Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (147.97 KB, 10 trang )
<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>
<b>NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG DÂN SỐ THÔNG QUA XÂY DỰNG VÀ MỞ RỘNG</b>
<b>HỆ THỐNG SÀNG LỌC TRƯỚC SINH VÀ SÀNG LỌC SƠ SINH</b>
<i> (Tài liệu phục vụ lớp Đào tạo báo cáo viên – Chi cục Dân số - KHHGĐ)</i>
<b>I. TỔNG QUAN SÀNG LỌC TRƯỚC SINH VÀ SƠ SINH</b>
<b>1. Trên thế giới</b>
<i><b>1.1. Tình hình khuyết tật, dị tật bẩm sinh</b></i>
Hiện nay, trên thế giới mơ hình bệnh tật đang có xu hướng chuyển từ các bệnh
nhiễm khuẩn sang các bệnh rối loạn chuyển hóa, di truyền, tai nạn và thương tích
do những thay đổi nhiều mặt về môi trường, điều kiện sống và lối sống. Các bệnh
rối loạn chuyển hóa và di truyền phần lớn có ảnh hưởng nghiêm trọng đến q
trình phát triển thể chất, trí tuệ và tinh thần như đần độn, chậm lớn, chậm phát
triển, rối loạn phát triển giới tính, hạn chế khả năng học tập và lao động….Một số
bệnh trong nhóm này phát hiện và điều trị sớm ngay từ giai đoạn bào thai và sơ
sinh, có thể gúp cho trẻ phát triển bình thường hoặc tránh được những hậu quả
nặng nề về thể chất và trí tuệ.
Nghiên cứu của tổ chức Y tế thế giới với số liệu từ 25 Trung tâm thống kê dị tật
bẩm sinh của 16 nước qua 4.228.718 lần sinh cho thấy tỉ lệ dị tật bẩm sinh (DTBS)
ở trẻ sơ sinh là 1,73%. Tác giả Kenendy đã thống kê số liệu về DTBS từ năm 1901
đến 1960 trong 238 cơng trình nghiên cứu với 29 triệu lần sinh thấy tỉ lệ DTBS
chung là 1,08%.
Can thiệp, điều trị bệnh ở giai đoạn bào thai và sơ sinh là một hướng tích cực
làm giảm thiểu tỉ lệ người tàn tật, thiểu năng trí tuệ trong dân cư.
<i><b>1.2. Chương trình sàng lọc trước sinh, sơ sinh.</b></i>
Sàng lọc trước sinh (DTBS) đã được đề xướng thực hiện từ những năm 70.
Thời gian đầu, người ta sử dụng các xét nghiệm đơn lẻ để phát hiện sự tăng hoặc
giảm bất thường của một số chất trong máu mẹ (được gọi là chất Chỉ điểm huyết
<i>thanh) như Alpha Fetoprotein (1984), HCG toàn phần hay bán phần alpha và beta</i>
(từ 1987), Estriol không liên hợp (1987), Inhibin A (1996), PAPP-A (1990)…
hình hữu hiệu góp phần giảm thiểu sơ sinh bị các dị tật dị dạng và một số bệnh di
truyền không chữa trị được.
Sàng lọc sơ sinh để chẩn đốn, điều trị các bệnh rối loạn chuyển hóa được thực
hiện từ năm 1960 (Hoa Kỳ), sau đó mở rộng ra các nước châu Âu và đến năm
1982, sàng lọc sơ sinh trở thành chương trình quốc tế.
Ở châu Á, chương trình sàng lọc sơ sinh cũng sớm được triển khai ngay từ
những năm đầu của thập kỷ 60, như: Nhật Bản từ năm 1965 đã đạt 100% trẻ sơ
sinh được sàng lọc 5 bệnh (Suy giáp trạng bẩm sinh, Phenylkettonuria-PKU,
<i>Galactosemia, Tăng sản thượng thận bẩm sinh, Thiếu men G6PD); Hồng Kông, từ</i>
năm 1984 gần 100% trẻ sơ sinh đã được sàng lọc 02 bệnh thiếu men G6PD và suy
giáp trạng bẩm sinh; Thái Lan từ năm 1996 đến nay có khoảng 60% trẻ sơ sinh
được sàng lọc 02 bệnh là bệnh suy giáp trạng bẩm sinh và PKU; Phillipine, từ năm
1996 đã triển khai sàng lọc 5 bệnh; Trung Quốc, 95% số trẻ sơ sinh hàng năm tại
một số thành phố lớn như Bắc Kinh, Thượng Hải, Thiên Tân, Quảng Châu… được
sàng lọc một số tật, bệnh bẩm sinh.
