải là ít lo âu, nguy hiểm hơn khi quãng vắng. Trong ca dao,
người mẹ từng dặn con: Con ơi nhơ lấy câu này/Sơng sâu chớ lội, đị đầy chớ qua.
“Buổi đị đơng” khơng chỉ có những lời phàn nàn, mè nheo, cau gắt, những sự chen
lấn xơ đẩy mà cịn chứa đầy bất trắc hiểm nguy. Hai câu thực đối nhau về ngữ (khi
qng vắng đối với buổi đị đơng) nhưng lại thừa tiếp nhau về ý để làm nổi bật sự vất
vả gian truân của bà Tú: đã vất vả, đơn chiếc, lại thêm sự bươn bả trong hoàn cảnh
chen chúc làm ăn.



Hai câu thực nói thực cảnh bà Tú đồng thời cho ta thấy thực tình của Tú Xương: tấm
lịng xót thương da diết.


Cuộc sống vất vả gian truân càng ngời lên phẩm chất cao đẹp của bà Tú. Bà là người
đảm đang tháo vát:


<i>Nuôi đủ năm con với một chồng</i>


Mỗi chữ trong câu thơ Tú Xương đều chất chứa bao tình ý, từ đủ trong ni đủ vừa
nói số lượng, vừa nói chất lượng. Bà Tú ni đủ cả con, cả chồng, nuôi đảm bảo đến
mức: “Cơm hai bữa: cá kho rau muống – Quà một chiều: khoai lang, lúa ngô” (Thầy
đồ dậy học).


</div>
<span class='text_page_counter'>(13)</span><div class='page_container' data-page=13>

<i>Năm nắng mười mưa dám quản công</i>


Ở câu thơ này, “nắng mưa” chỉ sự vất vả, “năm, mười” là số lượng phiếm chỉ, để nói
số nhiều, được tách ra tạo nên một thành ngữ chéo (năm nắng mười mưa) vừa nói lên
sự vất vả gian lao, vừa thể hiện được đức tính chịu thương chịu khó, hết lịng vì chồng
vì con của bà Tú.


Trong những bài thơ viết về vợ của Tú Xương, bao giờ ta cũng bắt gặp hình ảnh hai
người: bà Tú hiện lên phía trước, ơng Tú khuất lấp ở phía sau, nhìn tinh mới thấy. Khi
đã thấy rối thì ấn tượng thật sâu đậm. Ở bài thơ Thương vợ cũng vậy. Ơng Tú khơng
xuất hiện trực tiếp nhưng vẫn hiển hiện trong từng câu thơ. Đằng sau cốt cách khơi
hài, trào phúng là cả một tấm lịng, khơng chỉ thương mà cịn tri ân vợ. Về câu thơ:
“Ni đủ năm con với một chồng”, có người cho rằng ở đây ơng Tú tự coi mình là
một thứ con đặc biệt để bà Tú phải nuôi. Tú Xương đã khơng gộp mình với con để nói
mà tách riêng, con riêng rất rạch rịi là để ơng tự riêng tri ân vợ.



Nhà thơ không chỉ cảm phục, biết ơn sự hy sinh rất mực của vợ mà ơng cịn tự trách,
tự lên án bản thân. Ơng khơng dựa vào duyên số để trút bỏ trách nhiệm. Bà Tú lấy
ông là do duyên nhưng duyên một mà nợ hai. Tú Xương tự coi mình là cái nợ mà bà
Tú phải gánh chịu. Nợ gấp đơi dun, dun ít nợ nhiều. Ơng chửi thói đời bạc bẽo,
vì thói đời là một nguyên nhân sâu xa khiến bà Tú phải khổ. Nhưng Tú Xương cũng
khơng đổ vấy cho thói đời. Sự hờ hững của ông với con cũng là một biểu hiện của
thói đời bạc bẽo. Câu thơ Tú Xương tự rửa mát mình cũng là lời tự phán xét, tự lên
án:


<i>Có chồng hờ hững cũng như không</i>


Ở cái thời mà xã hội đã có luật khơng thành văn bản đối với người phụ nữ: “xuất giá
tòng phu” (lấy chồng theo chồng), đối với mối quan hệ vợ chồng thì “phụ xướng, phụ
tuỳ” (chồng nói, vợ theo), thế mà có một nhà nho dám sòng phẳng với bản thân, với
cuộc đời, dám tự thừa nhận mình là qn ăn lương vợ, khơng những đã biết nhận ra
thiếu sót, mà cịn dám tự nhận khuyết điểm. Một con người như thế chẳng đẹp lắm
sao.


