Tải bản đầy đủ (.doc) (10 trang)

Bài tập môn làng xã cổ truyền việt nam: Hương ước, nội dung của hương ước và vai trò của hương ước trong đời sông làng xã của người Việt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (60.02 KB, 10 trang )

Bài tập môn làng xã cổ truyền việt nam

Đề bài: Hương ước, nội dung của hương ước và vai trò của hương ước
trong đời sông làng xã của người Việt.
Bài làm
Trong kho tàng văn hóa đa dạng và đặc sắc của các dân tộc Việt Nam có
một di sản vơ cùng q giá, đó chính là hương ước mà mỗi người vẫn quen
gọi là lệ làng. Hương ước là biều hiện quan trọng của văn hóa dân gian ở
làng quê và nó mang đặc điểm của ý thức của mỗi người dân trong mỗi làng.
Hướng ước, luật làng đã cùng tồn tại song song với luật pháp nắm giữ vai trò
quan trọng trong đời sống cộng, cắm rễ ăn sâu vào nếp cảm, nếp nghĩ của của
con người.
I.Hương ước
Hương ước là thuật ngữ gốc hán, khi du nhập vào việt nam nó vẫn
được giữ nguyên nghĩa. Hương ước là những quy ước, điều lệ của một cộng
đồng chung sống trong một khu vực. Là bản pháp lý đầu tiên của các làng xã
nhằm góp phần điều hịa các mối quan hệ trong xã hội cộng đồng. Hương
ước là bản ghi chép các điều lệ mang tính bắt buộc phải tuân thủ, liên quan
đến đời sống của cộng đồng cư dân sống trong làng. Các điều lệ này hình
thành dần trong lịch sử và được điều chỉnh bổ sung mỗi khi cần thiết.
Hương ước đã xuất hiện từ thời Lê Thánh Tơng, đến đời Trần nó tồn
tại tương đối phổ biến trong các Việt ở đồng bằng trung du Bắc bộ. Đây là
nguồn sử liệu quý giúp chúng ta nghiên cứu về phương thức quản lý nông
thôn khá hiệu quả của ông cha ta. Hầu hết các hương ước đều đề cập nội
dung chính như: an ninh chật tự, cơng ích công lợi, quan hệ ứng xử, thưởng
phạt, thờ cúng... những quy ước được tuân thủ qua nhiều thế hệ đã trở thành
1


thông lệ phương hướng, luật tục của từng cộng đồng cư dân ở nông thôn.
Trong mỗi làng Phú Thọ hương ước ở phần đầu mở đầu đã nêu rõ mục


đích:”Làng có hương ước cũng như nước có luật lệ khơng giữ được hịa bình
cho nước, trong mọi làng khơng có khốn ước khơng giữ được nền trật tự cho
làng. Cho nên đã có nước phải có luật, đã có làng phải có khốn ước, làng từ
cổ phing tục khốn lệ đã có rồi nhưng phần lớn là truyền miệng, khơng có
điều gì làm quy định, làm chuẩn đích cả vả lại nay phong hóa ngày một thay
đổi lại cho hợp trình độ nhân tình, vì vậy đồng xã hội hợp tác cơng đình châm
chước những tục lệ cổ, điều nào nên theo thì để, điều nào dở thì sửa
lại ( Hương ước làng Hùng Nhĩ- tổng Cự Thắng Châu Thanh Sơn)
Hương ước đã trở thành” Bản hiến pháp” của làng khi nó tạo ra sự ràng
buộc, áp đặt và cưỡng chế của cộng đồng làng xã đối với mỗi cá nhân, nắm
cá nhân để nắm tổ chức buộc nó phải vận hành thống nhất. Hương ước còn
quy định trách nhiệm của một tổ chức hay hạng dân đối với cộng đồng làng
xã chẳng hạn việc tuần phòng, đắp hào lũy, biện lễ thờ thành hoàng, cắt cử
người phục vụ tế lễ, rước xách trong các tiệc làng được quy định cụ thể cho
các ngõ xóm, phe giáp. Từ xóm ngõ phe giáp lại phân công đến các thành
viên cùng thực hiện, cá nhân nào khơng hồn thành nhiệm vụ thì tổ chức mà
người đó tham gia phải chịu hình phạt.
II.Nội dung cơ bản hương ước
1.Hương ước các làng quy định về chế độ ruộng đất
Nhưng điều kiện tự nhiên đặc trưng đã quy định nước ta là một nước
nông nghiệp. Nền sản xuất nông nghiệp được thể hiện rõ nét nhất ở nông
thôn, đặc biệt là ở các làng xã. Hương ước các làng đều khẳng định “ việc
nhà nông là cái gốc lớn” để bảo về, phát triển sản xuất và đều ra một số quy
định về sử dụng ruộng đất. Như hương ước làng Quỳnh Đôi – Nghệ An có tới
4 điều khoản nói về vấn đề này trong đó điều 9 quy định “làng xét các nơi
trong đơng điền nơi nào trồng hoa quả thì trồng cho hết không được bỏ
hoang... Nếu người không cày bừa để ruộng vườn hoang thì phạt”. Hay như ở
2