Chương trình sàng lọc trước sinh và sàng lọc sơ sinh đã thực hiện sàng lọc và
phát hiện được khoảng 30 loại bệnh rối loạn chuyển hóa, di truyền ngay từ giai
đoạn bào thai và sơ sinh. Các kỹ thuật xét nghiệm chẩn đốn cũng như thu thập
bệnh phẩm có nhiều tiến bộ, có thể thực hiện được một các rộng rãi. Đặc biệt với
kỹ thuật lấy giọt máu gót chân lên giấy thấm chuyên dùng để có thể vận chuyển
qua đường bưu điện từ các vùng xa xôi về các phịng xét nghiệm đã cho phép mở
<b>2. Ở Việt Nam</b>
<i><b>2.1. Tình hình khuyết tật, dị tật bẩm sinh.</b></i>
Theo kết quả tổng điều tra dân số và nhà ở 1/4/2009, ở Việt Nam có khoảng
12,1 triệu người khuyết tật từ mức “khó khăn” trở lên, chiếm 15,5% dân số từ 5
tuổi trở lên. Trong đó có khoảng 574.000 người khuyết tật loại đặc biệt nặng
<i>(khơng thể nhìn, nghe, vận động hoặc ghi nhớ) chiếm 0,7% dân số từ 5 tuổi trở lên.</i>
Kết quả nghiên cứu những dị tật được chẩn đoán sau sinh trên cơ sở khám lâm
sàng, cận lâm sàng trong 3 năm (2001-2003) tại Bệnh viện Phụ sản trung ương,
những trường hợp sinh ra bị dị dạng là 2,7%, cao hơn các kết quả nghiên cứu tiến
hành trước năm 2000 dao động từ 0,7% đến 1,64%. Báo cáo kết quả “Khảo sát,
<i>đánh giá thực trạng dị tật, khuyết tật bẩm sinh và thai phụ có yếu tố nguy cơ cao</i>
<i>tại một số địa phương” năm 2008 (Đỗ Ngọc Tấn và cộng sự) cho thấy tỷ lệ mắc dị</i>
tật bẩm sinh trong nhóm tuổi 0-5 tại địa bàn điều tra chiếm tỷ lệ từ 1-1,4%.
trẻ sinh ra có dị tật bẩm sinh. Tỷ lệ dân số bị thiểu năng trí tuệ hàng năm vẫn tiếp
tục tăng thêm do số trẻ sinh ra bị dị tật và các bệnh bẩm sinh chưa được kiểm soát
đầy đủ và tỷ lệ dị tật bẩm sinh cịn cao, cùng với tác động có hại của môi trường
sống.
Sàng lọc phát hiện can thiệp sớm các dị tật, dị dạng thai nhi thông qua sàng lọc
trước sinh cùng với phát hiện, can thiệp và điều trị sớm các bệnh chuyển hóa di
truyền thơng qua sàng lọc sơ sinh giúp giảm tỷ lệ tàn tật, giảm tỷ lệ người thiểu
năng trí tuệ là thiết thực góp phần nâng cao chất lượng dân số.
<i><b>2.2. Chương trình sàng lọc trước sinh và sơ sinh.</b></i>
<b>a) Sàng lọc trước sinh</b>
Ở Việt Nam, các kỹ thuật chẩn đoán trước sinh đã được thực hiện tại một số
bệnh viện trong toàn quốc. Bệnh viện Từ Dũ, TP Hồ Chí Minh đã thực hiện
chương trình sàng lọc và chẩn đốn trước sinh từ năm 1999 bằng siêu âm, xét
nghiệm sinh hóa, di truyền. Bệnh viện Phụ sản Trung ương bắt đầu thực hiện các
chẩn đoán DTBS từ năm 2002, Trung tâm chẩn đoán trước sinh thuộc Bệnh viện
Phụ sản Trung ương (thành lập năm 2006) đang triển khai mở rộng các kỹ thuật
chẩn đốn và sàng lọc bệnh trước sinh. Ngồi ra một số các Bệnh viện như Hùng
Vương, Bệnh viện Trung ương Huế hiện cũng đang cung cấp các dịch vụ này.