Nhan đề Thương vợ chưa nói hết sự sâu sắc trong tình cảm của Tú Xương đối với vợ
cũng như chưa thể hiện được đầy đủ vẻ đẹp nhân bản của hồn thơ Tú Xương. Ở bài
thơ này, tác giả khơng chỉ thương vợ mà cịn ơn vợ, khơng chỉ lên án “thói đời” mà
cịn tự trách.


Nhà thơ dám tự nhận khuyết điểm, càng thấy mình khiếm khuyết càng thương yêu,
quý trọng vợ hơn.


Tình thương yêu, quý trọng vợ là cảm xúc có phần mới mẻ so với những cảm xúc
quen thuộc trong văn học trung đại. Cảm xúc mới mẻ đó lại được diễn tả bằng hình
ảnh và ngơn ngữ quen thuộc của văn học dân gian, chứng tỏ hồn thơ Tú Xương dù
mới lạ, độc đáo vẫn rất gần gũi với mọi người, vẫn có gốc rễ sâu xa trong tâm thức


dân tộc.


</div>
<span class='text_page_counter'>(14)</span><div class='page_container' data-page=14>

Trần Tế Xương (bút danh là Tú Xương) là nhà thơ trào phúng nổi tiếng, có lẽ là nhà
thơ trào phúng đặc sắc nhất trong nền văn học của nước nhà. Thơ trào lộng, châm
biếm, đả kích của Tú Xương sở dĩ được nhiều người u thích vì có tính chất trữ tình
(trong tiếng cười có nước mắt). Dịng trữ tình trong thơ Tú Xương đôi khi được tách
ra thành những bài thơ trữ tình thuần khiết, thấm thía. Hai kiệt tác “Sơng Lấp” và
“Thương vợ” tiêu biểu cho dịng thơ trữ tình của Tú Xương.


Bài thơ sau đây là bài “Thương vợ” của Tú Xương:


<i>“Quanh năm buôn bán ở mom sông,</i>
<i>Nuôi đủ năm con với một chồng.</i>
<i>Lặn lội thân cò khi quãng vắng,</i>
<i>Eo sèo mặt nước buổi đị đơng.</i>
<i>Một dun hai nợ âu đành phận,</i>
<i>Năm nắng mười mưa dám quản công.</i>
<i>Cha mẹ thói đời ăn ở bạc,</i>


<i>Có chồng hờ hững cũng như không!”</i>


Trần Tế Xương lận đận trong thi cử, đi thi đến lần thứ tám mới đậu được cái tú tài.
Ông học giỏi nhưng phải cái ngông quá, thật ra thái độ ngông của ông là một cách
ông phản kháng lại chế độ thi cử lạc lậu, quan trường “ậm ọc” lúc bấy giờ. Mà đậu
được cái tú tài thì rồi cũng làm “quan tại gia” thơi. Hồi đó phải đậu cử nhân mới được
bổ tri huyện. Thế là bà Tú gần như phải ni chồng suốt đời. Ơng Tú chỉ cịn biết đem
tài hoa của mình mà ghi cơng cho bà Tú:


<i>“Quanh năm buôn bán ở mom sông,</i>
<i>Nuôi đủ năm con với một chồng”.</i>



Từ “mom” thật là hay, vừa thấy được nỗi gian truân của bà Tú buôn bán quanh năm
bên bờ sơng Vị, vừa thấy được tấm lịng của nhà thơ đối với việc bn bán khó nhọc
của vợ. Từ “mom” là tổng hợp nghĩa của các từ ven, bờ, vực, thềm, thành một từ sáng
tạo của nhà thơ làm giầu thêm cho tiếng Việt. Bà Tú buôn thúng bán bưng quanh năm
ở “mom sông” mà nuôi chồng, nuôi con:


<i>“Nuôi đủ năm con với một chồng”</i>


Câu thơ chỉ mấy con số khơ khốc thế vậy mà tế tối lắm đó! “Ni đủ năm con” là vì
con, phải ni, nên đếm ra để mà ni. Nhưng cịn chồng thì một chồng chứ mấy
chồng, cớ sao lại cũng phải đếm ra “một chồng”? Là vì chồng cũng phải ni, mà bà
Tú với cái gánh trên vai nuôi năm đứa con đã là vất vả, lại thêm một ông Tú trong nhà
nữa thì gánh nặng gấp đơi. Thời đó mà ni một ông Tú, lại là Tú Xương nữa thì
nhiêu khê lắm.


Nhưng bà Tú được an ủi là vì ơng Tú, cái con người tưởng như chỉ biết bơng đùa,
cười cợt đó lại để tâm đến từng bước chân của bà trên đường lặn lội bn bán:


</div>
<span class='text_page_counter'>(15)</span><div class='page_container' data-page=15>

Có thể nói lòng thương vợ của nhà thơ dào dạt lên trong hai câu thơ này. Hình ảnh lặn
lội thân cị được tác giả mô phỏng theo một biểu tượng trong thi ca dân gian để nói về
người phụ nữ lao động:


<i>“Con cị lặn lội bờ sơng</i>


<i>Gánh tạo đưa chồng tiếng khóc nỉ non”</i>


Nếu như từ “lặn lội” được đảo ra phía trước chủ ngữ để nhấn mạnh sự vất vả của bà
Tú, thì từ “eo sèo” gợi lên âm thanh hỗn tạp (tiếng kì kèo mặc cả, tiếng cãi cọ tranh
giành) của “buổi đị đơng”. Hai tình huống đối lập thật hay: “vắng” và “đông”. Người


phụ nữ gánh hàng lặn lội trên quãng đường vắng thật là khổ. Mà đến chỗ “đị đơng”
thì thật là đáng sợ!


Nghĩa là nhìn từ phía nào, nhà thơ cũng thương vợ, tình thương thấm thía, cảm động.
Sang hai câu luận, tác giả chuyển sang diễn tả nội tâm của bà Tú, lời thơ như lời độc
thoại của người vợ:


<i>“Một duyên hai nợ âu đành phận,</i>
<i>Năm nắng mười mưa dám quản cơng”</i>


Nhân dân ta thường nói “vợ chồng là duyên nợ”. Nhà thơ Tú Xương đã chỉ từ ghép
“duyên nợ” thành hai từ đơn: “duyên – nợ”. “Dun” thì thiêng liêng rồi vì đã có sự
tham gia của đấng vơ hình (ơng Tơ bà Nguyệt), cịn “nợ” thì đã thành trách nhiệm
nặng nề. “Một duyên hai nợ” đã diễn tả được sự vận động trong tâm trí của bà Tú.
“Một duyên hai nợ âu đành phận” là bà Tú đã thuận theo lòng trời và thuận theo lịng
người (tấm lịng của chính bà!). Nói gọn lại là bà Tú đã chấp nhận! Và chấp nhận
cuộc hôn nhân duyên nợ này, bà chấp nhận một ông đồ nho ngông “tám khoa chưa
khỏi phạm trường quy”, bà chấp nhận vị quan “ăn lương vợ” nên bà đâu “dám quản
công”:


<i>“Năm nắng mười mưa dám quản công”</i>


Thành ngữ “dầm mưa dãi nắng” được tác giả vận dụng sáng tạo thành “năm nắng
mười mưa”. Phải nói những con số trong thơ Tú Xương rất có thần. Ta đã thấm thía
với hai số năm – một trong câu thừa đề (Nuôi đủ năm con với một chồng). Giờ đây là
sự linh diệu của những con số một – hai và năm – mười trong câu luận. “Một duyên
hai nợ” đối với “Năm nắng mười mưa”, cho thấy gian khổ cứ tăng lên, bà Tú chịu
đựng hết.