làng Quýt Lâm, khoản thứ 25 của hương ước của làng quy định về ruộng đất
của làng:” một sở vườn đình giao cho tự thừa coi giữ. Một sở vườn nghĩa từ
giao cho phù trường coi giữ. Một sở vườn nhà nhóm giao cho giáp làng coi
giữ. Một sở vườn đình giao cho từ thừa cày làm...”.
2. Hương ước các làng về trật tự an ninh
trong nhiều hương ước quy định rất cụ thể nhiều khi đến ngặt nghèo,
để ngăn chặn các tệ nạn xã hội như trộm cắp, rượu chè, cờ bạc, nam nữ quan
hệ bất chính. Hay như các quy định về chế độ canh phòng bảo vệ trật tự trị an
trong làng xóm, bảo vệ hoa màu ngoài ruộng đồng. Điều này đã phát huy
được tinh thần tự quản, tinh thần đoàn kết và cố kết của người nông dân với
làng xã làm cho cuộc sống ở đây có trật tự, làm cho làng trở thành pháo đài
kiên cố ngăn chặn giặc ngoại xâm, trộm cướp. Trong lịch sử chống giặc ngoại
xâm địch chỉ chiếm được đô thị, kinh kỳ còn khi đến các làng chúng bị thất
bại trước sự tấn công và nổi dậy mạnh mẽ của dân binh phối hợp với quân
triều đình.
3. Hương ước các làng về quan hệ xã hội
hương ước không chỉ quy định nghĩa vụ của mỗi cá nhân, mỗi cộng
đồng mà còn định rõ trách nhiệm của cộng đồng trong việc bảo vệ, giúp đỡ
lẫn nhau giữa các thành viên trong đời sống thường nhật; hương ước khuyên
răn mọi người ăn ở hịa thuận theo đúng đạo hiếu gia đình, giữ gìn tình làng
nghĩa xóm, giúp đỡ nhau lúc hoạn nạn, túng thiếu hay gặp công to việc lớn
trong nhà. Những trường hợp đánh cãi chửi nhau, triệt hạ lúa màu, gia súc,
gia cầm của nhau đều bị phạt nặng. Mọi người tìm thấy ở xóm làng khơng
chỉ chỗ dựa về vật chất mà chủ yếu ở tinh thần, một sự đùm bọc giúp đỡ vô
tư giữa những người lao động. Quan tâm đến việc cơng ích, tích cực đóng
góp xây dựng làng xã hoàn thành đầy đủ các nghĩa vụ với làng, với
nước. Trước hết từng làng phải đảm bảo đầy đủ các nghĩa vụ với nhà nước về
sưu thuế, binh dịch. Ngoài ra từng làng tự đảm nhiệm các công việc liên quan
như thủy lợi, giao thông, đê điều, xây dựng các cơng trình bảo vệ xóm làng
3