Thực tế tại các bệnh viện này cho thấy Việt Nam hồn tồn có thể thực hiện và
từng bước mở rộng sàng lọc DTBS ra phạm vi cả nước.
<b>b) Sàng lọc sơ sinh</b>
Việt Nam bắt đầu sàng lọc các bệnh chuyển hóa di truyền ở sơ sinh rất muộn so
với các nước trong khu vực. Sàng lọc sơ sinh được xem như khởi đầu vào năm
1998 với sự kiện Bệnh viện Nhi Trung ương tham gia dự án RAS/6/032 do cơ
quan Nguyên tử Năng lượng Quốc tế (IAEA) tài trợ. Từ năm 1998 - 2004 sàng lọc
sơ sinh phát hiện các bệnh rối loạn chuyển hóa di chuyền chủ yếu thơng qua các dự
án thử nghiệm nhỏ lẻ do các tổ chức quốc tế tài trợ. Năm 2004-2005 Ủy ban Dân
số, Gia đình và Trẻ em Việt Nam trước đây, nay là Bộ Y tế đã phối hợp với Bệnh
viện Nhi Trung ương xây dựng mơ hình sàng lọc sơ sinh phát hiện các rối loạn
chuyển hóa di truyền. Các bệnh được thử nghiệm sàng lọc là suy giáp trạng bẩm
sinh và thiếu men G6PD.
chuyên môn, kỹ thuật về sàng lọc trước sinh và sàng lọc sơ sinh (SLTS và SLSS)
cho các tỉnh triển khai đề án trong khu vực. Đến năm 2011, đề án đã được triển
khai, mở rộng tại 3.633 xã/ phường và 430 quận/ huyện thuộc 51 tỉnh, thành phố.
c) Các hoạt động chủ yếu được triển khai
Đối với các trung tâm khu vực:
- Chỉ đạo, tổ chức và điều phối các hoạt động về SLTS và SLSS giữa các tuyến;
- Biên soạn giáo trình chun mơn về siêu âm, chẩn đốn dị tật thai nhi SLSS
và các bệnh nội tiết- di truyền, các kỹ thuật xét nghiệm, sinh hóa…
- Xây dựng các tài liệu tuyên truyền, giáo dục có liên quan đến SLTS và SLSS;
- Tổ chức các lớp đào tạo về chuyên môn trong sàng lọc, chẩn đoán trước sinh
và sơ sinh;
- Chịu trách nhiệm về hỗ trợ, chuyển giao kỹ thuật SLTS và SLSS cho các tỉnh
tham gia đề án trong khu vực do Trung tâm quản lý;
- Trả kết quả và thông báo đến địa phương các trường hợp tuyến dưới gửi lên
theo quy định;
- Theo dõi, giám sát việc thực hiện ở tuyến dưới; Quản lý và điều phối hệ thống
gửi mẫu máu từ tuyến dưới lên; Xây dựng phần mềm quản lý các số liệu liên quan
đến SLTS và SLSS. Tổng hợp, báo cáo kết quả triển khai thực hiện Đề án cho cơ
quan chủ quản và cơ quan chủ trì.
Đối với Ban quản lý đề án các tỉnh, thành phố.
- Chỉ đạo, tổ chức và điều phối các hoạt động về SLTS và SLSS ở địa phương;
- Phối hợp tổ chức đào tạo chuyên môn, kỹ thuật, tư vấn về SLTS và SLSS cho
cán bộ Y tế, tuyên truyền viên là cán bộ DS-KHHGĐ các cấp, địa phương tại các
địa bàn triển khai đề án.
- Tổ chức các hoạt động tuyên truyền, vận động, tư vấn về SLTS và SLSS tại
địa phương, cộng đồng;
- Cử cán bộ đi tập huấn về siêu âm, chẩn đoán trước sinh, sàng lọc sơ sinh và
các bệnh nội tiết - di truyền, các kỹ thuật xét nghiệm sinh hóa…
- Chịu trách nhiệm về tiến độ thực hiện Đề án tại địa phương;
- Trả kết quả và thông báo đến người dân; Gửi mẫu máu lên Trung tâm sàng lọc
khu vực;
<b>II. KẾT QUẢ TRIỂN KHAI THỰC HIỆN</b>
<b>1. Địa bàn triển khai:</b>
- Đến năm 2011, Đề án sàng lọc trước sinh và sàng lọc sơ sinh được triển khai
tại 3.633 xã/ phường của 430 quận/huyện thuộc 51 tỉnh/thành phố; trong đó tiếp
tục duy trì triển khai các hoạt động SLTS và SLSS tại 288 huyện, 2.320 xã địa bàn
đã thực hiện từ năm 2010 trở về trước; mở rộng thêm tại 1.313 xã/ phường và 142
quận/ huyện.