Trước người vợ giỏi giang, tần tảo, chịu đựng mọi gian lao vất vả để “nuôi đủ năm


con với một chồng” thì nhà thơ chỉ cịn biết tự trách mình.


“Cha mẹ thói đời ăn ở bạc,


Có chồng hờ hững cũng như không!”


</div>
<span class='text_page_counter'>(16)</span><div class='page_container' data-page=16>

không. Gang thép với cường quyền mà nhũn với vợ như thế thì thật là con người đáng
kính.


Bằng tình cảm chân thành, bằng nghệ thuật sống động, Tú Xương đã thể hiện được
hình ảnh người phụ nữ giỏi giang, lam lũ, tần tảo ni chồng ni con. Bà Tú có
những phẩm chất tốt đẹp của người phụ nữ Việt Nam xưa.


Bao nhiêu công trạng trong gia đình, ơng Tú dành cho bà Tú, ông chỉ nhận về cho
mình một chữ “không”. Nhưng bình tâm mà xét thì ơng Tú cũng xứng với bà Tú vì
trên đất nước gian lao và vất vả này có hàng triệu người như bà Tú, nhưng chỉ có một
bà Tú là được vào cõi thơ, cõi bất tử!


<b>Phân tích bài thơ Thương Vợ - Mẫu 7</b>


Trần Tế Xương hay cịn có bút danh là Tú Xương, ơng là một tác giả nổi tiếng với
nhiều tác phẩm mang chất trào phúng và trữ tình. Ơng chỉ sống 37 tuổi và học vị tú tài,
nhưng sự nghiệp thơ ca của ông đã trở thành bất tử. Ông để lại khoảng 100 tác phẩm
gồm: thơ, văn tế, phú, câu đối. Một trong những tác phẩm tiêu biểu của ông là bài thơ
“Thương vợ”. Một bài thơ tơ đọng trong đó là những phẩm chất tốt đẹp của người vợ,
người phụ nữ đảm đang, chịu thương, chịu khó vì hạnh phúc của chồng con. Bài thơ
được Tú Xương viết như sau:


<i>“Quanh năm buôn bán ở mom sông</i>
<i>Nuôi đủ năm con với một chồng.</i>


<i>Lặn lội thân cò khi quãng vắng</i>
<i>Eo sèo mặt nước buổi đị đơng.</i>
<i>Một dun hai nợ, âu đành phận</i>
<i>Năm nắng mười mưa, dám quản cơng</i>
<i>Cha mẹ thói đời ăn ở bạc!</i>


<i>Có chồng hờ hững cũng như khơng!”</i>


Bài thơ được viết theo thể thơ thất ngôn bát cú đường luật với bố cục được chia làm
bốn phần: đề, thực, luận, kết. Mỗi phần hai câu nhằm khắc họa một cách sắc nét hình
ảnh bà Tú- vợ Tú Xương, cũng như đang nói lên một phần nào đó hình ảnh người phụ
nữ ở xã hội xưa.


Trong hai cầu đề Tú Xương đã giới thiệu một cách khái quát về công việc của bà Tú.
Đó là sự tần tảo “quanh năm” bn bán ở mom sơng, việc mua bán này khơng hề có
cửa tiệm hay vốn liếng nhiều. Đây là một công việc vất vả, cực nhọc, thu nhập bất ổn
sông bà Tú vẫn đang “nuôi đủ” năm con với một chồng mà khơng một lời ốn trách.
Trong câu này, tác giả tách mình một bên, con một bên nhằm nhấn mạnh việc, mặc dù
ông đỗ tú tài nhưng không được làm quan, phải đặt gánh nặng lên đôi vai của người
vợ, người mà ông yêu thương. Câu thơ như là lời trách nặng nề của tác giả đối với
chính bản thân mình, Nhưng qua câu thơ ta cũng thấy được cái tình cảm yêu thương
mà Tú Xương dành tặng cho vợ mình.