như : hàng rào, cổng làng, tổ chức thờ cúng. Hương ước quy định trách
nhiệm cho từng tổ chức, cá nhân và các hàng dân trong làng. Vì vậy các
nghĩa vụ có liên quan đến trách nhiệm của cơng dân được thực hiện. Người
nông dân tham gia đầy đủ các công việc trong làng với ý thức trách nhiệm họ
cũng đòi hỏi những thành viên khác cũng phải thực hiện như thế.
4. Hương ước các làng về đời sống tinh thần
Những quy định của hương ước về trách nhiệm của tổ chức, cá nhân
trong việc tu bổ đến miếu, đình chùa, phục vụ lễ tết rước sách thờ Thần, thờ
Phật đã được người dân tuân thủ nghiêm túc, vì lẽ này mà hệ thống đình
chùa, đền miếu của các làng thường xuyên được tu bổ tăng thêm một nét đẹp
trong cảnh quan của làng xóm. Nhiều đình chùa có giá trị cao nghệ thuật kiến
trúc được xây dựng ở những vị trí đẹp một khơng gian thống đãng đã trở
thành niềm tự hào của không chỉ một làng mà của cả tỉnh. Bên cạnh các thiết
chế tơn giáo, tín ngưỡng người nông dân tổ chức nhiều lễ hội: Lễ hội nông
nghiệp cầu mùa, cầu mưa, hội phồn thực giao duyên, hội hát Xoan hát Ghẹo,
hát Ví, các trị diễn hội làng, các môn thể thao dân tộc: Vật, võ, cờ tướng, cờ
người, ném còn thu hút sự tham gia của rất nhiều người không phân biệt sang
hèn đều say mê với những lễ thức trò diễn, tưởng nhớ các vị thần có cơng với
nước, với làng. Thơng qua việc thờ cúng và các hoạt động văn hóa khác biểu
lộ mối cộng cảm với nhau, xích lại gần nhau hơn. Hội làng ngoài việc đáp
ứng được các yêu cầu về tâm linh và văn hóa cịn có tác dụng giáo dục truyền
thống đạo lý “uống nước nhớ nguồn” và củng cố tinh thần cộng đồng. Hội
làng cùng với sinh hoạt phong phú là môi trường tốt nhất để bảo tồn các giá
trị di sản văn hóa, làng xã, văn hóa dân tộc.
Ngồi ra hương ước các làng cịn ghi nhận về mặt giáo dục. Hương ước
đã khẳng định vai trò của giáo dục đối với sự phát triển của xã hội:” dân làng
nhà ai có con phải cho đi học, vì trong làng có nhiều người đi học thì mới có
văn minh tiến hóa được. Cấm cho con lêu lổng”.(hương ước làng tố xuyên).

Trong Hương ước xưa cũng có nhiều điều “khuyến”. Như trong bài truyền
4


thống khuyến học của người Hà Nội xưa qua Hương ước (Tạp chí Xưa và
Nay - số tháng 10-1998) đã ghi lại nhiều điều trong Hương ước một số làng ở
Hà Nội với nội dung chính là khuyến khích việc học hành. Như điều 102
trong Hương ước làng Nhật Tân ghi lại rằng: “Dạy trẻ con có học thức phổ
thơng là nghĩa vụ của người làm phụ huynh, không ai được từ”. Hương ước
làng Phù Xá Đồi (Đơng Anh), có điều khoản ghi: “Con trai con gái 5,6 tuổi
cho vào trường học. Bằng không cho đi học, chỉ nuông con để nghịch giặc,
chửi đánh nhau, thời bố mẹ phải phạt một cơi trầu (10 quả cau, giá tiền một
hào)”, Hương ước làng Cổ Nhuế, điều 98 ghi: “Làng trích tiền công để mua
giấy cho những con nhà nghèo mà hương hội xét không thể mua được”. Hầu
như làng nào cũng có khoản học điền để dành quỹ trả lương cho thầy giáo
trưởng làng và phát phần thưởng cho học trò giỏi, nhằm thúc đẩy tinh thần
hiếu học, ham học hỏi của người dân.Trước kia, nếu trong làng có ai đó đỗ
đạt cao trong các kỳ thi thì dân làng sẽ tổ chức lễ vinh qui bái tổ thật long
trọng, có thể xem đó như một ngày hội lớn của cả làng.Mỗi người trong làng
sẽ đóng góp cỗ mừng gồm : một con lợn, một chĩnh rượu bằng hai quan tiền
sử, một mâm xôi lớn bằng một trăm thăng nếp, rồi chuẩn bị chu tất nghi
trượng của đám rước như hương án, dù, cờ, lọng, chiêng, trống, gậy... và độ
sáu mươi người đi theo đám rước... Khơng chỉ có thế các nho sĩ đỗ đạt còn
được mừng và nhận rất nhiều những thứ tặng phẩm khác nữa, được ngồi
chiếu trên ở Đình, được góp tiếng nói quyết định vào cơng việc của làng xã.
Khi mất,các bậc nho sĩ ấy sẽ được xếp vào hạng Tiên hiền, được khắc tên vào
văn bia, nhận ruộng tế và được dân làng tổ chức tế lễ hàng năm.
III. Vai trò của hương ước trong đời sống làng xã người Việt
1.Ảnh hưởng tích cực
Hương ước giúp bảo tồn và giữ gìn các danh lam thắng cảnh, đền thờ,

bảo vệ mơi trường của làng nói riêng và của tồn dân tộc nói chung. Những
phân tích trên đã cho thấy bảo vệ môi trường, bảo vệ các danh lam thắng
cảnh, giữ gìn mơi trường, các đền chùa, miếu mạo của làng xã là một trong
5


những nội dung cơ bản của Hương ước. Điển hình như thời gian qua là tại xã
Nghi Sơn, Quế Sơn, Quảng Nam, nơi có một khu rừng nhỏ mang tên Miếu
Cấm đã được cả dân làng nâng niu bảo vệ, nguyên nhân là từ một bản Hương
ước truyền từ đời xa xưa quy định: “Cấm cư dân trong làng vào rừng chặt củi
làm than. Nếu vi phạm sẽ bị làng xử phạt. Nhẹ thì cảnh cáo, nặng thì địn roi,
nghiêm trọng hơn thì đuổi ra khỏi làng”. Từ đó, khơng những chỉ người dân
trong làng, mà ngay cả những cư dân nơi khác cũng không dám vào săn bắt,
chặt cây, dù rừng có rất nhiều các loại gỗ quý.
Hương ước góp phần duy trì và phát huy thuần phong, mỹ tục và
truyền thống văn hoá cộng đồng, củng cố các giá trị đạo lý và nhân bản. Nuôi
dưỡng, vun đắp ý thức cộng đồng, tinh thần đoàn kết, tinh thần bất khuất,
tinh thần tự lực, tự chủ cho mỗi thành viên trong cộng đồng làng xã, xây
dựng ý thức cộng đồng làng xã.
Tổ chức và quản lý các mặt của đời sống làng xã, duy trì trật tự, kỷ
cương, tạo ra mơi trường ổn định và an tồn cho cả cộng đồng làng xã. Căn
cứ các Hương ước cổ còn đến ngày nay ta thấy, hầu như quy định trong các
bản Hương ước đều thể hiện tinh thần ý thức hệ Nho giáo. Đó là các quy định
về “Tam cương, ngũ thường”, về “tôn ti trật tự” trong các quan hệ có tính thứ
bậc trong làng xã. Từ đó, Hương ước đã góp phần điều chỉnh các mối quan
hệ xã hội cụ thể trong làng xã. Việc phát huy tinh thần tự chủ, tự giác, tự
quản làng xã cùng dư luận xã hội và các biện pháp thưởng, phạt khác đã giúp
cho trật tự, kỷ cương làng xã được thực hiện một cách rất nghiêm chỉnh, nhờ
đó đã giúp rất nhiều cho sự phát triển của làng xã hôm nay.
Hương ước không chỉ là biểu hiện của pháp luật mà còn giúp khắc

phục các chỗ hổng của pháp luật hoặc pháp luật quy định chưa cụ thể; Đưa
pháp luật đi vào đời sống người dân một cách dễ dàng hơn. Pháp luật dù cụ
thể đến mấy cũng không thể bao quát được tất cả các đặc thù của quan hệ
làng xã. Đặc biệt là các làng xã cổ truyền Việt Nam bên cạnh các đặc điểm có
tính phổ qt, mỗi làng xã lại có các đặc điểm riêng của mình. Do vậy, mỗi
6


một cộng đồng làng xã cụ thể luôn cần đến các quy định gần gũi, dễ hiểu, dễ
thực hiện cho mọi thành viên trong làng, phản ánh được nhu cầu tổ chức và
phát triển vủa mỗi làng, xã cụ thể. Bên cạnh đó, khi có những chính sách của
Nhà nước đưa xuống các vùng nơng thơn thì nhờ có Hương ước của các làng
nên việc thực thi những chính sách đó được thực hiện một cách nghiêm chỉnh
hơn, nâng cao ý thức pháp luật của người dân ta. Trong ý nghĩa ấy, Hương
ước là phương tiện, công cụ bổ sung quan trọng cho khả năng điều chỉnh của
luật nước, thể hiện ở các việc cụ thể: Hương ước biến các quy định chung của
pháp luật thành các quy định cụ thể của làng: đơn giản hoá các quy định của
luật nước, làm cho ý thức hệ pháp luật của Nhà nước trở nên gần gũi và thâm
nhập vào hệ tư tưởng, vào tâm lý và lối sống của mỗi người dân, làm pháp
luật trở nên dễ hiểu, dễ áp dụng. Với lối hành văn dung dị, có vần điệu theo
dân gian, Hương ước đi vào đời sống một cách tự nhiên, nên thấm sâu vào
đời sống cộng đồng mà ít cần đến các phương tiện tuyên truyền, phổ biến ồn
ào, tốn kém.
2.Ảnh hưởng tiêu cực
Có nhiều các bản Hương ước mang theo những quan niệm lạc hậu,
chứa những yếu tố tiêc cực, gây ảnh hưởng cho sự phát triển của làng xã, cản
trờ việc thực hiện các chính sách phát triển của nhà nước. Trong thực tiễn đời
sống pháp lý ở làng xã cổ truyền Việt Nam, quan niệm “phép vua thua lệ
làng” đã tạo điều kiện cho sự thể hiện các tác động tiêc cực của bản thân mỗi
Hương ước. Vì bên cạnh các giá trị tích cực như đã nói ở trên, thì nhiều

Hương ước cũng chứa đựng khơng ít các quy tắc mang tính tiêu cực, thể hiện
tinh thần cục bộ địa phương, bè phái trên cơ sở “tâm lý làng” và bởi tư duy
“ăn cây nào rào cây ấy”, “ở đình nào chúc đình ấy”, “trống làng nào làng ấy
đánh, thánh làng nào làng ấy thờ”, ít quan tâm đến lợi ích của làng khác và
lợi ích của cả nước. Ví dụ như các bản Hương ước có quy định hủ tục về ma
chay, cưới hỏi, hội hè… làm tốn kém tiền của, thời giờ, thậm chí phá vỡ hạnh
phúc của nhiều người. Ngồi ra, có nhiều bản Hương ước đã ăn sâu vào tiềm
thức của người dân, khiến cho việc tiếp nhận những chính sách, những kinh
7


nghiệm tiến bộ bị cản trở, nhất là ở những nơi vùng sâu, vùng xa, khi mà
trình độ dân trí cịn thấp thì việc tiếp nhận được những tiến bộ để thay đổi các
hủ tục đã có từ lâu thì lại càng khó hơn. Hiện tượng bộ phận chức dịch trong
làng thường lợi dụng Hương ước để trốn tránh nghĩa vụ trước Nhà nước, đục
khoét dân làng. “Tâm lý làng” với đầy rẫy các quy tắc về hệ thống đẳng cấp,
ngôi thứ trong làng đã được giới chức dịch trong làng bao đời lợi dụng để trói
buộc người nơng dân vào hằng hà vô số các nghĩa vụ, trách nhiệm, cấm đoán
và hạn chế.
Thời gian qua, sau lũy tre làng có biết bao nhiêu biến cố, đổi thay đã
xảy ra nhưng dường như sức mạnh thời gian khơng thể xóa nhịa được những
bản sắc tốt đẹp của người Việt. Có thể bây giờ, khi nhắc đến hương ước lệ
làng không còn thấy khắt khe như trước nữa nhưng trong long lại cảm thấy tự
hào xiết bao về cha ông ta, dân tộc ta. Có thể nói, hương ước có vai trị vơ
cùng quan trọng trong việc ổn đinh trật tự làng xã, sức mạnh của nó một phần
dựa vào hình phạt(cao nhất là đuổi khỏi làng), một phần dựa vào phần
thưởng. Tuy nhiên, sức mạnh lớn nhất là ở dư luận khen- chê của dân làng.
Vì vậy, yêu cầu đặt ra là phải xây dựng những bản hương ước phù hợp với
nếp cảm, nếp nghĩ của từng địa phương, đồng thời vẫn phải đảm bảo tuân thủ
pháp luật, phù hợp với thực trạng phát triển của mỗi địa phương. Bên cạnh

những yếu tố tích cực, hương ước cũng tồn tại những yếu tố tiêu cực như sự
lợi dụng hương ước để hà hiếp dân của cường hào, ác bá trong làng...

8


9


10



×