- Ba trung tâm sàng lọc khu vực được thành lập, chịu trách nhiệm hỗ trợ về
chuyên môn, kỹ thuật là: Bệnh viện Phụ sản Trung ương tại 18 tỉnh phía Bắc;
Trường ĐH Y Dược Huế tại 13 tỉnh miền Trung và Tây Nguyên; Bệnh viện Từ
Dũ- TP Hồ Chí Minh tại 20 tỉnh phía Nam.
<b>2. Kết quả thực hiện nhiệm vụ đề án đến tháng 12 năm 2011</b>
Cho đến nay, các tỉnh, thành phố thực hiện đề án đã triển khai có hiệu quả các
hoạt động tuyên truyền vận động, tư vấn cho cộng đồng, tạo được nhu cầu và
chuyển đổi hành vi đối với nhân dân địa phương về sàng lọc trước sinh và sàng lọc
<b>a. Mơ hình tổ chức và mạng lưới cung cấp dịch vụ</b>
- Xây dựng được mạng lưới thực hiện các dịch vụ kỹ thuật sàng lọc trước sinh
và sơ sinh theo phân cấp kỹ thuật: Với sàng lọc trước sinh tổ chức các điểm cung
cấp dịch vụ đến cấp huyện; Với sàng lọc sơ sinh tổ chức các điểm lấy mẫu máu
đến tuyến xã.
- Xây dựng mạng lưới tuyên truyền, vận động, tư vấn và quản lý đối tượng do
hệ thống dân số tuyến tỉnh, huyện, xã thực hiện.
<b>b. Cơ sở vật chất, trang thiết bị kỹ thuật sàng lọc trước sinh và sơ sinh.</b>
- Trang thiết bị phục vụ sàng lọc, chẩn đoán trước sinh và sơ sinh được hỗ trợ
đầu tư cho cả tuyến tỉnh và các trung tâm khu vực:
+ Cấp tỉnh: 20 tỉnh được cung cấp máy siêu âm màu để sàng lọc chẩn đoán
trước sinh;
* Bệnh viện phụ sản Trung ương: Được cấp 01 hệ thống TAMDEM MASS để
sàng lọc các bệnh chuyển hóa, sử dụng mẫu huyết thanh khơ; và 01 hệ thống giải
trình gen tự động để chẩn đoán trước sinh;
* Bệnh viện Từ Dũ: Được cấp 01 hệ thống máy ABI 3500 (sử dụng kỹ thuật
giải trình tự gen trong chẩn đốn nhanh rối loạn nhiễm sắc thể và đột biến gen); và
* Trường đại học Y dược Huế được cung cấp 01 hệ thống thiết bị chuyên dụng
trong sàng lọc, chẩn đoán trước sinh và sơ sinh.
Các thiết bị nêu trên đều được ghi nhãn “Thiết bị do Tổng cục DS-KHHGĐ hỗ
trợ để triển khai đề án Sàng lọc trước sinh và sơ sinh” và đã được đưa vào hoạt
động để phụ vụ đề án.
<b>c. Đào tạo, tập huấn về truyền thông tư vấn, kỹ thuật dịch vụ.</b>
- Cả 3 trung tâm khu vực đã xúc tiến việc đào tạo các bác sĩ về siêu âm cơ bản
và siêu âm nâng cao cho các tỉnh để triển khai sàng lọc trước sinh tại địa phương;
Tổ chức các lớp đào tạo kỹ thuật lấy mẫu máu gót chân sơ sinh, kỹ thuật bảo quản
và vận chuyển mẫu máu về Trung tâm khu vực phục vụ cho xét nghiệm sàng lọc sơ
sinh.