</div>
<span class='text_page_counter'>(17)</span><div class='page_container' data-page=17>

buôn ở mom sông của bà Tú qua câu “Eo sèo mặt nước buổi đị đơng”. Đó là hình ảnh
nhốn nháo, tranh chấp mua bán của nhiều con người có cơng việc như bà Tú. Nhìn
chung, cuộc đời bà Tú khơng ít khó khăn gian khổ.


Sự khó nhọc, vất vả của bà Tú không được dừng lại ở hai phần đề và thực mà nó cịn
tăng lên ở phần luận. Bằng việc sử dụng hai câu thuật ngữ “một duyên, hai nợ” và
“năm nắng mười mưa” tác giả đã toát lên sự hi sinh cao cả của bà Tú, đó là việc chấp


nhận số phận chăm lo cho chồng con và dù nắng hay mưa cũng không bỏ việc. Ở đây,
Tú Xương đã nêu lên đức tính tốt đẹp của bà Tú nói riêng và người phụ nữ nói chung,
đó là sự tần tảo, đảm đang, nhẫn nại, sẵn sàng hi sinh vì gia đình. Đồng thời qua đây
tác giả cũng bộc lộ nỗi niềm biết ơn và quý trọng đối với bà Tú.


Cùng với quý trọng và biết ơn bà Tú ở hai câu luận, thì hai câu kết là một cách nói
ngao ngán về nỗi niềm tâm sự của tác giả- Tú Xương. Một lời thở dài về “cái thói
đời” ơng nhắc đến chính là cái xã hội lúc bấy giờ- một xã hội mang tính nửa tây nửa
ta, nửa phong kiến, nửa thực dân với những tư tưởng và đạo lí bị suy thối. Bên cạnh
ông tự trách bản thân sao mà “ăn ở bạc” thi cử hồi mà khơng đỗ đạt, chẳng thể làm
quan, khơng giúp được gì cho vợ con, đẩy vợ con phải chịu khổ vì mình. Cuối cùng
mọi thứ đúc kết trong lời than đầy xót xa của Tú Xương


<i>“Có chồng hờ hững cũng như khơng”.</i>


Tóm lại “Thương vợ” là một bài thơ hay mang đậm giá trị cảm xúc của Tú Xương.
Nó hay trong cách sử dụng từ ngữ, hình ảnh trong ca dao, thành ngữ của Tú Xương.
Bài thơ lại mang đậm cảm xúc chân thành, lời thơ giản dị mà sâu sắc, nói lên tình cảm
u thương, sự quý trọng mà Tú Xương dành cho vợ. Bên cạnh đó, bài thơ cịn thể
hiện đức tính đẹp của người phụ nữ Việt Nam xã hội xưa nói chung và bà Tú nói
riêng.


<b>Phân tích bài thơ Thương Vợ - Mẫu 8</b>


Thơ văn Trần Tế Xương gồm hai mảng lớn: trào phúng và trữ tình. Có bài hồn tồn
là đả kích, châm biếm, có bài thuần là trữ tình. Tuy vậy, hai mảng không tuyệt đối
ngăn cách. Thường là châm biếm sâu sắc nhưng vẫn có chất trữ tình. Ngược lại, trữ
tình thấm thìa cũng pha chút cười cợt theo thói quen trào phúng. Thương vợ là một
bài thơ như vậy.



Thương vợ là bài thơ phản ánh hình ảnh bà Tú vất vả, đảm đang, lặng lẽ hi sinh vì
chồng vì con, đồng thời thể hiện tình thương yêu, quý trọng và biết ơn của Tú Xương
đối với người vợ của mình.


<i>Quanh năm bn bán ở mom sơng,</i>
<i>Ni đủ năm con với một chồng.</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(18)</span><div class='page_container' data-page=18>

bán. Quanh năm, bà Tú làm ăn ở đó để kiếm tiền trang trải cho cuộc sống gia đình
gồm hai vợ chồng và năm đứa con thơ.