- Biên soạn tài liệu, giáo trình tập huấn, bao gồm các lĩnh vực: Di truyền y
học cơ bản, di truyền y học lâm sàng, Bệnh lý nhi khoa, các dị tật bẩm sinh thường
gặp;
Công tác đào tạo, tập huấn về truyền thông cũng như chuyên môn kỹ thuật
được đặc biệt quan tâm và triển khai tương đối đồng bộ trên khắp các địa bàn triển
khai đề án. Nội dung tài liệu tương đối thống nhất giữa các Trung tâm khu vực.
<b>d) Hoạt động truyền thông tư vấn </b>
Các hoạt động truyền thơng được thực hiện dưới nhiều hình thức đa dạng,
phong phú; phát tờ rơi, tổ chức các cuộc truyền thơng tại cơ sở, các chương trình
- Tài liệu truyền thơng bao gồm tờ rơi, tờ lật, poster, áp phích về: Kỹ thuật
lấy máu gót chân; hiểu biết về bệnh thiếu men G6PD; hiểu biết về bệnh thiểu năng
giáp trạng bẩm sinh; hiểu biết về hội chứng Down và các thể tam nhiễm khác; Tìm
hiểu dị tật ống thần kinh; Kỹ thuật lấy nước ối … để cấp cho các tỉnh tham gia đề
án phục vụ công tác tuyên truyền, vận động và tư vấn tại cộng đồng.
bất thường, điều trị đối với trẻ phát hiện mắc suy giáp trạng bẩm sinh, các danh
mục thuốc cần tránh đối với trẻ phát hiện thiếu men G6PD.
<b>e) Về nhận thức, thái độ, hành vi của người dân đối với đề án.</b>
Đề án được bước đầu nhận được sự đồng thuận nhất trí cao của cộng đồng
xuất phát từ tính nhân văn ý nghĩa thiết thực cũng như mục tiêu hướng tới là giảm
thiểu tỷ lệ trẻ em khuyết tật, dị tật để góp phần nâng cao chất lượng dân số và giảm
bớt gánh nặng cho gia đình và xã hội.
<b>f) Cung cấp dịch vụ sàng lọc trước sinh và sơ sinh tại các cấp</b>
Các hoạt động cung cấp dịch vụ được triển khai chủ yếu tại cấp Trung tâm
khu vực. Cấp tỉnh chủ yếu thực hiện lấy máu gót chân cho trẻ sơ sinh và số ít tham
gia vào hoạt động siêu âm sàng lọc trước sinh. Cấp huyện mới chỉ thực hiện việc
lấy máu gót chân trẻ sơ sinh, trong khi cấp xã chưa tham gia được nhiều vào các
hoạt động này(có nhu cầu thông báo, huyện về thực hiện lấy mẫu máu tại Trạm y
<i>tế xã).</i>
<b>3. Kết quả sàng lọc đến tháng 12 năm 2011</b>
<i><b>3.1. Sàng lọc trước sinh:</b></i>
Trong giai đoạn 2007-2011, ba Trung tâm sàng lọc trong khu vực đã thực
hiện sàng lọc trước sinh cho 35.295 thai phụ. Trong đó:
- Trung tâm bệnh viện Phụ sản trung ương thực hiện sàng lọc:
+ Siêu âm hội chẩn được 9.237 ca; phát hiện 5.623 thai phụ có chỉ số dương
tính, nghi ngờ bất thường (tỷ lệ 60,9%). Các loại bất thường hay gặp chủ yếu ở
bụng, ngực, đầu, phù thai…
+ Chọc ối, xét nghiệm cho 2.823 thai phụ, phát hiện bất thường nhiễm sắc
thể là 229 trường hợp (tỷ lệ là 9,2%). Loại bất thường chủ yếu là Hội chứng Down
(42,9%), hội chứng Edward (20,19%), Đột biến cấu trúc (13,62%) và Hội chứng
Turner (12,68%).
- Trung tâm sàng lọc tại bệnh viện Từ Dũ, TP. Hồ Chí Minh từ năm
2007-2010 đã tiến hành sàng lọc bằng siêu âm cho 23.408 thai phụ, phát hiện những bất
thường lớn về cấu trúc thai nhi từ đó tư vấn để chấm dứt thai kỳ cho 4.867 trường
hợp, theo dõi và điều trị sau sinh cho 18.541 trường hợp;
- Trung tâm Trường Đại học Y dược Huế, năm 2011 tiến hành sàng lọc bằng
siêu âm cho 447 thai phụ, phát hiện 51 trường hợp có nguy cơ cao mắc đột biến
nhiễm sắc thể 21, 18 và 13.