Quanh năm bn bán có nghĩa là khơng nghỉ ngơi ngày nào. Hơn nữa, chữ mom sông
càng tô đậm thêm cái thế chênh vênh, không vững vàng của công việc làm ăn. Mom
sơng ba bề là nước, có thể đổ ùm xuống sông lúc nào không biết. Ở cái mỏm đất
chênh vênh ấy, hình ảnh bà Tú dường như càng nhỏ bé và cơ đơn. Một mình bà phải
xơng pha nơi đầu sông ngọn nguồn, vất vả tội nghiệp biết bao! Trên đây là thời gian,
không gian và cả tính chất cơng việc làm ăn bn bán của bà Tú.


Tại sao bà Tú lại chấp nhận sự lam lũ, vất vả như thế? Đương nhiên là để nuôi chồng,
nuôi con. Ngày xưa, xã hội phong kiến dành cho phụ nữ bổn phận là thờ chồng, nuôi
con. Với bà Tú, chắc chắn là có chuyện thờ chồng. Thờ chồng bao hàm cả nghĩa vụ
ni chồng. Đó là sự bất cơng của xã hội, nhưng xét về mặt đức độ thì sức đảm đang
tháo vát của những người vợ như bà Tú thật đáng nể phục.


Cái khơng bình thường trong bài thơ là cách đếm số người. Giá như tính gộp lại là sáu
miệng ăn và một mình bà Tú mà phải cáng đáng đến chừng ấy cũng đã là nhiều. Trên
đời, phần lớn phụ nữ cũng gặp cảnh như thế. Đằng này, tác giả đếm rõ ràng là: năm
con với một chồng. Đặc biệt là tách riêng ông chồng ra và đếm là một. Xuân Diệu có
nhận xét rất hay khi đọc câu thơ này: "Hố ra ơng chồng cũng phải nuôi, tựa hồ như
lũ con bé bỏng nên mới đến ngang hàng với chúng nó: một miệng ăn, hai miệng
ăn...".



Mà bà Tú ni chồng đâu có đơn giản như ni con. Cơm ăn đã đành, đơi khi phải có
tí rượu tí trà cho ơng ngâm nga câu thơ câu phú. Áo mặc đã đành, cịn phải có bộ cánh
tử tế cho ơng đi đây đi đó, chứ ai lại để cho ơng quanh năm "Bức sốt nhưng mình vẫn
áo bơng" và "Một đồn rách rưới con như bố". Lại phải cho ơng xổng xểnh ít tiền
trong túi để gặp bạn, gặp bè. Ấy thế mà bà nuôi đủ, tức là đủ cả về số lượng lẫn chất
lượng. Như vậy là bà Tú khơng chỉ ni ơng Tú mà cịn cung phụng, còn thờ.


Nhưng kể ra được những điều ấy chứng tỏ là ông chồng thấu hiểu và biết đánh giá
một cách xứng đáng công lao của bà vợ. Như vậy là thương vợ.


Đến câu thứ ba, hình ảnh bà Tú một mình thui thủi làm ăn càng hiện lên cụ thể và rõ
nét hơn:


<i>Lặn lội thân cò khi quãng vắng,</i>
<i>Eo sèo mặt nước buổi đị đơng.</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(19)</span><div class='page_container' data-page=19>

đị từ các nơi tập hợp lại rất đông. Hiểu cách nào cũng đúng với ý định đặc tả nỗi khó
nhọc, gian nan trong cảnh kiếm ăn của bà Tú.


Bên cạnh nỗi khổ vật chất cịn có nỗi khổ tinh thần. Vì chồng con mà phải lặn lội
đường xa quãng vắng, nhưng liệu chồng con có biết cho chăng? Và bà Tú cứ âm thầm
lo toan như vậy cho đến hết đời, hết kiếp số phận bà là vậy.


Câu thơ miêu tả mà đầy chất trữ tình, nghe thật xót xa, tội nghiệp! Ơng Tú tỏ ra thơng
cảm với nỗi khó nhọc của vợ và thương vợ đến vậy là sâu sắc.


Ơng Tú hiểu thấu cơng việc làm ăn của bà Tú. Khi qng vắng, buổi đị đơng, bà đều
vất vả khó nhọc, khơng kể gian nan, khơng quản thân mình, một lịng vì chồng, vì con.
Bà Tú mà nghe được những lời như thế của ông chắc cũng thấy gánh nặng trên vai


mình nhẹ bớt và trong thâm tâm bà cũng được an ủi ít nhiều.


Nhưng khơng phải chỉ có thế, giọng điệu trữ tình kín đáo lồng trong hai câu tường
thuật miêu tả (câu 3, 4) chứng tỏ tim ông Tú không phải dửng dưng. Thương vợ
nhưng cũng là tự trách mình. Khơng phải chỉ tự coi mình là một miệng ăn để vợ phải
ni mà cịn hổ thẹn, thấy mình có cái gì đó như nhẫn tâm. Ơng chồng trụ cột gia đình
là mình ở đâu rồi mà để vợ phải nhọc nhằn, gian nan đến vậy? Tự trách mình như thế
cũng là thương vợ thêm sâu.


<i>Một duyên hai nợ âu đành phận,</i>
<i>Năm nắng mười mưa dám quản công.</i>


Tú Xương lại vận dụng thêm một thành ngữ, một câu ca dân gian khác: Vợ chồng là
duyên là nợ, Một duyên hai nợ ba tình. Vợ chồng gặp nhau là do ông Tơ bà Nguyệt
sắp đặt từ kiếp trước. Có dun thì tốt đẹp, hạnh phúc, là nợ thì đau khổ một đời.
Có lẽ ở đây, ơng Tú mượn tâm tư bà Tú mà suy ngẫm hay đúng ra, ông hoá thân vào
bà để cảm thông sâu sắc hơn: lấy chồng như thế này thì cũng là duyên hoặc nợ thơi,
số phận đã thế thì cũng đành thế. Cho nên có khổ cực bao nhiêu, năm nắng mười mưa
cũng phải chịu, phải lo, nào dám quản cơng. Chẳng cịn là chuyện thân nữa, dù là thân
cò, mà đã là chuyện phận rồi, chuyện số phận.


Ôi! Lấy vợ lấy chồng, người ta bảo là duyên là nợ, nghĩ cũng đúng thật! Số phận đã
như thế thì cũng đành thơi, chứ biết làm thế nào?! Cái số kiếp người phụ nữ như tấm
lụa đào, như hạt mưa sa, như con thuyền lênh đênh mười hai bến nước, như cơm
nguội đỡ khi đói lịng... Trách làm sao được! Vậy thì cịn dám kể gì gian lao, dám
quản gì mưa nắng!


Lại thêm nghĩa của mấy nhóm từ âu đành, dám quản. Âu đành là một sự bất đắc dĩ,
xếp lại, nén xuống những gì bất bình, tủi nhục. Dám quản tức là khơng dám kể gì đến
cơng lao, là thái độ chấp nhận gánh chịu mọi sự nhọc nhằn. Thêm âm thanh nặng nề


của từ phận ở cuối câu khép lại càng làm cho câu thơ phù hợp với cảm xúc bị dồn nén
vào trong.


</div>
<span class='text_page_counter'>(20)</span><div class='page_container' data-page=20>

hiền, đầy tinh thần vị tha. Hình ảnh bà Tú tiêu biểu cho phẩm chất tốt đẹp của những
người vợ, người mẹ Việt Nam.


Thương vợ mà nói ra là mình thương thì cũng đã q. Ở đây, ông Tú đã nhập thân
vào bà Tú để thấu hiểu nỗi niềm và thể hiện tình cảm của mình bằng những lời thơ
chân thành, thấm thía. Như vậy mà khơng phải là thương vợ sâu sắc hay sao?


Đó là thương vợ, cịn tự trách mình? Ngày ngày ngồi khơng, làm một miệng ăn cho
vợ nuôi, nghiễm nhiên hưởng thụ trong khi vợ phải ngược xuôi tần tảo, nghe cũng đã
có cái gì đó bất nhẫn. Nay vợ thầm ốn trách, tủi hờn mà quy số phận bất hạnh ấy là
do một duyên hai nợ, thử hỏi ông chồng làm sao mà khơng nhận thấy lỗi của mình?
Tự trách đến như vậy là ngồi tình thương vợ đã có thêm ý thức trách nhiệm.


<i>Cha mẹ thói đời ăn ở bạc,</i>


<i>Có chồng hờ hững cũng như không.</i>


Câu kết là một tiếng chửi đổng cái thói đời ăn ở bạc. Khơng phải lần này ông Tú mới
chửi như thế. Trong bài Gặp người ăn xin, ông cũng đã từng chửi – chửi mình mà
thực ra là chửi đời: Người đói, ta đây cũng chẳng no, Cha thằng nào có, tiếc khơng
cho. Chỉ khác ở chỗ là lần này, lời chửi tuy có ném thẳng vào đời, nhưng trước hết là
ném vào mình. Để tự trách mình thì ơng phải chửi. Mà ơng phải đặt câu chửi ấy vào
miệng bà Tú thì mới đích đáng! Nhưng bà Tú vốn con gái nhà dịng, chẳng đời nào lại
chanh chua, thô tục dám chửi chồng. Nhưng đối với ơng Tú thì tự trách đến mức phải
bật ra tiếng chửi như thế là giận mình thật sự. Bài thơ ông viết ra cốt để bày tỏ tình
thương yêu, quý trọng người vợ đảm đang và tự trách mình là đồ tầm thường, vơ tích
sự.



Bà Tú vất vả đến thế, ơng Tú tự trách mình đến thế thì đương nhiên là phải bực bội
đến bật ra tiếng chửi. Nhận lỗi chưa đủ, nguyền rủa mình bằng câu chửi đổng mới
xứng với tội lỗi, ông Tú lại chẳng dè dặt gì với chữ nghĩa mà dùng ln cách chửi dân
gian: Cha mẹ thói đời.


Bà Tú khơng hề coi chồng là ăn ở bạc, nhưng ơng Tú thì gọi đích danh tội lỗi của
mình ra như vậy, vợ chồng với nhau mà như thế thì cịn gì mà khơng ơng Tú lại
khơng nói trực tiếp là mình ăn ở bạc mà khái quát nó lên thành thói đời. Thói đời đen
bạc tượng trưng cho bản chất của xã hội kim tiền dưới thời thực dân phong kiến, ở
thành thị điều đó càng tệ hại hơn. Hố ra đệ tử của thánh hiền là ông Tú mà cũng bị
nhiễm cái thói đời xấu xa ấy. Như vậy là từ hổ thẹn, ơng Tú đã đi tới chỗ xót xa, tự
trách.


Câu kết là sự phán xét vô cùng đau đớn nhưng cũng rất cơng minh, ơng Tú xỉ vả mình
là ăn ở bạc, nhưng xét ra cái bạc ấy cũng chỉ mới ở mức hờ hững. Hờ hững trước việc
nhà, trước mọi lo toan, vất vả, trước thái độ cam phận của vợ. Đã là vợ chồng, trăm sự
cùng lo mới phải. Bà Tú không bắt buộc ông vất vả như bà mà chỉ mong ông đừng hờ
hững, ông hãy quan tâm lo cho gia đình chút ít, trước hết là ông hiểu cho bà, như thế
cũng đủ cho bà ấm lịng và có niềm vui.


</div>
<span class='text_page_counter'>(21)</span><div class='page_container' data-page=21></div>

<!--links-->
đề tài phân tich Thương mại điện tử về khách hàng, kỹ thuật - đề tài kinh doanh Cửa xây dựng.doc
  • 18
  • 597
  • 1
  • ×