<b>3.2. Sàng lọc sơ sinh.</b>
Trung ương thực hiện 166.265 ca và Trung tâm Đại học y dược Huế 1.561 ca.
Trong đó:
- Số trẻ sơ sinh được phát hiện bị mắc bệnh <b>thiếu men G6PD là 8.167 trẻ</b>
<b>trong</b> tần suất mắc bệnh là 2,89% trẻ sinh sống (Trung tâm BV Từ Dũ là 1.639 trẻ
tần suất 1,48%; Trung tâm BV Phụ sản TW là 6.359 trẻ trẻ tần suất 3,82%; Trung
tâm Đại học y dược Huế 115 trẻ trẻ tần suất 7,37%).
- Số trẻ được phát hiện bị mắc bệnh suy giáp trạng bẩm sinh là 40 trẻ tần
suất mắc bệnh là 1/7.052 (Trung tâm BV Từ Dũ là 19 trẻ tần suất 1/6.013%; Trung
tâm BV Phụ sản TW là 21 trẻ trẻ tần suất 1/7.917%. Riêng Trung tâm Đại học Y
dược Huế phát hiện được 2 trường hợp trẻ nguy cơ cao là 0,1%).
Ba Trung tâm khu vực đã phối hợp chặt chẽ với Chi cục DS-KHHGĐ, gia
đình quản lý, giám sát để đưa trẻ đến các cơ sở nhi khoa ở địa phương và trung
ương để tư vấn và điều trị.
<b>III. HẠN CHẾ, TỒN TẠI</b>
- Ở một vài địa phương cán bộ y tế lấy mẫu máu cịn bỏ sót, chưa điền đầy
đủ thơng tin của đối tượng vào mẫu phiếu lấy máu, do vậy khó khăn cho việc
thông báo kết quả cho đối tượng khi được sàng lọc có kết quả dương tính;…
- Các trung tâm khu vực cần tăng cường kiểm tra, giám sát sau đào tạo, đồng
thời phối hợp với Ban quản lý đề án các tỉnh hướng dẫn cụ thể để các nhân viên y
tế phải điền mẫu thẻ lấy máu đầy đủ để khắc phục tình trạng thiếu thơng tin khi
thơng báo kết quả đối với những trường hợp sàng lọc dương tính.
- Đối với việc cung cấp giấy thấm máu gót chân sơ sinh cho các tỉnh đề án:
Vẫn có xẩy ra tình trạng thiếu, chưa đáp ứng kịp nhu cầu địa phương khi cần mở
rộng địa bàn. Các Trung tâm khu vực cần lập kế hoạch cụ thể trên nhu cầu của
từng tỉnh và có kế hoạch phân phối cơng khai để các tỉnh chủ động triển khai thực
hiện.
- Nhiều địa phương chưa quản lý theo dõi được đối tượng có kết quả dương
tính cần được quản lý, theo dõi điều trị dẫn tới tình trạng <b>“mất đối tượng”. </b>Đề
nghị các Trung tâm trong khu vực sau khi có kết quả sàng lọc, Ban quản lý đề án
cần thông báo ngay thông tin kết quả sàng lọc của đối tượng cho Ban quản lý đề án
các tỉnh để theo dõi, quản lý và tư vấn kịp thời (Bằng văn bản trên trang website
<i>của trung tâm)</i>
- Nhiều đối tượng tham gia sàng lọc thuộc diện gia đình chính sách, nghèo,
khó khăn, vùng sâu… khơng có khả năng chi trả dịch vụ phụ trợ kỹ thuật sàng lọc
(xét nghiệm, chẩn đoán xác định…), đi lại, điều trị khi mắc bệnh…Cần có chính
sách bảo hiểm, hoặc hỗ trợ kinh phí cho các thai phụ tham gia sàng lọc, chẩn đoán
trước sinh đối với những nhóm đối tượng này.
nghị có kế hoạch, lộ trình từng bước đầù tư các trang thiết bị phục vụ sàng lọc chẩn
đoán trươc sinh và sàng lọc sơ sinh tại cấp tỉnh đáp ứng mức độ mở rộng địa bàn
trong tương lai;
- Cần có bảo hiểm y tế đối với các đối tượng tham gia sàng lọc trước sinh và
sơ sinh, đồng thời hướng dẫn về chính sách và xã hội hóa trong sàng lọc chẩn đoán
trước sinh và sàng lọc sơ sinh; cần có hướng dẫn và thống nhất về cách điều trị, cơ
sở điều trị đối với những trẻ được chẩn đốn xác định mắc bệnh; Xã hội hóa trong
việc đào tạo siêu âm cho các bác sỹ địa phương.
<b>IV. ĐỊNH HƯỚNG TRONG GIAI ĐOẠN 2012-2020.</b>
Để góp phần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và cải thiện chất lượng
cuộc sống của nhân dân, Chiến lược Dân số và Sức khỏe sinh sản Việt Nam giai
đoạn 2011-2020 (đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số
2013/QĐTTg ngày 14/11/2011) đã đề ra những vấn đề cần tập trung giải quyết sau
- Nâng cao chất lượng dân số giai đoạn đầu đời, tạo cơ sở nâng cao chất
lượng dân số về thể chất, trí tuệ và tinh thần.
- Chủ động ngăn ngừa nguy cơ suy thoái ở một số dân tộc ít người; cải thiện
sức khỏe bà mẹ trẻ em, sức khỏe sinh sản; đặc biệt là ở vùng sâu, vùng xa dân tộc
thiểu số và nhóm dân số đặc thù.
<b>Chiến lược cũng đã xác định các mục tiêu cụ thể cho từng kỳ trong giai</b>
<b>đoạn đó là:</b>
- Tỷ lệ bà mẹ mang thai được sàng lọc trươc sinh đạt 15% vào năm 2015 và
50% vào năm 2020 (năm 2011 ước khoảng 1,5%).
- Tỷ lệ trẻ sinh ra được sàng lọc đạt 30% vào năm 2015 và 80% vào năm
2020 (năm 2011 ước khoảng 6%).
<b>Để giải quyết các vấn đề nêu trên, giải pháp cơ bản trong giai đoạn tới là:</b>
1. Tập trung chỉ đạo, ưu tiên đầu tư cho các dịch vụ sàng lọc, chẩn đoán sớm
một số bệnh, tật trước sinh và sơ sinh nhằm tạo bước đột phá trong các hoạt động
góp phần nâng cao chất lượng dân số. Trong giai đoạn 2011-2015, tập trung sàng
lọc những bệnh, tật có tỷ lệ mắc cao; từng bước mở rộng chương trình, tiến tới mở
rộng cung cấp các dịch vụ sàng lọc trước sinh và sơ sinh trên phạm vi cả nước, đưa
các dịch vụ sàng lọc trước sinh và sơ sinh trên phạm vi cả nước, đưa các dịch vụ
này trở thành thường quy tại các cơ sở y tế.
2. Mở rộng cung cấp các dịch vụ tư vấn và kiểm tra sức khỏe tiền hôn nhân,
sàng lọc chẩn đoán sớm một số bệnh, tật trước khi sinh và sơ sinh.
+ Tổ chức cung cấp dịch vụ sàng lọc trước sinh đến tuyến huyện bằng kỹ
thuật siêu âm và/hoặc bằng xét nghiệm (sau khi được chuyển giao kỹ thuật).
+ Tổ chức màng lưới điều trị, theo dõi bệnh nhân có bệnh được phát hiện
qua các xét nghiệm sàng lọc trước sinh và sơ sinh.
3. Kiện tồn các Trung tâm sàng lọc, chẩn đốn trước sinh và sơ sinh tại các
vùng, miền, khu vực, từng bước chuyển giao kỹ thuật sàng lọc cho các Trung tâm
tuyến tỉnh.
- Đến năm 2015, xây dựng đưa vào hoạt động 5 Trung tâm sàng lọc trước
sinh và sơ sinh liên tỉnh tại 5 tỉnh có đủ điều kiện.
- Đến 2020 xây dựng thêm 5 Trung tâm liên tỉnh. Tổng cộng đến 2020 có 3
Trung tâm khu vực ở Bắc, Trung, Nam và 10 Trung tâm liên tỉnh.
4. Đưa các dịch vụ sàng lọc trước sinh và sơ sinh vào danh mục các dịch vụ
y tế được Bảo hiểm y tế chi trả: