Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (439.52 KB, 22 trang )
<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>
<b>LUẬT DÂN SỰ 2</b>
<b>Câu 1. Khái niệm, bản chất của hợp đồng.</b>
<i>* Khái niệm hợp đồng: Pháp lệnh Hợp đồng dân sự được ban hành (có hiệu lực từ</i>
01.7.1991) thì khái niệm hợp đồng dân sự được quy định như sau: "Hợp đồng dân sự là sự thỏa
thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền và nghĩa vụ của các bên về
việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền và nghĩa vụ của các bên trong mua bán, thuê, vay,
mượn, tặng cho tài sản; làm hoặc không làm một việc, dịch vụ hoặc các thỏa thuận khác mà
trong đó một trong các bên nhằm đáp ứng nhu cầu sinh hoạt, tiêu dùng".
Điều 394 BLDS 1995 và Điều 388 BLDS 2005 quy định khái niệm hợp đồng dân sự khái
quát, ngắn gọn như sau: "Hợp đồng dân sự là sự thỏa thuận giữa các bên về việc xác lập, thay
đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự".
Như vậy, hợp đồng dân sự là sự thỏa thuận giữa các bên, nhưng chỉ xác định là sự thỏa
thuận khi cam kết các bên thực sự phù hợp với mong muốn của họ. Nguyên tắc này tồn tại trong
PL hợp đồng của các nước. Hợp đồng được xác lập do bị đe dọa, lừa dối, nhầm lẫn,... là không
phù hợp với ý muốn của các bên. Việc xác định các bên có mong muốn thực sự khi tham gia vào
quan hệ hợp đồng trong thực tiễn hết sức khó khăn. Do vậy, khi giải quyết các cơ quan có thẩm
quyền cần phải dựa vào những biểu hiện khách quan (những hành vi biểu hiện ra bên ngoài, cán
cứ khác,...) để xác định mong muốn thực sự của các bên giao kết.
Trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta hiện nay, Nhà nước thừa nhận
nhiều hình thức sở hữu, nhiều chủ thể thuộc các thành phần kinh tế khác nhau có quyền tự do
kinh doanh theo quy định của PL nên các loại hợp đồng ngày càng đa dạng, phong phú. Từ ngày
01.01.2006 Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế hết hiệu lực nên các hợp đồng về kinh doanh, thương
mại đều được điều chỉnh bởi BLDS và các văn bản PL chuyên ngành.
<i>* Như đã được thể hiện trong khái niệm hợp đồng, bản chất của hợp đồng được tạo nên</i>
<i>bởi hai yếu tố pháp lý là sự thỏa thuận và sự ràng buộc pháp lý giữa các bên:</i>
- Hợp đồng là sự thỏa thuận giữa các bên.
Hợp đồng là một giao dịch có nhiều bên tham gia để tạo lập sự ràng buộc pháp lý với
nhau dựa trên sự cam kết, thỏa thuận. Bởi vậy, mặc dù trong luật thực định và trong lý luận có
nhiều định nghĩa khác nhau về hợp đồng, nhưng chung qui lại, tất cả các định nghĩa đó đều thể
hiện một quan điểm nhất quán là luôn xem sự thỏa thuận giữa các bên là một trong các yếu tố
thể hiện bản chất của hợp đồng.
Yếu tố thỏa thuận vừa là nguồn gốc, vừa là cơ sở nền tảng tạo nên hợp đồng.
Khơng có hợp đồng nào mà khơng do thỏa thuận và khơng có hợp đồng nào được tạo ra
mà thiếu yếu tố thỏa thuận. Bởi vậy, do đó tiền đề của hợp đồng là sự thỏa thuận.
Trên phương diện pháp lý, để có thể hình thành nên hợp đồng, PL quy định các bên tham
gia cùng thương lượng, trao đổi, bàn bạc để đi đến sự nhất trí chung, dựa trên sự đề nghị của
một bên và sự chấp nhận hoàn toàn của bên kia. Nhưng sự thỏa thuận với tư cách là một yếu tố
thể hiện bản chất của hợp đồng cịn có ý nghĩa tích cực hơn, so với các khái niệm thương lượng,
bàn bạc, đồng ý. Nếu khái niệm "thương lượng" hay "bàn bạc" dùng để chỉ quá trình thương
thuyết, giao dịch giữa các bên và khái niệm "đồng ý" dùng để chỉ kết quả của q trình đó, thì
khái niệm "thỏa thuận" ở đây được hiểu là tồn bộ q trình, từ sự thương lượng đến sự "thống
nhất ý chí". Đó là q trình "dung hịa" giữa ý chí các bên, đi từ sự đồng ý của từng bên, đến sự
hiệp ý hay gặp gỡ ý chí của hai hay nhiều bên khác nhau, nhằm đạt được "sự nhất trí chung",
hay "sự đồng thuận" giữa hai hay nhiều bên đó. Ngồi ra, thỏa thuận chỉ có thể làm phát sinh
hiệu lực ràng buộc đối với các bên nếu tuân thủ các yêu cầu do PL qui định như điều kiện về
chủ thể,điều kiện về nội dung và mục đích, điều kiện về sự tự nguyện, và điều kiện về hình thức
hợp đồng trong trường hợp PL có qui định. Đây gọi là các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng.
Tóm lại, thơng qua sự thỏa thuận các bên đã làm nên hợp đồng, tức làm phát sinh, thay
đổi, chấm dứt quyền và nghĩa vụ giữa các bên trong hợp đồng. Vì vậy, thỏa thuận vừa là tiền đề
làm nên hợp đồng, vừa là yếu tố cơ bản cho sự tồn hợp đồng.
- Hợp đồng là thỏa thuận để tạo ra sự ràng buộc pháp lý giữa các bên.
Không phải sự thỏa thuận nào đều là hợp đồng, nếu không tạo nên hiệu lực ràng buộc
giữa các bên. Bởi vậy, dấu hiệu thứ hai thể hiện bản chất của hợp đồng là sự thỏa thuận giữa các
bên phải nhằm tạo ra một sự ràng buộc pháp lý, tức là sáng tạo ra các quyền và nghĩa vụ mới,
ngoài những quyền và nghĩa vụ luật định, hoặc làm thay đổi hay chấm dứt các quyền, nghĩa vụ
ấy. Cũng có những thỏa thuận đặt các bên vào một quan hệ nghĩa vụ luật định,chẳng hạn như
các thỏa thuận kết hôn, thỏa thuận về việc nuôi con nuôi. Theo qui định của PL Việt Nam hiện
hành, các cam kết đó khơng phải là hợp đồng. Quan điểm của các luật gia cũng thừa nhận đây
chỉ là những thỏa thuận tư nhân nhằm "thừa nhận một qui chế pháp định", chấp nhận thực hiện
các nghĩa vụ "luật định sẵn", chứ khơng phải là hợp đồng.
Vì vậy, mọi hợp đồng đều là sự thỏa thuận giữa các bên, nhưng không phải sự thỏa thuận
nào của các bên cũng là hợp đồng. Chỉ những thỏa thuận tạo ra một sự ràng buộc pháp lý mới
được coi là hợp đồng. Bởi vậy, "sự thỏa thuận" và "sự tạo ra một ràng buộc pháp lý" là hai dấu
hiệu cơ bản tạo nên bản chất của hợp đồng. Nghiên cứu bản chất hợp đồng là tiền đề lý luận để
xác định các
Điều kiện có hiệu lực (hay tính hợp pháp) của hợp đồng, nguyên tắc tự do hợp đồng, giá
trị pháp lý của hợp đồng, trình tự giao kết hợp đồng, thời điểm có hiệu lực của hợp đồng và các
vấn đề pháp lý quan trọng khác của chế định hợp đồng, đặc biệt là hiệu lực hợp đồng.
<b>Câu 2. Các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng.</b>
Theo Điều 121 BLDS thì giao dịch dân sự là hợp đồng hoặc hành vi pháp lý đơn phương
làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quyền và nghĩa vụ dân sự.
Hành vi pháp lý đơn phương chỉ thể hiện ý chí của một bên chủ thể thì hợp đồng dân sự là
sự thể hiện ý chí đa phương (ít nhất là hai bên chủ thể) thông qua sự thoả thuận, hay nói cách
Theo quy định tại Điều 122 thì một giao dịch dân sự (gồm cả hợp đồng) được PL thừa
nhận có hiệu lực pháp lý khi đảm bảo các điều kiện sau:
Điều kiện 1: Người tham gia giao dịch có năng lực hành vi dân sự (khoản 1).
Thuật ngữ "người" ở đây được hiểu là các chủ thể của quan hệ PL dân sự: cá nhân, pháp
nhân, hộ gia đình và tổ hợp tác. Các chủ thể này phải có đủ tư cách chủ thể theo qui định của PL
dân sự.
Xác định tư cách chủ thể thực chất là xác định ý chí (mong muốn) đích thực của các chủ
thể tham gia vào giao dịch dân sự, nếu khơng đảm bảo tư cách chủ thể thì khơng thể hiện hết
yếu tố ý chí nên giao dịch dân sự có thể bị coi là vơ hiệu. Do vậy, năng lực hành vi dân sự của
từng chủ thể được xem xét như sau:
* Đối với cá nhân: giao dịch dân sự có hiệu lực khi phù hợp với mức độ hành vi dân sự
của cá nhân bởi lẽ, bản chất của giao dịch dân sự là sự thống nhất ý chí và bày tỏ ý chí của các
chủ thể tham gia vào giao dịch đó. Trong xã hội những cá nhân khác nhau có những nhận thức
khác nhau về hành vi và hậu quả của hành vi do họ thực hiện. Việc nhận thức và làm chủ hành
vi của cá nhân dựa vào ý chí - lý trí - độ tuổi nghĩa là "khả năng hiểu và làm chủ của chính họ".
Như vậy, xem xét tư cách của chủ thể của cá nhân có ý nghĩa quan trọng trong việc xác định yếu
tố ý chí, nên BLDS qui định năng lực hành vi của cá nhân với nhiều mức độ khác nhau tương
ứng với mức độ thể hiện mong muốn của họ.
+ Đối với người từ đủ 18 tuổi trở lên có khả năng nhận thức và điều chỉnh hành vi của
mình có quyền tự mình tham gia mọi giao dịch dân sự , bởi lẽ những người này khi tham gia các
giao dịch dân sự họ có khả năng tự mình thể hiện mong muốn đầy đủ, toàn diện.
+ Đối với người đủ 6 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi có quyền tự mình tham gia giao dịch dân
sự nhỏ phục vụ nhu cầu hàng ngày. Đối với những giao dịch liên quan đến tài sản có giá trị
nhỏ họ có đủ khả năng nhận thức mà không cần thông qua người đại diện như học sinh (13
tuổi) mua đồ dùng học tập có thể nhận thức được giá cả, chất lượng, đối với những giao dịch
dân sự có giá trị lớn thì phải thơng qua người đại diện theo PL mới coi là hợp pháp, nếu khơng
thì giao dịch dân sự có thể bị coi là vô hiệu.
+ Đối với người mất năng lực hành vi dân sự, khơng có năng lực hành vi dân sự thì
trong một số trường hợp họ có thể thực hiện những hành vi nhưng PL không cho phép họ tự
mình tham gia giao dịch dân sự mà phải thông qua người đại diện theo PL. Đối với những
người này do họ khơng có hoặc chưa có khả năng nhận thức để xác lập giao dịch dân sự, do
vậy ý chí của hộ trong giao dịch dân sự chính là ý chí của người đại diện theo PL. PL qui định
người đại diện phải có đủ tư cách mới được đại diện cho người mất năng lực hành vi dân sự,
người khơng có năng lực hành vi dân sự trong việc xác lập, thực hiện giao dịch dân sự .
+ Đối với người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự thì họ vẫn có khả năng nhận thức và
điều khiển được hành vi nhưng khi có những căn cứ tuyên bố bị hạn chế năng lực hành vi dân
sự và có u cầu thì TA tun bố bị hạn chế năng lực hành vi dân sự. Các giao dịch dân sự liên
quan đến tài sản của người này phải được người đại diện theo PL đồng ý mới có hiệu lực PL,
nếu khơng có sự đồng ý thì giao dịch dân sự bị coi là vơ hiệu. Qui định của PL dân sự nhằm
đảm bảo sự kiểm soát của người đại diện theo PL, hạn chế việc tẩu tán tài sản để hút sách hoặc
xác lập hợp đồng trong tình trạng lên cơn nghiện nên khơng thể nhận thức được toàn diện
được.
Đối với trường hợp xác lập các giao dịch DS vào đúng thời điểm không thể nhận thức,
điều khiển được hành vi của mình, thì có thể yêu cầu TA tuyên bố giao dịch dân sự vơ hiệu.
- Trong các giao dịch dân sự có đối tượng là tài sản thuộc sở hữu chung, hợp nhất của
nhiều người thì việc xác lập giao dịch dân sự ngoài đảm bảo tư cách chủ thể của mình cịn
phải có đủ tư cách đại diện cho các đồng sở hữu chủ khác. Chẳng hạn: bán nhà thuộc sở hữu
* Đối với các chủ thể khác như pháp nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác thì phải bảo đảm tư
cách chủ thể khi tham gia giao dịch dân sự. Khi tham gia giao dịch dân sự các chủ thể này
thông qua người đại diện (đại diện theo PL hoặc đại diện theo uỷ quyền). Y chí của các chủ thể
này trong giao dịch dân sự chính là ý chí của người đại diện hợp pháp phù hợp với phạm vi,
mục đích hoạt động do PL qui định. Trong trường hợp giao dịch dân sự do người khơng có
thẩm quyền xác lập, thực hiện hoặc do người đại diện xác lập vượt q thẩm quyền thì khơng
làm phát sinh quyền và nghĩa vụ đối với người được đại diện mà đây chính là trách nhiệm của
cá nhân đã xác lập, trừ trường hợp người được đại diện chấp thuận. Đối với hộ gia đình thì
người đại diện theo PL là chủ hộ, nhưng PL chỉ cho phép chủ hộ đại diện hợp pháp trong một
số quan hệ liên quan đến QSDĐ, SX nơng-lâm- ngư nghiệp, vay vốn,...cịn đối với các giao
dịch dân sự liên quan đến tài sản khác không coi là người đại diện theo PL.
Như vậy, xác định tư cách chủ thể có ý nghĩa quan trọng trong việc xác định ý chí đích
thực của các chủ thể, đây là cơ sở xác định giá trị pháp lý của giao dịch dân sự.
Điều kiện 2: Mục đích và nội dung của giao dịch không vi phạm điều cấm của PL,
khơng trái đạo đức xã hội (Khoản 2)
Mục đích của giao dịch dân sự là lợi ích mà các bên mong muốn đạt tới khi xác lập giao
dịch dân sự.
Nội dung của giao dịch dân sự là tổng hợp các điều khoản cam kết trong giao dịch, qui
định các quyền và nghĩa vụ của các bên chủ thể.
Trong trường hợp giao dịch dân sự có mục đích và nội dung vi phạm qui định của PL
dân sự nói riêng, PL nói chung hoặc trái đạo đức xã hội thì khơng được thừa nhận, khơng làm
phát sinh quyền và nghĩa vụ dân sự của các bên: mua bán tài sản PL cấm (mua bán đất đai, ma
tuý), cho vay tiền để đánh bạc, đòi các khoản tiền do việc bán dâm, đánh bạc mang lại.
ĐK 3: Người tham gia giao dịch dân sự hoàn toàn tự nguyện (K3)
Bản chất của quan hệ dân sự mang yếu tố ý chí, đó là sự thống nhất ý chí của các chủ
thể tham gia. Do vậy, muốn xác định các chủ thể có tự nguyện hay khơng cần dựa vào sự
thống nhất biện chứng giữa hai yếu tố: ý chí và bày tỏ ý chí. Đây là hai mặt của một vấn đề có
quan hệ khăng khít với nhau. Sự tự nguyện hồn tồn đó chính là sự thống nhất ý chí bên trong
và sự bày tỏ ý chí ra bên ngồi; chỉ khi sự biểu lộ ý chí ra bên ngồi phản ánh khách quan,
trung thực những mong muốn bên trong của các chủ thể mới coi là tự nguyện. Nếu thiếu sự tự
nguyện thì trái với bản chất của giao dịch dân sự và giao dịch dân sự có thể bị coi là vô hiệu
trong trường hợp sau:
+ Giao dịch dân sự giả tạo: là giao dịch dân sự nhằm che dấu một giao dịch dân sự khác
thì giao dịch giả tạo vơ hiệu, cịn giao dịch bị che dấu vẫn có hiệu lực nếu giao dịch đó tuân
thủ đầy đủ các điều kiện có hiệu lực được qui định tại điều 121, trừ trường hợp giao dịch đó
khơng nhằm làm phát sinh quyền và nghĩa vụ của các bên thì cũng vơ hiệu. Chẳng hạn: hai
bên xác lập hợp đồng mua bán tài sản, nhưng thực chất là tặng cho (cịn gọi là hợp đồng giả
cách) thì hợp đồng tặng cho vẫn có giá trị pháp lý hoặc trường hợp để trốn tránh nghĩa vụ trả
nợ hai bên xác lập hợp động mua bán tài sản nhưng thực chất bên kia chỉ giữ hộ tài sản mà
không làm phát sinh quyền và nghĩa vụ theo hợp đồng mua bán (còn gọi là hợp đồng tưởng
tượng). Như vậy, giả tạo cịn được hiểu là khơng có sự thoả thuận và thống nhất ý chí của các
bên nhằm làm phát sinh một quan hệ hợp đồng thực tế mà những loại giao dịch này thường
nhằm mục đích che dấu, trốn tránh PL.
+ Giao dịch dân sự được xác lập do nhầm lẫn là trường hợp các bên hình dung sai về
- Nhầm lẫn chủ thể.
- Nhầm lẫn nội dung của giao dịch do hình dung sai về chất lượng, nhầm lẫn về đối
tượng, giá cả (bên bán hiểu là đôla Mỹ, bên mua hiểu là đôla Hồng Công)
Nguyên nhân của sự nhầm lẫn thường do các bên thiếu sự rõ ràng về các điều khoản của
hợp đồng hoặc do kém hiểu biết về đối tượng của giao dịch nhất là đối tượng liên quan kỹ
thuật.
+ Giao dịch dân sự được xác lập do bị lừa dối, đe doạ .
Lừa dối là hành vi cố ý của một bên nhằm làm cho bên kia nhằm làm cho bên kia hiểu
sai lệch về chủ thể, tính chất của đối tượng hoặc nội dung của giao dịch nên đã xác lập giao
dịch đó. Do vậy, khác với nhầm lẫn thì lừa dối do thủ đoạn cố ý của một bên làm cho bên kia
tin tưởng nên thúc đẩy việc xác lập giao dịch dân sự.
Tuy nhiên, việc xác định lừa dối trong thực tiễn hết sức khó khăn, thơng thường dựa vào
các căn cứ sau:
- Có sự giới thiệu và có sai lệch trong sự giới thiệu đó.
- Người giới thiệu biết sự sai lệch nhưng bỏ qua sự thật.
- Người nghe không biết sự sai lệch nên tin vào sự giới thiệu.
- Có thiệt hại xảy ra của một bên do sự giới thiệu.
Giao dịch dân sự được xác lập do bị đe doạ. Đe doạ trong giao dịch dân sự là hành vi cố
ý, có ý thức của một bên làm cho bên kia sợ hãi mà phải thực hiện giao dịch dân sự nhằm tránh
- Có sự sợ hãi ( về thể chất hoặc tinh thần).
- Có hành vi cố ý đe doạ của một bên.
- Sự đe doạ là bất hợp pháp ( trái PL).
Điều kiện về hình thức chỉ là điều kiện có hiệu lực khi PL có quy định phải đảm bảo điều
kiện hình thức (khoản 4 Điều 121).
<b>Câu 3. Hợp đồng vơ hiệu và các loại hợp đồng vô hiệu.</b>
* Hợp đồng vô hiệu do vi phạm các điều kiện được quy định tại Điều 121 BLDS. Về
phương diện lý luận cũng như theo PL của một số nước khi nghiên cứu các loại giao dịch dân sự
vơ hiệu có thể phân chia thành các trường hợp vô hiệu:
- Vô hiệu do vi phạm điều cấm của PL hoặc trái đạo đức xã hội;
- Vô hiệu do giả tạo;
- Vô hiệu do nhầm lẫn;
- Vô hiệu do bị lừa dối, đe dọa;
- Vô hiệu do người xác lập không nhận thức và làm chủ được hành vi của mình;
- Vơ hiệu do vi phạm quy định về hình thức;
Tùy thuộc vào tính chất và mức độ của sự vơ hiệu hợp đồng, hợp đồng vơ hiệu có thể
phân chia thành:
- Hợp đồng vơ hiệu tồn bộ;
- Hợp dồng vơ hiệu từng phần;
- Hợp đồng vô hiệu tuyệt đối: hợp đồng này khơng có hiệu lực ngay từ thời điểm giao kết
nhằm bảo vệ lợi ích nhà nước, lợi ích cơng cộng. Chẳng hạn giao dịch dân sự vi phạm điều cấm
của PL (mua bán đất đai).
- Hợp đồng vô hiệu tương đối: hợp đồng vơ hiệu tương đối tuy có vi phạm một trong các
điều kiện có hiệu lực nhưng vẫn coi là có giá trị pháp lý nếu các bên tham gia vẫn tự nguyện
thực hiện, TA chỉ huỷ bỏ khi có yêu cầu của các bên tham gia. Đối với hợp đồng vô hiệu tương
đối không đương nhiên vô hiệu mà có thể bị vơ hiệu. Vì vậy, khơng phải bất cứ hợp đồng vi
phạm các điều kiện có hiệu thì TA cũng tun bố vơ hiệu mà tuỳ thuộc vào mức độ vi phạm và
do yêu cầu của các bên mà TA sẽ tuyên bố huỷ bỏ giao dịch đó. Trong trường hợp hợp đồng có
vi phạm các điều kiện có hiệu lực mà có thể sửa chữa được phần vi phạm đó cho phù hợp với
qui định của PL hoặc trong một số trường hợp bên tham gia khơng u cầu TA bảo vệ quyền lợi
của mình mặc dù biết bị thiệt hại) thì sẽ khơng huỷ bỏ mà chỉ xem xét quyền và nghĩa vụ của
các bên có được thoả thuận đúng với qui định của PL không; nếu PL qui định mà các bên không
sửa chữa cho phù hợp thì mới vơ hiệu.
<i>* Theo qui định tại Đ410 của BLDS 2005 các quy định về giao dịch dân sự vô hiệu từ</i>
<i>Đ127 đến Đ138 cũng áp dụng đối với HĐ như sau:</i>
a. Giao dịch dân sự vô hiệu do vi phạm điều cấm của PL, trái đạo đức xã hội (Điều 128):
Giao dịch này vô hiệu ngay từ thời điểm giao kết không làm phát sinh quyền và nghĩa vụ của
các bên. Các bên tham gia vào giao dịch dân sự có thể biết hoặc khơng biết là mình đã tham gia
vào giao dịch dân sự trái PL. Tuy theo tính chất và mức độ vi phạm thì tài sản giao dịch và hoa
lợi, lợi tức thu được bị tịch thu sung công quĩ nhà nước.
Trong trường hợp có thiệt hại mà các bên đều có lỗi, thì mỗi bên tự chịu phần thiệt hại
của mình; nếu chỉ một bên có lỗi, thì bên đó phải bồi thường thiệt hại cho bên kia.
b. Giao dịch dân sự vô hiệu do thiếu sự tự nguyện của các chủ thể
- Giao dịch dân sự vô hiệu do giả tạo: vô hiệu ngay từ thời điểm xác lập, trừ giao dịch bị
che giấu vẫn tuân thủ đầy đủ các điều kiện có hiệu lực (Điều 129)
- Giao dịch dân sự vô hiệu do bị nhầm lẫn (Điều 131)
+ Khi một bên bị có lỗi vơ ý làm cho bên kia nhầm lẫn nhầm lẫn về nội dung của giao
dịch thì bên bị nhầm lẫn có quyền yêu cầu bên kia thay đổi nội dung giao dịch, nếu bên kia
khơng chấp nhận thì bên bị nhầm lẫn có quyền yêu cầu TA tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu.
+ Nếu lỗi cố ý làm cho nhầm lẫn thì xử lý như là trường hợp bị lừ dối hay đe doạ.
- Gia dịch dân sự vô hiệu do bị lừa dối hoặc bị đe doạ (Điều 132): Bên bị lừa dối hoặc bị
đe doạ có quyền yêu cầu TA tun bố giao dịch đó vơ hiệu.
c. Giao dịch dân sự vô hiệu do người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự,
bị hạn chế năng lực hành vi dân sự xác lập thực hiện (Điều 130 BLDS).
Đối với người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự thì PL qui định người
đại diện theo PL xác lập thực hiện hoặc phải có sự đồng ý của người đại diện theo PL (trừ
trường hợp PL có qui định tham gia giao dịch dân sự có giá trị nhỏ). Nếu trong những trường
hợp trên mà tham gia giao dịch dân sự liên quan đến tài sản khơng có người đại diện theo PL thì
có thể vơ hiệu.
d. Giao dịch dân sự vơ hiệu do khơng tn thủ về hình thức (Điều 134)
Điều 134 qui định: "Trong trường hợp PL qui định hình thức của giao dịch dân sự là điều
kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự mà các bên khơng tn theo thì theo u cầu của một hoặc
các bên, vơ hiệu, TA, cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác ra quyết định buộc các bên thực
Như vậy, giao dịch dân sự khơng tn thủ hình thức PL qui định vô hiệu trong trường hợp
quá thời hạn ấn định mà các bên khơng thực hiện đúng qui định hình thức do PL qui định thì vơ
hiệu (chẳng hạn ấn định từ 1 đến 3 tháng).
đ. Giao dịch dân sự vô hiệu từng phần (Điều 135)
e. Giao dịch dân sự vô hiệu do người xác lập không nhận thức và làm chủ được hành vi
của mình (Điều 133)
<b>Câu 4. Hậu quả pháp lý của hợp đồng vô hiệu.</b>
Hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu được PL quy định như sau:
- Hậu quả pháp lý trong mối quan hệ giữa các bên tham gia giao dịch
Về nguyên tắc giao dịch dân sự vô hiệu không làm phát sinh quyền và nghĩa vụ của các
bên từ thời điểm giao dịch dân sự được xác lập. Khi giao dịch dân sự vơ hiệu các bên khơi phục
lại tình trạng ban đầu nghĩa là phải hoàn trả cho nhau những gì đã nhận, bên có lỗi phải bồi
thường thiệt hại.
Điều 137 BLDS đã qui định: "Nếu khơng hồn trả được bằng hiện vật thì phải hồn trả
bằng tiền" nhưng thực tế áp dụng cũng gặp khơng ít khó khăn.
+ Đối với những giao dịch dân sự vô hiệu mà đối tượng vẫn cịn thì việc hồn trả cho
nhau một cách dễ dàng, nhưng trong một số giao dịch đối tượng đã bị tiêu huỷ hoặc khơng hồn
trả được thì giải quyết như thế nào? Chẳng hạn: trong hợp đồng th nhà vơ hiệu thì bên cho
th có thể trả lại số tiền th đã nhận, cịn bên th thì không thể trả lại được "quyền sử dụng,
quyền ở" ngôi nhà đã thuê. Do vậy, trong những trường hợp này thỉ giao dịch dân sự chấm dứt
+ Đối với trường hợp đối tượng là tài sản khơng cịn nên các bên khơng thể hồn trả được
bằng hiện vật mà phải hoàn trả cho nhau bằng tiền.
Tuỳ từng trường hợp xét theo tính chất của giao dịch vô hiệu, tài sản giao dịch và hoa lợi,
lợi tức thu được có thể bị tịch thu theo qui định của PL.
- Bảo vệ quyền lợi của người thứ ba ngay tình trong giao dịch dân sự vơ hiệu (Điều 138)
Trong trường hợp giao dịch dân sự vô hiệu nhưng tài sản giao dịch là động sản không
phải đăng ký quyền sở hữu đã được chuyển giao bằng một giao dịch khác cho người thứ ba
ngay tình thì giao dịch với người thứ ba vẫn có hiệu lực, trừ trường hợp quy định tại Điều 257
của BLDS.
Trong trường hợp giao dịch dân sự vô hiệu nhưng tài sản giao dịch là bất động sản hoặc
động sản phải đăng ký quyền sở hữu đã được chuyển giao bằng một giao dịch khác cho người
thứ ba ngay tình thì giao dịch với người thứ ba vô hiệu, trừ trường hợp người thứ ba ngay tình
nhận được tài sản này thơng qua bán đấu giá hoặc giao dịch với người mà theo bản án quyết
định của Cơ quan nhà nước có thẩm quyền là chủ sở hữu tài sản nhưng sau đó người này
không phải là chủ sở hữu tài sản do quyết định, bản án bị huỷ, sửa.
- Thời hiệu yêu cầu TA tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu
Đối với các giao dịch dân sự do người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân
sự, bị hạn chế năng lực hành vi dân sự; người bị đe doạ, bị lừa dối hoặc người có năng lực
hành vi dân sự nhưng xác lập giao dịch dân sự vào thời điểm khơng nhận thức được hành vi
của mình (Từ các Điều 130 đến Điều 134) là hai năm kể từ ngày giao dịch dân sự được xác
lập. Trong trường hợp q thời hạn trên thì khơng có quyền khởi kiện yêu cầu tuyên bố giao
dịch vô hiệu, trừ trường hợp PL được qui định tại Điều 161 BLDS.
Người có quyền khởi kiện yêu cầu tuyên bố giao dịch dân sự là chính người bị đe doạ,
bị lừa dối, bị nhầm lẫn,... hoặc người đại diện theo PL đối với người chưa thành niên, người
mất năng lực hành vi dân sự, bị hạn chế năng lực hành vi dân sự.
Trong thực tiễn giải quyết nhiều trường hợp người đại diện không biết được người chưa
thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự... đã xác lập giao dịch dân sự thì có mất quyền
khởi kiện hay khơng. Theo qui định của BLDS Pháp thì thời hạn yêu cầu tuyên bố giao dịch
dân sự vô hiệu là 5 năm kể từ thời điểm khám phá ra sự nhầm lẫn, bị lừa dối, bị đe doạ hoặc từ
thời điểm chấm dứt sự hạn chế năng lực hành vi, mất năng lực hành vi dân sự. Do vậy, thời
hạn yêu cầu tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu theo chúng tôi nên qui định thời hạn là hai năm
kể từ thời điểm khám phá ra sự nhầm lẫn, bị lừa dối... thì hợp lý hơn.
Đối với các giao dịch dân sự xác lập do vi phạm điều cấm của PL, trái đạo đức xã hội,
giao dịch dân sự do giả tạo (Điều 128, 129) là vô hạn.
Thời hạn yêu cầu tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu theo Luật dân sự của Pháp là 30
năm kể từ thời điểm được xác lập.
<b>Câu 5. Nội dung và hình thức của hợp đồng?</b>
<i>* Nội dung của hợp đồng: Nội dung của hợp đồng là tổng hợp các điều khoản mà các</i>
bên tham gia giao kết hợp đồng đã thỏa thuận. Tùy theo từng loại hợp đồng dân sự các bên có
thể thỏa thuận những nội dung sau:
+ Đối tượng của hợp đồng là tài sản phải giao, công việc phải làm hoặc không được
làm;
+ Số lượng, chất lượng;
+ Giá cả, phương thức thanh toán;
+ Thời hạn, địa điểm, phương thức thực hiện hợp đồng;
+ Quyền và nghĩa vụ của các bên;
+ Trách nhiệm do vi phạm hợp đồng.
Ngoài ra các bên có thể thỏa thuận những nội dung khác. Căn cứ vào giá trị pháp lý của
các điều khoản cam kết trong hợp đồng có thể phân thành:
+ Điều khoản căn bản: là các điều khoản không thể thiếu được của một hợp đồng, nếu
các bên tham gia chưa thỏa thuận được những điều khoản căn bản thì hợp đồng coi như chưa
được ký kết. Chẳng hạn: đối tượng, giá cả, chất lượng (trong hợp đồng mua bán), đối tượng,
địa điểm, giá cả (hợp đồng vận chuyển hàng hóa),...
+ Điều khoản thông thường: là những điều khoản PL đã quy định, nếu khi giao kết hợp
đồng các bên không thỏa thuận thì những điều khoản này mặc nhiên được công nhận và thực
hiện. Đối với các điều khoản này các bên có thể thỏa thuận trong hợp đồng hoặc khơng thỏa
thuận trong hợp đồng, nhưng khi có tranh chấp xảy ra cơ quan có thẩm quyền căn cứ vào các
quy định của PL để giải quyết. Chẳng hạn: khoản 1 Điều 482 về hợp đồng thuê tài sản thì bên
cho thuê phải sửa chữa hư hỏng, khuyết tật của tài sản cho thuê, những hư hỏng nhỏ theo tập
quán bên thuê phải tự nguyện sửa chữa.
+ Điều khoản tùy nghi: xuất phát từ nguyên tắc tự do, tự nguyện cam kết thỏa thuận
được PL dân sự quy định, trong quan hệ hợp đồng PL cho phép các chủ thể giao kết hợp đồng
thỏa thuận các điều khoản ngoài những điều khoản cơ bản nhưng không được trái PL và đạo
đức xã hội.
<i>* Hình thức của hợp đồng: Theo quy định của BLDS thì các bên tham gia hợp đồng có</i>
thể lựa chọn những hình thức khác nhau (trừ trường hợp PL có quy định về hình thức thì phải
tn theo quy định của PL).
- Hợp đồng bằng lời nói (hợp đồng miệng): các bên tham gia hợp đồng thỏa thuận
những nội dung cơ bản của hợp đồng hoặc mặc nhiên thực hiện những hành vi nhất định đối
với nhau. Hình thức này thường được áp dụng trong trường hợp các bên có độ tin tưởng lẫn
nhau cao hoặc hợp đồng sau khi giao kết thực hiện chấm dứt ngay. Chẳng hạn thỏa thuận cho
vay giá trị tài sản không lớn, mua bán tài sản có giá trị nhỏ,...
- Hợp đồng bằng hành vi cụ thể như rút, chuyển tiền qua thẻ tại máy ATM, mua hàng ở
siêu thị qua máy tính tiền tự động.
- Hợp đồng bằng văn bản (thường): các bên thỏa thuận những điều khoản cơ bản của
hợp đồng bằng văn bản và ký vào văn bản để xác nhận quan hệ hợp đồng và nội dung của hợp
đồng. Hợp đồng được lập thành nhiều bản để bên có quyền và bên có nghĩa vụ giữ, thơng
thường thì bên có quyền giữ bản hợp đồng đó.
Hợp đồng bằng văn bản có ý nghĩa pháp lý quan trọng vì nó là căn cứ, chứng cứ để cơ
quan có thẩm quyền xác định được quyền và nghĩa vụ của các bên khi có tranh chấp xảy ra.
Hợp đồng thơng qua phương tiện điện tử dưới hình thức thơng diệp, dữ liệu được xác định là
hình thức hợp đồng bằng văn bản.
- Hợp đồng có cơng chứng, chứng thực, trong trường hợp PL có quy định hoặc các bên
có thỏa thuận thì hợp đồng dân sự phải được cơng chứng, chứng thực. Trong thực tế hiện nay,
quy định của PL đã có sự phân biệt khá rõ giữa cơng chứng và chứng thực nhưng trong thực
tiễn vẫn có sự nhầm lẫn.
<b>Câu 6. Hình thức và thời điểm có hiệu lực của hợp đồng. </b>
<i>* Hình thức của hợp đồng: Theo quy định của BLDS thì các bên tham gia hợp đồng có</i>
thể lựa chọn những hình thức khác nhau (trừ trường hợp PL có quy định về hình thức thì phải
tuân theo quy định của PL).
- Hợp đồng bằng hành vi cụ thể như rút, chuyển tiền qua thẻ tại máy ATM, mua hàng ở
siêu thị qua máy tính tiền tự động.
- Hợp đồng bằng văn bản (thường): các bên thỏa thuận những điều khoản cơ bản của
hợp đồng bằng văn bản và ký vào văn bản để xác nhận quan hệ hợp đồng và nội dung của hợp
đồng. Hợp đồng được lập thành nhiều bản để bên có quyền và bên có nghĩa vụ giữ, thơng
thường thì bên có quyền giữ bản hợp đồng đó.
- Hợp đồng có cơng chứng, chứng thực, trong trường hợp PL có quy định hoặc các bên có
thỏa thuận thì hợp đồng dân sự phải được công chứng, chứng thực. Trong thực tế hiện nay, quy
định của PL đã có sự phân biệt khá rõ giữa công chứng và chứng thực nhưng trong thực tiễn vẫn
có sự nhầm lẫn.
<i>* Thời điểm có hiệu lực của hợp đồng: Điều 405 BLDS quy định: "Hợp đồng có hiệu lực</i>
kể từ thời điểm giao kết, trừ trường hợp có thỏa thuận hoặc PL có quy định khác". Khi hợp đồng
có hiệu lực buộc các bên tham gia phải thực hiện đúng các điều khoản theo hợp đồng đã cam kết
thỏa thuận, trong các bên không được tự ý sửa đổi, hủy bỏ hợp đồng. Hợp đồng dân sự có thể bị
sửa đổi hoặc hủy bỏ, nếu có thỏa thuận hoặc PL có quy định.
Thời điểm giao kết hợp đồng được quy định tại Điều 404 - BLDS 2005 như sau:
+ Hợp đồng được giao kết vào thời điểm bên đề nghị nhận được trả lời chấp nhận giao kết
hoặc khi các bên thỏa thuận xong những điều khoản chủ yếu của hợp đồng.
+ Hợp đồng cũng xem như được giao kết khi hết thời hạn trả lời mà bên nhận được đề
nghị vẫn im lặng, nếu có sự thỏa thuận im lặng là sự trả lời chấp thuận.
+ Thời điểm giao kết hợp đồng miệng là thời điểm các bên đã trực tiếp thỏa thuận về nội
dung của hợp đồng.
+ Thời điểm giao kết hợp đồng bằng văn bản là bên cùng ký vào văn bản.
Việc xác định thời điểm có hiệu lực của hợp đồng có ý nghĩa lý luận và thực tiễn như:
quyền và nghĩa vụ của các chủ thể phát sinh kể từ khi hợp đồng có hiệu lực, một trong các bên
khơng có quyền tự ý thay đổi các điều khoản của hợp đồng; là căn cứ công nhận hợp đồng khi
có tranh chấp về quyền và nghĩa vụ.
Thời điểm chuyển quyền sở hữu đối với từng loại tài sản là đối tượng của hợp đồng là
khác nhau. Đối với động sản thì từ khi các bên chuyển giao tài sản cho nhau; đối với BĐS hoặc
động sản phải đăng ký quyền sở hữu thì từ thời điểm đăng ký quyền sở hữu (trừ trường hợp luật
chuyên ngành có quy định khác). Do vậy, sau khi hợp đồng có hiệu lực, các chủ thể còn phải
thực hiện thủ tục đăng ký quyền sở hữu.
<b>Câu 7. Biện pháp thế chấp tài sản?</b>
<i>* Khái niệm: Thế chấp tài sản là việc một bên (sau đây gọi là bên thế chấp) dùng tài sản</i>
thuộc sở hữu của mình để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ dân sự đối với bên kia (bên nhận thế
chấp) và khơng chuyển giao tài sản đó cho bên nhận thế chấp. Tài sản thể chấp do bên thế chấp
giữ, các bên có thể thỏa thuận giao cho người thứ ba giữ tài sản thế chấp.
Bên thế chấp phải giao tồn bộ giấy tờ (bản chính) về tài sản thế chấp cho bên nhận thế
chấp như giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà, GCN QSDĐ…
<i>* Các quy định về thế chấp tài sản: </i>
- Đối tượng của thế chấp:
+ Đối tượng của thế chấp là bất động sản và động sản (như nhà ở, cơng trình xây dựng
gắn liền với đất, kể cả các tài sản gắn liền với nhà ở, cơng trình xây dựng đó, các tài sản gắn liền
với đất,...) và các tài sản khác.
+ Tài sản thuộc quyền sở hữu của bên thế chấp. Người có nghĩa vụ khơng thể dùng tài sản
+ Tài sản sản thế chấp phải được phép giao dịch và khơng có tranh chấp.
- Hình thức của thế chấp tài sản:
+ Việc thế chấp phải được lập thành văn bản gọi là hợp đồng thế chấp. Hợp đồng thế chấp
có thể lập thành văn bản riêng hoặc ghi trong hợp đồng chính.
Hợp đồng thế chấp phải có cơng chứng hoặc chứng thực nếu các bên có thỏa thuận, nếu
trong trường hợp PL quy định phải có cơng chứng, chứng thực thì các bên phải tuân theo. Tuy
nhiên, hợp đồng chỉ bắt buộc phải công chứng, chứng thực khi các bên có thỏa thuận hoặc PL có
quy định.
+ Bên thế chấp được dùng tài sản thế chấp để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ dân sự khác,
nếu giá trị lớn hơn tổng giá trị được bảo đảm (nếu có thỏa thuận hoặc PL có quy định).
- Nghĩa vụ và quyền của các bên trong thế chấp tài sản.
- Nội dung của thế chấp tài sản:
+ Bên thế chấp phải giao toàn bộ giấy tờ (bản chính) về tài sản thế chấp cho bên nhận thế
chấp như giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà, chứng nhận QSDĐ,...
+ Bên thế chấp phải thông báo cho bên nhận thế chấp biết các quyền của người thứ ba đối
với tài sản thế chấp. Nếu tài sản được thế chấp nhiều nghĩa vụ thì bên thế chấp phải thơng báo
cho bên nhận thế chấp về việc tài sản đã đem thế chấp những lần trước đó.
+ Trong trường hợp bên thế chấp vẫn giữ tài sản thế chấp thì có quyền khai thác, sử dụng
tài sản, hưởng hoa lợi, lợi tức từ tài sản (trừ trường hợp có thỏa thuận khác). Bên thế chấp có
+ Bên thế chấp được dùng tài sản thế chấp để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ dân sự khác,
nếu giá trị lớn hơn tổng giá trị được bảo đảm (nếu có thỏa thuận hoặc PL có quy định).
- Xử lý tài sản thế chấp (Điều 355 BLDS): Trong trường hợp đã đến thời hạn thực hiện
nghĩa vụ mà bên thế chấp không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ, thì bên nhận thế
chấp có quyền u cầu bán đấu giá tài sản thế chấp để thực hiện nghĩa vụ dân sự, trừ trường hợp
có thỏa thuận khác. Như vậy việc xử lý tài sản thế chấp theo hai phương thức:
+ Theo thỏa thuận của các bên trong hợp đồng thế chấp. PL cho phép các bên có quyền
thỏa thuận các biện pháp xử lý tài sản thế chấp.
+ Yêu cầu cơ quan Nhà nước có thẩm quyền bán đấu giá tài sản để thực hiện nghĩa vụ dân
sự thông qua trung tâm bán đấu giá tài sản hoặc tổ chức có thẩm quyền khác (DN có chức năng
bán đấu giá tài sản).
<b>Câu 8. Biện pháp cầm cố tài sản?</b>
<i>- Khái niệm: Cầm cố tài sản là việc một bên (sau đây gọi là bên cầm cố) giao tài sản thuộc</i>
quyền sở hữu của mình cho bên kia (sau đây gọi là bên nhận cầm cố) để bảo đảm thực hiện
nghĩa vụ dân sự.
<i>- Đối tượng của cầm cố tài sản:</i>
+ Tài sản cầm cố phải là BĐS hoặc động sản (trừ trường hợp PL có quy định khác, VD:
Luật nhà ở năm 2005 chỉ quy định thế chấp nhà ở).
+ Tài sản cầm cố phải thuộc sở hữu của bên cầm cố, được phép giao dịch và khơng có
Việc cầm cố tài sản theo đó người có nghĩa vụ giao tài sản cho người có quyền, trong
trường hợp bên cầm cố không thực hiện hoặc thực hiện khơng đúng nghĩa vụ cam kết thì tài sản
cầm cố được xử lý theo thỏa thuận hoặc theo quy định của PL. Do vậy, tài sản cầm cố phải
thuộc sở hữu của bên cầm cố, nếu là sở hữu chung của nhiều người thì phải có sự đồng ý của tất
cả các đồng chủ sở hữu. Việc xác định tài sản thuộc sở hữu của bên cầm cố hay không trước hết
dựa vào giấy tờ chứng nhận quyền sở hữu đối với tài sản có đăng ký như phương tiện vận tải
(ơtơ, mơtơ, tàu biển,...). Cũng có những tài sản khơng có đăng ký quyền sở hữu thì được dựa
trên cơ sở suy đoán là của người đang chiếm hữu thực tế. Thực tiễn nhiều trường hợp bên nhận
cầm cố bị lừa dối nên phải trả lại tài sản cho chủ sở hữu, do vậy việc bảo đảm trong quan hệ
nghĩa vụ khơng thực hiện được.
<i>- Hình thức của cầm cố tài sản: Việc cầm cố tài sản phải lập thành văn bản gọi là HĐ cầm</i>
cố, văn bản cầm cố có thể lập riêng hoặc ghi trong hợp đồng chính, trong đó phải đảm bảo các
nội dung chủ yếu sau:
+ Nghĩa vụ được bảo đảm.
+ Mô tả tài sản cầm cố.
+ Giá trị tài sản cầm cố (nếu các bên có thỏa thuận hoặc PL có quy định).
+ Bên giữ tài sản cầm cố.
+ Quyền và nghĩa vụ của các bên.
+ Các trường hợp xử lý và phương thức xử lý tài sản cầm cố.
+ Các thỏa thuận khác.
Nội dung của cầm cố tài sản là các quyền và nghĩa vụ của các bên do các bên thỏa thuận
hoặc PL có quy định.
Quyền và nghĩa vụ của bên cầm cố và bên nhận cầm cố tài sản: Bên cầm cố và bên nhận
cầm cố tài sản có các nghĩa vụ và quyền theo quy định từ Đ 330 đến Đ 333 BLDS 2005.
<i>- Xử lý tài sản cầm cố: Khi đã đến hạn thực hiện nghĩa vụ mà bên cầm cố tài sản không</i>
thực hiện hoặc thực hiện nghĩa vụ khơng đúng thỏa thuận thì tài sản cầm cố được xử lý theo
phương thức do các bên đã thỏa thuận hoặc được bán đấu giá để thực hiện nghĩa vụ. Bên nhận
cầm cố được ưu tiên thanh toán từ số tiền bán tài sản cầm cố, sau khi trừ chi phí bảo quản, chi
phí bán đấu giá tài sản.
+ Trong trường hợp tài sản được dùng để cầm cố có nhiều vật thì bên nhận cầm cố được
chọn tài sản cụ thể để xử lý, trừ trường hợp có thỏa thuận khác. Bên nhận cầm cố chỉ được xử
lý số tài sản cần thiết tương ứng với giá trị của nghĩa vụ được bảo đảm; nếu xử lý quá số tài
sản cần thiết và gây ra thiệt hại cho bên cầm cố thì phải bồi thường thiệt hại cho bên cầm cố.
+ Tiền bán tài sản cầm cố được sử dụng để thanh toán nghĩa vụ cho bên nhận cầm cố
sau khi trừ chi phí bảo quản, bán tài sản và các chi phí cần thiết có liên quan để xử lý tài sản
cầm cố.
- Trong trường hợp đã đến thời hạn thực hiện nghĩa vụ mà bên thế chấp không thực hiện
hoặc thực hiện khơng đúng nghĩa vụ, thì bên nhận thế chấp có quyền yêu cầu bán đấu giá tài
sản thế chấp để thực hiện nghĩa vụ dân sự, trừ trường hợp có thỏa thuận khác. Như vậy việc xử
lý tài sản thế chấp theo hai phương thức:
- Theo thỏa thuận của các bên trong hợp đồng thế chấp. PL cho phép các bên có quyền
thỏa thuận các biện pháp xử lý tài sản thế chấp.
- Yêu cầu cơ quan Nhà nước có thẩm quyền bán đấu giá tài sản để thực hiện nghĩa vụ
dân sự thông qua trung tâm bán đấu giá tài sản hoặc tổ chức có thẩm quyền khác (DN có chức
năng bán đấu giá tài sản).
<b>Câu 9. Biện pháp bảo lãnh (so sánh BLDS2005 với BLDS 1995)</b>
<i>- Khái niệm: Bảo lãnh là việc người thứ ba (gọi là người bảo lãnh) cam kết với bên có</i>
quyền (gọi là người nhận bảo lãnh) sẽ thực hiện nghĩa vụ thay cho bên có nghĩa vụ (gọi là
người được bảo lãnh), nếu khi đến thời hạn mà người được bảo lãnh không thực hiện hoặc
thực hiện không đúng nghĩa vụ. Các bên cũng có thể thỏa thuận về việc người bảo lãnh chỉ
phải thực hiện nghĩa vụ khi người được bảo lãnh khơng có khả năng thực hiện nghĩa vụ của
mình (Điều 361).
<i>- So sánh: Bảo lãnh trong BLDS năm 2005 mang tính chất đối nhân, do đó việc xác định</i>
bảo đảm bằng tài sản không phải quyết định.
+ Chủ thể của bảo lãnh bao gồm người bảo lãnh, người được bảo lãnh và người nhận
bảo lãnh.
+ Phạm vi của bảo lãnh là 1 phần hoặc toàn bộ nghĩa vụ dân sự (theo như thỏa thuận)
nếu các bên không thỏa thuận cụ thể thì phạm vi bảo lãnh được xác định là toàn bộ nên người
bảo lãnh phải thực hiện toàn bộ nghĩa vụ thay cho người được bảo lãnh như tiền nợ gốc, lãi,
bồi thường thiệt hại (nếu có).
+ Đối tượng và hình thức của bảo lãnh: Đối tượng của bảo lãnh có thể là tài sản (tiền, tài
sản khác) thuộc sở hữu của người bảo lãnh, nếu đối tượng của nghĩa vụ chính là tài sản. Đối
tượng của bảo lãnh là công việc cụ thể nếu đối tượng của nghĩa vụ chính là cơng việc cụ thể.
Tùy theo từng loại bảo lãnh khác nhau mà đối tượng bảo lãnh có thể là tài sản hoặc cơng việc
phải làm. Chẳng hạn theo Quy chế bảo lãnh ngân hàng thì bao gồm các loại: bảo lãnh vay vốn,
bảo lãnh thanh toán, bảo lãnh mời thầu, bảo lãnh thực hiện hợp đồng, bảo lãnh đảm bảo chất
lượng sản phẩm,... Việc bảo lãnh phải được lập thành văn bản (hợp đồng bảo lãnh).
<b>Câu 10. Biện pháp đặt cọc?</b>
Đặt cọc là việc một bên giao cho bên kia một khoản tiền hoặc kim khí q, đá q hoặc
vật có giá trị khác (gọi là tài sản đặt cọc) trong một thời hạn để đảm bảo giao kết hợp đồng
hoặc thực hiện nghĩa vụ dân sự (Điều 358) .
- Trong trường hợp các bên thực hiện đúng thỏa thuận trong thời hạn (hợp đồng được
giao kết, thực hiện) thì tài sản đặt cọc được trả lại cho bên đặt cọc hoặc được trừ vào nghĩa vụ
trả tiền theo hợp đồng. Chẳng hạn ông A đặt cọc cho ông B 10 triệu đồng để xác lập hợp đồng
mua bán nhà giá 90 triệu đồng. Trong thời hạn thỏa thuận hợp đồng mua bán nhà được giao
kết thực hiện thì số tiền trên có thể được trừ vào nghĩa vụ thanh toán do bán nhà hoặc bên bán
trả lại cho bên mua.
- Trong trường hợp có sự vi phạm trong giao kết, thực hiện hợp đồng thì xử lý như sau:
+ Nếu bên đặt cọc từ chối giao kết, thực hiện hợp đồng thì tài sản đặt cọc thuộc về bên
nhận đặt cọc.
+ Nếu bên nhận đặt cọc từ chối việc giao kết, thực hiện hợp đồng, thì phải trả cho bên
đặt cọc tài sản đặt cọc, đồng thời phải trả một khoản tiền tương đương với giá trị tài sản đặt
cọc (trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác).
Để có căn cứ giải quyết khi có tranh chấp xảy ra PL quy định việc đặt cọc phải được lập
thành văn bản. Trong thực tiễn nhiều trường hợp các bên thỏa thuận bằng văn bản khơng rõ
ràng như hợp đồng mua bán nhà (có cọc), giấy đặt cọc nhưng nội dung lại trả trước một nửa
tiền, hoặc để làm tin bên mua trả cho bên bán 50 triệu (cọc). Những trường hợp trên rất khó
xác định đâu là tiền đặt cọc (để đảm bảo giao kết hoặc thực hiện hợp đồng), đâu là tiền mà các
bên đã thanh toán cho nhau theo hợp đồng. Do đó khi có tranh chấp xảy ra xác định là tài sản
trả trước và xử lý hậu quả pháp lý theo quy định về hợp đồng vơ hiệu.
Ngồi ra, quy định tại Điều 358: "Trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác". Xuất
phát từ nguyên tắc tự do, tự nguyện cam kết thỏa thuận các bên tham gia hợp đồng có thể thỏa
<b>Câu 11. So sánh giữa cầm cố tài sản và thế chấp tài sản. </b>
Theo quy định tại Điều 342 BLDS năm 2005 thì thế chấp tài sản là việc một bên dùng
tài sản thuộc sở hữu của mình để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự đối với bên kia và không
chuyển giao tài sản đó cho bên nhận thế chấp. Tài sản thế chấp do bên thế chấp giữ. Các bên
cũng có thể thoả thuận giao cho người thứ ba giữ tài sản thế chấp.
Tài sản thế chấp là tài sản có thực và cũng có thể là tài sản hình thành trong tương lai.
Trong trường hợp thế chấp tồn bộ bất động sản, động sản có vật phụ thì vật phụ của
động sản, bất động sản đó cũng thuộc tài sản thế chấp. Trong tường hợp thế chấp một phần bất
động sản, động sản có vật phụ mà các bên khơng có thoả thuận về tài sản phụ đó thì tài sản
phụ đó cũng thuộc tài sản thế chấp.
Việc thế chấp QSDĐ phải thực hiện theo quy định tại Đ715 đến Đ721 BLDS 2005 và
các quy định khác của PL có liên quan.
Về hình thức thế chấp tài sản: Việc thế chấp tài sản phải được lập thành văn bản, có thể
lập thành văn bản riêng hoặc ghi trong hợp đồng chính. Trong một số trường hợp PL có quy
định văn bản thế chấp phải được công chứng, chứng thực hoặc đăng ký thì việc thế chấp tài sản
phải tuân thủ các hình thức đó. (Điều 343 BLDS năm 2005)
Về thời hạn thế chấp: thời hạn thế chấp do các bên thoả thuận, nếu khơng có thoả thuận
thì việc thế chấp có thời hạn cho đến khi chấm dứt nghĩa vụ được bảo đảm bằng thế chấp. (Điều
344 BLDS năm 2005)
<b>Câu 12. Hãy nêu các trường hợp các bên tự thỏa thuận về phương thức xử lý tài sản</b>
<b>cầm cố, thế chấp. </b>
Khi cầm cố tài sản, người cầm cố phải chuyển tài sản đó để cho người nhận cầm cố quản
lý và sử dụng. Còn đối với thế chấp tài sản thì người thế chấp được giữ lại tài sản thế chấp, chỉ
dùng quyền sở hữu tài sản đó để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ
Đ 326 BLDS quy định "Cầm cố tài sản là việc một bên giao tài sản thuộc quyền sở hữu
của mình cho bên kia để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự. K1, Đ432 quy định "Thế chấp tài
sản là việc một bên dùng tài sản thuộc sở hữu của mình để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự
đối với bên kia và không chuyển giao tài sản đó cho bên nhận thế chấp".
Theo những quy định trên thì khi cầm cố tài sản, người cầm cố phải chuyển tài sản đó để
cho người nhận cầm cố quản lý và sử dụng. Còn đối với thế chấp tài sản thì người thế chấp được
giữ lại tài sản thế chấp, chỉ dùng quyền sở hữu tài sản đó để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ. Điểm
chung của hai loại hình này theo quy định là phải được lập thành văn bản. Tuy nhiên đối với thế
chấp tài sản nếu PL có quy định thì việc thế chấp phải được công chứng, chứng thực hoặc đăng
ký giao dịch đảm bảo.
Như vậy có thể thấy cầm cố tài sản được dùng cho các giao dịch là các loại động sản
thông thường và thế chấp tài sản được áp dụng đối với những loại tài sản có giá trị lớn là các bất
động sản và động sản có đăng ký quyền sở hữu. Do đó, nếu PL có quy định về việc thế chấp đối
với từng loại tài sản nhất định thì việc thế chấp đó phải được công chứng, chứng thực hoặc phải
đăng ký giao dịch đảm bảo.
Trên thực tế hiện nay việc thế chấp tài sản hiện đang được sử dụng rất thông dụng trong
các giao dịch đảm bảo, nhất là trong giao dịch với các ngân hàng thương mại.
<i>- Xử lý tài sản thế chấp, cầm cố như thế nào? </i>
Điều 336 và 355 BLDS quy định "Trường hợp đã đến hạn thực hiện nghĩa vụ dân sự mà
bên có nghĩa vụ không thực hiện hoặc thực hiện nghĩa vụ không đúng thỏa thuận thì tài sản cầm
Nếu là động sản thơng thường thì trên thực tế sẽ thuộc về người nhận cầm cố nếu đến hạn
mà người cầm cố không thực hiện nghĩa vụ. Nhưng đối với thế chấp tài sản thì lại khơng đơn
giản, bởi tài sản thế chấp đều có đăng ký quyền sở hữu nên người nhận thế chấp không thể xác
lập quyền sở hữu đối với tài sản này. Người nhận thế chấp phải yêu cần bán đấu giá tài sản để
đảm bảo nghĩa vụ dân sự được thực hiện. Nhưng trên thực tế thì người nhận thế chấp phải trải
qua giai đoạn khởi kiện và thi hành bản án mới có thể bán được tài sản thế chấp. Thực trạng này
làm cho người nhận thế chấp tốn nhiều thời gian và chi phí, bởi lẽ các cơ quan bán đấu giá tài
sản không dám nhận bán đấu giá các tài sản chưa có bản án và quyết định bán đấu giá của cơ
quan thi hành án.
Nên chấp hành quy định PL: Điểm c, khoản 2, điều 1, Nghị định số 17/2010/NĐ-CP ngày
04/03/2010 của Chính phủ về bán đấu giá tài sản quy định tài sản bán đấu giá là "Tài sản bảo
đảm trong trường hợp PL về giao dịch bảo đảm quy định phải xử lý bằng bán đấu giá". Như vậy,
nếu việc cầm cố, thế chấp tài sản có thỏa thuận xử lý tài sản bằng cách bán đấu giá tài sản thì
vẫn được PL chấp thuận, khơng được u cầu các bên đương sự phải qua giai đoạn tố tụng và
thi hành án rồi mới được bán đấu giá tài sản. Việc cầm cố, thế chấp là sự thỏa thuận của các bên,
được PL bảo vệ. Do đó phải công nhận và tạo điều kiện cho các bên thực hiện sự thỏa thuận đó.
<b>Câu 13. Đăng ký thế chấp, cầm cố. </b>
Đăng ký thế chấp cầm cố tài sản (Đăng ký giao dịch đảm bảo) là việc cơ quan đăng ký
giao dịch bảo đảm ghi vào Sổ đăng ký giao dịch bảo đảm hoặc nhập vào cơ sở dữ liệu về giao
dịch bảo đảm việc bên bảo đảm dùng tài sản để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ dân sự đối với bên
nhân bảo đảm.
Giấy tờ xác định tư cách pháp lý của người yêu cầu đăng ký là văn bản của cơ quan nhà
<b>Câu 14. Khái niệm, đặc điểm trách nhiệm dân sự? </b>
Trách nhiệm dân sự luôn được các luật gia Việt Nam hiện nay xem là một loại trách
nhiệm pháp lý - một vấn đề pháp lý quan trọng được nghiên cứu tổng quát trong môn lý luận
chung về nhà nước và PL. Trách nhiệm pháp lý được cho là việc một chủ thể phải gánh chịu
những hậu quả bất lợi theo quy định của PL do có hành vi vi phạm PL. Nghĩa vụ dân sự là một
quan hệ pháp lý giữa trái chủ và người thụ trái xác định, tại đó người thụ trái bị PL cưỡng chế
thực hiện nghĩa vụ. Việc vi phạm nghĩa vụ được xem như vi phạm PL. Về điểm này, BLDS
Pháp qui định "hợp đồng giao kết hợp pháp có giá trị như luật đối với các bên giao kết" (Điều
1134), tức là nghĩa vụ hợp đồng cũng có giá trị như luật. Vì vậy, người vi phạm nghĩa vụ phải
gánh chịu hậu quả bất lợi là trách nhiệm dân sự – một loại trách nhiệm pháp lý có các đặc điểm:
Là hậu quả pháp lý của hành vi vi phạm; Luôn luôn được thực hiện trong phạm vi quan hệ giữa
Nhà nước và bên vi phạm; Được xác định bằng trình tự đặc biệt do PL quy định bởi cơ quan nhà
nước có thẩm quyền; Được thực hiện trong phạm vi văn bản đã có hiệu lực PL đối với người vi
phạm; Có thể áp dụng đối với cả pháp nhân đối với vi phạm ngồi luật hình sự.
<i>* Khái niệm trách nhiệm dân sự:</i>
- Theo nghĩa khách quan: trách nhiệm dân sự là tổng thể các quy định của PL dân sự về
các căn cứ, các điều kiện phát sinh trách nhiệm, năng lực chịu trách nhiệm, cách thức thực hiện
trách nhiệm và hậu quả pháp lý của việc áp dụng trách nhiệm dân sự.
- Theo nghĩa chủ quan: là biện pháp cưỡng chế được áp dụng đối với người đã có hành vi
xâm phạm đến các quyền và lợi ích hợp pháp người khác, nhằm buộc người vi phạm phải thực
hiện những nghĩa vụ nhất định hoặc phải bồi thường thiệt hại nhằm bù đắp tổn thất và khơi phục
các quyền và lợi ích hợp pháp của người bị xâm phạm.
<i>* Đặc điểm:</i>
- Là biện pháp cưỡng chế mang tính tài sản.
- Là trách nhiệm của người vi phạm trước người có quyền, lợi ích bị xâm phạm.
- Được hình thành dựa trên sự thỏa thuận hợp pháp giữa các bên hoặc theo quy định của
PL.
- Có thể giải quyết bằng biện pháp tự hòa giải, thương lượng hoặc khởi kiện ra cơ quan tư
pháp dựa trên nguyên tắc tự nguyện, thỏa thuận và tự định đoạt.
- Nhằm đền bù hoặc khôi phục lại quyền và lợi ích bị xâm phạm.
<b>Câu 15. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm nghĩa vụ theo hợp đồng.</b>
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong hợp đồng là trách nhiệm dân sự phát sinh do hành
vi vi phạm hợp đồng của một bên gây thiệt hại nên phải bồi thường thiệt hại đã gây ra tương ứng
với mức độ lỗi của mình.
Đặc điểm:
- Giữa bên gây thiệt hại và bên bị thiệt hại có quan hệ hợp đồng hợp pháp.
- Nội dung của trách nhiệm phụ thuộc vào sự thoả thuận của các bên hoặc theo quy định
của PL.
- Trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong hợp đồng chỉ giới hạn trong phạm vi những
thiệt hại thực tế và những thiệt hại có thể tiên liệu được vào thời điểm ký hợp đồng.
- Lỗi là một trong những điều kiện bắt buộc của trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong
- Thực hiện xong trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong hợp đồng không đương nhiên
làm chấm dứt quan hệ hợp đồng giữa các bên.
* Các điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng:- Có
thiệt hại xảy ra:
- Khái niệm thiệt hại: thiệt hại là toàn bộ những tổn thất gây ra cho một bên, do việc vi
phạm hợp đồng của bên kia. Những tổn thất này bao gồm: tổn thất phải gánh chịu và những lợi
ích đáng lẽ phải có từ việc thực hiện hợp đồng. Những tổn thất này có thể là về vật chất hay
tinh thần như xâm phạm sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của bên bị thiệt hại. Thiệt hại vật chất
có thể là thiệt hại trực tiếp và thiệt hại gián tiếp.
- Xác định thiệt hại
- Hành vi vi phạm hợp đồng là hành vi trái PL:
+ Hành vi không thực hiện, thực hiện không đúng, không đầy đủ nghĩa vụ trong hợp
đồng bị coi là hành vi trái PL.
+ Hành vi vi phạm hợp đồng không bị coi là hành vi trái PL trong những trường hợp sau
đây:
+ Do sự kiện bất khả kháng
+ Hoàn toàn do lỗi của bên có quyền
- Có quan hệ nhân-quả giữa hành vi trái PL do vi phạm hợp đồng với thiệt hại xảy ra
+ Quan hệ nhân-quả là mối quan hệ nội tại tất yếu giữa các sự kiện, hiện tượng nối tiếp
nhau trong một không gian và trong một khoảng thời gian xác định. => Chỉ những thiệt hại
phát sinh do "hậu quả của việc vi phạm" và có mối quan hệ nhận quả giữa sự vi phạm thực
hiện hợp đồng và thiệt hại xảy ra thì mới được công nhận bồi thường.
+ Hành vi vi phạm hợp đồng là nguyên nhân dẫn đến thiệt hại đã xảy ra.
- Phải có lỗi của bên vi phạm:
+ Khái niệm lỗi.
+ Các hình thức lỗi (đ.308).
Lỗi trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong hợp đồng là lỗi suy đoán. Người gây
thiệt hại tự chứng minh là mình khơng có lỗi. => Lỗi có vai trị quan trọng trong việc xác định
mức trách nhiệm mà người gây thiệt hại phải gánh chịu.
Yếu tố lỗi trong việc xác định mức trách nhiệm mà người gây thiệt hại phải gánh chịu
trách nhiệm. Xác định mức độ lỗi của mỗi bên thường rất khó và một phần phụ thuộc vào các
phán quyết của Tịa án.
- Phương thức thanh tốn tiền bồi thường thiệt hại (điều 300 BLDS).
<b>Câu 16. Giao kết và thực hiện hợp đồng</b>
<i>* Giao kết hợp đồng </i>
- Đề nghị giao kết hợp đồng: Các chủ thể có ý định thiết lập quan hệ HĐ thì phải thể
hiện ý muốn của mình bằng một hình thức nhất định. Thơng qua sự thể hiện đó mà bên kia biết
được ý muốn và từ đó mới có thể đi đến việc giao kết HĐ. Để đối tác biết và hình dung được
hợp đồng đó như thế nào thì người đề nghị phải đưa ra những thông tin một cách tương đối cụ
+ Bên được đề nghị phải được chỉ đích danh.
+ Trong lời đề nghị có nêu rõ nội dung chủ yếu của hợp đồng và ấn định một thời gian
trả lời.
- Chấp nhận giao kết hợp đồng: Là việc bên được đề nghị đồng ý tiến hành việc giao kết
hợp đồng với người đề nghị. Về nguyên tắc bên được đề nghị phải trả lời ngay có chấp nhận
việc giao kết hợp đồng hay khơng, trừ trường hợp có thỏa thuận về thời hạn trả lời. Trong
trường hợp việc trả lời được chuyển qua bưu điện thì thời điểm trả lời là ngày gửi đi theo dấu
của bưu điện.
- Thay đổi, rút lại, chấm dứt đề nghị giao kết hợp đồng dân sự.
Bên đề nghị có thể thay đổi hoặc rút lại đề nghị giao kết hợp đồng dân sự, nếu bên được
đề nghị chưa nhận được đề nghị hoặc trong trường hợp bên đề nghị có nêu rõ điều kiện được
thay đổi hoặc rút lại đề nghị. Trong trường hợp bên đề nghị thay đổi nội dung, điều kiện của đề
nghị thì đề nghị đó được coi là đề nghị mới.
Đề nghị giao kết hợp đồng dân sự chấm dứt khi bên nhận được đề nghị trả lời không
chấp nhận hoặc chậm trả lời chấp nhận hoặc hết thời hạn trả lời, mà không nhận được trả lời
của bên được đề nghị giao kết. Nếu bên được đề nghị đã trả lời chấp nhận giao kết hợp đồng,
nhưng có nêu điều kiện hoặc sửa đổi đề nghị thì sự trả lời chấp nhận coi như đề nghị mới giao
kết hợp đồng dân sự.
<i>* Thực hiện hợp đồng và trách nhiệm do không thực hiện nghĩa vụ theo hợp đồng:</i>
Khi các bên đã cam kết thoả thuận các điều khoản trong hợp đồng thì phải thực hiện
đúng và đầy đủ các điều khoản đó và khơng được vi phạm, nếu vi phạm thì phải chịu trách
nhiệm dân sự. K1 Đ302 BLDS quy định: "Người có nghĩa vụ mà không thực hiện hoặc thực
hiện không đúng nghĩa vụ dân sự thì phải chịu trách nhiệm dân sự đối với người có quyền".
Căn cứ vào tính chất, hậu quả của sự vi phạm nghĩa vụ mà trách nhiệm do vi phạm
nghĩa vụ theo hợp đồng gồm:
* Trách nhiệm phải thực hiện nghĩa vụ dân sự
- Trách nhiệm do chậm thực hiện nghĩa vụ dân sự (Điều 305).
+ Khi nghĩa vụ dân sự chậm được thực hiện thì người có quyền có thể gia hạn để người
có nghĩa vụ hồn thành nghĩa vụ nếu q thời hạn này thì theo u cầu của người có quyền thì
người có nghĩa vụ vẫn phải thực hiện nghĩa vụ và bồi thường thiệt hại; nếu việc thực hiện
không cần thiết đối với người có quyền nữa thì có quyền từ chối tiếp nhận và yêu cầu bồi
thường thiệt hại.
+ Trong trường hợp người có nghĩa vụ chậm trả tiền thì người đó phải trả lãi đối với số
tiền chậm trả theo lãi suất nợ quá hạn do NHNN công bố tương ứng với thời gian chậm trả vào
thời điểm thanh tốn (trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc PL có quy định khác).
- Trách nhiệm do không thực hiện nghĩa vụ giao vật (Điều 303)
Khi người có nghĩa vụ khơng thực hiện nghĩa vụ giao vật đặc định thì những người có
quyền được quyền u cầu người có nghĩa vụ phải giao đúng vật đó; nếu vật khơng cịn hoặc
bị hư hỏng, thì phải thanh toán giá trị của vật và bồi thường thiệt hại.
* Trách nhiệm do không thực hiện một công việc hoặc không được thực hiện một công
việc (Điều 304 BLDS).
* Trách nhiệm do thực hiện nghĩa vụ không đúng đối tượng (Điều 428, Điều 429 và Điều
430 BLDS).
* Trách nhiệm dân sự do vi phạm nghĩa vụ theo hợp đồng (Đ307)
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại áp dụng trong trường hợp các bên đã vi phạm nghĩa vụ
mà họ đã tự nguyện cam kết, có lỗi và gây ra thiệt hại. Đây là một dạng chế tài dân sự được áp
dụng đối với bên vi phạm nghĩa vụ dân sự.
Mục đích của trách nhiệm bồi thường thiệt hại nhằm khắc phục những thiệt hại về tài sản
và chỉ phát sinh khi có những điều kiện luật định:
* Có hành vi trái PL của người có nghĩa vụ: hành vi trái PL là hành vi vi phạm những
nghĩa vụ dân sự mà họ đã tự nguyện cam kết. Về ngun tắc người có nghĩa vụ mà khơng thực
hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ dân sự thì xác định là hành vi vi phạm nghĩa vụ. Tuy
nhiên trong một số trường hợp hành vi vi phạm nghĩa vụ không coi là trái PL và không phải bồi
thường:
- Nếu nghĩa vụ dân sự không thực hiện được là hồn tồn do lỗi của người có quyền.
- Do sự kiện bất khả kháng (trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác hoặc PL có quy
định khác). Sự kiện bất khả kháng là sự kiện xảy ra một cách khách quan không thể lường trước
được và không thể khắc phục được, mặc dù đã áp dụng mọi biện pháp cần thiết mà khả năng
cho phép.
* Có thiệt hại xảy ra: Trách nhiệm bồi thường thiệt hại là việc người có nghĩa vụ bù đắp
cho bên kia những tổn thất vật chất mà mình đã gây ra do vi phạm nghĩa vụ. Do vậy, về nguyên
tắc thì chỉ khi xác định được có thiệt hại thực tế xảy ra thì người vi phạm mới phải bồi thường.
Thiệt hại là sự giảm bớt, mất mát, hư hỏng nhưng phải tính được thành một khoản tiền
nhất định; trong một số trường hợp có thể là một số chi phí phải bỏ ra để khắc phục những hậu
quả xấu về tài sản do người có nghĩa vụ đã khơng chấp hành nghĩa vụ gây ra. Thiệt hại trong
trách nhiệm dân sự do vi phạm nghĩa vụ chủ yếu là thiệt hại tài sản bao gồm:
+ Những hư hỏng, mất mát về tài sản.
+ Những chi phí phải bỏ ra (chi phí hợp lý để ngăn chặn, hạn chế, khắc phục thiệt hại).
+ Thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút.
BLDS không phân thành thiệt hại trực tiếp và thiệt hại gián tiếp, việc xác định thiệt hại
căn cứ vào các quy định của PL, phải mang tính khách quan, khơng được suy diễn chủ quan.
* Lỗi của người vi phạm nghĩa vụ.
Về nguyên tắc trách nhiệm bồi thường thiệt hại chỉ phát sinh khi người gây thiệt hại có
lỗi. Lỗi trong trách nhiệm dân sự là việc mà chủ thể đã làm điều mà PL cấm hoặc không làm
một việc theo thỏa thuận đã được PL thừa nhận. BLDS phân thành hai loại lỗi: cố ý gây thiệt hại
và vô ý gây thiệt hại (Điều 308). Tuy nhiên việc xác định hình thức lỗi gây thiệt hại chỉ có ý
nghĩa trong một số trường hợp cần thiết (Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng hoặc trong hợp
đồng gửi giữ, vận chuyển hàng hóa,...)
* Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm PL và thiệt hại xảy ra
Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm PL và thiệt hại xảy ra là mối liên hệ nội tại,
tất yếu, trong đó hành vi vi phạm nghĩa vụ là nguyên nhân, thiệt hại xảy ra là kết quả. Chỉ trong
trường hợp thiệt hại xảy ra là kết quả tất yếu của hành vi vi phạm PL thì người vi phạm mới
phải bồi thường thiệt hại. Trong thực tiễn, nhiều trường hợp một thiệt hại xảy ra có thể do nhiều
ngun nhân khác nhau thì cần xem xét hành vi vi phạm của họ có quan hệ như thế nào đối với
<b>Câu 17. Hợp đồng mua bán tài sản?</b>
* Khái niệm: Hợp đồng mua bán tài sản là sự thoả thuận giữa các bên, theo đó bên bán có
nghĩa vụ giao tài sản cho bên mua và nhận tiền, cịn bên mua có nghĩa vụ nhận tài sản và trả tiền
cho bên bán.
* Đặc điểm: Có sự thỏa thuận của các chủ thể để chuyển giao tài sản và quyền sở hữu tài
sản từ bên bán sang cho bên mua.
Hợp đồng mua bán là hợp đồng ưng thuận, song vụ và có đền bù.
+ Sự ưng thuận được hiểu là hợp đồng có giá trị từ khi các bên thỏa thuận xong các nội
dung chủ yếu của hợp đồng dưới một hình thức tương ứng.
+ Tính chất song vụ thể hiện ở việc các bên có quyền và có nghĩa vụ đối lập nhau một
cách tương xứng.
+ Sự đền bù được hiểu là một các bên có sự chuyển cho nhau các lợi ích tương ứng, trong
đó một bên phải giao tài sản và quyền sở hữu tài sản, còn bên nhận được tài sản phải thanh
thanh toán giá trị của tài sản, theo phương thức Hàng – Tiền.
* Các điều khoản chủ yếu của Hợp đồng mua bán tài sản.
- Đối tượng: Đối tượng của hợp đồng mua bán là tài sản được phép giao dịch.
Trong trường hợp đối tượng của hợp đồng mua bán là vật thì vật phải được xác định rõ
chất lượng: Chất lượng của vật mua bán do các bên thoả thuận. Trong trường hợp chất lượng
- Số lượng: xác định bằng trọng lượng hoặc khối lượng hoặc theo đơn vị...
Quy cách bao bì đóng gói.
Tình trạng của tài sản khi giao kết hợp đồng và khi giao nhận tài sản.
Trong trường hợp đối tượng của hợp đồng mua bán là quyền tài sản thì phải có giấy tờ
hoặc các bằng chứng khác chứng minh quyền đó thuộc sở hữu của bên bán.
- Giá cả: Giá có thể được xác định: Do thoả thuận của các bên. Trong trường hợp các bên
thoả thuận thanh tốn theo giá thị trường thì giá được xác định tại địa điểm và thời điểm thanh
toán. Theo khung giá do NN quy định. Do người thứ ba xác định theo yêu cầu của các bên.
- Thời hạn thực hiện hợp đồng: Các bên có thoả thuận; Các bên khơng có thoả thuận
- Địa điểm giao tài sản: Các bên có thoả thuận; Các bên khơng có thoả thuận
- Phương thức thanh tốn: Các bên có thoả thuận; Các bên khơng có thoả thuận
* Hình thức hợp đồng mua bán: Có thể được thiết lập dưới bất kỳ hình thức nào. Trong
trường hợp PL có quy định hình thức thì phải tn thủ quy định đó.
* Quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng mua bán:
- Bên bán có các nghĩa vụ:
+ Giao tài sản cho bên mua: giao đúng số lượng, chất lượng, chủng loại, đồng bộ, địa
điểm, phương thức, thời hạn...
+ Chuyển quyền sở hữu tài sản sang cho bên mua đúng cam kết.
+ Nghĩa vụ bảo đảm quyền sở hữu vật bán và đứng về phía người mua khi có người thứ
ba tranh chấp quyền sở hữu vật bán với người mua.
Lưu ý: Thời điểm chuyển quyền sở hữu
Thời điểm chuyển rủi ro và ý nghĩa của quy định này
+ Nghĩa vụ cung cấp thông tin về vật bán và cách sử dụng vật bán.
+ Nghĩa vụ bảo hành
- Bên mua có các nghĩa vụ:
+ Nhận tài sản đúng cam kết.
+ Trả tiền đúng thỏa thuận
<b>Câu 18. Hợp đồng mua bán nhà ở?</b>
<i>* Khái niệm: Hợp đồng mua bán nhà là sự thoả thuận giữa các bên mà theo đó bên bán</i>
có nghĩa vụ giao nhà và giấy tờ liên quan đến quyền sở hữu cho bên mua, cịn bên mua có
nghĩa vụ trả tiền cho bên bán đúng cam kết.
<i>* Đối tượng của hợp đồng là nhà ở nhưng phải đảm bảo các điều kiện (Điều 91 - Luật</i>
<i>nhà ở):</i>
- Có GCN quyền sở hữu đối với nhà ở theo quy định của PL.
- Khơng có tranh chấp về quyền sở hữu.
- Không bị kê biên để thi hành án hoặc để chấp hành quyết định hành chính của cơ quan
nhà nước có thẩm quyền.
<i>* Chủ thể trong hợp đồng:</i>
- Bên bán nhà ở phải có các điều kiện sau: Là chủ sở hữu nhà ở hoặc người đại diện theo
quy định của PL; cá nhân có năng lực hành vi dân sự, tổ chức bán, cho thuê nhà ở phải có chức
năng kinh doanh nhà ở, trừ trường hợp tổ chức bán nhà ở khơng nhằm mục đích kinh doanh.
- Bên mua nhà ở là tổ chức, cá nhân. Nếu là cá nhân trong nước thì khơng phụ thuộc vào
nơi đăng ký HKTT và phải có năng lực hành vi dân sự. Trường hợp là người VN định cư ở
nước ngoài thì phải thuộc diện được sở hữu, được mua nhà ở tại VN theo quy định của PL.
Nếu bên mua nhà ở là tổ chức thì khơng phụ thuộc vào nơi ĐKKD.
<i>* Hình thức HĐMB nhà ở và thời điểm chuyển quyền sở hữu:</i>
- Hợp đồng mua bán nhà ở phải được lập thành văn bản, có cơng chứng hoặc chứng
thực, trừ trường hợp PL có quy định khác.
- Thời điểm chuyển quyền sở hữu nhà ở đối với trường hợp mua bán nhà ở tính từ ngày
hợp đồng mua bán nhà ở được công chứng hoặc chứng thực. Trường hợp mua bán nhà ở mà
một bên là tổ chức có chức năng KD nhà ở thì thời điểm chuyển quyền sở hữu nhà ở là thời
điểm bên bán bàn giao nhà ở cho bên mua theo thoả thuận trong hợp đồng.
<i>* Quyền và nghĩa vụ của các bên:</i>
- Bên bán nhà ở có các nghĩa vụ sau đây:
+ Thông báo cho bên mua về các hạn chế quyền sở hữu đối với nhà mua bán, nếu có;
+ Bảo quản nhà ở đã bán trong thời gian chưa giao nhà ở cho bên mua;
+ Giao nhà ở đúng tình trạng đã ghi trong hợp đồng kèm theo hồ sơ về nhà cho bên
mua;
+ Thực hiện đúng các thủ tục mua bán nhà ở theo quy định của PL
- Bên bán nhà ở có các quyền sau đây:
+ Yêu cầu bên mua nhận nhà đúng thời hạn đã thoả thuận;
+ Yêu cầu bên mua trả tiền đúng thời hạn, theo phương thức đã thoả thuận;
+ Yêu cầu bên mua hoàn thành các thủ tục mua bán nhà ở trong thời hạn đã thoả thuận;
+ Không giao nhà khi chưa nhận đủ tiền nhà như đã thoả thuận.
- Bên mua nhà ở có các nghĩa vụ sau đây:
+ Trả đủ tiền mua nhà đúng thời hạn, theo phương thức đã thoả thuận; nếu khơng có
thoả thuận về thời hạn và địa điểm trả tiền thì bên mua phải trả vào thời điểm bên bán giao nhà
và tại nơi có nhà;
+ Nhận nhà và hồ sơ về nhà đúng thời hạn đã thoả thuận;
+ Trong trường hợp mua nhà đang cho thuê, phải bảo đảm quyền, lợi ích của người thuê
như thoả thuận trong hợp đồng thuê khi thời hạn thuê còn hiệu lực.
- Bên mua nhà ở có các quyền sau đây:
+ Được nhận nhà kèm theo hồ sơ về nhà theo đúng tình trạng đã thoả thuận;
+ Yêu cầu bên bán hoàn thành các thủ tục mua bán nhà ở trong thời hạn đã thoả thuận;
+ Yêu cầu bên bán giao nhà đúng thời hạn; nếu không giao hoặc chậm giao nhà thì phải
bồi thường thiệt hại.
<i>* Các điều khoản chủ yếu trong hợp đồng mua bán nhà ở:</i>
+ Nhà thuộc quyền sở hữu của một chủ sở hữu
+ Nhà thuộc quyền sở hữu chung
+ Nhà đang cho thuê
- Giá cả:
- Phương thức thanh toán...
<b>Câu 19. Thời điểm chuyển quyền sở hữu trong hợp đồng mua bán? </b>
- Là sự thoả thuận giữa các bên, theo đó bên bán có nghĩa vụ giao tài sản cho bên mua
và nhận tiền, cịn bên mua có nghĩa vụ nhận tài sản và trả tiền cho bên bán.
- Thời điểm chuyển quyền sở hữu trong hợp đồng mua bán:
Quyền sở hữu đối với tài sản mua bán được chuyển cho bên mua kể từ thời điểm tài sản
được chuyển giao, trừ trường hợp các bên có thoả thuận khác hoặc PL có quy định khác. Đối
với tài sản mua bán mà PL quy định phải đăng ký quyền sở hữu thì quyền sở hữu được chuyển
cho bên mua kể từ thời điểm hoàn thành thủ tục đăng ký quyền sở hữu đối với tài sản đó. Như
vậy, PL quy định cụ thể thời điểm chuyển quyền sở hữu tài sản trong hợp đồng mua bán, riêng
đối với HĐMB nhà ở thì thời điểm chuyển quyền sở hữu theo quy định của Luật nhà ở.
Trong trường hợp tài sản mua bán chưa được chuyển giao mà phát sinh hoa lợi, lợi tức
thì hoa lợi, lợi tức thuộc về bên bán.
<b>Câu 20. Hợp đồng vay tài sản?</b>
Hợp đồng vay tài sản là sự thoả thuận giữa các bên, theo đó bên cho vay giao tài sản cho
- Trong điều kiện phát triển kinh tế hiện nay nhu cầu của các chủ thể ngày càng tăng
trong lĩnh vực kinh tế, do đó hợp đồng vay tài sản đã đáp ứng vốn cho các chủ thể mở rộng
SXKD tạo ra nhiều hàng hố có chất lượng cao và tạo công ăn việc làm cho nhân dân.
- Hợp đồng vay tài sản còn là hành lang pháp lý quy định các quyền và nghĩa vụ của các
chủ thể, hạn chế thấp nhất việc cho vay nặng lãi mang tính chất bóc lột trong đời sống dân sự.
- Hợp đồng vay tài sản còn là căn cứ để hoà giải, giải quyết các tranh chấp phát sinh khá
phổ biến trong nhân dân.
- Bản chất của hợp đồng là thỏa thuận để bên cho vay chuyển quyền sở hữu tài sản vay
sang bên vay. (Phân biệt việc chuyển quyền sở hữu trong hợp đồng vay tài sản với hợp đồng
mua bán, tặng cho tài sản).
- Hợp đồng vay có thể là hợp đồng thực tế hoặc hợp đồng ưng thuận; hợp đồng có đền
bù hoặc khơng có đền bù; hợp đồng song vụ.
<b>Câu 21. Hụi và đường lối giải quyết?</b>
Hụi, họ, biêu, phường (họ) là một hình thức giao dịch về tài sản theo tập quán trên cơ sở
thoả thuận của một nhóm người tập hợp nhau lại cùng định ra số người, thời gian, số tiền hoặc
tài sản khác, thể thức góp, lĩnh họ và quyền, nghĩa vụ của các thành viên. Hình thức họ nhằm
mục đích tương trợ trong nhân dân được thực hiện theo quy định của PL.
Nghiêm cấm việc tổ chức họ dưới hình thức cho vay nặng lãi.
"Việc chơi hụi, họ được thực hiện theo quy định tại các điều từ Điều 467 đến Điều 475
XX, việc chơi hụi, họ phát triển với quy mô lớn trong phạm vi cả nước, có tính chất phức tạp
hơn. Một số người lấy tiền của hụi nọ đập vào hụi kia, hoạt động như một nghề để kiếm sống
mà không chịu lao động. Nhiều trường hợp đã lợi dụng để lừa đảo chiếm đoạt tài sản của người
khác, nhiều gia đình lâm vào tình cảnh kiệt quệ về kinh tế do bị giật hụi, bể họ. Tình hình này đã
gây ảnh hưởng không nhỏ đến nền kinh tế, trật tự xã hội và đời sống của một bộ phận nhân dân.
Nhà nước ta coi những hoạt động này là một dạng quan hệ dân sự trái PL, cần có biện pháp
ngăn chặn, giải quyết kịp thời. Ngày 08/08/1992, TA nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân
tối cao đã ra Thông tư liên tịch số 04/TTLT hướng dẫn thống nhất đường lối giải quyết tranh
chấp nợ hụi. Tuy nhiên, sau khi BLDS 1995 được ban hành, Thông tư này đã bị huỷ bỏ theo
Nghị quyết về việc thi hành BLDS của Quốc hội. Trong khi đó, BLDS 1995 lại khơng có quy
định nào điều chỉnh về vấn đề này, nên khi có tranh chấp TA đã khơng có căn cứ PL để giải
quyết. Trước tình hình đó, TANDTC ra công văn hướng dẫn các TA địa phương ngừng thụ lý
việc giải quyết tranh chấp hụi phát sinh từ sau ngày 1/7/1996 - thời điểm BLDS 1995 có hiệu
lực, nếu đã thụ lý, chưa giải quyết xong thì ra quyết định tạm đình chỉ. Việc thiếu vắng sự điều
chỉnh của PL đối với loại quan hệ này dẫn đến nhiều khi các bên tự giải quyết tranh chấp với
nhau bằng "luật rừng", gây mất ổn định xã hội. Dự thảo BLDS (sửa đổi) lần này coi các quan hệ
chơi hụi, họ như là quan hệ vay và cho vay và được điều chỉnh theo các quy định về HĐVTS và
các văn bản PL khác có liên quan là hợp lý. Sau khi Dự thảo BLDS (SĐ) được thông qua và có
hiệu lực, các tranh chấp về hụi, họ sẽ được TA thụ lý giải quyết góp phần ổn định trật tự KTXH.
<b>Câu 22. Lãi suất trong hợp đồng vay tài sản. Ví dụ thực tế?</b>
Lãi suất vay do các bên thoả thuận nhưng không được vượt quá 150% của lãi suất cơ bản
do Ngân hàng nhà nước công bố đối với loại cho vay tương ứng. Trong trường hợp các bên có
thoả thuận về việc trả lãi, nhưng khơng xác định rõ lãi suất hoặc có tranh chấp về lãi suất thì áp
dụng lãi suất cơ bản do NHNN công bố tương ứng với thời hạn vay tại thời điểm trả.
Quy định “không xác định rõ lãi suất” nghĩa là các bên thỏa thuận vay chỉ ghi có lãi
Đối với HĐ vay có thời hạn thì thời gian tính lãi nợ q hạn kể từ khi hết hạn vay, với HĐ
vay không có thời hạn thì thời gian tính lãi nợ q hạn kể từ khi đòi nợ (phát sinh tranh chấp).
Chấp nhận việc nhập lãi vào nợ gốc một lần đối với trường hợp vay có thời hạn và đến
hạn trả nợ mà người vay không thực hiện được nghĩa vụ trả nợ của mình. Trong thực tế việc trả
nợ thường thực hiện nhiều lần. Mỗi lần trả nợ phải trừ nợ lãi, số tiền còn lại sau khi trừ lãi mới
trừ vào nợ gốc. Bên vay trở thành chủ sở hữu tài sản vay kể từ thời điểm nhận tài sản đó.
Lãi suất trong HĐVTS là tỷ lệ nhất định mà bên vay phải trả thêm vào số tài sản đã vay
trên một đơn vị thời gian, nếu các bên có thoả thuận về việc trả lãi hoặc PL quy định về việc trả
lãi. Lãi suất thường được tính theo tuần, tháng hoặc năm do các bên thoả thuận hoặc PL quy
định. Căn cứ vào lãi suất, số lượng tài sản vay và thời gian vay mà bên vay phải trả một khoản
lãi thường là bằng tiền, nhưng cũng có trường hợp các bên thoả thuận với nhau trả lãi bằng tài
sản quy đổi, ví dụ như vay gỗ trả lãi bằng phân đạm.
VD. A vay B 300tr. 2 bên thỏa thuận vay là 12 tháng. Từ 1/2010 lãi suất 7%/ tháng nhưng
A chỉ trả cho B mới 5 tháng rồi khơng trả nữa tháng 2/2011 B u cầu tịa án buộc A phải trả lãi
đến hết tháng 12/2010. Trong trường hợp này TA sẽ giải quyết như thế nào nếu lãi suất do ngân
hàng quy định đối với lãi suất vay tương ứng la 1,7%/tháng? tính lãi suất quá hạn? (quá hạn 2
tháng)
<b>Câu 23. Hợp đồng thuê tài sản?</b>
<i>* Khái niệm: Hợp đồng thuê tài sản là sự thoả thuận giữa các bên, theo đó bên cho thuê</i>
giao tài sản cho bên thuê để sử dụng trong một thời hạn, còn bên thuê phải trả tiền thuê.
Giá thuê tài sản do các bên thảo thuận. Trong trường hợp PL có quy định về khung giá
th thì các bên chỉ được thỏa thuận về giá thuê trong phạm vi khung giá đó.
<i>* Đặc điểm: Có sự chuyển giao tài sản và quyền sử dụng tài sản giữa các bên trong một</i>
thời hạn; Là hợp đồng ưng thuận, song vụ, có đền bù.
<i>* Quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng thuê tài sản:</i>
- Nghĩa vụ và quyền của bên cho thuê:
+ Bên cho thuê phải giao tài sản cho bên thuê đúng số lượng, chất lượng, chủng loại, tình
trạng và đúng thời điểm, địa điểm đã thoả thuận và cung cấp những thông tin cần thiết về việc
sử dụng tài sản đó.
+ Bên cho thuê phải bảo đảm giá trị sử dụng hay chất lượng vật cho thuê trong thời hạn
có hiệu lực của hợp đồng.
+ Bên cho thuê đảm bảo quyền sử dụng tài sản ổn định cho bên thuê.
+ Nghĩa vụ thông báo cho người thứ ba hoặc chủ nợ nhận cầm cố, thế chấp tài sản thuê
biết về việc tài sản đó được dùng để cho thuê…
- Nghĩa vụ và quyền của bên thuê:
+ Bên thuê phải bảo quản tài sản thuê như tài sản của chính mình, phải bảo dưỡng và sữa
chữa nhỏ, nếu làm mất mát, hư hỏng thì phải bồi thường.
+ Bên thuê phải sử dụng tài sản thuê đúng cơng dụng tài sản và đúng mục đích cam kết.
+ Trả tiền thuê theo đúng thời hạn đã thỏa thuận.
+ Trả lại tài sản thuê đúng tình trạng của vật thuê như tình trạng tài sản trước khi ký hợp
+ Nếu làm hư hỏng, mất mát, tiêu hủy, giảm sút giá trị thì phải bồi thường thiệt hại, trừ
những hao mòn tự nhiên hoặc tổn thất do rủi ro, mà hợp đồng không thỏa thuận là bên thuê phải
chịu. Nếu đối tượng thuê là súc vật, mà súc vật sinh con thì người thuê phải trả cả súc vật con
được sinh ra, nhưng người cho thuê phải thanh tốn chi phí hợp lý chăm sóc.
+ Khơng được đem tài sản cho thuê lại trái với ý chí của bên cho thuê.
<i>* Nghĩa vụ bảo quản tài sản thuê: </i>
- Bên thuê phải bảo quản tài sản th như tài sản của chính mình, phải bảo dưỡng và sửa
chữa nhỏ; nếu làm mất mát, hư hỏng thì phải bồi thường. Bên thuê không chịu trách nhiệm về
hao mòn tự nhiên do sử dụng tài sản thuê.
- Bên thuê có thể tu sửa và làm tăng giá trị tài sản thuê, nếu được bên cho thuê đồng ý và
có quyền u cầu bên cho th thanh tốn chi phí hợp lý.
<i>* Nghĩa vụ sử dụng tài sản thuê đúng mục đích:</i>
- Bên thuê phải sử dụng tài sản thuê theo đúng công dụng của tài sản và đúng mục đích đã
thoả thuận.
- Trong trường hợp bên thuê sử dụng tài sản khơng đúng mục đích, khơng đúng cơng
dụng thì bên cho th có quyền đơn phương chấm dứt thực hiện HĐ và yêu cầu bồi thường thiệt
hại.
<b>Câu 24. Hợp đồng vận chuyển hành khách?</b>
<i>* Khái niệm: Hợp đồng vận chuyển hành khách là sự thoả thuận giữa các bên, theo đó</i>
bên vận chuyển chuyên chở hành khách, hành lý đến địa điểm đã định theo thoả thuận, còn hành
<i>* Hình thức hợp đồng vận chuyển hành khách: Hợp đồng VCHK có thể được lập thành</i>
văn bản hoặc bằng lời nói. Vé là bằng chứng của việc giao kết hợp đồng VCHK giữa các bên.
<i>* Nghĩa vụ và quyền của các bên:</i>
- Quyền và nghĩa vụ của bên vận chuyển:
Bên vận chuyển có các nghĩa vụ sau đây:
+ Chuyên chở hành khách từ địa điểm xuất phát đến đúng địa điểm, đến đúng giờ, văn
minh, lịch sự và bằng phương tiện đã thoả thuận một cách an tồn, theo lộ trình; bảo đảm đủ
chỗ cho khách và không chuyên chở vượt quá trọng tải;
+ Mua bảo hiểm trách nhiệm dân sự đối với hành khách theo quy định của PL;
+ Bảo đảm thời gian xuất phát đã được thông báo hoặc theo thoả thuận;
+ Chuyên chở hành lý và trả lại cho hành khách hoặc người có quyền nhận hành lý tại
địa điểm thoả thuận theo đúng thời gian, lộ trình;
+ Hồn trả cho hành khách cước phí vận chuyển theo thoả thuận. Trong trường hợp PL
có quy định thì theo quy định của PL.
Bên vận chuyển có các quyền sau đây:
+ Yêu cầu hành khách trả đủ cước phí vận chuyển hành khách, cước phí vận chuyển
hành lý mang theo người vượt quá mức quy định;
+ Từ chối chuyên chở hành khách trong các trường hợp sau đây:
@ Hành khách không chấp hành quy định của bên vận chuyển hoặc có hành vi làm mất
@ Do tình trạng sức khoẻ của hành khách mà bên vận chuyển thấy rõ rằng việc vận
chuyển sẽ gây nguy hiểm cho chính hành khách đó hoặc những người khác trong hành trình;
@ Để ngăn ngừa dịch bệnh lây lan.
- Quyền và nghĩa vụ của hành khách:
Hành khách có các nghĩa vụ sau đây:
+ Trả đủ cước phí vận chuyển hành khách, cước phí vận chuyển hành lý vượt quá mức
quy định và tự bảo quản hành lý mang theo người;
+ Có mặt tại điểm xuất phát đúng thời gian đã thoả thuận;
+ Tôn trọng, chấp hành đúng các quy định của bên vận chuyển và các quy định khác về
bảo đảm an toàn giao thơng
Hành khách có các quyền sau đây:
+ u cầu được chuyên chở đúng bằng phương tiện vận chuyển và giá trị loại vé với lộ
trình đã thoả thuận;
+ Được miễn cước phí vận chuyển đối với hành lý ký gửi và hành lý xách tay trong hạn
mức theo thoả thuận hoặc theo quy định của PL;
+ Yêu cầu thanh tốn chi phí phát sinh hoặc bồi thường thiệt hại, nếu bên vận chuyển có
lỗi trong việc khơng chun chở đúng thời hạn, địa điểm đã thoả thuận;
+ Được nhận lại tồn bộ hoặc một phần cước phí vận chuyển trong trường hợp quy định
tại điểm b và điểm c khoản 2 Điều 530 của Bộ luật này và những trường hợp khác do PL quy
định hoặc theo thoả thuận;
+ Nhận hành lý tại địa điểm đã thoả thuận theo đúng thời gian, lộ trình;
+ Yêu cầu tạm dừng hành trình trong thời hạn và theo thủ tục do PL quy định.
<i>* Đặc điểm: Đối tượng trong hợp đồng là công việc; Hợp đồng vận chuyển hành khách</i>
là hợp đồng song vụ, có đền bù.
<i>* Chủ thể của hợp đồng và hình thức của hợp đồng:</i>
- Chủ thể: Bên vận chuyển là nhà vận tải được phép hoạt động kinh doanh vận chuyển
hành khách và Hành khách.
- Hình thức: Có thể bằng lời nói hoặc bằng văn bản. Vé là bằng chứng của hợp đồng vận
chuyển.
<i>* Trách nhiệm của các bên trong hợp đồng: </i>
- Trách nhiệm của bên vận chuyển
* Trách nhiệm do không thực hiện, thực hiện không đúng, không đầy đủ dịch vụ vận
chuyển như đã cam kết;
* Trách nhiệm đối với hành lý của hành khách;
* Trách nhiệm đối với sự an toàn về tính mạng, sức khoẻ của HK.
- Trách nhiệm của hành khách
+ Đối với phương tiện vận chuyển
- Hợp đồng bảo hiểm là sự thoả thuận giữa các bên, theo đó bên mua bảo hiểm phải
đóng phí bảo hiểm, còn bên bảo hiểm phải trả một khoản tiền bảo hiểm cho bên được bảo
hiểm khi xãy ra sự kiện BH.
- Hợp đồng bảo hiểm bao gồm hợp đồng bảo hiểm con người, hợp đồng bảo hiểm tài
sản và hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự.
- Hợp đồng bảo hiểm là căn cứ quan trọng quy định quyền và nghĩa vụ của DNBH và
người tham gia bảo hiểm theo thỏa thuận của 02 bên.
- Đối tượng bảo hiểm: Đối tượng bảo hiểm bao gồm con người, tài sản, trách nhiệm dân
sự và các đối tượng khác theo quy định của PL.
- Hình thức HĐBH: HĐBH phải được lập thành văn bản. Giấy yêu cầu BH có chữ ký
của bên mua bảo hiểm là bộ phận không tách rời của HĐBH. Giấy chứng nhận bảo hiểm hoặc
đơn bảo hiểm là bằng chứng của việc giao kết hợp đồng bảo hiểm.
- Sự kiện bảo hiểm: Sự kiện bảo hiểm là sự kiện khách quan do các bên thoả thuận hoặc
PL quy định mà khi sự kiện đó xãy ra thì bên bảo hiểm phải trả tiền bảo hiểm cho bên được
bảo hiểm, trừ trường hợp quy định tại khoản 2, điều 346 BLDS 2005.
- Phí bảo hiểm:
+ Là khoản tiền mà bên mua bảo hiểm phải đóng cho bên bảo hiểm. Thời hạn đóng phí
bảo hiểm theo thoả thuận hoặc theo quy định của PL. Phí bảo hiểm có thể đóng một lần hoặc
theo định kỳ.
+ Trong trường hợp bên mua bảo hiểm chậm đóng phí bảo hiểm theo định kỳ thì bên
bảo hiểm ấn định một thời hạn để bên mua bảo hiểm đóng phí bảo hiểm; nếu hết thời hạn đó
mà bên mua bảo hiểm khơng đóng phí bảo hiểm thì hợp đồng chấm dứt.
- Các chủ thể liên quan hợp đồng: Doanh nghiệp bảo hiểm, bên mua bảo hiểm, người
được bảo hiểm, người thụ hưởng.
- Các loại hợp đồng bảo hiểm bao gồm:
+ Hợp đồng bảo hiểm con người.
+ Hợp đồng bảo hiểm tài sản.
+ Hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự.
Mỗi loại hợp đồng trên có đối tượng bảo hiểm và kỹ thuật nghiệp vụ khác nhau. Việc
chia ra làm 3 loại HĐ bảo hiểm phi nhân thọ nói trên nhằm có biện pháp quản lý phù hợp hơn.
<b>Câu 26. Hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ?</b>
<i>* Khái niệm và các điều kiện:</i>
- Đất đai thuộc hình thức sở hữu Nhà nước, do Chính phủ thống nhất quản lý.
- QSDĐ của cá nhân, pháp nhân, hộ gia đình và các chủ thể khác được Nhà nước giao
đất, cho thuê đất, được chuyển quyền hợp pháp hoặc được cơng nhận thì được thực hiện
chuyển QSDĐ phù hợp với BLDS và PL đất đai.
- Hợp đồng chuyển QSDĐ phải lập bằng văn bản có cơng chứng, chứng thực theo quy
định của PL.
- Giá chuyển QSDĐ do các bên thoả thuận hoặc do PL quy định.
<i>* Nguyên tắc chuyển quyền SDĐ:</i>
- Cá nhân, pháp nhân, hộ gia đình, chủ thể khác sử dụng đất được PL cho phép chuyển
QSDĐ mới có quyền chuyển QSDĐ.
- Khi chuyển QSDĐ, các bên có quyền thoả thuận về nội dung của hợp đồng chuyển
QSDĐ nhưng phải phù hợp với quy định của Bộ luật này và PL về đất đai.
- Bên nhận chuyển QSDĐ phải sử dụng đất đúng mục đích, đúng thời hạn ghi trong giấy
chứng nhận QSDĐ và phù hợp với quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất ở địa phương tại thời điểm
chuyển QSDĐ.
<i>* Các loại hợp đồng chuyển QSDĐ:</i>
- Hợp đồng chuyển đổi QSDĐ: Là sự thoả thuận giữa các bên, theo đó các bên chuyển
giao đất và chuyển quyền SDĐ cho nhau theo quy định của Bộ luật này và PL về đất đai.
- Hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ: Là sự thoả thuận giữa các bên, theo đó bên chuyển
nhượng QSDĐ chuyển giao đất và QSDĐ cho bên nhận chuyển nhượng, còn bên nhận chuyển
nhượng trả tiền cho bên chuyển nhượng theo quy định của Bộ luật này và PL về đất đai.
- Hợp đồng thế chấp QSDĐ: Là sự thoả thuận giữa các bên, theo đó bên SDĐ (bên thế
chấp) dùng QSDĐ của mình để bảo đảm việc thực hiện nghĩa vụ dân sự với bên kia (bên nhận
thế chấp). Bên thế chấp được tiếp tục SDĐ trong thời hạn thế chấp.
- Hợp đồng thuê QSDĐ: Là sự thoả thuận giữa các bên, theo đó bên cho thuê chuyển giao
đất cho bên thuê để sử dụng trong một thời hạn, còn bên thuê phải SDĐ đúng mục đích, trả tiền
thuê và trả lại đất khi hết thời hạn thuê theo quy định của Bộ luật này và PL về đất đai.
- Hợp đồng tặng cho QSDĐ: Là sự thoả thuận giữa các bên, theo đó bên tặng cho giao
QSDĐ cho bên được tặng cho mà khơng u cầu đền bù, cịn bên được tặng cho đồng ý nhận
theo uy định của Bộ luật này và PL về đất đai.
- Hợp đồng góp vốn bằng gái trị QSDĐ: Là sự thoả thuận giữa các bên, theo đó người
SDĐ (bên góp vốn) góp phần vốn của mình bằng giá trị QSDĐ để hợp tác SXKD với cá nhân,
pháp nhân, hộ gia đình, chủ thể khác theo quy định của Bộ luật này và PL về đất đai.
<b>Câu 27. Những quy định chung về hợp đồng chuyển QSDĐ?</b>
- Căn cứ xác lập QSDĐ:
+ Đất đai thuộc hình thức sở hữu nhà nước, do Chính phủ thống nhất quản lý.
+ QSDĐ của cá nhân, pháp nhân, hộ gia đình, chủ thể khác được xác lập do Nhà nước
giao đất, cho thuê đất hoặc công nhận QSDĐ.
+ QSDĐ của cá nhân, pháp nhân, hộ gia đình, chủ thể khác cũng được xác lập do được
người khác chuyển QSDĐ phù hợp với quy định của Bộ luật này và PL về đất đai.
- Hình thức chuyển QSDĐ:
+ Việc chuyển QSDĐ được thực hiện thông qua hợp đồng, trừ trường hợp quy định tại
khoản 3 Điều này.
+ Hợp đồng chuyển QSDĐ phải được lập thành văn bản, có cơng chứng, chứng thực theo
quy định của PL.
+ Việc thừa kế QSDĐ được thực hiện theo quy định tại các điều từ Điều 733 đến Điều
735 của Bộ luật này.
- Giá chuyển QSDĐ: Giá chuyển QSDĐ do các bên thoả thuận hoặc do PL quy định.
- Nguyên tắc chuyển QSDĐ
+ Cá nhân, pháp nhân, hộ gia đình, chủ thể khác sử dụng đất được PL cho phép chuyển
QSDĐ mới có quyền chuyển QSDĐ.
+ Khi chuyển QSDĐ, các bên có quyền thoả thuận về nội dung của hợp đồng chuyển
QSDĐ nhưng phải phù hợp với quy định của Bộ luật này và PL về đất đai.
+ Bên nhận chuyển QSDĐ phải sử dụng đất đúng mục đích, đúng thời hạn ghi trong giấy
chứng nhận QSDĐ và phù hợp với quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất ở địa phương tại thời điểm
chuyển QSDĐ.
- Hiệu lực của việc chuyển QSDĐ: Việc chuyển QSDĐ có hiệu lực kể từ thời điểm đăng
ký QSDĐ theo quy định của PL về đất đai.
<b>Câu 28. Thế chấp QSDĐ?</b>
Thế chấp là việc bên thế chấp dùng tài sản thuộc sở hữu của mình để bảo đảm thực hiện
nghĩa vụ dân sự đối với bên nhận thế chấp. Tài sản thế chấp có thể là tài sản được hình thành
trong tương lai, gồm tài sản được hình thành từ vốn vay; tài sản đang trong giai đoạn hình thành
hoặc đang được tạo lập hợp pháp tại thời điểm giao kết giao dịch bảo đảm; tài sản đã hình thành
và thuộc đối tượng phải đăng ký quyền sở hữu, nhưng sau thời điểm giao kết giao dịch bảo đảm
thì tài sản đó mới được đăng ký theo quy định của PL. Bên cạnh đó, theo Điều 106 Luật Đất đai
2003, người sử dụng đất khi thực hiện các quyền của mình, trong đó có quyền thế chấp bằng
QSDĐ phải thỏa mãn các điều kiện sau: (1) có giấy chứng nhận QSDĐ; (2) đất khơng có tranh
chấp; (3) QSDĐ khơng bị kê biên để bảo đảm thi hành án; (4) trong thời hạn sử dụng đất.
Đối chiếu với những quy định trên, QSDĐ khi chưa được cấp Giấy chứng nhận QSDĐ thì
khơng được thế chấp.
<b>Câu 29. Phương thức, quy trình bán đấu giá tài sản?</b>
Quy trình bán đấu giá tài sản nhà nước:
1. Lựa chọn tổ chức bán đấu giá tài sản và ký kết hợp đồng bán đấu giá tài sản: Tổ chức,
cá nhân có tài sản bán đấu giá lựa chọn tổ chức bán đấu giá chuyên nghiệp, hình thức bán đấu
giá và tiến hành ký kết hợp đồng bán đấu giá. Hợp đồng bán đấu giá tài sản được ký kết giữa tổ
chức bán đấu giá tài sản và người có tài sản bán đấu giá hoặc người đại diện của người đó.
2. Xác định giá khởi điểm của tài sản
Việc xác định giá khởi điểm của tài sản bán đấu giá được thực hiện theo quy định của PL
về quản lý, sử dụng tài sản nhà nước;
3. Chuẩn bị bán đấu giá tài sản
- Niêm yết, thông báo công khai thời gian, địa điểm, giá khởi điểm, đặc điểm tài sản Bán
đấu giá trên các phương tiện thông tin đại chúng.
- Tổ chức đăng ký tham gia đấu giá tài sản. Người tham gia đấu giá tài sản phải nộp phí
tham gia đấu giá và khoản tiền đặt trước.
- Trưng bày, xem tài sản bán đấu giá.
4. Tiến hành bán đấu giá tài sản
Tổ chức bán đấu giá tài sản có thể lựa chọn một trong các hình thức đấu giá sau đây để
tiến hành cuộc bán đấu giá tài sản:
- Đấu giá trực tiếp bằng lời nói;
- Đấu giá bằng bỏ phiếu;
- Các hình thức khác do người có tài sản bán đấu giá và tổ chức bán đấu giá tài sản thỏa
thuận.
5. Kết thúc việc bán đấu giá
Nếu việc bán đấu giá thành thì tiến hành ký kết hợp đồng mua bán tài sản bán đấu giá
được giữa tổ chức bán đấu giá tài sản và người mua được tài sản bán đấu giá. Hợp đồng mua
bán tài sản bán đấu giá được lập thành ít nhất là 04 bản, trong đó tổ chức bán đấu giá tài sản giữ
một bản và gửi cho người mua được tài sản bán đấu giá, người có tài sản bán đấu giá, cơ quan
nhà nước có thẩm quyền đăng ký quyền sở hữu, quyền sử dụng tài sản, mỗi nơi một bản. Trong
trường hợp tài sản bán đấu giá là bất động sản thì một bản hợp đồng mua bán tài sản bán đấu giá
còn được gửi cho cơ quan thuế.
<b>Câu 30. Khái niệm và các điều kiện của trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng?</b>
<i>1. Khái niệm của TNBTTH ngoài hợp đồng: Điều 604 BLDS quy định: Người nào có lỗi</i>
cố ý hoặc vơ ý xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, các
quyền, lợi ích hợp pháp khác của cá nhân, xâm phạm danh dự, uy tín, tài sản của pháp nhân
hoặc các chủ thể khác mà gây thiệt hại thì phải bồi thường.
Như vậy, cơ sở của trách nhiệm bồi thường là những quy định của PL (quy định những
hậu quả pháp lý ngoài mong muốn của các chủ thể) khơng có sự thỏa thuận trước của các bên
và chỉ phát sinh khi đảm bảo các điều kiện luật định.
Đặc điểm của TNBTTH ngoài hợp đồng:
- TNBTTH ngoài hợp đồng là một loại trách nhiệm pháp lý, nhưng nó khơng phải là
hình phạt như trong Luật hình sự hoặc các chế tài của Luật hành chính mà là nghĩa vụ của
người có nghĩa vụ nhằm khắc phục những thiệt hại xảy ra. Luật hình sự coi bồi thường thiệt
hại là biện pháp tư pháp (xem Điều 42 BLHS 1999).
- Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng được áp dụng trong trường hợp giữa
các bên (bên gây thiệt hại và bên bị thiệt hại) khơng có quan hệ nghĩa vụ theo hợp đồng hoặc
- Trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngồi hợp đồng thì các quyền và nghĩa vụ của
các bên do PL quy định.
<i>2. Các điều kiện của trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng</i>
<i>* Phải có thiệt hại xảy ra: Thiệt hại là sự mất mát hoặc giảm sút những lợi ích vật chất</i>
hoặc tinh thần được PL bảo vệ. Thiệt hại trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp
đồng phải là thiệt hại thực tế về tài sản hoặc tổn thất về tinh thần dẫn đến thiệt hại về tài sản
có thể tính được bao gồm:
- Thiệt hại vật chất:
+ Những chi phí phải bỏ ra (chi phí hợp lý để ngăn chặn, hạn chế, khắc phục thiệt hại)
như viện phí trong trường hợp sức khỏe bị xâm hại, mai táng phí cho người chết.
+ Những hư hỏng, mất mát về tài sản như chi phí sửa chữa tài sản, mua tài sản mới để
bồi thường cho người bị thiệt hại.
+ Thu nhập thực tế bị mất, bị giảm sút như thu nhập bị mất do bị thiệt hại.
- Thiệt hại tinh thần (tổn thất tinh thần): Đời sống tinh thần là một phạm trù rất rộng,
bao gồm nhiều vấn đề và chỉ tồn tại đối với xã hội lồi người như góa bụa, mồ cơi, xấu hổ,...
Về ngun tắc, khơng thể tính được bằng tiền như trao đổi ngang giá và không thể phục hồi
được. Với mục đích an ủi, động viên đối với người bị thiệt hại tinh thần, đồng thời răn đe ngăn
chặn đối với những người có hành vi trái PL, BLDS quy định nếu các bên khơng thoả thuận
được thì TA quyết định:
- Thiệt hại về sức khoẻ thì mức bồi thường thiệt hại tinh thần do các bên thoả thuận, nếu
không thoả thuận được thì mức tối đa khơng được vượt q 30 tháng lương tối thiểu do Nhà
nước quy định vào thời điểm bồi thường.
- Thiệt hại về tính mạng thì mức bồi thường thiệt hại tinh thần do các bên thoả thuận,
nếu khơng thoả thuận được thì mức tối đa không được vượt quá 60 tháng lương tối thiểu do
Nhà nước quay định vào thời điểm bồi thường.
- Thiệt hại về danh dự, nhân phẩm thì mức bồi thường thiệt hại tinh thần do các bên thoả
thuận, nếu không thoả thuận được thì mức tối đa khơng được vượt q 10 tháng lương tối
thiểu do Nhà nước quay định vào thời điểm bồi thường.
<i>* Hành vi gây thiệt hại là hành vi trái PL: Hành vi trái PL là những xử sự cụ thể cua</i>
con người được thể hiện thông qua hành động hoặc không hành động trái với các quy định của
PL.
Trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng thì hành vi gây thiệt hại phải là
hành vi trái PL xâm phạm các khách thể được PL bảo vệ như tính mạng, sức khỏe, tài sản,
danh dự, nhân phẩm. Như vậy, hành vi trái PL có thể là vi phạm hình sự, vi phạm PL dân sự
hoặc vi phạm các quy tắc quản lý hành chính,... Đối với những trường hợp mặc dù gây thiệt
hại thực tế nhưng hành vi gây thiệt hại không trái PL thì người gây thiệt hại khơng phải bồi
thường: gây thiệt hại trong tình thế cấp thiết, phịng vệ chính đáng (Điều 617, Điều 618). Khi
xem xét hành vi của người gây thiệt hại có trái PL hay khơng cần phải căn cứ vào PL nói
chung và các quy định của PL dân sự nói riêng.
<i>* Người gây thiệt hại có lỗi: Người gây thiệt hại phải chịu trách nhiệm BTTH khi họ có</i>
lỗi. Đ604 BLDS quy định: "Người nào do lỗi cố ý hoặc vô ý gây thiệt hại thì phải bồi thường".
Do vậy, lỗi được biểu hiện dưới hai hình thức: cố ý gây thiệt hại và vô ý gây thiệt hại.
- Cố ý gây thiệt hại là trường hợp một người nhận thức rõ hành vi của mình sẽ gây thiệt
hại cho người khác mà vẫn thực hiện và mong muốn hoặc không mong muốn nhưng để mặc
cho thiệt hại xảy ra.
- Vô ý gây thiệt hại là một người không thấy trước hành vi của mình có khả năng gây ra
thiệt hại mặc dù phải biết trước thiệt hại sẽ xảy ra hoặc thấy trước hành vi của mình có khả
năng gây ra thiệt hại, nhưng cho rằng thiệt hại sẽ không xảy ra hoặc có thể ngăn chặn được.
- Lỗi trong trách nhiệm dân sự trong một số trường hợp có thể được suy đoán bởi lẽ
hành vi gây thiệt hại trái PL nên người thực hiện hành vi đó bị suy đốn là có lỗi. Nếu những
người gây thiệt hại chứng minh được mình khơng có lỗi thì khơng phải chịu trách nhiệm bồi
thường (trừ trường hợp PL có quy định khác). Nếu người giám hộ chứng minh được mình
khơng có lỗi trong việc giám hộ thì khơng phải lấy tài sản của mình để bồi thường.
<i>* Có mối quan hệ nhân quả giữa thiệt hại xảy ra và hành vi trái PL: Trách nhiệm</i>
BTTH ngoài hợp đồng chỉ phát sinh khi thiệt hại xảy ra là do chính kết quả tất yếu của hành vi
trái PL. Đây là mối quan hệ của sự vận động nội tại và nguyên nhân luôn phải diễn ra trước kết
quả trong một thời gian nhất định. Tuy nhiên, trong thực tế một thiệt hại xảy ra có thể do nhiều
nguyên nhân khác nhau, nếu chưa xác định được hành vi trái PL làm nguyên nhân gây ra thiệt
hại thì chưa buộc người có hành vi đó phải bồi thường. Khi xác định nguyên nhân gây ra thiệt
hại cần xác định nguyên nhân trực tiếp, nguyên nhân gián tiếp,...và phân biệt nguyên nhân với
điều kiện để làm cơ sở xác định trách nhiệm bồi thường.
<b>Câu 31. Năng lực chịu trách nhiệm BTTH của cá nhân?</b>
Trong thực tế người gây thiệt hại có thể là bất kỳ cá nhân nào (người đủ 18 tuổi, người
mắc bệnh tâm thần, người chưa đủ 18 tuổi,...) nhưng không phải người nào cũng đủ khả năng
bồi thường. Điều 606 của BLDS phân biệt năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại dựa
vào lứa tuổi, năng lực hành vi và khả năng kinh tế của họ như sau:
- Người từ đủ 18 tuổi có khả năng nhận thức và làm chủ hành vi của mình gây thiệt hại
cho người khác thì phải tự bồi thường. Người gây thiệt hạ là bị đơn dân sự, trừ khi họ mất
năng lực hành vi dân sự.
- Người dưới 15 tuổi gây thiệt hại mà cịn cha mẹ thì cha mẹ phải bồi thường tồn bộ
thiệt hại; nếu tài sản của cha mẹ khơng đủ để bồi thường mà con có tài sản riêng thì phải bồi
thường phần cịn thiếu (trừ trường hợp quy định tại Điều 621 BLDS). Trong trường hợp này
thì cha, mẹ của người gây thiệt hại là bị đơn dân sự.
- Người từ đủ 15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi gây thiệt hại thì phải bồi thường bằng tài sản
của mình, nếu tài sản của người đó khơng đủ thì cha mẹ phải bồi thường phần cịn thiếu. Trong
trường hợp này thì người gây thiệt hại là bị dân sự và cha mẹ của người gây thiệt hại là người
có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
bồi thường. Nếu người được giám hộ khơng có hoặc khơng đủ tài sản để bồi thường thì người
giám hộ phải bồi thường bằng tài sản của mình, trừ trường hợp người giám hộ chứng minh mình
khơng có lỗi trong giám hộ thì khơng phải lấy tài sản của mình để bồi thường. Trong trường hợp
này thì cá nhân, tổ chức giám hộ là bị đơn dân sự.
<b>Câu 32. Xác định thiệt hại tinh thần và phương thức bồi thường?</b>
Việc xác định thiệt hại trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngồi hợp đồng có ý nghĩa
rất quan trọng vì đây là cơ sở để cơ quan Nhà nước có thẩm quyền quyết định mức bồi thường.
Trong trường hợp tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm uy tín bị xâm phạm thì người
gây thiệt hại cịn phải bồi thường một khoản tiền để bù đắp tinh thần nhằm mục đích an ủi, động
viên tạo điều kiện thêm để họ khắc phục khó khăn làm dịu bớt nỗi đau cho người thân và bản
thân người bị thiệt hại .
Việc bồi thường thiệt hại tinh thần chỉ xem xét giải quyết khi có u cầu, trước hết Tịa án
<i>* Thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm: Trong trường hợp thiệt hại do sức khỏe bị xâm</i>
phạm thì người gây thiệt hại phải bồi thường các khoản sau:
+ Chi phí hợp lý cho việc cứu chữa, bồi dưỡng, phục hồi sức khỏe và các chức năng bị
mất, bị giảm sút của người bị thiệt hại như: tiền viện phí, tiền thuốc, tiền giải phẫu, tiền ghép tay
giả, chân giả,...tiền bồi dưỡng hợp lý trong thời gian điều trị, tiền tàu xe đi lại từ nhà đến cơ sở
điều trị và ngược lại.
+ Thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút của người bị thiệt hại. Thu nhập thực tế bị mất
nghĩa là sau khi bị thiệt hại người bị thiệt hại hồn tồn khơng có thu nhập gì (mất khả năng lao
động,...). Thu nhập thực tế bị giảm sút là khoản chênh lệch giữa hai thời điểm trước khi bị thiệt
hại và sau khi bị thiệt hại.Trong trường hợp thu nhập thực tế không ổn định, khơng xác định
được thì áp dụng mức thu nhập bình quân của người lao động cùng loại.
+ Chi phí hợp lí phần thu nhập thực tế bị mất của người chăm sóc người bị thiệt hại trong
thời gian điều trị .Nếu người bị thiệt hại mất hoàn tồn khả năng lao động mà cần có người
chăm sóc thường xun thì bồi thường chi phí hợp lí cho người chăm sóc, đồng thời phải bồi
thường một khoản tiền cho những người mà người bị thiệt hại có nghiã vụ ni dưỡng, cấp
dưỡng khi cịn sống (nếu có).
+ Về thời hạn hưởng bồi thường thiệt hại cho sức khỏe bị xâm phạm thì trong trường hợp
người bị thiệt hại mất hồn tồn khả năng lao động thì người bị thiệt hại được hưởng bồi thường
cho đến khi chết. Đối với trường hợp người bị thiệt hại khơng mất hồn tồn khả năng lao động
thì được hưởng bồi thường đối với thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút trong thời gian họ bị
mất hoặc bị giảm sút thu nhập.
<i>* Thiệt hại do tính mạng bị xâm phạm: Trong trường hợp tính mạng bị xâm phạm thì phải</i>
bồi thường các khoản sau:
+ Chi phí hợp lí cho việc cứu chữa, bồi dưỡng, chăm sóc người bị thiệt hại trước khi chết
+ Chi phí hợp lí cho việc mai táng người chết. Việc xác định chi phí nào là hợp lí cho việc
mai táng người bị thiệt hại địi hỏi cơ quan có thẩm quyền cần có hướng dẫn cụ thể. Thực tiễn
giải quyết thì chi phí hợp lí bao gồm: Thuê xe, mua quan tài, vải liệm, vải tang, hương nến và
các chi phí chôn cất hoặc hỏa táng người bị thiệt hại. Khi quyết định mức bồi thường cần cân
nhắc sao cho phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội chung và tập quán tiến bộ tại địa phương.
Trong trường hợp gia đình nạn nhân yêu cầu bồi thường các khoản tiền xây lăng mộ, thuê thầy
cúng hoặc cúng bái linh đình, khơng được xem là các chi phí hợp lí
+ Tiền cấp dưỡng cho những người mà người bị thiệt hại có nghĩa vụ cấp dưỡng khi cịn
sống. Đối với khoản tiền này cũng cần xem xét thu nhập thực tế và khả năng kinh tế của người
bị thiệt hại khi còn sống để quyết định mức cấp dưỡng mà người gây thiệt hại phải bồi thường.
Thời hạn hưởng cấp dưỡng thì người chưa thành niên, người đã thành thai là con của người chết
sinh và còn sống được hưởng tiền cấp dưỡng cho đến khi đủ 18 tuổi (trừ trường hợp người đủ 15
tuổi đến chưa đủ 18 tuổi đã tham gia lao động có thu nhập đủ ni sống bản thân). Đối với
người đã thành niên nhưng không có khả năng lao động được hưởng tiền cấp dưỡng cho đến khi
chết .
<i>* Thiệt hại do danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm: Trong trường hợp xâm phạm</i>
danh dự, nhân phẩm, uy tín thì người gây thiệt hại phải bồi thường: chi phí hợp lí để hạn chế
khắc phục thiệt hại, thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút, Thông thường người gây thiệt hại
phải bồi thường chi phí cho việc đăng tin, bài cải chính các thơng tin sai sự thật; thu nhập bị mất
bị giảm sút trong q trình SXKD,… Ngồi ra TA còn buộc người vi phạm phải chấm dứt hành
vi vi phạm, xin lỗi hoặc cải chính cơng khai.
- Chi phí hợp lý để hạn chế, khắc phục thiệt hại bao gồm chi phí cần thiết cho việc thu hồi
ấn phẩm có nội dung xúc phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín của người bị thiệt hại; chi phí cho
việc thu thập tài liệu, chứng cứ chứng minh danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm; tiền tàu
xe đi lại, thuê nhà trọ…
- Thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút…
<i>* Thiệt hại tinh thần (tổn thất tinh thần): Trong trường hợp tính mạng, sức khỏe, danh dự,</i>
nhân phẩm uy tín bị xâm phạm thì người gây thiệt hại còn phải bồi thường một khoản tiền để bù
đắp tinh thần nhằm mục đích an ủi, động viên, tạo điều kiện thêm để họ khắc phục khó khăn làm
dịu bớt nỗi đau cho người thân và bản thân người bị thiệt hại.
- Khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần do sức khỏe bị xâm phạm được bồi thường cho
chính người bị thiệt hại.
- Khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần do tính mạng bị xâm phạm.
- Khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần do danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm.
<b>Câu 33. Xác định thiệt hại tài sản và mức bồi thường?</b>
Việc xác định thiệt hại trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngồi hợp đồng có ý nghĩa
rất quan trọng vì đây là cơ sở để cơ quan Nhà nước có thẩm quyền quyết định mức bồi thường.
<i>- Thiệt hại vật chất: Thiệt hại do tài sản bị xâm phạm bao gồm tài sản bị mất, bị hủy hoại</i>
hoặc bị hư hỏng; các lợi ích vật chất gắn liền với việc sử dụng, khai thác tài sản, các chi phí hợp
lý để ngăn chặn, hạn chế và khắc phục thiệt hại. Việc bồi thường có thể là vật cùng loại, cùng
giá trị hoặc tính ra tiền để bồi thường (vào thời điểm xét xử sơ thẩm)
<i>- Thiệt hại do tài sản bị xâm phạm: Theo quy định của Luật TNBTCNN thì thiệt hại do</i>
tài sản bị xâm phạm được xác định như sau: Trường hợp tài sản đã bị phát mại, bị mất thì thiệt
hại được xác định căn cứ vào giá thị trường của tài sản cùng loại hoặc tài sản có cùng tính năng,
tiêu chuẩn kỹ thuật và mức độ hao mòn của tài sản đã bị phát mại, bị mất trên thị trường tại thời
điểm giải quyết bồi thường.
Trường hợp tài sản bị hư hỏng thì thiệt hại được xác định là chi phí có liên quan theo giá
thị trường tại thời điểm giải quyết bồi thường để sửa chữa, khôi phục lại tài sản; nếu tài sản bị
hư hỏng khơng thể sửa chữa, khơi phục thì thiệt hại được xác định như trường hợp tài sản đã bị
phát mại, bị mất nêu trên.
Trường hợp có thiệt hại phát sinh do việc không sử dụng, khai thác tài sản thì thiệt hại
được xác định là thu nhập thực tế bị mất. Ðối với những tài sản trên thị trường có cho thuê, thu
nhập thực tế bị mất được xác định phù hợp với mức giá thuê của tài sản cùng loại hoặc tài sản
có cùng tiêu chuẩn kỹ thuật, tính năng, tác dụng và chất lượng tại thời điểm giải quyết bồi
thường; đối với những tài sản trên thị trường khơng có cho th, thu nhập thực tế bị mất được
xác định trên cơ sở thu nhập do tài sản bị thiệt hại mang lại trong điều kiện bình thường trước
thời điểm thiệt hại xảy ra; nếu tài sản bị kê biên được giao cho người bị thiệt hại hoặc người
khác quản lý thì chi phí hợp lý để ngăn chặn, hạn chế và khắc phục thiệt hại về tài sản được xác
định là những thiệt hại được bồi thường.
Các khoản tiền đã nộp vào ngân sách nhà nước theo quyết định của cơ quan NN có thẩm
quyền, bị tịch thu, thi hành án, khoản tiền đã đặt để bảo đảm tại cơ quan có thẩm quyền được
hoàn trả cho người bị thiệt hại hoặc thân nhân của họ; trường hợp khoản tiền đó là khoản vay
có lãi thì phải hồn trả cả khoản lãi hợp pháp; trường hợp khoản tiền đó khơng phải là khoản
vay có lãi thì phải hồn trả cho người bị thiệt hại hoặc thân nhân của họ cả khoản lãi theo lãi
suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam công bố tại thời điểm giải quyết bồi thường.
K1, Đ3 TTLT số 24/2011/TTLT-BTP-BQP quy định một trong những căn cứ để xác
định trách nhiệm bồi thường của Nhà nước trong hoạt động thi hành án dân sự là có thiệt hại
thực tế xảy ra. Theo quy định tại Thông tư này thì thiệt hại thực tế là thiệt hại có thực mà
người bị thiệt hại phải gánh chịu do hành vi trái PL của người thi hành công vụ gây ra theo
quy định của Luật TNBTCNN và PL có liên quan.
Ngồi ra, Điều 8 Thông tư liên tịch số 24/2011/TTLT-BTP-BQP cũng đã hướng dẫn cụ
thể về thiệt hại do tài sản bị xâm phạm như sau:
- Thiệt hại do tài sản bị xâm phạm được xác định theo Điều 45 của Luật TNBTCNN.
Trong trường hợp tài sản bị xâm phạm là QSDĐ, nhà ở, cơng trình xây dựng và tài sản khác
gắn liền với đất thì thiệt hại được bồi thường được xác định theo quy định tại Điều 45 của Luật
TNBTCNN và các quy định của PL có liên quan.
- Thời gian tính lãi đối với các khoản tiền quy định tại khoản 4 Điều 45 của Luật
TNBTCNN được tính từ ngày tiền được nộp vào ngân sách nhà nước; bị tịch thu; thi hành án
cho đến ngày ban hành quyết định giải quyết bồi thường của cơ quan có trách nhiệm bồi
thường hoặc cho đến ngày có bản án, quyết định có hiệu lực PL của TA.
<b>Câu 34. Yếu tố lỗi trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng và lỗi</b>
<b>trong trách nhiệm dân sự?</b>
Lỗi hiểu theo góc độ luật học, từ xưa đến nay có nhiều học giả, trong đó có các luật gia
đã quan tâm nhận xét rất khác nhau trong việc xác định yếu tố lỗi trong trách nhiệm dân sự nói
chung và trách nhiệm BTTH ngồi hợp đồng nói riêng. Có nhiều quan điểm khác nhau trong
nhận thức về yếu tố lỗi nhưng nhìn chung các học giả đều thừa nhận lỗi được biểu hiện dưới
hai hình thức cố ý và vơ ý. Các học giả còn phân biệt mức độ lỗi trong hình lỗi vơ ý gồm lỗi
vơ ý nặng và lỗi vơ ý nhẹ.
Hành vi có lỗi, theo quy định tại Điều 309 BLDS thì "Người khơng thực hiện hoặc thực
<i>hiện khơng đúng nghĩa vụ dân sự, thì phải chịu trách nhiệm dân sự khi có lỗi cố ý hoặc lỗi vơ</i>
<i>ý, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc PL có quy định khác:. Khoản 1 Điều 309 nói trên</i>
quy định lỗi do hành vi không thực hiện nghĩa vụ dân sự thì người có hành vi đó bị coi là có
lỗi. Theo quy định của khoản 2 Điều 309 BLDS thì nội dung của khoản này có ý nghĩa viện
dẫn trực tiếp trong việc xác định trách nhiệm dân sự ngoài hợp đồng. Khoản 2 Điều 309 quy
định: "Cố ý gây thiệt hại là trường hợp một người nhận thức rõ hành vi của mình sẽ gây thiệt
<i>hại cho người khác mà vẫn thực hiện và mong muốn hoặc không mong muốn, nhưng để mặc</i>
<i>cho thiệt hại xảy ra"</i>.
Về mặt khách quan, quy định trên đã dự liệu trường hợp người gây thiệt hại nhận thức
rõ hành vi của mình sẽ gây thiệt hại cho người khác mà vấn thực hiện, cho dù người đó mong
muốn hoặc khơng mong muốn nhưng đã có thái độ để mặc cho thiệt hại xảy ra thì người đó
phải chịu trách nhiệm dân sự về hành vi có lỗi cố ý của mình.
Về mặt chủ quan, người gây thiệt hại khi thực hiện hành vi gây hại ln nhằm mục đích
có thiệt hại xảy ra cho người khác và được thể hiện dưới hai mức độ: Mong muốn có thiệt hại
xảy ra và khơng mong muốn có thiệt hại, nhưng lại để mặc cho thiệt hại xảy ra.
Mức độ thể hiện ý chí- hành vi của người cố ý gây thiệt hại trong trường hợp người đó
nhận thức rõ hành vi của mình sẽ gây thiệt hại cho người khác mà vẫn thực hiện, thì phải chịu
trách nhiệm dân sự do lỗi cố ý là nguyên nhân của thiệt hai.
Theo nội dung khoản 2 điều 309 BLDS, chúng tôi thấy cần thiết phải làm rõ những quan
hệ và yếu tố có liên quan đến phạm vi lỗi của người gây thiệt hại.
Một người nhận thức rõ hành vi của mình sẽ gây thiệt hại cho người khác mà vẫn thực
hiện và mong muốn hoặc không mong muốn, nhưng để mặc cho thiệt hại đó xảy ra thì lỗi của
người gây thiệt hại là lỗi cố ý. Những yếu tố liên quan đến hình thức lỗi cố ý gây thiệt hại
được thể hiện ở những mức độ khác nhau, do biểu lộ ý chí của chủ thể đã là yếu tố quyết định
hình thức lỗi.
Khi xác định lỗi cố ý gây thiệt hại ngoài hợp đồng, cần phải phân biệt với những hành vi
gây thiệt hại khác, không thuộc hành vi do lỗi cố ý hoặc vơ ý gây ra. Đó là hành vi gây thiệt
hại được xác định là sự kiện bất ngờ. Sự kiện bất ngờ được qui định tại Điều 11 BLHS của
nước CHXHCNVN được dẫn chiếu vì điều luật này khơng những được áp dụng trong lĩnh vực
luật hình sự, mà cịn có ý nghĩa trực tiếp trong việc xác định trách nhiệm dân sự do gây thiệt
hại ngoài hợp đồng. Sự kiện bất ngờ được hiểu là sự kiện pháp lý nhưng hậu quả của nó khơng
làm phát sinh trách nhiệm dân sự của người có hành vi tạo ra sự kiện đó. Một SKPL có đủ các
Mối liên hệ giữa các yếu tố trên khơng thể làm phát sinh TNDS ngồi hợp đồng do thiếu
yếu tố lỗi của người gây thiệt hại và hành vi gây thiệt hại không phải là hành vi trái PL. Khơng
có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái PL và thiệt hại. Nói các khác, người có hành vi liên
quan đến thiệt hại khơng phải là người gây thiệt hại do nhận thức rõ hành vi của mình sẽ gây
thiệt hại cho người khác mà vẫn thực hiện, đồng thời người có hành vi đó khơng thể hiện ý chí
mong muốn hoặc khơng mong muốn nhưng để mặc thiệt hại xảy ra cho người khác. Như vậy,
người có hành vi thuộc trường hợp bất ngờ thì hành vi của người đó khơng có lỗi tồn tại ở hình
thức này hay hay hình thức kia, ở mức độ này hay mức độ khác. Theo qui định của PL, thì
người có hành vi đó khơng chịu trách nhiệm dân sự.
Khi xác định và phân tích yếu tố lỗi trong trách nhiệm dân sự (TNDS) ngoài hợp đồng,
cần thiết phải đặt yếu tố đó trong mối liên hệ với những sự kiện pháp lý khác, mà rõ nét hơn cả
là sự biến pháp lý tuyệt đối và sự biến pháp lý tương đối là những căn cứ làm phát sinh, thay
đổi và chấm dứt quan hệ PL dân sự. Sự biến pháp tương đối là một sự kiện pháp lý mà sự
khởi phát của nó do hành vi của con người tác động dưới hình thức lỗi vơ ý, do vậy người có
hành vi tạo ra sự kiện đó phải bồi thường thiệt hại theo nguyên tắc bồi thường toàn bộ thiệt
hại. Trong khoa học pháp lý các nhà luật học đều thừa nhận sự biến pháp lý tương đối là sự
biến do con người tác động, còn sự thay đổi và chấm dứt của nó con người khơng kiểm soát
được. Như vậy, hành vi tạo ra sự biến pháp lý tương đối là hành vi có lỗi và là hành vi trái PL.
Theo khoản 2 Điều 309 BLDS. lỗi vô ý được xác định là "trường hợp một người khơng thấy
<i>trước hành vi của mình có khả năng gây thiệt hại, mặc dù phải biết hoặc có thể biết trước</i>
<i>thiệt hại sẽ xảy ra hoặc thấy trước hành vi của mình có khả năng gây thiệt hại, nhưng cho</i>
<i>rằng thiệt hại sẽ khơng xảy ra hoặc có thể ngăn chặn được"</i>. Người gây thiệt hại đã không
mong muốn, không để mặc cho thiệt hại xảy ra mà là do khơng kiểm sốt được diễn biến của
sự kiện do hành vi vơ ý của mình tạo ra thì người có hành vi đó phải bồi thường.
Đoạn cuối Điều 621 BLDS qui định trách nhiệm hỗn hợp nhưng trách nhiệm hỗn hợp
được loại trừ "nếu thiệt hại xảy ra hoàn toàn do lỗi của người bị thiệt hại, thì người gây thiệt
<i>Thứ nhất, thiệt hại xảy ra hoàn toàn do lỗi của người bị thiệt hại, thì người gây thiệt hại</i>
khơng phải bồi thường. Lỗi của người bị thiệt hại có thể do vố ý hoặc cố ý nhưng phải xác định
được lỗi đó hồn tồn thuộc về người bị thiệt hại, theo đó người gây thiệt hại phải là người hồn
tồn khơng có lỗi thuộc hình thức này hay hình thức khác, ở mức độ này hay ở mức độ khác thì
người có đó khơng phải bồi thường. Người gây thiệt phải chứng minh được là mình hồn tồn
khơng có lỗi, mà lỗi hồn tồn thuộc về phía người bị gây thiệt hại. Mối quan hệ nhân quả giữa
hành vi gây thiệt hại với thiệt hại xảy ra luôn luôn xác định được trong một thiệt hại cụ thể.
Nhưng trách nhiệm pháp lý có phát sinh ở người có hành vi gây thiệt hại hay khơng cịn tùy
thuộc vào sự kiện xảy ra hồn tồn hay khơng hồn tồn do lỗi của người bị thiệt hại để có cơ sở
quy trách nhiệm dân sự cho người có hành vi gây thiệt hại. Nếu người gây thiệt hại, thì mỗi bên
phải chịu trách nhiệm dân sự tương ứng với mức độ lỗi của mình.
<i>Thứ hai, trong BLDS năm 1995 của nước CHXHCN Việt Nam khơng có điều luật nào</i>
qui định về mức độ lỗi, mà chỉ qui định tại Điều 309 về hai hình thức lỗi cố ý và lỗi vơ ý. Việc
áp dụng hai hình thức lỗi cố ý và lỗi vô ý. Việc áp dụng Điều 621 BLDS trong việc giải quyết
trách nhiệm dân sự hỗn hợp được dựa trên mức độ lỗi như thế nào. Lỗi không tự nó có vị trí độc
lập với các yếu tố khác trong việc xác định trách nhiệm dân sự ngoài hợp đồng. Hình thức lỗi
cũng khơng phải là khơng thể xác định. Theo nguyên tắc chung của trách nhiệm dân sự ngồi
hợp đồng, thì hình thức lỗi nếu xét về người có hành vi trái PL gây thiệt hại khơng ảnh hưởng
tới mức độ và trách nhiệm bồi thường của người đó. Người gây thiệt hại dù có lỗi cố ý hay có
lỗi vơ ý khi gây thiệt hại cho người khác thì người đó cũng phải bồi thường tồn bộ thiệt hại do
hành vi có lỗi của mình gây ra. Khơng vì người gây thiệt hại có lỗi vơ ý hoặc cố ý trong khi gây
thiệt hại mà mức bồi thường tăng hay giảm tương ứng. Tuy nhiên, trong những trường hợp cá
biệt có điều kiện luật định, thì người gây thiệt hại ngồi hợp đồng có thể được miễn giảm mức
bồi thường (do Tòa án xem xét quyết định). Những trường hợp phổ biến trong việc miễn giảm
- Người gây thiệt hại có lỗi vô ý và thiệt hại xảy ra quá lớn so với khả năng kinh tế trước
mắt và lâu dài của mình (Khoản 2 điều 610);
- Người gây thiệt hại và người bị thiệt hại thỏa thuận với nhau về mắc bồi thường thấp
hơn thiệt hại.
Trường hợp thứ nhất, PL qui định người gây tiệt hại bồi thường thấp hơn thiệt hại do hành
vi vô ý và thiệt hại xảy ra quá lớn so với điều kiện bồi thường của người gây thiệt hại. Qui định
này đã loại trừ người gây thiệt hại có lỗi cố ý và PL khơng qui định xem xét để giảm mức bồi
thường. Tuy nhiên trong trường hợp người gây thiệt hại có lỗi cố ý nhưng có sự thỏa thuận với
người bị thiệt hại về mức bồi thường thấp hơn thiệt hại, nếu thỏa thuận đó khơng trái PL và đạo
đức xã hội và được Tịa án thừa nhận, thì người gây thiệt hại do lỗi cố ý được miễn giảm phần
bồi thường thiệt hại do mình gây ra, thuộc về trường hợp thứ hai.
<i>Thứ ba, Điều 621 BLDS qui định về trách nhiệm hỗn hợp trong trường hợp người bị thiệt</i>
hại cũng có lỗi trong việc gây thiệt hại, thì người gây thiệt hại chỉ phải bồi thường tương ứng với
mức độ lỗi của mình. Trong BLDS của nước CHXHCNVN khơng có qui định về mức độ lỗi, di
vậy việc xác định trách nhiệm hỗn hợp trong trường hợp cả người gây thiệt hại và người bị thiệt
hại đều có lỗi gây ra thiệt hại thì mỗi bên phải chịu trách nhiệm dân sự tương ứng với mức độ
lỗi của mình. Mức độ lỗi trong trường hợp này được xác định dựa trên những cơ sở lý luận PL
hình sự trong việc phân biệt mức độ lỗi vơ ý vì q cẩu thả, vơ ý vì q tự tin của một người mà
gây ra thiệt hại thì tương ứng với nó mức BTTH có khác nhau. Như cách đặt vấn đề ở phần đầu
bài viết này, thì lỗi phản ánh yếu tố tâm lý của con người, có tác động trực tiếp đến hành vi của
người đó và thiệt hại xảy ra do hành vi vơ ý vì cẩu thả, vơ ý vì quá tự tin mà gây ra thiệt hại đã
phản ánh yếu tố tâm lý chủ quan của người đó. Việc xác định trách nhiệm hỗn hợp căn cứ vào
mức độ lỗi của mỗi bên đã có tính thuyết phục, bởi tính hợp lý của cách xác định đó. Qua phân t
ích trên, chúng tơi đã loại trừ trường hợp cả người bị thiệt hại và người gây thiệt hại đều có lỗi
cố ý trong việc gây thiệt hại, mong muốn thiệt hại xảy ra cho nhau và cho chính bản thân mình.
Khi phân tích yếu tố lỗi trong trách nhiệm bồi thương thiệt hại ngoài hợp đồng cần thiết
phải hiểu rõ quy định tại Điều 621 BLDS: "Nếu thiệt hại xảy ra hoàn toàn do lỗi của người bị
thiệt hại, thì người gây thiệt hại khơng phải bồi thường".
Hiểu như thế nào về trường hợp người bị thiệt hoàn tồn có lỗi, và lỗi đó là lỗi vơ ý hay
cố ý. Mối liên hệ giữa lỗi vô ý của người gây thiệt hại và lỗi cố ý của người bị thiệt hại có ảnh
hưởng như thế nào đến việc xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại của các bên? Giải đáp
những vấn đề nêu ra ở trên, cần tuân theo những nguyên tắc sau đây:
a. Nếu thiệt hại xảy ra hoàn toàn do lỗi của người bị thiệt hại cho dù lỗi đó là vơ ý hay cố
ý, mà người gây thiệt hại hồn tồn khơng có lỗi thì người gây thiệt hại khơng phải bồi thường.
Trường hợp này phù hợp với việc gây tiệt hại trong tình huống bát ngờ.
b. Người gây thiệt hại có lỗi vơ ý và người bị thiệt hại cũng có lỗi vơ ý trong việc gây ra
thiệt hại thì trách nhiệm này là trách nhiệm hỗn hợp.
c. Người gây thiệt hại có lỗi vơ ý, người bị thiệt hại có lơi cố ý thì người gây thiệt hại
khơng phải bồi thường.
Như vậy, thiệt hại xảy ra hoàn toàn do lỗi của người bị thiệt hại cho dù lỗi đó có ở hình
thức này hay hình thức khác, ở mức độ này hay mức độ khác thì người gây thiệt hại khơng có
trách nhiệm bồi thường.
<b>Câu 35. BTTH do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra?</b>
Theo qui định tại Điều 623 của BLDS thì nguồn nguy hiểm cao độ bao gồm: phương tiện
giao thông vận tải cơ giới, hệ thống tải điện, nhà máy cơng nghiệp đang hoạt động; vũ khí, chất
cháy, chất độc, chất phóng xạ, thú dữ; ngồi ra cịn có các nguồn nguy hiểm cao độ khác do PL
qui định. Để đảm bảo an tồn tính mạng, sức khỏe cũng như tài sản của cá nhân, tài sản của các
Các điều kiện để xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ
gây ra bao gồm: có thiệt hại xảy ra, có việc gây ra thiệt hại trái PL, có mối quan hệ nhân quả,
người gây thiệt hại khơng có lỗi vẫn phải bồi thường, trừ trường hợp sau đây:
- Thiệt hại xảy ra hoàn toàn do lỗi cố ý của người bị thiệt hại.
- Thiệt hại xảy ra trong trường hợp bất khả kháng, tình thế cấp thiết (trừ trường hợp PL có
qui định khác).
Trách nhiệm BTTH do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra về nguyên tắc chung chủ sở hữu
nguồn nguy hiểm cao độ phải BTTH; nếu chủ sở hữu đã giao cho người khác chiếm hữu, sử
dụng thì những người này phải bồi thường, trừ trường hợp có thỏa thuận khác. Chủ sở hữu,
người được chủ sở hữu giao chiếm hữu không phải bồi thường thiệt hại khi nguồn nguy hiểm
cao độ bị người khác chiếm hữu, sử dụng trái PL. Trong trường hợp này thiệt hại xảy ra do
người đang chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ trái PL có trách nhiệm bồi thường.
Nếu chủ sở hữu, người được chủ sở hữu giao chiếm hữu sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ cũng
có lỗi trong việc để nguồn nguy hiểm cao độ bị chiếm hữu, sử dụng trái PL cũng phải liền đới
BTTH. Chẳng hạn: Lái xe A điều khiển xe tải khơng khóa cửa, khơng tắt máy nhảy xuống đưa
gói hàng cho bà B, K là cháu của A thấy vậy nhảy lên điều khiển thử gây tai nạn chết người.
Trong trường hợp này A và K phải liên đới bồi thường.
<b>Câu 36. Bồi thường thiệt hại trong tố tụng hình sự và dân sự?</b>
* Theo Điều 34 Luật Trách nhiệm bồi thường của nhà nước, khi nhận được bản án,
quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng hình sự xác định thuộc trường hợp được bồi thường
theo quy định thì người bị thiệt hại gửi đơn yêu cầu bồi thường đến cơ quan có trách nhiệm bồi
thường sau đây:
- Người bị thiệt hại do quyết định tạm giữ, quyết định khởi tố bị can của cơ quan điều
tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra thì gửi đơn yêu cầu bồi
thường đến cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra
đã ra quyết định tạm giữ, quyết định khởi tố bị can.
- Người bị thiệt hại do quyết định của VKS gửi đơn yêu cầu bồi thường đến VKS đã ra
quyết định đó.
- Người bị thiệt hại do bản án, quyết định của tịa án có thẩm quyền gửi đơn yêu cầu bồi
thường đến tòa án đã ra bản án, quyết định đó. Kèm theo đơn yêu cầu bồi thường phải có bản
án, quyết định xác định người đó thuộc trường hợp được bồi thường và tài liệu, chứng cứ có
liên quan đến việc yêu cầu bồi thường.
* Điều 605 BLDS quy định nguyên tắc bồi thường thiệt hại như sau:
- Thiệt hại phải được bồi thường tồn bộ và kịp thời. Các bên có thể thỏa thuận về mức
bồi thường, hình thức bồi thường bằng tiền, bằng hiện vật hoặc thực hiện một công việc,
phương thức bồi thường một lần hoặc nhiều lần, trừ trường hợp PL có quy định khác.
- Người gây thiệt hại có thể được giảm mức bồi thường, nếu do lỗi vô ý mà gây thiệt hại
quá lớn so với khả năng kinh tế trước mắt và lâu dài của mình.
- Khi mức bồi thường khơng cịn phù hợp với thực tế thì người bị thiệt hại hoặc người
gây thiệt hại có quyền u cầu Tịa án hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác thay đổi
mức bồi thường.
<b>Câu 37. Bồi thường thiệt hại trong hoạt động thi hành án?</b>
Thi hành án (THA) là hoạt động có khả năng gây thiệt hại tương đối phổ biến. Trong
<i>1. Bồi thường nhà nước trong thi hành án dân sự: Trách nhiệm bồi thường thiệt hại của</i>
chấp hành viên trong hoạt động thi hành án dân sự (THADS) được hình thành trên cơ sở Pháp
lệnh THADS năm 1989. Trong Pháp lệnh không quy định trực tiếp vấn đề này, nhưng Đ18 của
Quy chế chấp hành viên được ban hành kèm theo Nghị định số 68-HĐBT ngày 06/3/1990 của
Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) có nêu: chấp hành viên khơng thi hành đúng bản án,
quyết định của tòa án, vi phạm phẩm chất đạo đức, thì bị xử lý kỷ luật (khiển trách, cảnh cáo,
miễn nhiệm, buộc thôi việc, chịu trách nhiệm về vật chất) hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự.
Tại các Pháp lệnh THADS năm 1993 và 2004, trách nhiệm bồi thường thiệt hại của
chấp hành viên tiếp tục được cụ thể hóa. Theo Điều 14, Điều 47 của PLTHADS năm 1993,
chấp hành viên không thi hành đúng bản án, quyết định của tịa án, trì hỗn việc THA, áp dụng
biện pháp cưỡng chế THA trái PL; vi phạm phẩm chất đạo đức của người chấp hành viên, thì
bị xử lý kỷ luật hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự; nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường.
Khoản 4, Điều 67 của PLTHADS năm 2004 cũng quy định, thủ trưởng cơ quan THA cố
ý không ra quyết định THA hoặc ra các quyết định về THA trái PL; chấp hành viên không thi
hành đúng bản án, quyết định của tòa án, áp dụng biện pháp cưỡng chế THA trái PL, vi phạm
quy chế chấp hành viên thì bị xử lý kỷ luật hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự, nếu gây thiệt
hại thì phải bồi thường.
Như vậy, theo các văn bản PL này, trong THADS chưa xác định chế độ trách nhiệm bồi
thường của cơ quan nhà nước gây thiệt hại. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do cơ quan
Chế độ trách nhiệm bồi thường thiệt hại của cơ quan nhà nước nói chung thực sự được
hình thành trên cơ sở quy định của BLDS (BLDS) năm 1995. Theo Điều 623 của Bộ luật này,
thì cơ quan nhà nước phải bồi thường thiệt hại do cơng chức, viên chức của mình gây ra trong
khi thi hành công vụ. Và cơ quan tiến hành tố tụng phải bồi thường thiệt hại do người có thẩm
quyền của mình gây ra trong khi thực hiện nhiệm vụ điều tra, truy tố, xét xử và THA (Điều
624). Thủ tục giải quyết bồi thường thiệt hại trong các trường hợp trên được thực hiện theo
hướng dẫn tại Nghị định số 47/CP ngày 03/5/1997 của Chính phủ về việc giải quyết bồi
thường thiệt hại do công chức, viên chức nhà nước, người có thẩm quyền của cơ quan tiến
hành tố tụng gây ra (Nghị định 47/CP). Về nguyên tắc, theo quy định tại Nghị định này, hoạt
động THA - được hiểu gồm cả THADS và THA hình sự (THAHS) - cũng được coi là một giai
đoạn tố tụng (1), việc bồi thường thiệt hại do cơ quan THADS gây ra được thực hiện theo thủ
tục chung như các cơ quan tiến hành tố tụng và cơ quan hành chính khác.
Trong Đ619 và Đ620 của BLDS năm 2005, việc bồi thường thiệt hại do các cơ quan nhà
nước và cơ quan tiến hành tố tụng gây ra có sự thay đổi khá căn bản: (1) đối tượng gây thiệt
hại là cán bộ, cơng chức (thay vì cơng chức, viên chức); (2) cơ quan tiến hành tố tụng phải bồi
thường do người có thẩm quyền của mình gây ra trong q trình tiến hành tố tụng (khơng xác
định cơ quan cụ thể); (3) cả hai trường hợp, người gây thiệt hại đều phải hồn trả một khoản
tiền nếu có lỗi trong khi thi hành công vụ (Điều 2 của Nghị định 47/CP quy định người trực
tiếp gây ra thiệt hại có trách nhiệm hồn trả khoản tiền đã bồi thường mà khơng xác định lỗi).
Tuy nhiên, các quy định nói trên của Bộ luật hiện vẫn chưa có văn bản hướng dẫn thi hành.
NĐ 47/CP thực tế đã khơng cịn phù hợp, nhưng văn bản này mặc nhiên vẫn được áp dụng để
giải quyết việc bồi thường thiệt hại trong các trường hợp quy định tại Đ619 và Đ620 của
BLDS năm 2005. Chính sự thiếu đồng bộ đó đã tạo ra những bất cập trong cơ chế giải quyết
bồi thường thiệt hại, dẫn tới kết quả hạn chế trong việc giải quyết BTTH của các cơ quan nhà
Về tính chất của việc giải quyết bồi thường thiệt hại do cơ quan THADS gây ra: hiện
vẫn chưa có sự thống nhất về quan điểm xác định bản chất pháp lý của hoạt động THADS,
nhưng đa số ý kiến cho rằng, từ năm 1989 đến nay, trong hệ thống văn bản QPPL đã có sự
tách biệt rõ giữa q trình tố tụng với hoạt động THADS. Xét về nhiều tiêu chí, hoạt động
THADS không hội tụ đủ các yếu tố của một giai đoạn tố tụng (có ý kiến xếp hoạt động này
thuộc loại hành chính - tư pháp). Mặc dù đối tượng và mức độ gây thiệt hại có thể giống nhau,
nhưng tính chất gây thiệt hại của cơ quan tiến hành tố tụng hoàn toàn khác biệt với cơ quan
THADS; do đó, Nghị định 47/CP đồng nhất hoạt động THADS như một giai đoạn tố tụng và
quy định chung về trình tự, thủ tục bồi thường thiệt hại của cả ba loại cơ quan: tố tụng, hành
chính và THA là không hợp lý. Hơn nữa, Nghị định 47/CP là văn bản hướng dẫn thi hành
BLDS năm 1995, sau khi BLDS năm 2005 có hiệu lực, việc các cơ quan vẫn áp dụng Nghị
định này là khơng có cơ sở.
- Thứ nhất, việc xác định mức độ thiệt hại được thực hiện theo cơ chế “hội đồng” (do
chính thủ trưởng cơ quan của người gây ra thiệt hại làm chủ tịch - Điều 7, Điều 8 của Nghị định
47/CP), khó bảo đảm sự khách quan.
- Thứ hai, hội đồng xét giải quyết bồi thường thiệt hại ngồi việc xem xét, đánh giá mức
độ thiệt hại cịn có thẩm quyền xác định trách nhiệm dân sự của các bên để kiến nghị với thủ
trưởng cơ quan nhà nước, cơ quan tiến hành tố tụng quyết định mức bồi thường và phương thức
bồi thường thiệt hại (2). Có thể nói, ở đây, “hội đồng” là một cơ chế tài phán, có thẩm quyền
quyết định cả về nội dung và hình thức. Trong khi đó, Điều 6 của Nghị định lại quy định: “trong
trường hợp các bên không thỏa thuận được với nhau về việc bồi thường thiệt hại hoặc các bên
khơng thực hiện nghiêm chỉnh thỏa thuận, thì các bên có quyền u cầu tịa án giải quyết”. Như
vậy, trong cùng một thủ tục giải quyết bồi thường thiệt hại có tới hai cơ chế giải quyết, vừa mâu
thuẫn về nội dung, vừa chồng chéo về thẩm quyền.
- Thứ ba, mặc dù có hai cơ chế giải quyết bồi thường như đã nêu, nhưng tính khả thi
<i>2. Bồi thường nhà nước trong thi hành án hình sự:</i>
Về nguyên tắc, theo Điều 624 của BLDS 1995, Nghị định 47/CP và đặc biệt là NQ số
388/2003/NQ-UBTVQH11 ngày 17/3/2003 của UBTVQH về BTTH cho người bị oan do người
có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự gây ra (Nghị quyết 388), thì thiệt hại do cơ quan
THAHS gây ra cũng thuộc phạm vi được giải quyết bồi thường. Trên thực tế, ngoại trừ việc thi
hành hình phạt tiền do cơ quan THADS đảm nhiệm, trường hợp cơ quan THADS gây thiệt hại,
việc bồi thường được giải quyết theo quy định của Nghị định 47/CP. Riêng đối với việc thi hành
các hình phạt liên quan trực tiếp đến tính mạng, sức khỏe hoặc các quyền về tự do cá nhân của
người chấp hành án như: tử hình, phạt tù, trục xuất, quản chế, cấm cư trú..., hầu như chưa có
trường hợp giải quyết bồi thường nào. Hạn chế này trước hết là do thiếu cơ sở pháp lý để bảo
đảm các quy định có tính ngun tắc của BLDS và Nghị quyết số 388. Ví dụ: Pháp lệnh Thi
hành án phạt tù 1993 (sửa đổi, bổ sung 2007), quy định người chấp hành hình phạt tù có quyền
khiếu nại, tố cáo quyết định, hành vi trái PL của cá nhân và cơ quan thi hành án phạt tù, nhưng
khơng quy định người đó có quyền địi bồi thường thiệt hại. Đồng thời, cũng không quy định về
trách nhiệm bồi thường thiệt hại do người có thẩm quyền của cơ quan thi hành án phạt tù gây ra,
mặc dù sai phạm có gây hậu quả. Thơng tư số 18/TT-BCA(V19) ngày 09/11/2004 của Bộ Công
an hướng dẫn cụ thể quy định của Nghị quyết 388 về trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong các
trường hợp bị oan do người có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng thuộc Cơng an nhân dân gây
ra chỉ giới hạn trong phạm vi cơ quan an ninh điều tra và cảnh sát điều tra hoặc các đơn vị an
ninh, cảnh sát khác đã ra quyết định tạm giữ người, kê biên tài sản hoặc ra lệnh thu giữ, tạm giữ,
Vấn đề giải quyết bồi thường thiệt hại trong THAHS đã được đặt ra trong quá trình xây
dựng Bộ luật THA trước đây, nay được cụ thể hóa trong dự thảo Luật BTNN. Tuy nhiên, để bảo
đảm tính khả thi của các quy định của luật về vấn đề này, thiết nghĩ, một số vấn đề về lý luận
cũng như thực tiễn cần phải tiếp tục làm rõ, thậm chí ở phạm vi nhất định, phải có sự thay đổi
rất cơ bản cách tiếp cận lâu nay về trách nhiệm bồi thường thiệt hại của nhà nước.
Có quan niệm cho rằng, khơng nên quy định về BTNN trong THAHS bởi lẽ: đối chiếu
với quy định tại Điều 72 của Hiến pháp năm 1992, thì chỉ những người bị bắt, bị giam giữ, bị
truy tố, bị xét xử trái PL có quyền được bồi thường thiệt hại về vật chất và phục hồi danh dự.
Người phải chấp hành án hình sự là người có tội, với việc phải chấp hành hình phạt theo bản án,
quyết định có hiệu lực của Tịa án, bản thân người đó đang phải chịu sự trừng phạt nghiêm khắc
nhất của Nhà nước, bị tước toàn bộ hoặc một số quyền cơng dân. Chính vì vậy, việc quy định
bảo vệ quyền lợi cho đối tượng đặc biệt này cần phải trả lời câu hỏi đã từng là quan niệm của
nhiều người là: tại sao phải bảo vệ quyền lợi cho những kẻ đang bị PL trừng trị, trong khi quyền,
lợi ích hợp pháp của cơng dân bình thường cịn chưa có cơ chế bảo đảm hữu hiệu? Vì vậy, các
văn bản PL về THA phạt tù và các hình phạt khác không nên quy định về bồi thường thiệt hại
trong THAHS là hợp lý.
Ở một thái cực khác, nhiều ý kiến cho rằng, xét về bản án, cho dù người phải chấp hành
án không thuộc các trường hợp bị oan, nhưng thiệt hại của họ là do cơ quan THAHS sai gây ra.
Mặt khác, đối tượng này có thân phận khơng cịn quyền như những cơng dân bình thường, nên
trong quá trình chấp hành án dễ bị xâm hại về tính mạng, sức khỏe, quyền tự do cá nhân, tài
sản… Hơn nữa, bên cạnh hệ thống hình phạt rất nghiêm khắc, BLHS năm 1999 (BLHS) vẫn thể
hiện sự nhân đạo của Nhà nước ta, cụ thể ở các quy định bảo đảm những quyền chính đáng của
người bị kết án. Ví dụ: Điều 35 của BLHS quy định khơng THA tử hình đối với phụ nữ có thai,
phụ nữ đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi, trường hợp này hình phạt tử hình chuyển sang thành
tù chung thân; Điều 61, Điều 62 của BLHS quy định: người bị kết án tù hoặc đang chấp hành
Bên cạnh đó, quy định BTNN trong THAHS cần xem xét điều kiện thực tế của Việt Nam.
Chế tài xử phạt trong BLHS được đánh giá là rất nghiêm khắc, trong tổng số 267 điều luật quy
định về tội phạm trong BLHS, có tới 263 điều có quy định hình phạt tù. Những năm qua, tình
hình tội phạm diễn biến ngày càng phức tạp, tính từ năm 2000 đến nay, mỗi năm tỷ lệ tội phạm
tăng khoảng 8%. Hệ quả là số người bị phạt tù và phải chấp hành hình phạt tại các trại giam
(một phần ở các trại tạm giam) có xu hướng ngày càng tăng. Mặc dù Nhà nước đã đầu tư những
khoản kinh phí rất lớn cho việc xây dựng cơ sở vật chất, trang thiết bị và nhân lực cho hệ thống
trại giam, trại tạm giam, nhưng vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu, thậm chí đến nay hệ thống trại
giam vẫn chưa bảo đảm được yêu cầu tối thiểu về diện tích giam giữ phạm nhân. Với thực trạng
về cơ sở vật chất, nhân lực như hiện tại, trong khi phải thực thi chế độ giam giữ, giáo dục, lao
động và sinh hoạt nghiêm ngặt đối với người chấp hành án phạt tù, nếu đặt ngay yêu cầu phải
quy định trách nhiệm bồi thường của Nhà nước trong các trường hợp áp dụng các biện pháp
quản lý, giam giữ phạm nhân trái PL gây thiệt hại sẽ khó có tính khả thi.
<b>Câu 38. Bồi thường thiệt hại do nhiều người gây thiệt hại. Lấy ví dụ minh họa?</b>
Trong trường hợp nhiều người cùng gây thiệt hại thì những người đó phải liên đới bồi
thường cho người bị thiệt hại. Trách nhiệm bồi thường của từng người cùng gây thiệt hại được
xác định tương ứng với mức độ lỗi của mỗi người; nếu không xác định được mức độ lỗi thì họ
phải bồi thường thiệt hại theo phần bằng nhau.
Ví dụ: N và nhóm bạn của mình rủ nhau ra sơng thi bơi, lặn đã vô ý làm tấm lưới quây cá
nhà bà T bị hở, do đó một số cá nhà bà T ni đã bơi ra ngồi. PL dân sự quy định việc bồi
thường thiệt hại trong trường hợp này như thế nào?
Đ 616 BLDS 2005 quy định: Như vậy, N và nhóm bạn của mình đều có trách nhiệm bồi
thường thiệt hại cho bà T tương ứng với mức độ lỗi của mỗi người. Nếu không xác định được
mức độ lỗi của mỗi người thì từng người phải bồi thường thiệt hại theo phần bằng nhau.
<b>Câu 39. Bồi thường thiệt hại trong trường hợp gây ơ nhiễm mơi trường? Những</b>
<b>khó khăn trong việc áp dụng PL để giải quyết tranh chấp?.</b>
Trên phạm vi thế giới cũng như tại Việt Nam, trách nhiệm bồi thường thiệt hại do ơ nhiễm,
suy thối mơi trường được tiếp cận và được PL ghi nhận với những nội dung chủ yếu sau:
<i>Thứ nhất, môi trường cần được xem là một loại “tài sản đồng nhất”, được xác định bởi</i>
các giá trị khoa học, kinh tế và mơi sinh. Gây hại đối với mơi trường chính là gây hại đến các
giá trị nêu trên. Nếu xem xét một cách chặt chẽ tác hại gây ra đối với mơi trường tự nhiên
khơng khác gì tác hại gây ra đối với con người hay với tài sản của con người thì chất lượng
mơi trường bị suy giảm, bị xâm hại cũng cần phải được bồi thường một cách thỏa đáng. Người
gây thiệt hại phải có trách nhiệm bồi thường những tổn thất gây ra đối với môi trường. Trách
nhiệm này trước hết được hiểu là trách nhiệm đối với cộng đồng, với xã hội của người gây hại
cho môi trường vì họ đã xâm hại tới các điều kiện sống chung của con người. Tiếp đến mới là
trách nhiệm đối với các tổ chức, cá nhân cụ thể là nạn nhân của sự xâm hại đó, thể hiện qua
việc BTTH đối với tính mạng, sức khỏe, tài sản của người bị hại. Hai khía cạnh trên của trách
nhiệm bồi thường thiệt hại về môi trường được xác định bởi yếu tố khách thể của quan hệ PL
môi trường. Trong các quan hệ PL mơi trường, lợi ích mà các bên tham gia quan hệ hướng tới
vừa có tính chất cơng (lợi ích cơng) vừa có tính chất tư (lợi ích tư). Trong mọi trường hợp lợi
ích công cộng, lợi ích cộng đồng phải được ưu tiên bảo vệ. Điều này cũng có nghĩa là cần phải
có sự phân định giữa trách nhiệm bồi thường thiệt hại đối với môi trường tự nhiên với trách
nhiệm BTTH đối với tính mạng, sức khỏe, tài sản con người. Sự phân định này nên được thể
hiện qua các quy định về mức bồi thường, hình thức và phương thức bồi thường. Chẳng hạn
như đối với những thiệt hại về sức khỏe, tính mạng của con người, tài sản và lợi ích hợp pháp
của tổ chức, cá nhân do gây ơ nhiễm, suy thối môi trường, giữa bên gây thiệt hại và bên bị
thiệt hại có thể thỏa thuận về mức bồi thường, hình thức bồi thường và phương thức bồi
<i>Thứ hai, do quan hệ PL trong lĩnh vực mơi trường có thể phát sinh giữa các chủ thể mà</i>
không cần đến các cơ sở pháp lý làm tiền đề (như quan hệ hợp đồng hay quan hệ công vụ), nên
BTTH trong trường hợp vi phạm nghĩa vụ bảo vệ mơi trường là trách nhiệm bồi thường thiệt
hại ngồi hợp đồng. Đây là loại trách nhiệm phát sinh dưới sự tác động trực tiếp của các QPPL
mà không cần có sự thỏa thuận trước của các chủ thể. Sự trùng hợp về một số nội dung có liên
quan đến quyền và nghĩa vụ bảo vệ môi trường trong các thỏa thuận hay cam kết không làm
ảnh hưởng đến căn cứ áp dụng trách nhiệm bồi thường thiệt hại về mơi trường theo luật định.
<i>Thứ ba, mơi trường có thể bị xâm hại từ 2 nhóm nguyên nhân: Một là, các nguyên nhân</i>
khách quan tác động đến môi trường không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của con người,
như bão, lũ lụt, động đất, hạn hán... Những trường hợp này không làm phát sinh trách nhiệm
bồi thường thiệt hại về môi trường đối với bất cứ tổ chức, cá nhân nào; hai là, các yếu tố chủ
quan do hoạt động của con người gây ra từ việc khai thác, sử dụng các yếu tố môi trường hay
từ các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ khác. Đối với những trường hợp này, trách
nhiệm bồi thường thiệt hại về mơi trường phát sinh khi có đủ các dấu hiệu cấu thành trách
nhiệm pháp lý dân sự. Thậm chí loại trách nhiệm này còn phát sinh ngay cả khi người gây
thiệt hại khơng có lỗi. Điều 624 BLDS (2005) quy định “Cá nhân, pháp nhân và các chủ thể
khác làm ơ nhiễm mơi trường gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của PL, kể cả
trường hợp người gây ơ nhiễm mơi trường khơng có lỗi”. Tại nhiều nước “trách nhiệm dân sự
tuyệt đối” là loại trách nhiệm được áp dụng phổ biến trong lĩnh vực môi trường.
<i>Thứ tư, trách nhiệm bồi thường thiệt hại về mơi trường có mối quan hệ nhất định với</i>
trách nhiệm khắc phục tình trạng mơi trường bị ơ nhiễm. Thơng thường, trong các quan hệ
pháp lý khác có liên quan đến bồi thường thiệt hại, người gây thiệt hại chỉ phải bồi thường
những thiệt hại do mình gây ra và được giải phóng khỏi quan hệ với người bị hại. Nhưng trong
lĩnh vực môi trường, người làm ô nhiễm môi trường gây thiệt hại thường phải thực hiện đồng
thời cả hai biện pháp: i) Khắc phục tình trạng mơi trường bị ô nhiễm; và ii) Bồi thường thiệt
<i>Thứ năm, nhiều người cùng gây thiệt hại cũng là tình trạng khá phổ biến trong lĩnh vực</i>
mơi trường. Luật BVMT (2005) quy định trong trường hợp có nhiều tổ chức, cá nhân cùng gây
ơ nhiễm mơi trường thì cơ quan quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường có trách nhiệm phối
hợp với các bên liên quan để làm rõ trách nhiệm của từng đối tượng trong việc khắc phục ô
nhiễm và phục hồi môi trường. Tuy nhiên, trên thực tế khơng dễ dàng xác định chính xác mức
độ gây hại đến môi trường của từng đối tượng. Bồi thường thiệt hại theo phần bằng nhau là
giải pháp đã được PL dân sự tính đến trong trường hợp này. Tuy nhiên, để đảm bảo sự công
bằng trong áp dụng trách nhiệm bồi thường thiệt hại về môi trường chúng tôi cho rằng nếu
người gây thiệt hại chứng minh được mức độ mà mình gây thiệt hại đối với mơi trường là
khơng đáng kể thì họ chỉ phải bồi thường thiệt hại theo phần tương ứng với mức độ gây hại đó.
Nghĩa vụ chứng minh thuộc về đối tượng gây thiệt hại sẽ giúp các tổ chức, cá nhân nâng cao
hơn trách nhiệm bảo vệ môi trường cũng như nâng cao năng lực tự bảo vệ mình trong lĩnh vực
này. Ngồi ra, cũng cần tính đến tình huống không áp dụng được trách nhiệm bồi thường thiệt
<i>Thứ sáu, thời hạn áp dụng trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong lĩnh vực môi trường</i>
cũng là vấn đề còn nhiều tranh cãi. Thiệt hại phải được bồi thường toàn bộ và kịp thời đã trở
thành nguyên tắc luật định, song trong lĩnh vực môi trường, do giá trị của các thiệt hại về môi
trường thường rất lớn và khó xác định nên trong tuyệt đại đa số các trường hợp việc áp dụng
trách nhiệm bồi thường toàn bộ và kịp thời các thiệt hại là điều khó có thể thực hiện được. PL
cần có các quy định mang tính linh hoạt hơn trong lĩnh vực này. Chẳng hạn như người gây
thiệt hại đối với mơi trường có thể bồi thường một lần hoặc nhiều lần trong khoảng thời gian
tối đa một số năm nhất định nào đó kể từ ngày áp dụng trách nhiệm bồi thường thiệt hại.
<i>Thứ bảy, khi áp dụng trách nhiệm bồi thường thiệt hại về môi trường, Việt Nam không</i>
thể không xem xét đến các cam kết quốc tế về vấn đề này. Ngày 17/6/2004 Công ước quốc tế về
trách nhiệm dân sự đối với thiệt hại do ô nhiễm dầu 1992 có hiệu lực tại Việt Nam (International
Convention on Civil Liability for Oil Pollution Damage - viết tắt là CLC 92). Đây sẽ căn cứ
pháp lý quan trọng để phía Việt Nam u cầu các đối tượng gây ơ nhiễm môi trường từ sự cố
tràn dầu phải bồi thường thiệt hại về môi trường một cách thỏa đáng. Một số nội dung sau đây
thể hiện bước phát triển của Công ước CLC 92. Một là, khi xảy ra ô nhiễm dầu thì chủ sở hữu
của tàu khơng chỉ phải đền bù thiệt hại do ảnh hưởng đến môi trường mà còn phải đền bù các
thiệt hại về kinh tế do ô nhiễm dầu gây nên; <i>hai là, mức bồi thường ngồi căn cứ vào lượng dầu</i>
tràn cịn căn cứ vào trọng tải của tàu. Ví dụ, đối với tàu chở dầu có tổng dung tích dưới 5.000 tấn
trọng tải mức bồi thường cao nhất đến 3 triệu SDR (tương đương 3,8 triệu USD); đối với những
tàu chở dầu từ 5.000 tấn đến 140.000 tấn thì ngồi 3 triệu SDR, mỗi tấn tính thêm 538 USD nữa;
đối với tàu 140.000 tấn trở lên phải bồi thường tối đa là 76,5 triệu USD. Ba là, phạm vi khu vực
bị ô nhiễm được tính bồi thường bao gồm cả vùng đặc quyền kinh tế thay vì là chỉ trong phạm vi
lãnh hải của quốc gia bị ô nhiễm. Thiết nghĩ cách tiếp cận nêu trên, đặc biệt là việc ấn định một
mức bồi thường thiệt hại căn cứ vào lượng dầu tràn, loại dầu tràn, trọng tải của phương tiện trở
dầu, đặc điểm hệ sinh thái vùng tràn dầu... cần được Việt Nam tham khảo trong quá trình ban
<i>Tóm lại, bồi thường thiệt hại do ơ nhiễm, suy thối mơi trường tại Việt Nam là vấn đề còn rất</i>
mới cả từ phương diện lý luận và thực tiễn. Nhận thức một cách đầy đủ về những nội dung liên
quan tới thiệt hại về môi trường, bồi thường thiệt hại về môi trường là yếu tố quan trọng cho việc
ban hành và áp dụng trách nhiệm này trong tương lai. Tuy nhiên, cần phải lưu ý rằng cho dù chế
định này có phát triển đến mức nào, chi phí bỏ ra để xử lý, cải tạo mơi trường có lớn đến đâu cũng
khơng thể khắc phục được hết những hậu quả do ơ nhiễm, suy thối mơi trường gây ra. Do vậy, xác
định thiệt hại đối với môi trường và áp dụng trách nhiệm bồi thường thiệt hại về môi trường trong
mọi trường hợp đều không phải là mong muốn hàng đầu được áp dụng trong lĩnh vực môi trường.
<b>Câu 40. Trách nhiệm liên đới và riêng rẽ?</b>
<i>a. Trách nhiệm liên đới (nghĩa vụ liên đới).</i>
- Trách nhiệm liên đới là trách do nhiều người phải thực hiện và người có quyền có thể
yêu cầu bất cứ ai trong số những người có nghĩa vụ phải thực hiện toàn bộ nghĩa vụ.
- Cơ sở phát sinh nghĩa vụ dân sự liên đới do thỏa thuận của các bên hoặc do PL quy định.
BLDS quy định những trường hợp phát sinh nghĩa vụ dân sự liên đới:
+ Khoản 2 Điều 110: "Nếu tài sản chung của hộ gia đình khơng đủ để thực hiện nghĩa vụ
chung của hộ thì các thành viên phải liên đới chịu trách nhiệm bằng tài sản riêng của mình" và
các Điều 117 khoản 2, Điều 616, Điều 618 của BLDS.
+ Mục đích của nghĩa vụ liên đới buộc những người có nghĩa vụ phải cùng nhau gánh
vác toàn bộ nghĩa vụ dân sự để đảm bảo lợi ích cho bên có quyền được trọn vẹn kể cả khi có
một hoặc một số người có nghĩa vụ khơng có khả năng thực hiện.
- Việc thực hiện nghĩa vụ liên đới bao gồm các nội dung sau:
+ Trong trường hợp một người có nghĩa vụ liên đới đã thực hiện toàn bộ nghĩa vụ đối với
bên có quyền thì nghĩa vụ dân sự chấm dứt kể cả có một hoặc một số người chưa thực hiện, phát
sinh nghĩa vụ hoàn lại giữa những người có nghĩa vụ liên đới khác. Nếu một hoặc một số người
có nghĩa vụ liên đới đã thực hiện xong phần nghĩa vụ liên đới đối với mình, cịn một số người có
nghĩa vụ khác chưa thực hiện thì nghĩa vụ dân sự liên đới chưa chấm dứt.
+ Trong trường hợp người có quyền đã chỉ định một trong số những người có nghĩa vụ
dân sự liên đới thực hiện tồn bộ nghĩa vụ dân sự, nhưng sau đó lại miễn cho người đó, thì
những người cịn lại cũng được miễn thực hiện nghĩa vụ; nếu chỉ miễn việc thực hiện cho một số
người thì những người cịn lại vẫn phải liên đới thực hiện phần nghĩa vụ của mình. Chẳng hạn:
A và B có nghĩa vụ liên đới phải bồi thường cho ông K 22 triệu đồng (trong đó mỗi người chịu
một phần hai). Trong trường hợp này ông K yêu cầu A phải bồi thường toàn bộ thiệt hại là 22
triệu, sau đó miễn việc thực hiện nghĩa vụ cho A thì B cũng khơng phải thực hiện nghĩa vụ đối
với ông K nữa. Nếu ông K chỉ miễn phần cho B về điều kiện kinh tế q khó khăn thì A vẫn
phải thực hiện nghĩa vụ là 11 triệu đ.
+ Trong trường hợp theo thỏa thuận hoặc theo quy định của PL mà có nhiều người có
quyền liên đới thì mỗi người đều có quyền u cầu người có nghĩa vụ phải thực hiện tồn bộ
nghĩa vụ đối với mình. Khi người có nghĩa vụ đã thực hiện xong nghĩa vụ liên đới với một trong
số những người có quyền liên đới thì nghĩa vụ dân sự chấm dứt và phát sinh nghĩa vụ dân sự
hồn lại giữa những người có quyền. Chẳng hạn A và B đều có quyền yêu cầu K phải trả 20
triệu đồng, thì A hoặc B đều có quyền u cầu K phải trả cho mình 20 triệu đồng và K trả cho A
hoặc B cả 20 triệu đồng đều được. Sau khi K trả song số tiền trên thì phát sinh nghĩa vụ hoàn lại
giữa A và B.
<i>b. Trách nhiệm riêng rẽ </i>
- Khi nhiều người cùng thực hiện một nghĩa vụ nhưng mỗi người có một phần nghĩa vụ
nhất định và riêng rẽ với nhau, thì mỗi người chỉ phải thực hiện phần nghĩa vụ riêng.
- Bản chất của nghĩa vụ riêng rẽ là khơng có sự liên quan lẫn nhau giữa những người cùng
thực hiện nghĩa vụ cũng như trong việc thực hiện quyền yêu cầu của người có quyền. Nghĩa vụ
được xác định riêng rẽ bởi vì người nào thực hiện xong phần nghĩa vụ của mình thì nghĩa vụ của
người đó đối với người có quyền chấm dứt. Chẳng hạn do thù hằn với C nên A đã rủ B đánh C
gây thương tích. Sau khi đánh C bị ngất A và B bỏ về, đi được một đoạn A nói B về trước rồi
quay lại lấy chiếc vòng vàng đeo cổ của C. Sau đó A bán chiếc vịng trên được 1,8 triệu đồng và
chiếm đoạt tồn bộ (B hồn tồn khơng biết). Trong trường hợp này A và B phải chịu trách
nhiệm liên đới bồi thường thiệt hại sức khỏe cho C, còn bồi thường tài sản cho của C thì đây là
trách nhiệm riêng của A.
<b>Câu 41. Phân biệt căn cứ pháp lý và điều kiện phát sinh trách nhiệm dân sự do vi</b>
<b>phạm nghĩa vụ theo hợp đồng và trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.</b>
1- Trách nhiệm dân sự do vi phạm nghĩa vụ theo hợp đồng:
<i>* Trách nhiệm buộc phải thực hiện nghĩa vụ trong hợp đồng: Khi người có nghĩa vụ</i>
khơng thực hiện, thực hiện không đúng, không đầy đủ nghĩa vụ trong hợp đồng thì bên có quyền
u cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền áp dụng biện pháp cưỡng chế để buộc người có nghĩa
vụ phải thực hiện nghĩa vụ.
Nội dung:
+ Trách nhiệm dân sự do không thực hiện nghĩa vụ giao vật (Đ.303)
+ Trách nhiệm dân sự do không thực hiện nghĩa vụ phải thực hiện hoặc không được thực
hiện một công việc (đ.304)
+ Trách nhiệm dân sự do chậm thực hiện nghĩa vụ dân sự (đ.305)
+ Trách nhiệm dân sự do chậm tiếp nhận việc thực hiện nghĩa vụ dân sự (đ.306)
Đặc điểm:
+ Giữa bên gây thiệt hại và bên bị thiệt hại có quan hệ hợp đồng hợp pháp.
+ Nội dung của trách nhiệm phụ thuộc vào sự thoả thuận của các bên hoặc theo quy định
của PL.
+ Trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong hợp đồng chỉ giới hạn trong phạm vi những thiệt
hại thực tế và những thiệt hại có thể tiên liệu được vào thời điểm ký hợp đồng.
+ Lỗi là một trong những điều kiện bắt buộc của trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong
hợp đồng, nhưng không phân biệt hình thức lỗi là cố ý hay vơ ý vì mức trách nhiệm bồi
thường khơng phân hóa theo hình thức lỗi như trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng.
+ Thực hiện xong trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong hợp đồng không đương nhiên
làm chấm dứt quan hệ hợp đồng giữa các bên.
<i>* Các điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng:- Có</i>
<i>thiệt hại xảy ra: </i>
- Thiệt hại là toàn bộ những tổn thất gây ra cho một bên, do việc vi phạm hợp đồng của
bên kia. Những tổn thất này bao gồm: tổn thất phải gánh chịu và những lợi ích đáng lẽ phải có
từ việc thực hiện hợp đồng. Những tổn thất này có thể là về vật chất hay tinh thần như xâm
phạm sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của bên bị thiệt hại. Thiệt hại vật chất có thể là thiệt hại
trực tiếp và thiệt hại gián tiếp.
- Xác định thiệt hại
- Hành vi vi phạm hợp đồng là hành vi trái PL:
+ Hành vi không thực hiện, thực hiện không đúng, không đầy đủ nghĩa vụ trong hợp
đồng bị coi là hành vi trái PL.
+ Hành vi vi phạm HĐ không bị coi là hành vi trái PL trong những trường hợp sau đây:
+ Do sự kiện bất khả kháng
+ Hoàn toàn do lỗi của bên có quyền
- Có quan hệ nhân - quả giữa hành vi trái PL do vi phạm hợp đồng với thiệt hại xảy ra
trên thực tế:
+ Quan hệ nhân-quả là mối quan hệ nội tại tất yếu giữa các sự kiện, hiện tượng nối tiếp
nhau trong một không gian và trong một khoảng thời gian xác định. => Chỉ những thiệt hại
<i>phát sinh do "hậu quả của việc vi phạm" và có mối quan hệ nhận quả giữa sự vi phạm thực hiện</i>
<i>hợp đồng và thiệt hại xảy ra thì mới được công nhận bồi thường.</i>
+ Hành vi vi phạm hợp đồng là nguyên nhân dẫn đến thiệt hại đã xảy ra.
- Phải có lỗi của bên vi phạm:
<i>+ Khái niệm lỗi.</i>
<i>+ Các hình thức lỗi (đ.308).</i>
Lỗi trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong hợp đồng là lỗi suy đốn. Người gây
thiệt hại tự chứng minh là mình khơng có lỗi. => Lỗi có vai trị quan trọng trong việc xác định
mức trách nhiệm mà người gây thiệt hại phải gánh chịu.
Yếu tố lỗi trong việc xác định mức trách nhiệm mà người gây thiệt hại phải gánh chịu
trách nhiệm.
Xác định mức độ lỗi của mỗi bên thường rất khó và một phần phụ thuộc vào các phán
quyết của Tịa án.
<i>* Phương thức thanh tốn tiền BTTH (điều 300 BLDS).</i>
2. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại: Theo quy định tại Điều 604 BLDS năm 2005 (sau
đây gọi tắt là BLDS), về nguyên tắc chung thì trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngồi hợp đồng
chỉ phát sinh khi có đầy đủ các yếu tố sau đây:
- Phải có thiệt hại xảy ra: Thiệt hại bao gồm thiệt hại về vật chất và thiệt hại do tổn thất
về tinh thần.
+ Thiệt hại về vật chất bao gồm: thiệt hại do tài sản bị xâm phạm quy định tại Điều 608
BLDS; thiệt hại do sức khoẻ bị xâm phạm quy định tại khoản 1 Điều 609 BLDS; thiệt hại do
tính mạng bị xâm phạm quy định tại khoản 1 Điều 610 BLDS; thiệt hại do danh dự, nhân
phẩm, uy tín bị xâm phạm quy định tại khoản 1 Điều 611 BLDS.
+ Thiệt hại do tổn thất về tinh thần của cá nhân được hiểu là do sức khoẻ, danh dự, nhân
phẩm, uy tín bị xâm phạm mà người bị thiệt hại hoặc do tính mạng bị xâm phạm mà người
thân thích gần gũi nhất của nạn nhân phải chịu đau thương, buồn phiền, mất mát về tình cảm,
bị giảm sút hoặc mất uy tín, bị bạn bè xa lánh do bị hiểu nhầm... và cần phải được bồi thường
một khoản tiền bù đắp tổn thất mà họ phải chịu.
Thiệt hại do tổn thất về tinh thần của pháp nhân và các chủ thể khác không phải là pháp
nhân (gọi chung là tổ chức) được hiểu là do danh dự, uy tín bị xâm phạm, tổ chức đó bị giảm
sút hoặc mất đi sự tín nhiệm, lịng tin... vì bị hiểu nhầm và cần phải được bồi thường một
khoản tiền bù đắp tổn thất mà tổ chức phải chịu.
- Phải có hành vi trái PL: Hành vi trái PL là những xử sự cụ thể của con người được thể
hiện thông qua hành động hoặc không hành động trái với các quy định của PL.
+ Phải có mối quan hệ nhân quả giữa thiệt hại xảy ra và hành vi trái PL. Thiệt hại xảy ra
phải là kết quả tất yếu của hành vi trái PL và ngược lại hành vi trái PL là nguyên nhân gây ra
thiệt hại.
+ Phải có lỗi cố ý hoặc lỗi vô ý của người gây thiệt hại.
Cố ý gây thiệt hại là trường hợp một người nhận thức rõ hành vi của mình sẽ gây thiệt
hại cho người khác mà vẫn thực hiện và mong muốn hoặc không mong muốn, nhưng để mặc
cho thiệt hại xảy ra.
Vô ý gây thiệt hại là trường hợp một người khơng thấy trước hành vi của mình có khả
năng gây thiệt hại, mặc dù phải biết hoặc có thể biết trước thiệt hại sẽ xảy ra hoặc thấy trước
hành vi của mình có khả năng gây thiệt hại, nhưng cho rằng thiệt hại sẽ khơng xảy ra hoặc có
thể ngăn chặn được.
Cần chú ý là đối với trường hợp PL có quy định việc bồi thường thiệt hại cả khi khơng
có lỗi, thì trách nhiệm bồi thường của người gây thiệt hại trong trường hợp này được thực hiện
theo quy định của văn bản QPPL đó.
<b>Câu 42. Chứng minh Luật DS là một ngành luật độc lập trong hệ thống PL VN.</b>
Một ngành luật được gọi là độc lập trong hệ thống PL khi nó có đối tượng điều chỉnh
riêng và phương pháp điều chỉnh riêng. Xuất phát từ góc độ đó để chứng minh điều Luật Dân
sự là một ngành luật độc lập trong hệ thống PL Việt Nam thì ta phải làm rõ Luật Dân sự có đối
tượng điều chỉnh riêng và phương pháp điều chỉnh riêng.
Đối tượng điều chỉnh của Luật Dân sự là quan hệ tài sản và quan hệ nhân thân trong các
Quan hệ tài sản là quan hệ giữa người với người thông qua một tài sản nhất định. Theo
điều 172 - BLDS khái niệm tài sản bao gồm: tiền, giấy tờ trị giá được bằng tiền, các quyền về
tài sản. Tài sản trong Luật Dân sự được hiểu theo nghĩa rộng không chỉ là vật thuộc về ai, do
an chiếm hữu, sử dụng, định đoạt mà bao gồm cả việc dịch chuyển tài sản từ chủ thể này sang
chủ thể khác.
Quan hệ tài sản do lãnh đạo điều chỉnh gồm 5 nhiệm vụ:
- Quan hệ về sở hữu (bao gồm cả sở hữu trí tuệ)
- Quan hệ về nghĩa vụ dân sự và hợp đồng dân sự
- Quan hệ về thừa kế
- Quan hệ về chuyển QSDĐ
- Quan hệ về bồi thường thiệt hại
Các quan hệ tài sản do Luật Dân sự điều chỉnh là quan hệ tài sản mang tính chất hàng
hố - tiền tệ và có các đặc điểm sau:
- Được hình thành theo quy luật giá trị nói chung là sự đền bù ngang giá. Sự đền bù
tương đương là đặc trưng của các quan hệ dân sự. Tuy nhiên, trong giao lưu dân sự cũng tồn
tại những quan hệ khơng mang tính chất đền bù tương đương (tặng, cho, thừa kế) . Nhưng
những quan hệ này không phải là cơ bản và phổ biến.
- Đối tượng của quan hệ tài sản là những tài sản theo quy định của PL dân sự và phải là
những tài sản được phép lưu thơng.
Nói một cách chung nhất quan hệ tài sản do Luật Dân sự điều chỉnh là những quan hệ
kinh tế -xã hội cụ thể thông qua việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt đối với một tài sản nhất định
theo nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng và tuân theo quy luật giá trị.
Quan hệ nhân thân là quan hệ giữa người với người về một giá trị thân nhân của cá nhân
tổ chức được PL thừa nhận.Quyền nhân thân là quyền dân sự gắn liền với mỗi chủ thể và về
nguyên tắc không thể dịch chuyển cho chủ thể khác.
Các quan hệ nhân thân do Luật DS điều chỉnh chia làm hai nhóm:
- Quan hệ nhân thân khơng gắn liền với tài sản (quyền tác giả, quyền và tên gọi, hình ảnh,
uy tín).
- Quan hệ nhân thân gắn liền với tài sản (quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp).
Với tính cách là một ngành luật độc lập Luật Dân sự có phương pháp điều chỉnh riêng.
Luật Dân sự điều chỉnh các quan hệ PL dân sự theo phương pháp:
- Phương pháp bình đẳng về mặt pháp lý giữa các chủ thể khi tham gia quan hệ PL DS.
- Phương pháp tự định đoạt của các chủ thể trong việc tham gia vào các quan hệ dân sự.
- Phương pháp tự chịu trách nhiệm của các chủ thể
- Tham gia quan hệ PL dân sự
<b>Câu 43. Các nguyên tắc của lãnh đạo được thể hiện như thế nào trong các chế định</b>
<b>dân sự đã học ở phần một của BLDS.</b>
Nguyên tắc của Luật Dân sự là những tư tưởng chủ đạo, quán triệt toàn bộ nội dung Luật
Dân sự cũng như định hướng cơ bản cho việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ dân sự.
Các nguyên tắc của Luật Dân sự có thể chia thành bốn nhóm:
- Nhóm ngun tắc thể hiện tính pháp chế
- Nhóm ngun tắc thể hiện bản sắc truyền thống dân tộc
Có thể khẳng định rằng những nguyên tắc của Luật Dân sự được thể hiện đậm nét trong
các chế định của phần một BLDS.
<i>1. Nhóm nguyên tắc thể hiện tính pháp chế </i>
- Ngun tắc tơn trọng lợi ích của Nhà nước, lợi ích cơng cộng, quyền và lợi ích hợp pháp
của người khác.
Nguyên tắc này đã được thể hiện trong chế định về quyền nhân thân. Điều 26 - BLDS quy
định: "Không ai được lạm dụng quyền nhân thân của mình xâm phạm đến lợi ích của Nhà nước,
lợi ích cơng cộng quyền và lợi ích hợp pháp của người khác".
- Nguyên tắc tuân thủ PL
- Chế định giao dịch dân sự là chế định quán triệt nguyên tắc này rõ rệt nhất. Một giao
dịch dân sự có nội dung trái PL đương nhiên là vô hiệu, một giao dịch dân sự không tuân thủ
quy định của PL về hình thức có thể bị coi là vô hiệu.
- Nguyên tắc tôn trọng bảo vệ quyền nhân thân
Chế định quyền nhân thân quy định: "Mọi người có nghĩa vụ tơn trọng quyền nhân thân
của người khác".Quy định này chính là sự cụ thể hố ngun tắc trên.
<i>2. Nhóm nguyên tắc thể hiện bản sắc truyền thống dân tộc trong giao lưu dân sự.</i>
- Nguyên tắc tôn trọng đạo đức truyền thống dân tộc trong:
Chế định giao dịch dân sự đã đặt ra vấn đề giao dịch dân sự phải không trái PL và đạo
- Nguyên tắc hoà giải:
Chế định về thời hiệu quy định việc hồ giải có thể làm gián đoạn thời hiệu. Điều đó có
nghĩa Luật Dân sự rất coi trọng việc hồ giải trong các tranh chấp dân sự.
<i>3. Nhóm nguyên tắc thể hiện bản chất của quan hệ dân sự.</i>
- Nguyên tắc tự do, tự nguyện cam kết, thoả thuận
Nguyên tắc này được thể hiện trong chi giao dịch dân sự. Một điều kiện có hiệu lực của
giao dịch dân sự là mọi người tham gia giao dịch hoàn toàn tự nguyện. Khi giao dịch dân sự
được xác lập do cưỡng ép thì vơ hiệu.
- Ngun tắc bình đẳng
chế định về năng lực PL dân sự, năng lực hành vi dân sự của cá nhân quy định: "Mọi người
có năng lực PL dân sự như nhau" (K2 Đ 46).
- Nguyên tắc thiện chí, trung thực
Giao dịch dân sự được xác lập do bị lừa dối có thể TA tuyên bố vô hiệu.
- Nguyên tắc tự chịu trách nhiệm dân sự
Chế định đại diện quy định người có thẩm quyền đại diện, xác lập các giao dịch dân sự
vượt quá thẩm quyền đại diện thì phải chịu trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ của mình với người
giao dịch với mình về phần vượt thẩm quyền đó, trừ trường hợp có quy định khác.
<b>Câu 44. Cho ví dụ minh hoạ về áp dụng PL và áp dụng tương tự PL.</b>
Áp dụng PL dân sự là những hoạt động cụ thể của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền căn
cứ vào những tình tiết cụ thể của những sự kiện thực tế Căn cứ vào những quy định của Luật
Dân sự mà ra những quyết định phù hợp với thực tế và những quy định của PL.
Ví dụ: Anh A đi biệt tích đã hai năm mà khơng có tin tức xác thực là còn sống hay đã
chết. Vợ anh A yêu cầu TA tuyên bố anh A mất tích. TA nhân dân huyện đã ra quyết định tuyên
bố anh A mất tích. Quyết định của TA chính là biểu hiện của hoạt động áp dụng luật. ở đây TA
đã căn cứ vào Đ88 - tuyên bố mất tích - BLDS 1995 để tuyên bố anh A mất tích.
Việc áp dụng các quy pháp PL của ngành luật khác để giải quyết các tranh chấp dân sự
gọi là áp dụng tương tự PL.
Ví dụ: Anh A chết có một người phụ nữ là chị B đến nhận là vợ của anh A và để đòi được
hưởng di sản thừa kế của anh A. Để xác định chị B có đúng là vợ của anh A hay khơng thì cơ
quan Nhà nước có thẩm quyền phải căn cứ vào quy định của Luật HN&GĐ để giải quyết. Đây
chính là trường hợp áp dụng tương tự PL.
<b>Câu 45. Căn cứ làm phát sinh quan hệ PL cho ví dụ minh họa?</b>
Quan hệ PL dân sự cũng giống như mọi quan hệ PL khác được phát sinh thông qua các
sự kiện pháp lý.
Sự kiện pháp lý là những sự kiện xảy ra trong thực tế mà PL dự liệu, quy định làm phát
sinh những hậu quả pháp lý. Quan hệ PL dân sự phát sinh thông qua các sự kiện pháp lý sau
đây:
- Hành vi pháp lý: là loại sự kiện pháp lý phổ biến nhất làm phát sinh quan hệ PL dân sự.
Hành vi pháp lý có hai loại:
+ Hành vi hợp pháp: là những hành vi có chủ định của các chủ thể được tiến hành phù
+ Hành vi bất hợp pháp: là những hành vi được thực hiện trái với quyết định của PL và
đạo đức xã hội. Ví dụ: A đe doạ B buộc B phải xác lập giao dịch vô hiệu, A phải bồi thường
thiệt hại cho B.
- Sự biến pháp lý là những sự kiện xảy ra trong thực tế không phụ thuộc vào ý chí của con
người nhưng PL quy định làm phát sinh hậu quả pháp lý. Sự biến pháp lý gồm 2 loại:
+ Sự biến tuyệt đối là những sự kiện xảy ra trong thiên nhiên thời gian phụ thuộc vào ý
muốn của con người động đất, núi lửa…
+ Sự biến tương đối là những sự kiện xảy ra trong thực tế do hành vi của con người
nhưng quá trình phát sinh thay đổi chấm dứt khơng phụ thuộc vào ý thức người đó. Ví dụ: một
người đi rừng đốt lửa để sưởi ấm không may làm cháy rừng.
- Thời hạn là sự liên hệ pháp lý đặc biệt theo đó quan hệ PL dân sự được phát sinh. Ví
dụ: A thoả thuận với B sẽ trả nợ trong thời hạn 1 tháng vào ngày cuối cùng của thời hạn (thời
điểm kết thúc ngày cuối cùng) A phải trả nợ cho B.
<b>Câu 46. Phân tích sự hạn chế trong năng lực PL và năng lực hành vi của công dân.</b>
<b>Có ý kiến cho rằng cá nhân có năng lực PL dân sự từ khi còn là thai nhi điều đó có đúng</b>
<b>khơng, tại sao?</b>
Sự hạn chế năng lực PL và năng lực hành vi của cơng dân là có thực trong PL. Theo K1
- Đ16 - BLDS thì năng lực PL dân sự của cá nhân là khả năng của cá nhân có quyền sử dụng
và nghĩa vụ dân sự. Năng lực PL dân sự của cá nhân do NN quy định, NN không cho phép
công dân tự hạn chế năng lực PL của chính họ và của cá nhân khác trừ trường hợp PL có quy
định. Như vậy, năng lực PL dân sự của cá nhân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của PL.
Việc hạn chế năng lực PL dân sự của cá nhân có thể áp dụng đối với một số người nào
đó:Tước quyền cư trú của công dân tại một địa điểm nhất định (cấm cư trú), quản chế… sự
hạn chế này xét về bản chất không phải là hạn chế năng lực PL của cơng dân mà đó chỉ là tạm
đình chỉ khả năng thực hiện khả năng hưởng quyền của công dân mà thôi. Mặt khác việc hạn
chế này cũng chỉ là đối với một số quyền và một số nghĩa vụ cụ thể không phải năng lực PL
dân sự của cơng dân nói chung. Việc hạn chế năng lực PL không hiểu là tước bỏ một quyền
dân sự cụ thể:
Điều 19 - BLDS quy định: "năng lực hành vi dân sự của cá nhân là khả năng của cá
nhân bằng hành vi của mình, xác lập, thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự ". Để có thể tự mình
xác lập , thực hiện quyền nghĩa vụ dân sự bằng hành vi của mình, thì cá nhân phải đạt đến sự
trưởng thành nhất định về thể lực, trí lực biểu hiện cụ thể ở độ tuổi, khả năng nhận thức, khả
năng làm chủ hành vi. Độ tuổi, khả năng nhận thức, khả năng làm chủ hành vi chính là cơ sở
để xác định, hạn chế năng lực hành vi dân sự.
Có thể khẳng định rằng ý kiến cho cá nhân có năng lực PL dân sự từ khi cịn là thai nhi
là không đúng. Xuất phát từ PL thực định khoản 3-Đ 16 - BLDS: "Năng lực PL dân sự của
cơng nhân là có từ khi người đó sinh ra và chấm dứt khi người đó chết". Như vậy, thời điểm
phát sinh năng lực PL dân sự của cá nhân được xác định bằng sự kiện một đứa trẻ sinh ra ý
kiến trên có lẽ xuất phát từ quy định tại khoản 1 - Đ 638 - BLDS : "Người sinh ra còn và sống
sau thời điểm mở thừa kế nhưng đã thành thai trước khi người để lại di sản chết" thì vẫn được
hưởng di sản thừa kế của người chết để lại. Như vậy, thai nhi đã được bảo lưu quyền (có khả
năng hưởng quyền) nếu như được sinh ra và còn sống. Đây là một trường hợp ngoại lệ, một
trường hợp đặc biệt để bảo vệ quyền lợi của thai nhi.
Ý kiến của cá nhân đã nêu cịn sai nếu được nhìn nhận từ góc độ nội dung của năng lực
PL dân sự của cá nhân.
<b>Câu 47. Theo quy định của PL dân sự thì những ai cần được giám hộ và người bị</b>
Giám hộ là việc cá nhân, tổ chức hoặc cơ quan Nhà nước (gọi là người giám hộ) được
PL quy định hoặc được cử để thực hiện việc chăm sóc và bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của
người chưa thành niên người bị bệnh tâm thần hoặc mắc các bệnh khác mà không thể nhận
thức, làm chủ được hành vi của mình (gọi là người được giám hộ).
Theo khoản 2 - Đ 67 - BLDS người được giám hộ gồm:
- Người chưa thành niên khơng cịn cha mẹ không xác định được cha mẹ hoặc cha và
mẹ đều mất năng lực hành vi dân sự, bị hạn chế năng lực hành vi dân sự bị TA hạn chế quyền
của cha, mẹ hoặc còn cha mẹ nhưng cha mẹ khơng có điều kiện chăm sóc, giáo dục người
chưa thành niên đó và cha mẹ có yêu cầu;
- Người bị bệnh tâm thần hoặc mắc các bệnh khác không thể nhận thức làm chủ được
hành vi của mình.
Khoản 3 - Đ 67 - BLDS cũng quy định: "Người dưới 15 tuổi được quy định tại điểm a
khoản 2 . Điều này, người bị bệnh tâm thần hoặc mắc các bệnh khác mà không thể nhận thức,
làm chủ được hành vi của mình thì phải có người giám hộ".
Người nghiện ma tuý hoặc nghiện các chất kích thích khác dẫn đến phá tán tài sản của
gia đình thì theo yêu cầu của người có quyền , lợi ích liên quan, cơ quan hoặc tổ chức hữu
quan TA ra quyết định tuyên bố là người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự.
Căn cứ vào các quy định về đối tượng được giám hộ người bị hạn chế năng lực hành vi
dân sự khơng có người giám hộ.
Điều 69 - BLDS quy định người có đủ các điều kiện sau đây có thể làm người giám hộ:
- Có năng lực hành vi dân sự đầy đủ
- Có điều kiện cần thiết bảo đảm thực hiện việc giám hộ
Phân biệt người giám hộ và người đại diện
Người giám hộ là người được PL quy định hoặc được cử để thực hiện việc chăm sóc và
bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người chưa thành niên, người bị bệnh tâm thần hoặc mắc
các bệnh khác mà khơng thể nhận thức làm chủ hành vi của mình.
Người đại diện là người nhân danh một người khác gọi là người được đại diện xác lập,
thực hiện giao dịch trong phạm vi thẩm quyền đại diện vì lợi ích của người được đại diện.
# Người giám hộ
* Đối tượng: Người chưa thành niên, ngời bị bệnh tâm thần hoặc mắc các bệnh khác mà
không thể nhận thức làm chủ hành vi của mình
* Tài sản: Ngời giám hộ quản lý tài sản của ngời được giám hộ sử dụng tài sản đó để
chăm sóc chi dùng cho những nhu cầu cần thiết của ngời được giám hộ
* Phạm vi thẩm quyền: Rộng hơn
* Trách nhiệm: Nếu có lỗi ngời giám hộ phải chịu trách nhiệm về hành vi vi phạm PL
của ngời được giám hộ
* Tư cách: Xét trong quan hệ với ngời được giám hộ
# Người đại diện
* Đối tượng: Cá nhân (ngời cha thành niên, ngời mất năng lực hành vi dân sự, ngời có
đủ năng lực hành vi dân sự).
Pháp nhân hộ gia đình, tổ hợp tác.
* Tài sản: Không đặt ra vấn đề quản lý tài sản của được đại diện
* Phạm vi thẩm quyền: Hẹp hơn bị ràng buộc trong phạm vi thẩm quyền đại diện
* Trách nhiệm: Không đặt vấn đề chịu trách nhiệm
* Tư cách: Xét trong quan hệ với ngời được đại diện và ngời thứ ba.
<b>Câu 48. Địa vị pháp lý của cá nhân được quy định như thế nào trong BLDS?</b>
Địa vị pháp lý của cá nhân quy định trong BLDS có thể được hiểu là tổng hợp các
quyền và nghĩa vụ dân sự của cá nhân được quy định trong BLDS.
Nội dung quyền và nghĩa vụ của người cá nhân.
- Quyền đối với họ tên, thay đổi họ, tên
- Quyền xác định dân tộc
- Quyền được bảo đảm an tồn về tính mạng, sức khỏe, thân thể, danh dự, nhân phẩm, uy
tín;
- Quyền kết hơn, ly hơn
- Quyền bình đẳng của vợ chồng
- Quyền nhận, không nhận cha, mẹ, con;
- Quyền được nuôi con nuôi và quyền được nhận làm con ni;
- Quyền được bảo đảm an tồn về chỗ ở
- Quyền tự do tín ngưỡng, tơn giáo
- Quyền tự do đi lại, cư trú
- Quyền lao động
- Quyền tự do kinh doanh
- Quyền tự do sáng tạo
* Quyền nhân thân gắn với tài sản
- Quyền tác giả đối với các tác phẩm văn học nghệ thuật, KHKT.
- Quyền sở hữu công nghiệp đối với các sáng chế, giải pháp hữu ích, nhãn hiệu hàng hoá.
* Quyền sở hữu, quyền thừa kế và các quyền khác đối với tài sản.
Cá nhân có quyền sở hữu đối với tài sản hợp pháp của mình. Tài sản thuộc sở hữu của cá
nhân bao gồm thu nhập hợp pháp, của cải để dành nhà ở, tư liệu sản xuất, tư liệu sinh hoạt, vốn
hoa lợi, lợi tức và các tài sản hợp pháp khác. Tài sản thuộc sở hữu của cá nhân không bị hạn chế
về số lượng và giá trị trừ những tài sản không thuộc sở hữu của cá nhân.
Cá nhân có quyền để lại thừa kế , hưởng di snr thừa kế theo di chúc hoặc theo PL
* Quyền tham gia vào các quan hệ dân sự và nghĩa vụ phát sinh từ các quan hệ đó.
Để tham gia vào các quan hệ dân sự cá nhân phải có năng lực PL dân sự và năng lực hành
vi dân sự. Tham gia vào các quan hệ dân sự là cơ sở quan trọng nhất để phát sinh các nghĩa vụ
dân sự. Nghĩa vụ dân sự còn phát sinh từ các căn cứ khác như bồi thường thiệt hại
Cá nhân phải thực hiện đúng, đầy đủ nghĩa vụ dân sự, nếu không sẽ phải gánh chịu những
hậu quả pháp lý bất lị - trách nhiệm dân sự.
Nhìn chung BLDS đã quy định dầy đủ và toàn diện về địa vị pháp lý của cá nhân tạo điều
kiện để cá nhân tham gia vào các giao lưu dân sự, kết hợp hài hoà được các lợi ích: lợi ích cá
nhân, lợi ích Nhà nước, lợi ích cơng cộng.
<b>Câu 49. Tại sao nói hộ gia đình là chủ thể hạn chế của Luật DS.</b>
Trước khi BLDS ra đời (được QH thông qua ngày 28/10/1995 có hiệu lực từ ngày
1/7/1996 trong các văn bản với tư các nguồn của Luật Dân sự chỉ có cá nhân và pháp nhân được
coi là chủ thẻ của Luật DS. Nhưng đến BLDS 1995 lần đầu tiên họ gia đình và tổ hợp tác được
xác định là chủ thể của Luật Dân sự. Tuy nhiên, hộ gia đình là chủ thẻ hạn chế của Luật Dân sự.
Hộ gia đình là chủ thể hạn chế của Luật Dân sự vì sự hạn chế về năng lực chủ thể của hộ
gia đình. Hộ gia đình với tư cách chủ thể không tham gia đầy đủ vào mọi quan hệ dân sự mà chỉ
tham gia đầy đủ vào mọi quan hệ dân sự mà chỉ gia vào những quan hệ do PL quy định. Điều
116 - BLDS quy định)Nhà nước hộ gia đình mà các thành viên có tài sản chung để hoạt động
kd\te chung trong quan hệ sử dụng đát, trong hoạt động sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp và trong
một số lĩnh vực sản xuất kinh doanh khác do PL quy định là chủ thể trong các quan hệ dân sự
đó. Nhà nước hộ gia đình mà đất ở được giao cho hộ cũng là chủ thể trong quan hệ dân sự liên
quan đến đất ở đó.. Như vậy hộ gia đình có năng lực chủ thể hạn chế và chỉ trong những quan hệ
dân sự do Nhà nước quy định, ấn định thì hộ gia đình mới có tư cách chủ thể của Luật Dân sự.
<b>Câu 50. Để một tổ chức có tư cách của một pháp nhân thì tổ chức đó phải có điều</b>
<b>kiện nào hãy phân tích yếu tố có tài sản độc lập của pháp nhân.</b>
Điều 94 - BLDS quy định : một tổ chức được cộng nhận là pháp nhân khi có đủ các điều
kiện sau đây:
- Được cơ quan có thẩm quyền thành lập, cho phép thành lập, đăng ký hoặc cơng nhận.
- Có cơ cấu tổ chức chặt chẽ
- Có tài sản độc lập với cá nhân tổ chức khác và tự chịu trách nhiệm bằng tài sản đó.
- Nhân danh mình tham gia các quan hệ PL một cách độc lập.
Để pháp nhân tham gia vào các quan hệ tài sản pháp nhân phải có tài sản của "riêng"
Trên cơ sở có tài sản riêng pháp nhân phải chịu trách nhiệm độc lập về tài sản. Với ý chí
riêng và hoạt động phù hợp với nhiệm vụ của mình. Pháp nhân tham gia vào các quan hệ bằng
tài sản của mình pháp nhân tự chịu trách nhiệm do các hành vi của pháp nhân gây ra cho các chủ
thể khác. Cơ quan cấp trên không chịu trách nhiệm thay cho pháp nhân (ngay cả trường hợp
pháp nhân là các DNNN) và thành viên pháp nhân không chịu trách nhiệm thay cho pháp nhân.
Pháp nhân không phải chịu trách nhiệm tài sản thay cơ quan cấp trên của pháp nhân chịu trách
nhiệm thay cho Nhà nước (đối với các pháp nhân Nhà nước).
<b>Câu 51. Trong các điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự điều kiện nào là quan</b>
<b>trọng nhất, tại sao?</b>
Điều 131 - BLDS quy định: giao dịch dân sự có hiệu lực khi có đủ các điều kiện sau đây
1. Người tham gia giao dịch có năng lực hành vi dân sự.
2. Mục đích và nội dung của giao dịch không trái PL, đạo đức XH.
3. Người tham gia giao dịch hoàn toàn tự nguyện
4. Hình thức giao dịch phù hợp với quy định của PL
Trong các điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự thì điều kiện người tham gia giao
dịch hoàn toàn tự nguyện là điều kiện quan trọng nhất.
Điều này được lý giải từ góc độ bản chất của giao dịch dân sự là thống nhất giữa ý chí và
bày tỏ ý chí. Tự nguyện là một trong nguyên tắc cơ bản của Luật Dân sự đã được quy định tại
Đ7 - BLDS "Tự do, tự nguyện cam kết, thoả thuận" Tự nguyện bao gồm hai yếu tố cấu thành là
tự do ý chí và bày tỏ ý chí. Khơng có (hoặc thiếu một trong hai yếu tố) cũng khơng có sự tự
nguyện. Sự tự nguyện là thuốc tính của giao dịch dân sự dù là hành vi pháp lý đơn phương hay
Sự vi phạm nguyên tắc tự nguyện là cơ sở phổ biến nhất cho sự vô hiệu quả của giao dịch
dân sự (đương nhiên vơ hiệu hoặc có thể bị coi vơ hiệu).
- Giao dịch vô hiệu do giả tạo
- Giao dịch dân sự vô hiệu được xác lập do nhầm lẫn
- Giao dịch dân sự được xác lập do bị lừa dối đe doạ.
<b>Câu 52. Cho ví dụ về các trường hợp xác lập, thực hiện giao dịch dân sự khơng có sự</b>
<b>tự nguyện. </b>
Ý chí các bên tham gia giao dịch dân sự và ảnh hưởng của nó đến giao dịch dân sự.
Trong giao dịch dân sự việc hình thành ý chí chung của các chủ thể phải biểu hiện sự tự
nguyện của họ mà không bị ảnh hưởng bởi một áp lực nào từ bên ngồi chủ thể.
Có những trường hợp được giao kết nhưng khơng đúng với ý chí của các bên hoặc một
bên của giao dịch những giao dịch đó bị coi là vơ hiệu.
Giao dịch dân sự được xác lập do bị đe doạ, lừa dối.
Lừa dối trong giao dịch dân sự là hành vi cố ý của một bên nhằm làm cho bên kia hiểu sai
lệch về chủ thể tính chất đối tượng hoặc nội dung của giao dịch nên đã xác lập giao dịch đó.
Ví dụ: Người bán vật dùng các thủ đoạn mánh khoé làm cho người mua hình dung sai là
rất tốt nên mua phải giá đắt không đúng với giá trị thực tế của vật đem lại cho người bán món
hời khơng chính đáng.
Đe doạ trong giao dịch dân sự là hành vi cố ý của một bên làm cho bên kia sợ hãi mà
VD: A có một số vấn đề riêng tư muốn giữ bí mật. B biết điều này và đe doạ A nếu
khơng bán cho mình căn nhà với giá do B đặt ra B sẽ công bố các vấn đề đó. A quá sợ hãi mà
phải giao hết giao dịch với B.
Giao dịch dân sự là sự thống nhất giữa ý chí và bày tỏ ý chí. Ý chí của các chủ thể tham
gia giao dịch có ảnh hưởng quan trọng đến giao dịch.
Ý chí của các chủ thể là nguyện vọng mong muốn chủ quan của con người phụ thuộc
vào nhu cầu tiêu dùng của bản thân họ, đồng thời nó phải được thể hiện ra bên ngồi dưới một
hình thức nhất định để cho các chủ thể khác có thể biết được.
Ảnh hưởng của ý chí đến giao dịch dân sự.
Khi ý chí thực của các bên chủ thể không được phản ánh trong giao dịch dân sự thì giao
dịch sẽ vơ hiệu hoặc có thể bị coi là vơ hiệu. Đó là trường hợp của c giao dịch giả tạo, giao
dịch tưởng tượng.
- Sự khơng thống nhất giữa ý chí và bày tỏ ý chí đó là trường hợp ý chí của chủ thể bị áp
lực hoặc một tác động cụ thể nào đó mà khơng được biểu hiện ra bên ngồi hoặc được biểu
hiện ra bên ngồi nhưng sự biểu hiện đó khơng phù hợp với tính chất thực tế của giao dịch ý
chí của chủ thể đã bị điều chỉnh bởi mơi trường bên ngoài đem đến những hậu quả pháp lý là
bị coi là vơ hiệu.
<b>Câu 53. Đại diện là gì? BLDS quy định những loại đại diện nào?</b>
Điều 148 - BLDS: đại diện là việc một người (gọi là người đại diện) nhân danh một
người khác (gọi là người được đại diện) xác lập, thực hiện giao dịch dân sự trong phạm vi
BLDS quy định có hai loại đại diện: đại diện theo PL và đại diện theo uỷ quyền.
* Đại diện theo PL: là đại diện do PL quy định hoặc cơ quan Nhà nước có thẩm quyền
quyết định. Người đại diện theo PL bao gồm:
- Cha, mẹ đối với con chưa thành niên
- Người giám hộ đối với người được giám hộ;
- Người được TA chỉ định đối với người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự.
- Người đứng đầu pháp nhân theo điều lệ pháp nhân hoặc quyết định của cơ quan Nhà
nước có thẩm quyền.
- Chủ hộ gia đình đối với hộ gia đình;
- Tổ trưởng tổ hợp tác đối với tổ hợp tác
- Những người khác theo quy định của PL
* Đại diện theo uỷ quyền là đại diện được xác lập theo sự uỷ quyền giữa người đại diện
và người được đại diện.
Việc uỷ quyền phải được lập thành văn bản
Người đại diện theo uỷ quyền:
- Cá nhân, người đại diện theo PL của pháp nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác cá thể uỷ
quyền cho người khác theo quy định nhân danh mình xác lập thực hiện giao dịch dân sự.
- Người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự hoặc bị hạn chế năng lực
hành vi dân sự không được làm người đại diện theo uỷ quyền.
<b>Câu 54. Thời hạn là gì? nêu cách tính thời gian bằng giờ, ngày, tháng, năm theo</b>
<b>quy định của BLDS cho ví dụ minh hoạ?</b>
Điều 158 - Luật Dân sự quy định: Thời hạn là một khoảng thời gian được xác định từ
thời điểm này đến thời điểm khác.
Thời hạn cụ thể xác định bằng giờ, ngày, tuần, tháng, năm theo quy định của BLDS .
1.Thời điểm bắt đầu thời hạn
- Khi thời hạn được tính bằng ngày thì thời hạn được bắt đầu từ thời điểm đã xác định.
- Khi thời hạn được xác định bằng ngày, tuần, tháng, năm thì ngày đầu tiên của thời hạn
khơng được tính mà tính kể từ ngày tiếp theo của ngày được xác định.
2. Thời điểm kết thúc thời hạn
- Khi thời hạn được tính bằng ngày thì thời hạn kết thúc tại thời điểm kết thúc ngày cuối
cùng của thời hạn.
- Khi thời hạn được tính bằng tuần thì thời hạn kết thúc tại thời điểm kết thúc ngày
tương ứng của tuần cuối cùng của thời hạn.
- Khi thời hạn được tính bằng tháng thì thời hạn kết thúc từ thời điểm kết thúc này tương
ứng của tháng cuối cùng của thời hạn nếu tháng két thúc thời hạn khơng có ngày tương ứng
thì thời hạn kết thúc vào ngày cuối cùng của tháng đó. Ví dụ: A vay nợ của B ngày 31/12/2002
và trực thuộc 2 tháng sẽ trả nợ. Như vậy ngày mà A phải thực hiện nghĩa vụ trả nợ ngày
28/2/2003.
- Khi thời hạn được tính bằng năm thì thời hạn kết thúc ngày, tháng tương ứng của ngày
cuối cùng của thời hạn.
- Khi ngày cuối cùng của thời hạn là ngày chủ nhật hoặc ngày nghỉ lễ thì thời hạn kết
thúc tại thời điểm kết thúc ngày làm việc tiếp theo của ngày nghỉ đó.
Thời điểm kết thúc ngày cuối cùng của thời hạn vào đúng 12 giờ đêm của ngày đó.
<b>Câu 55. Năng lực hành vi dân sự của cá nhân được xác định trên căn cứ nào? Tại</b>
<b>sao? Phân biệt năng lực PL dân sự và năng lực hành vi dân sự của cá nhân.</b>
Điều 19-BLDS quy định: Năng lực hành vi dân sự của cá nhân là khả năng của cá nhân
bằng hành vi của mình xác lập và thực hiện các quyền và nghĩa vụ dân sự.
Năng lực hành vi dân sự của cá nhân được xác định trên các căn cứ: độ tuổi, khả năng
nhận thức và khả năng làm chủ hành vi của cá nhân. Sở dĩ năng lực hành vi dân sự được xác
định trên các căn cứ này bởi vì để cá nhân bằng hành vi của mình xác lập thực hiện các quyền,
nghĩa vụ dân sự cá nhân phải đạt đến sự phát triển nhất định về mặt thể lực và trí lực. Sự phát
triển nhất định về mặt thể lực và trí lực được biểu hiện cụ thể qua độ tuổi, qua khả năng làm
chủ hành vi, khả năng nhận thức của cá nhân.
Năng lực hành vi dân sự còn đồng thời là năng lực chịu trách nhiệm dân sự thì chỉ trên
cơ sở xác định độ tuổi, khả năng nhận thức, khả năng làm chủ hành vi của cá nhân mới có thể
đặt vấn đề truy cứu hay không truy cứu, truy cứu ở mức độ nào,
Phân biệt năng lực hành vi dân sự của cá nhân với năng lực PL dân sự của cá nhân.
Khoản 1- Điều 16-BLDS quy định: năng lực PL dân sự của cá nhân là khả năng cá nhân có
được các quyền và nghĩa vụ dân sự. Sự phân biệt có thể nhìn nhận qua các tiêu chí:
1. Thời điểm phát sinh: Năng lực hành vi dân sự của cá nhân khơng có ngay khi cá nhân
sinh ra mà phải đạt đến độ tuổi nhất định (6 tuổi) mới bắt đầu có năng lực hành vi dân sự.
2. Tính chất: PL ghi nhận mọi cơng dân có năng lực PL dân sự như nhau. K2 -Điều
16-BLDS "mọi cá nhân đều có năng lực PL dân sự như nhau nghĩa là có tính bình đẳng về năng
3. Vị trí, vai trị trong năng lực chủ thể
- Năng lực PL dân sự là điều kiện "cần" để cá nhân tham gia vào các quan hệ dân sự.
Năng lực hành vi dân sự là điều kiện đủ.
- Năng lực PL dân sự mới là khả năng hưởng quyền còn năng lực hành vi dân sự là "cầu
nối" giữa năng lực PL dân sự và quyền dân sự hiện thực hoá các nội dung của năng lực PL DS.
<b>Câu 56. Hãy phân tích các hình thức sở hữu đang tồn tại ở nước ta hiện nay. Cho</b>
<b>biết tài sản của các Công ty cổ phần, tài sản chuyên của vợ chồng, tài sản của hộ kinh tế cá</b>
<b>thể thuộc hình thức sở hữu nào? Tại sao?</b>
Các hình thức sở hữu đang tồn tại ở nước ta theo quy định của BLDS :
- Sở hữu toàn dân
- Sở hữu của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội
- Sở hữu tập thể
- Sở hữu tư nhân
- Sở hữu của tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp.
- Sở hữu hỗn hợp
- Sở hữu chung
1. Sở hữu toàn dân là hình thức sở hữu mà trong đó Nhà nước CHXHCN Việt Nam thực
hiện quyền, chủ sở hữu đối với tài sản thuộc sở hữu tồn dân Chính phủ thống nhất quản lý và
bảo đảm sử dụng đúng mục đích, hiệu quả và tiết kiệm tài sản thuộc sở hữu toàn dân.
Nhà nước thực hiện quyền sở hữu đối với những tư liệu sản xuất chủ yếu mà các chủ thể
khác khơng có quyền sở hữu (đất đai, rừng, núi, sơng hồ) Nhà nước giao tài sản thuộc sở hữu
tồn dân cho các doanh nghiệp Nhà nước, cơ quan Nhà nước, đơn vị vũ trang quản lý, sử dụng
đúng mục đích theo quy định của PL đối với tài sản được giao. Nhà nước thực hiện việc quyền
kiểm tra, giám sát, việc quản lý sử dụng tài sản đó.
2. Sở hữu của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội là sở hữu của cả tổ chức đó
nhằm thực hiện mục đích chung quy định trong điều lệ.
Tài sản của tổ chức chính trị, tổ chức CTXH được hình thành từ:
- Nguồn đóng góp của các thành viên
- Được cho , tặng chung
- Các nguồn khác phù hợp với quy định của PL
Đối với tài sản thuộc sở hữu toàn dân mà Nhà nước chuyển giao quyền sở hữu cho tổ
chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội thì trở thành tài sản thuộc sở hữu của tổ chức đó (* *)<sub>.</sub>
Tài sản thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước giao cho tổ chức chính trị, tổ chức chính
trị-xã hội quản lý thì khơng thuộc sở hữu của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị-trị-xã hội đó (*)<sub>.</sub>
Việc quản lý, khai thác công dụng và định đoạt tài sản thuộc sở hữu của tổ chức chính trị,
tổ chức chính trị - xã hội phải tuân theo PL và phù hợp với mục đích hoạt động được quy định
trong điều lệ.
3. Sở hữu tập thể là sở hữu của hợp tác xã hoặc các hình thức kinh tế tập thể ổn định khác
do cá nhân, hộ gia đình cùng góp vốn, góp sức hợp tác sản xuất, kinh doanh nhằm thực hiện
mục đích chung được quy định trong điều lệ theo nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng, dân chủ
Việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản thuộc sở hữu tập thể phải tuân theo PL, phù
hợp với điều lệ của thực tế đó. Cịn quyền định đoạt với tài sản đó thuộc về đại hội xã viên,
người đại diện hợp pháp và tập thể thực hiện quyền sở hữu trong khuôn khổ các quy định và
điều lệ.
4. Sở hữu tư nhân bao gồm: sở hữu cá thể, sở hữu tiểu chủ, sở hữu tư bản tư nhân.
Sở hữu tư nhân không bị hạn chế về số lượng và giá trị.
5. Sở hữu của tổ chức xã hội - tổ chức xã hội nghề nghiệp.
Việc quản lý, khai thác công dụng và định đoạt tài sản thuộc sở hữu của tổ chức chính trị,
tổ chức chính trị - xã hội phải tuân theo PL và phù hợp với mục đích hoạt động được quy định
trong điều lệ.
6. Sở hữu hỗn hợp là sở hữu đối với tài sản do các chủ sở hữu thuộc các thành phần kinh
tế khác nhau góp vốn để sản xuất kinh doanh trên lợi nhuận.
7. Sở hữu chung là sở hữu của nhiều chủ sở hữu đối với tài sản. Việc chiếm hữu, sử dụng
định đoạt tài sản thuộc sở hữu chung phụ thuộc vào ý chí tất cả các chủ sở hữu chung trừ trường
hợp có thoả thuận khác hoặc PL có quy định khác.
Xét về phạm vi quyền và nghĩa vụ của chủ sở hữu chung Luật Dân sự phân biệt sở hữu
chung theo phần và sở hữu chung hợp nhất.
Sở hữu chung theo phần là sở hữu chung mà trong đó quyền sở hữu của mỗi chủ sở hữu
được xác định đối với tài sản chung.
Sở hữu chuyên gia hợp nhất là sở hữu chung mà trong đó phần quyền sở hữu của mỗi chủ
Sở hữu chung hợp nhất bao gồm sở hữu chung hợp nhất có thể phân chia và sở hữu chung
hợp nhất không thể phân chia.
Tài sản của Công ty cổ phần thuộc hình thức sở hữu hỗn hợp vì chủ sở hữu tài sản của các
Cơng ty cổ phần có thể thuộc các thành phần kinh tế khác nhau. Nhà nước, tập thể, tư nhân
trong nước, ngoài nước.
Tài sản chung của vợ chồng là thuộc hình thức sở hữu chung hợp nhất có thể phân chia.
Vợ chồng có quyền sở hữu ngang nhau đối với tài sản chung. Tài sản chung đó có thể phân chia
theo thoả thuận hoặc quyết định của TA.
Tài sản của hộ kinh tế cá thể thuộc hình thức sở hữu tư nhân. Một hộ kinh tế cá thể ln
có một chủ hộ kinh doanh, đăng ký kinh doanh với cơ quan Nhà nước có thẩm quyền, quản lý
toàn bộ tài sản.
<b>Câu 57. Phân biệt sở hữu hỗn hợp và sở hữu chung.</b>
# Nêu khái niệm sở hữu hỗn hợp, sở hữu chung
* Khái niệm Sở hữu hỗn hợp là sở hữu đối với tài sản do các chủ sở hữu thuộc các thành
phần kinh tế khác nhau góp vốn để sản xuất kinh doanh trên lợi nhuận
* Khái niệm Sở hữu chung là sở hữu của nhiều chủ sở hữu đối với tài sản. Việc chiếm
hữu, sử dụng định đoạt tài sản thuộc sở hữu chung phụ thuộc vào ý chí tất cả các chủ sở hữu
chung trừ trường hợp có thoả thuận khác hoặc PL có quy định khác.
Xét về phạm vi quyền và nghĩa vụ của chủ sở hữu chung Luật Dân sự phân biệt sở hữu
chung theo phần và sở hữu chung hợp nhất.
Sở hữu chung theo phần là sở hữu chung mà trong đó quyền sở hữu của mỗi chủ sở hữu
được xác định đối với tài sản chung.
Sở hữu chuyên gia hợp nhất là sở hữu chung mà trong đó phần quyền sở hữu của mỗi chủ
sở hữu không được xác định đối với tài sản chung.
Sở hữu chung hợp nhất bao gồm sở hữu chung hợp nhất có thể phân chia và sở hữu chung
hợp nhất không thể phân chia.
So sánh Sở hữu hỗn hợp và Sở hữu chung
# Sở hữu hỗn hợp
* Chủ sở hữu: Chủ sở hữu thuộc các thành phần kinh tế khác nhau
* Tính chất cùng chung sở hữu: Chủ sở hữu khơng có vị trí độc lập và t cách chủ sở hữu
độc lập
* Giá trị tài sản: Tài sản có giá trị thường là không lớn chủ yếu là các tư liệu sinh hoạt,
tư liệu sản xuất nhỏ
* Mục đích: Phục vụ sinh hoạt, sản xuất nhỏ hàng ngày
* Hình thức tồn tại: Được tổ chức dưới hình thức cộng đồng, hơn nhân
* Cơ sở hình thành: Quan hệ hôn nhân, huyết thống, cộng đồng
# Sở hữu chung (SHC)
* Chủ sở hữu: Sở hữu của nhiều chủ sở hữu đối với tài sản
* Tính chất cùng chung sở hữu: Mỗi một đồng chủ sở hữu trong SHC có vị trí độc lập
và tham gia vào quan hệ PL dân sự với t cách là một chủ sở hữu độc lập
* Giá trị tài sản: Tài sản có giá trị lớn đa dạng phong phú về các hht tồn tại
* Mục đích: Mục đích sản xuất kinh doanh thu lợi nhuận
* Hình thức tồn tại: Các đơn vị được tổ chức dưới các hình thức do luật định
* Cơ sở hình thành: Quan hệ hợp tác bình đẳng thoả thuận
<b>Câu 58. Thế nào là thừa kế - thế vị trong trường hợp bố và ông nội cùng chết</b>
<b>trong một tai nạn máy bay thì cháu có được thay cha nhận thừa kế của ông để lại không?</b>
Thế vị là việc con (hoặc cháu) được thay vào vị trí của bố mẹ (hoặc ông bà) để hưởng di
sản của ông, bà (hoặc cụ) trong trường hợp bố (mẹ) chết trước ông (bà) hoặc ông (bà) chết
trước cụ. Những người thừa kế thế vị được hưởng phần di sản mà bố, mẹ mình (hoặc ơng, bà
mình) đáng lẽ được hưởng nếu cịn sống, được chia đều di sản với những người thừa kế khác.
"Trong trường hợp ông (bà và bố (mẹ) chết cùng thời điểm thì cháu vẫn được thừa kế
của ơng (bà) bởi nếu bố (mẹ) của cháu còn sống sẽ được hưởng phần thừa kế"(Giáo trình Luật
Dân sự-HVHCQG NXB ĐHQG-trang178-dịng 7 ).
Như vậy, trường hợp ông và bố cùng chết trong một tai nạn máy bay thì cháu được thay
cha nhận thừa kế của ông để lại.
<b>Câu 59. BLDS quy định như thế nào về chuyển QSDĐ và đối tượng được chuyển</b>
<b>QSDĐ.</b>
Chuyển QSDĐ là một quan hệ PL dân sự nhằm làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền
và nghĩa vụ của cá nhân, hộ gia đình và tổ chức trong quá trình thực hiện QSDĐ.
Theo quy định của BLDS tại Điều 691 thì có 5 hình thức chuyển QSDĐ cụ thể là:
- Chuyển đổi QSDĐ
- Chuyển nhượng QSDĐ
- Thế chấp QSDĐ
- Cho thuê QSDĐ
- Thừa kế QSDĐ
Việc chuyển QSDĐ phải tuân theo những điều kiện do luật định. Theo điều 693 - BLDS
quy định: Hộ gia đình, cá nhân có quyền chuyển QSDĐ khi có đủ các điều kiện:
- Có giấy chứng nhận QSDĐ được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cấp theo quy định
của PL về đất đai.
- Trong thời hạn còn được SDĐ
- Được phép chuyển quyền SDĐ theo quy định của BLDS và PL đất đai.
- Đất khơng có tranh chấp
Khi chuyển quyền SDĐ các bên phải làm những thủ tục:
- Ký kết hợp đồng giữa các bên (đối với hình thức chuyển đổi, chuyển nhượng, cho
thuê, thế chấp quyền SDĐ). Hợp đồng chuyển quyền SDĐ phải được lập thành văn bản có
chứng thực của UBND cấp có thẩm quyền.
- Đăng ký và làm thủ tục tại cơ quan Nhà nước có thẩm quyền.
+ Thủ tục chuyển đổi quyền SDĐ ở nông thôn làm tại UBND xã; ở đô thị làm tại
UBND huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh.
+ Thủ tục chuyển nhượng quyền SDĐ ở nông thôn làm tại UBND huyện, ở đô thị làm
tại UBND tỉnh thành phố trực thuộc Trung ương.
+ Đối với thừa kế quyền SDĐ thì việc sang tên chuyển quyền sử dụng đát từ người chết
cho người sống, nộp lệ phí trước bạ tại nơi cấp GCN quyền SDĐ đó.
Đối tượng được chuyển quyền SDĐ: khoản 1 - Điều 695 - BLDS : chỉ người sử dụng
đất mà PL cho phép chuyển quyền SDĐ mới có quyền chuyển quyền SDĐ cụ thể là hộ gia
đình, cá nhân, tổ chức có quyền SDĐ và có đủ điều kiện chuyển quyền.
<b>Câu 60. Thế nào là giao dịch dân sự. Phân biệt hợp đồng dân sự và hành vi pháp lý</b>
<b>đơn phương.</b>
Điều 130-BLDS quy định: Giao dịch dân sự là hành vi pháp lý đơn phương hoặc hợp
đồng dân sự là hành vi pháp lý đơn phương hoặc hợp đồng của cá nhân, pháp nhân và các chủ
thể khác nhằm phát sinh thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự.
Hành vi pháp lý đơn phương là giao dịch trong đó thể hiện ý chí của một bên nhằm là
phát sinh, thay đổi hay chấm dứt quyền và nghĩa vụ dân sự.
Hợp đồng dân sự là giao dịch dân sự trong đó thể hiện ý chí của hai hay nhiều bên nhằm
là phát sinh thay đổi hay chấm dứt quyền và nghĩa vụ dân sự.
Phân biệt hành vi pháp lý đơn phương và hợp đồng dân sự trên một số tiêu chí cơ bản
sau đây:
1. Ý chí chỉ tiêu.
- Giao hành vi pháp lý đơn phương là sự thể hiện ý chí của một bên.
- Hợp đồng dân sự bao giờ cũng là sự thể hiện ý chí và thống nhất ý chí của ít nhất hai
bên.
2. Điều hiện có hiệu lực.
- Hành vi pháp lý đơn phương có hiệu lực hay khơng có hiệu lực nhiều khi cịn phụ
thuộc vào sự tiếp nhận ý chí của một bên khác theo những yêu cầu, điều kiện thực hiện mà một
bên đưa ra.
- Một hợp đồng dân sự hợp pháp có hiệu lực thực hiện đối với tất cả các bên tham gia
hợp đồng.
3. Các biện pháp bảo đảm thực hiện.
- Hành vi pháp lý đơn phương khơng có biện pháp bảo đảm thực hiện.
- Hợp đồng dân sự có biện pháp bảo đảm được quy định trong hợp đồng.
4. Hình thức.
- Hành vi pháp lý đơn phương khi được thể hiện dưới hình thức văn bản là những quyền
nghĩa đã được xác lập theo ý chí của một bên.
- Hợp đồng dân sự thể hiện dưới hình thức các điều khoản cam kết thoả thuận về quyền
và nghĩa vụ.
<b>Câu 61. Việc ký kết hợp đồng dân sự cần bảo đảm những yêu cầu gì, nội dung cụ</b>
<b>thể của những yêu cầu đó.</b>
- Việc ký kết hợp đồng dân sự cần bảo đảm các yêu cầu cụ thể sau đây:
1. Yêu cầu với chủ thể giao kết hợp đồng: Chủ thể tham gia ký kết hợp đồng có năng
lực hành vi dân sự. Hợp đồng dân sự sẽ vô hiệu nếu chủ thể giao kết khơng có năng lực hành
vi dân sự đầy đủ. Đó là trường hợp chủ thể bị mất trí, bị hạn chế năng lực hành vi dân sự hoặc
người chưa thành niên thực hiện mà theo quyết định của PL họ không được giao kết.
3. Yêu cầu về ý chí của người tham gia hợp đồng. Người tham gia hợp đồng hoàn toàn tự
nguyện bao gồm 2 yếu tố tạo thành là tự do ý chí và bày tỏ ý chí. Khơng có hoặc thiếu một trong
hai yếu tố đó hoặc khơng thống nhất giữa hai yếu tố cũng khơng thể có sự tự nguyện.
4. Yêu cầu về hình thức hợp đồng: Hình thức của hợp đồng phải phù hợp với quy định
của PL.
<b>Câu 62. Tại sao nói quyền sở hữu là chế định truyền thống trung tâm của LDS .</b>
<b>Quyền sở hữu được xác lập trên những căn cứ nào. Cho ví dụ minh hoạ.</b>
Với ý nghĩa là một chế định PL, quyền sở hữu là tổng hợp các QPPL do Nhà nước ban
hành điều chỉnh quan hệ giữa người với người về việc chiếm hữu và định đoạt tài sản.
Quyền sở hữu là chế định truyền thống, trung tâm của LDS bởi các cơ sở căn bản.
- Là một chế định PL, quyền sở hữu ra đời từ khi có Nhà nước và nó là chế định hiện diện
đầu tiên ở tất cả BLDS của các quốc gia trên thế giới dù là ở thời cổ đại hay hiện đại: BLDS La
Mã, BLDS Pháp…
- Ở Việt Nam, ngày sau khi giành được chính quyền, chính quyền nhân dân đã quan tâm
ngay đến vấn đề sở hữu, ra sắc lệnh bãi bỏ các hình thức sở hữu của chế độ thực dân phong
kiến. Từ đó đến nay chế định về sở hữu khơng ngừng được hồn thiện và phát triển.
- Chế định quyền sở hữu chi phối mạnh mẽ các chế định khác của Luật Dân sự. Quyền
thừa kế là chế định có cơ sở từ quyền sở hữu. Vấn đề sở hữu quyết định đến việc thực hiện các
quan hệ PL dân sự, đến việc tham gia vào các hợp đồng dân sự, thực hiện nghĩa vụ dân sự.
Quyền sở hữu được xác lập dựa trên các căn cứ sau đây:
1. Quyền sở hữu được xác lập dựa trên căn cứ hợp đồng dân sự hoặc giao dịch một bên.
Quyền sở hữu cũng được xác lập đối với tài sản chủ thể nhận từ tài sản thừa kế theo di
chúc. Tài sản trong hứa thưởng, các cuộc thi giải cũng là căn cứ xác lập quyền sở hữu.
2. Quyền sở hữu xác lập trên căn cứ PL.
- Di sản thừa kế theo PL. VD:A được chia di sản thừa kế theo hàng thừa kế thứ nhất thì di
sản được chia cho A thuộc quyền sở hữu của A.
- Quyền sở hữu xác lập đối thu nhập hợp pháp có được do hoạt động sản xuất, kinh doanh
hợp pháp kể từ thời điểm có thu nhập đó. Ví dụ: A bán toàn bộ cá trong vụ cá được 100 triệu
đồng từ thời điểm nhận tiền thanh tốn A có quyền sở hữu số tiền đó.
- Xác lập quyền sở hữu do các sự kiện sáp nhập trộn lẫn, chế biến tạo nên sự hợp nhất tài
sản của nhiều chủ sở hữu. Ví dụ: A và B cùng góp mỗi người 50 triệu đồng để mua một ô tô tải.
A và B là đồng chủ sở hữu đối với ô tô này.
- Xác lập quyền sở hữu do sự kiện không xác định được chủ sở hữu hoặc do bị chôn giấu,
đánh rơi, bỏ quên.
- Xác lập quyền sở hữu do sự kiện gia súc, gia cầm bị thất lạc vật ni dưới nước bị thất
lạc. Ví dụ: A bắt được một con bò lạc, sau sáu tháng kể từ ngày bắt được A có quyền sở hữu nếu
như đã thông báo công khai chiếm hữu liên tục.
3. Quyền sở hữu tài sản được xác lập theo những căn cứ khác.
- Xác lập quyền sở hữu theo thời hiệu khi có các điều kiện do PL quy định. Người chiếm
- Xác lập quyền sở hữu thông qua phán quyết của TA hoặc quyết định của cơ quan Nhà
nước có thẩm quyền. Ví dụ: việc chia tài sản theo quyết định ly tâm của TA…
<b>Câu 63. Phân biệt thừa kế theo di chúc với thừa kế theo PL? Những trường hợp nào</b>
<b>được hưởng thừa kế không phụ thuộc vào di chúc? Tại sao?</b>
# Thừa kế theo di chúc: Thừa kế theo di chúc là việc dịch chuyển di sản thừa kế của ng ời
đã chết cho những ngời còn sống thể hiện trong di chúc mà họ để lại
* Sự dịch chuyển quyền sở hữu: Di sản được dịch chuyển theo ý chí của cá nhân thể hiện
trong di chúc
* Người thừa kế
- Người được chỉ ra trong di chúc hợp pháp không kể quan hệ thân thuộc, họ hàng hay
không.
- Cá nhân, cơ quan, tổ chức
* Trình tự áp dụng: Thừa kế theo di chúc được thực hiện trước
# Thừa kế theo PL
- Thừa kế theo PL là phương thức dịch chuyển tài sản từ ngời đã chết cho ngời khác còn
sống khác theo hàng thừa kế điều kiện và trình tự thừa kế mà PL đã quy định
* Sự dịch chuyển quyền sở hữu: - Dịch chuyển theo quy định của PL là sự phóng đốn ý
chí của ngời để lại di sản.
* Người thừa kế
- Người có quan hệ thân thuộc với ngời đã chết
- Chỉ có thể là cá nhân
* Trình tự áp dụng: Chỉ áp dụng khi khơng có di chúc khơng hợp pháp, các trường hợp
thừa kế theo di chúc không áp dụng được
Điều 672-BLDS quy định "Những người sau đây vẫn được hưởng phần di sản bằng hai
phần ba suất của một người thừa kế theo PL nếu như di sản chia theo PL, trong trường hợp họ
không được người lập di chúc cho di sản hoặc chỉ cho hưởng phần di sản ít hơn hai phần ba suất
đó, trừ khi họ là những người từ chối hưởng di sản hoặc họ là những người khơng có quyền
hưởng di sản theo quy định tại điều 645 hoặc khoản 1 điều 646 của Bộ Luật này.
1. Con chưa thành niên, cha, mẹ, vợ, chồng.
2. Con đã thành niên mà khơng có khả năng lao động".
PL quy định những trường hợp trên được hưởng thừa kế không phụ thuộc vào di chúc vì
rõ ràng đây là những người thân thiết nhất của người chết cần được bảo vệ quyền lợi ích hợp
pháp và PL không cho phép người để lại di sản trốn tránh trách nhiệm của mình đối với người
đó.
<b>Câu 64. Phân tích các khái niệm hợp đồng Dân sự, nghĩa vụ Dân sự, trách nhiệm</b>
<b>Dân sự, mối quan hệ giữa các khái niệm, cho ví dụ minh hoạ.</b>
Nghĩa vụ Dân sự là việc mà theo quy định của PL thì một hoặc nhiều chủ thể (gọi là
người có nghĩa vụ) phải làm một công việc hoặc không được làm một việc vì lợi ích của một
Nghĩa vụ Dân sự là một quan hệ PL dân sự. Nó có đầy đủ cả 3 yếu tố: Chủ thể, khách thể,
và nội dung quan hệ.
- Chủ thể của nghĩa vụ dân sự là những người mà giữa họ tồn tại một quan hệ nghĩa vụ.
Các chủ thể của nghĩa vụ dân sự bao gồm: Cá nhân, Pháp nhân, Hộ gia đình, Tổ hợp tác, Nhà
nước CHXHCNVN.
+ Trong quan hệ nghĩa vụ dân sự có thể có nhiều người tham gia nhưng phải có ít nhất là
2 người chia làm 2 bên chủ thể có quyền lợi đối lập.
+ Quan hệ nghĩa vụ là quan hệ đối nhân.
- Khách thể của nghĩa vụ dân sự là hành vi mà quyền yêu cầu của chủ thể quyền và nghĩa
vụ của chủ thể nghĩa vụ nhằm vào.
Trong khách thể của nghĩa vụ dân sự thì đối tượng là quan trọng. Đối tượng của nghĩa
vụ dân sự là tài sản, công việc phải làm hoặc không được làm.
Đối tượng của nghĩa vụ phải có các điều kiện:
- Đối tượng của nghĩa vụ phải được chỉ định chính xác.
- Chỉ những tài sản có thể đem giao dịch được và những cơng việc có thể thực hiện được
mà PL không cấm, không trái đạo đức xã hội mới là đối tượng của nghĩa vụ dân sự.
2. Hợp đồng dân sự: Là sự thoả thuận giữa các bên về việc xác lập thay đổi hoặc chấm
dứt quyền nghĩa vụ dân sự.
Các yếu tố cốt lõi của hợp đồng dân sự.
- Nhằm phát sinh một hậu quả pháp lý nhất định đó là sự phát sinh, thay đổi hoặc chấm
dứt những quyền và nghĩa vụ dân sự giữa hai bên.
- Nội dung của hợp đồng dân sự chính là tổng hợp các quyền và nghĩa vụ mà các bên đã
thoả thuận để liên kết các chủ thể lại với nhau, nó được thể hiện cụ thể bằng các điều khoản
trong hợp đồng.
Hợp đồng dân sự có thể xác lập bằng các hình thức khác nhau tuỳ theo tính chất, nội
dung của hợp đồng.
- Hợp đồng miệng.
- Hợp đồng bằng văn bản.
- Hợp đồng bằng hành vi.
3. Trách nhiệm dân sự: Là các biện pháp có tính chất cưỡng chế được áp dụng nhằm
khơi phục tình trạng ban đầu của một quyền dân sự bị vi phạm trách nhiệm dân sự xuất hiện
khi có hành vi vi phạm PL mà biểu hiện cụ thể là không thực hiện, thực hiện không đúng,
không đầy đủ nghĩa vụ của người có nghĩa vụ dân sự. Trách nhiệm dân sự chủ yếu thể hiện tồn
tại chủ yếu dưới hình thức phạt và bồi thường thiệt hại.
Các khái niệm trên có mối quan hệ mật thiết với nhau.
- Hợp đồng dân sự là căn cứ phát sinh ra nghĩa vụ dân sự trong các căn cứ làm phát sinh
nghĩa vụ dân sự thì hợp đồng dân sự là căn cứ phổ biến nhất. Ví dụ: A và B giao kết hợp đồng
mua bán tài sản. Khi hợp đồng có hiệu lực A có nghĩa vụ giao tài sản đã thoả thuận cho B; B
có nghĩa vụ thanh toán tiền.
- Nghĩa vụ dân sự là cơ sở để tồn tại hợp đồng dân sự. Hợp đồng dân sự là sự thoả thuận
- Trách nhiệm DS đóng vai trị như một phương tiện bảo đảm bằng PL, bằng Nhà nước
cho việc thực hiện đúng nghĩa vụ DS và hợp đồng DS. Nó sẽ xuất hiện khi có sự vi phạm
nghĩa vụ, vi phạm hợp đồng DS.
<b>Câu 65 Nêu khái niệm hợp đồng dân sự. Phân biệt HĐ dân sự với HĐ kinh tế.</b>
Hợp đồng dân sự là sự thoả thuận giữa các bên nhằm làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm
dứt quyền và nghĩa vụ dân sự. Để phân biệt hợp đồng dân sự với hợp đồng kinh tế chúng ta
phải xác định nội hàm của khái niệm.
Hợp đồng kinh tế là sự thoả thuận bằng văn bản, tài liệu giao dịch giữa các bên ký kết
về việc thực hiện công việc sản xuất, trao đổi hàng hoá, dịch vụ, nghiên cứu ứng dụng tiến bộ
khoa học kỹ thuật và các thoả thuận khác có mục đích kinh doanh với sự quy định rõ ràng
quyền và nghĩa vụ mỗi bên để xây dựng và thực hiện kế hoạch của mình. Hợp đồng kinh tế
được ký kết nhằm mục đích kinh doanh kiếm lời.
Chúng ta có thể phân biệt HĐ dân sự với hợp đồng kinh tế trên một số tiêu chí cơ bản.
1. Chủ thể hợp đồng.
- Chủ thể của hợp đồng dân sự là các chủ thể của Luật Dân sự: Cá nhân, pháp nhân, hộ
gia đình, tổ hợp tác.
- Chủ thể của hợp đồng kinh tế chủ yếu là các pháp nhân. Trong mối quan hệ hợp đồng
kinh tế có ít nhất một bên phải là pháp nhân còn bên kia có thể là pháp nhân, cá nhân có đăng
ký kinh doanh theo quy định của PL. Quan điểm nhiều Luật gia cho rằng cơ sở để phân biệt
hợp đồng dân sự và hợp đồng kinh tế mà chủ thể tham gia. Nếu một hợp đồng chủ thể là 2
doanh nghiệp thì hợp đồng đó là hợp đồng kinh tế.
2. Mục đích xác lập, thực hiện hợp đồng.
Mục đích của việc xác lập, thực hiện hợp đồng chính là lợi ích mà các bên mong muốn
đạt được khi tham gia hợp đồng.
Mục đích của hợp đồng dân sự là mục đích tiêu dùng (chủ yếu).
Mục đích của hợp đồng kinh tế là SXKD, thu lợi nhuận.
<b>Câu 66. So sánh nghĩa vụ dân sự và trách nhiệm dân sự.</b>
- Khái niệm nghĩa vụ dân sự: Nghĩa vụ Dân sự là việc mà theo quy định của PL thì một
hoặc nhiều chủ thể (gọi là ngời có nghĩa vụ) phải làm một cơng việc hoặc khơng được làm một
việc vì lợi ích của một hoặc nhiều chủ thể khác (gọi là ngời có quyền).
Nghĩa vụ Dân sự là một quan hệ PL dân sự. Nó có đầy đủ cả 3 yếu tố: Chủ thể, khách
thể, và nội dung quan hệ.
- Khái niệm trách nhiệm dân sự: TNDS là các biện pháp có tính chất cưỡng chế được áp
dụng nhằm khơi phục tình trạng ban đầu của một quyền dân sự bị vi phạm TNDS xuất hiện khi
có hành vi vi phạm PL mà biểu hiện cụ thể là không thực hiện, thực hiện khơng đúng, khơng
đầy đủ nghĩa vụ của ngời có nghĩa vụ dân sự. Trách nhiệm dân sự chủ yếu thể hiện tồn tại chủ
yếu dưới hình thức phạt và bồi thường thiệt hại.
# So sánh hai khái niệm:
1. Giống nhau:
- Nghĩa vụ dân sự và trách nhiệm dân sự là quan hệ PL dân sự, nghĩa là nó có đầy đủ
các yếu tố chủ thể, khách thể và nội dung quan hệ.
- Nghĩa vụ dân sự và trách nhiệm DS đều xác định rõ chủ thể quyền, chủ thể nghĩa vụ.
- Hành vi pháp lý đơn phương.
- Chiếm hữu, sử dụng, được lợi về tài sản khơng có căn cứ PL.
- Gây thiệt hại do hành vi trái PL.
- Thực hiện cơng việc khơng có uỷ quyền.
- Trách nhiệm dân sự luôn phát sinh trên cơ sở hành vi vi phạm PL, vi phạm hợp đồng.
* Tính chất:
- Nghĩa vụ dân sự thực chất là quan hệ giữa chủ thể quyền và chủ thể nghĩa vụ.
- Trách nhiệm dân sự liên quan đến mật thiết đến nghĩa vụ sự cưỡng chế Nhà nước là sự
thực hiện chế tài của Nhà nước đối với hành vi vi phạm PL thơng qua cơ quan Nhà nước có
thẩm quyền.
Trách nhiệm dân sự là quan hệ đặc biệt giữa Nhà nước và chủ thể vi phạm pháp luật.
* Cơ sở :
- Chủ thể tham gia quan hệ dân sự đương nhiên phát sinh quyền và nghĩa vụ dân sự.
- Cơ sở để truy cứu trách nhiệm dân sự là quyết định có hiệu lực của cơ quan Nhà nước
có thẩm quyền.
<b>Câu 67. Phân biệt trách nhiệm dân sự trong quan hệ nghĩa vụ và trách nhiệm dân sự</b>
<b>ngoài hợp đồng.</b>
<i>1. Chủ thể quyền và chủ thể nghĩa vụ.</i>
- Trách nhiệm dân sự trong quan hệ nghĩa vụ phát sinh trong trường hợp giữa hai bên có
quan hệ nghĩa vụ, một bên do không thực hiện, thực hiện không đúng, không đầy đủ nghĩa vụ
mà ảnh hưởng đến quyền lợi ích hợp pháp của bên kia.
- Trách nhiệm dân sự ngoại hợp đồng người chịu trách nhiệm dân sự là người có hành vi
vi phạm PL khơng có quan hệ nghĩa vụ, quan hệ hợp đồng đã được xác định trước.
<i>2. Cơ sở phát sinh.</i>
- Trách nhiệm dân sự trong quan hệ nghĩa vụ phát sinh trên cơ sở vi phạm nghĩa vụ hợp
đồng.
- Trách nhiệm dân sự ngoài hợp đồng phát sinh trên cơ sở VPPL.
<i>3. Lỗi.</i>
- Trách nhiệm dân sự trong quan hệ nghĩa vụ lỗi là yếu tố để quy trách nhiệm.
- Trách nhiệm dân sự ngoài hợp đồng lỗi là yếu tố để xác định mức độ trách nhiệm.
4. Chế tài:
- Chế tài trách nhiệm dân sự trong quan hệ nghĩa vụ đã được ấn định, xác định trước trong
các hợp đồng dân sự (dự liệu trước).
- Chế tài trách nhiệm dân sự ngồi hợp đồng là sự thoả thuận chưa có sự dự liệu trước.
<b>Câu 68. Phân biệt năng lực chủ thể của cá nhân với pháp nhân, hộ gia đình.</b>
<i>1. Phạm vi.</i>
- Năng lực chủ thể của cá nhân là năng lực tổng hợp nghĩa là cá nhân có quyền tham gia
vào mọi QHPL dân sự, mọi giao dịch dân sự.
- Năng lực chủ thể của pháp nhân, hộ gia đình là năng lực chuyên biệt. Pháp nhân chỉ
- Hộ gia đình tham gia vào quan hệ sử dụng đất vay vốn Ngân hàng để sản xuất nông,
lâm, ngư nghiệp.
<i>2. Quá trình hình thành.</i>
- Năng lực chủ thể của cá nhân không đầy đủ khi được sinh ra, cụ thể là khi sinh ra cá
nhân chỉ có năng lực PL mà chưa có NLHV.
- Pháp nhân, hộ gia đình năng lực chủ thể có đầy đủ khi hình thành năng lực PL và năng
lực hành vi được hình thành đồng thời với nhau.
<i>3. Tính ổn định.</i>
- Năng lực chủ thể của cá nhân được ổn định, xác định cụ thể không thay đổi.
- Năng lực chủ thể của pháp nhân có thể thay đổi theo mục đích hoạt động.
<b>Câu 69. Trình bày khái niệm và đối tượng của nghĩa vụ dân sự. nghĩa vụ dân sự</b>
<b>phát sinh và chấm dứt trong những trường hợp nào?</b>
* Nghĩa vụ dân sự là việc mà theo quy định của PL thì một hoặc nhiều chủ thể (gọi là
người có nghĩa vụ ) phải làm một công việc hoặc không được làm một công việc vì lợi ích của
một hoặc nhiều chủ thể gọi khác (gọi là người có quyền)
Theo luật dân sự thì đối tượng của nghĩa vụ dân sự có thể là tài sản (gồm vật có thực, tiền,
các giấy tờ trị giá được bằng tiền và các quyền tài sản); công việc phải làm và công việc không
phải làm
Đối tượng của nghĩa vụ phải được chỉ định đích xác
Đối tượng phải là những tài sản có thể đem giao dịch được hay những cơng việc có thể
thể hiện được mà PL không cấm, không trái đạo đức xã hội.
Nghĩa vụ dân sự phát sinh dựa trên những căn cứ ( Điều 286)
1. Hợp đồng dân sự:
2. Hành vi đơn phương: là hành vi thể hiện ý chí của một bên chủ thể với mục đích là đổi
lấy một hành vi hay một công việc cụ thể mà không cần bên kia phải cam kết, nếu sự thể hiện ý
chí đó có kèm theo một số điều kiện nhất định, thì chỉ khi nào những người khác thực hiện đúng
các điều kiện đó mới làm phát sinh nghĩa vụ giữa các bên.
3. Chiếm hữu sử dụng, được lợi về tài sản khơng căn cứ PL.
Loại nghĩa vụ hình thực từ căn cứ này xuất hiện khi có sự vắng mặt việc thoả thuận ý chí
của cả hai bên, cả bên có quyền lẫn bên có nghĩa vụ đều khơng thể hiện ý chí và khơng có cơ sở
pháp lý cho bên có nghĩa vụ hưởng thụ các lợi ích mà bên có nghĩa vụ có được ( Ví dụ: mua
nhầm tài sản do kẻ trộm bán lại) nghĩa vụ hoàn trả do được lợi về tài sản khơng có căn cứ PL
phát sinh kể từ khi người được lợi có khoản lợi đó trong tay. Từ thời điểm đó biết hoặc biết việc
được lợi, thì phải hồn trả khoản lợi mà mình thu được.
4. Gây thiệt hại do hành vi trái PL: loại nghĩa vụ phát sinh từ căn cứ này cịn gọi là trách
nhiệm bồi thường thiệt hại ngồi hợp đồng bởi vì nó xuất hiện có sự vắng mặt ý chí của cả hai
bên và hành vi làm phát sinh thiệt hại phải là hành vi trái PL (Ví dụ: Bồi thường thiệt hại tai nạn
giao thơng do lái xe phóng nhanh vượt ẩu)
5. Thực hiện cơng việc khơng có uỷ quyền: có thể nói thực hiên cơng việc khơng có uỷ
quyền là một dạng cụ thể của hành vi pháp lý đơn phương đó là việc một người khơng có nghĩa
vụ thực hiện cơng việc, nhưng đã tự nguyện thực hiện cơng việc đó vì lợi ích của người khác khi
6. Những căn cứ khác do PL quy định
* Nghĩa vụ dân sự chấm dứt dựa trên những căn cứ
BLDS từ điều 380-393 quy định căn cứ chấm dứt những vụ dân sự
1. Nghĩa vụ được hoàn thành
2. Theo thoả thuận của các bên
3. Bên có quyền miễn việc thực hiện nghĩa vụ
4. Nghĩa vụ được thay thế bằng những vụ dân sự khác
5. Nghĩa vụ được bù trừ
6. Bên có quyền và bên có nghĩa vụ hồ nhập làm một
7. Những vụ dân sự chấm dứt khi thời hạn khởi kiện đã kết thức
8. Những vụ dân sự chấm dứt khi một bên trong quan hệ nghĩa vụ chết
9. Những vụ dân sự chấm dứt khi đối tượng là vật đặc định khơng cịn
10. Chấm dứt nghĩa vụ trong trường hợp phá sản
<b>Câu 70. Trách nhiệm dân sự là gì? phân biệt trách nhiệm dân sự trong quan hệ</b>
<b>nghĩa vụ dân sự và trách nhiệm dân sự ngoài hợp đồng.</b>
* Trách nhiệm dân sự là các biện pháp có tính chất cưỡng chế được áp dụng nhằm khơi
phục tình trạng ban đầu của một quyền dân sự bị vi phạm. trách nhiệm dân sự xuất hiện khi có
hành vi vi phạm PL mà biểu hiện cụ thể là việc không thực hiện.
* Trách nhiệm dân sự bao giờ cũng liên quan đến tài sản, cụ thể là bên vi phạm nghĩa vụ
phải bù đắp cho bên bị vi phạm những lợi ích v/c nhất định.
1. Chủ thể quyền và chủ thể nghĩa vụ.
- Trách nhiệm dân sự trong quan hệ nghĩa vụ phát sinh trong trường hợp giữa hai bên có
quan hệ nghĩa vụ, một bên do khơng thực hiện, thực hiện không đúng, không đầy đủ nghĩa vụ
mà ảnh hưởng đến quyền lợi ích hợp pháp của bên kia.
- Trách nhiệm dân sự ngoại hợp đồng người chịu trách nhiệm dân sự là người có hành vi
vi phạm PL khơng có quan hệ nghĩa vụ, quan hệ hợp đồng đã được xác định trước.
2. Cơ sở phát sinh.
- Trách nhiệm DS trong quan hệ nghĩa vụ phát sinh trên cơ sở vi phạm nghĩa vụ HĐ.
- Trách nhiệm dân sự ngoài hợp đồng phát sinh trên cơ sở VPPL.
3. Lỗi.
- Trách nhiệm dân sự trong quan hệ nghĩa vụ lỗi là yếu tố để quy trách nhiệm.
- Trách nhiệm dân sự ngoài hợp đồng lỗi là yếu tố để xác định mức độ trách nhiệm.
4. Chế tài:
- Chế tài trách nhiệm dân sự trong quan hệ nghĩa vụ đã được ấn định, xác định trước
trong các hợp đồng dân sự (dự liệu trước).
- Chế tài trách nhiệm dân sự ngoài hợp đồng là sự thoả thuận chưa có sự dự liệu trước.
* Trong một số trường hợp, trách nhiệm dân sự không áp dụng trực tiếp đối với vi phạm
+ Trách nhiệm dân sự do vi phạm nghĩa vụ
- Tiếp tục thực hiện nghĩa vụ
- Bồi thường thiệt hại
+ Có hành vi trái PL chỉ phát sinh khi có hành vi trái PL và chỉ áp dụng đối với ng ời
thực hiện hành vi đó, cụ thể là khi bên có nghĩa vụ khơng thực hiện, khơng đúng, khơng đầy
đủ thì phải bồi thường thiệt hại vì đó là những cơng việc phải làm mà các bên đã cam kết với
nhau hoặc do PL xác định và bảo vệ.
+ Có thiệt hại xảy ra trong thực tế: Đây là yếu tố bắt buộc để xem xét trách nhiệm bồi
thường .Thiệt hại xảy ra do vi phạm nghĩa vụ dân sự trên thực tế bao gồm:
- Tài sản bị h hỏng mất mát.
- Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm và thiệt hại thực tế.
- Hành vi vi phạm là nguyên nhân trực tiếp của thiệt hại thực tế xảy ra và chỉ khi thiệt
hại xảy ra là hậu quả tất yếu của hành vi vi phạm thì ngời vi phạm mới phải gánh chịu trách
nhiệm bình thường.
+ Lỗi của ngời vi phạm: là một trong những căn cứ cơ bản để xem xét trách nhiệm dân
sự. Lỗi được hiểu là việc một ngời có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, tức là có khả năng hiểu
và làm chủ hành vi mà vẫn thực hiện hành vi vi phạm PL thì được coi là có lỗi (Lỗi cố ý và lỗi
vơ ý)+Trách nhiệm bình thường thiệt hại ngồi hợp đồng.
- Hành vi gây thiệt hại là hành vi trái PL: Hành vi gây ra những thiệt hại về vật chất lẫn
tinh thần phải là hành vi trái PL chủ thể gây ra thiệt hại lẽ ra khơng được thực hiện hành vi đó
nhng lại cố tình thực hiện hoặc vơ ý thực hiện có những hành vi tuy gây ra thiệt hại cho những
ngời khác nhng lại không phải chịu trách nhiệm dân sự bởi vì ngời đó thực hiện những hành vi
này theo mệnh lệnh của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
- Có thiệt hại xảy ra:
+ Thiệt hại về tính mạng sức khoẻ dẫn đến thiệt hại về vật chất.
+ Thiệt hại về danh dự nhân phẩm thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ, vật chất.
+ Thiệt hại về tài sản.
+ Phải có quan hệ nhân quả giữa hành vi trái PL và thiệt hại thực tế xảy ra thiệt hại xảy
ra phải là kết quả của hành vi trái PL, ngợc lại hành vi trái PL phải là nguyên nhân trực tiếp
chủ yếu dẫn đến hậu quả là thiệt hại.
Định nghĩa: Trách nhiệm bồi thường ngoài hợp động: Trách nhiệm bồi thường thiệt hại
ngồi hợp đồng chính là hậu quả vật chất bất lợi mà NN buộc các bên có hành vi trái PL gây
thiệt hại phải gánh chịu, biểu hiện cụ thể bằng việc bên gây thiệt hại phải bồi thường thiệt hại
một khoản tiền hay tài sản nhất định theo quy định của PL hoặc theo thoả thuận của hai bên.
Mục đích của trách nhiệm dân sự ngoài hợp đồng là để tạo điều kiện cho ng ời có lợi ích
hợp pháp bị xâm phạm được khơi phục lại tình trạng ban đầu của tài sản hoặc đối với những
lợi ích khơng thể khơi phục được (danh dự, nhân phẩm) thì được bù đắp phần nào những tổn
thất do hành vi trái PL gây ra.
<b>Cấu 71. Di chúc là? Người nào có quyền lập di chúc, người lập di chúc có quyền gì?</b>
* Di chúc là việc thể hiện ý chí của cá nhân nhằm chuyển tài sản của mình cho người
khác sau khi chết.
* Người có quyền lập di chúc: Người lập di chúc là người thông qua di chúc định đoạt
tài sản của mình cho người khác sau khi chết. Người lập di chức phải là người có đầy đủ các
điều kiện lập di chúc theo quy định của PL
- Người đã thành niên, không mắc bệnh tâm thần hoặc các bệnh khác mà không thể
nhận thức hoặc làm chủ được hành vi của mình
- Người đủ 15 đến dưới 18 tuổi có thể lập di chúc nếu được cha mẹ hoặc người giám hộ
đồng ý. Việc đồng ý này là cần thiết nhưng việc đồng ý chỉ trong việc lập di chúc chứ khơng
phải nội dung di chúc vì họ có quyền định đoạt tài sản riêng của họ, nhưng việc định đoạt đó
khơng được trái PL và đặc điểm xã hội.
* Người lập di chức có quyền
1. Chỉ định người thừa kế, truất quyền hưởng di sản thừa kế. Họ có quyền để lại tài sản
cho bất cứ cá nhân cơ quan tổ chức nào, ở diện trong hay ngồi diện thừa kế. Có thể truất
quyền hưởng di sản của những người thừa kế theo PL mà không cần nêu rõ lý do của việc
truất quyền đó. Có thể chỉ rõ tên người bị truất quyền thừa kế hoặc in lặng bỏ qua bằng cách
định đoạt tồn bộ tài sản của mình cho người khác mà bỏ quên người trong diện thừa kế.
2. Phân định phần di sản cho từng người thừa kế. Có thể chỉ định người thừa kế và tài
sản cụ thể mà họ được hưởng, có thể chỉ định phần mà người thừa kế được hưởng trong tổng
số di sản. nếu họ chỉ định những người thừa kế mà khơng nói rõ phần họ được hưởng thì các
phần của những người thừa kế này được sang đoán lên bằng nhau.
3. Dành một phần tài sản trong khối di sản để đi tặng thờ cúng
4. Giao nghĩa vụ cho người thừa kế trong phạm vi di sản. người thừa kế phải thực hiện
nghĩa vụ tài sản do người để lại di sản thừa kế đã giao trong phạm vi di sản đã nhận
5. Chỉ định người di chúc, quản lý di sản, phân chia di sản
6. Người lập di chúc có quyền sửa đổi, bổ sung, thay thế, huỷ bỏ di chúc
<b>Câu 72. Để trở thành chủ thể của quan hệ PL dân sự cá nhân cần có những điều</b>
<b>kiện gì, nội dung những điều kiện đó được quy định như thế nào trong BLDS.</b>
* Quan hệ PL là quan hệ xã hội được các QPPL dân sự điều chỉnh, trong đó các bên
tham gia độc lập về tổ chức và tài sản, bình đẳng về địa vị pháp lý, quyền và nghĩa vụ các bên
được Nhà nước bảo đảm thực hiện thơng qua các biện pháp cưỡng chế mang tính chất tài sản.
* Cá nhân khi tham gia vào quan hệ pháp luận dân sự phải đảm bảo điều kiện:
1. Năng lực PL DS của cá nhân là khả năng của cá nhân có quyền dân sự và nghĩa vụ
DS. Nội dung năng lực PL DS của cá nhân bao gồm: Quyền nhân thân không gắn liền với tài
sản quyền nhan thân không gắn liền với tài sản, quyền sở hữu, quyền thừa kế và các quyền
khác đối với tài sản; quyền tham gia quan hệ DS và có nghĩa vụ phát sinh từ quan hệ đó (Đ17.
mọi cá nhân đều có năng lực PL DS như nhau. Năng lực PL dân sự của cá nhân phát sinh từ
khi ngời đó sinh ra và chấm dứt khi ngời đó chết. Năng lực PL dân sự của cá nhân không thể
bị hạn chế, trừ trường hợp đó PL quy định (VDcó bản án của TA cấm một ngời c trú ở một địa
phương trong một thời gian nhất định, hoặc cấm làm một nghề trong một thời gian nhất định)
Người cha đủ 6 tuổi thì khơng có năng lực hành vi dân sự. Mọi giao dịch dân sự của ngời
cha đủ 6 tuổi đều phải do ngời đại diện theo PL xác lập thực hiện
Người từ đủ 6 tuổi đến cha đủ 18 tuổi có năng lực hành vi dân sự cha đầy đủ, họ có quyền
giao dịch dân sự nhng phải được ngời đại diện theo PL đồng ý, trừ những giao dịch nhằm đáp
ứng nhu cầu sinh hoạt hàng ngay. Riêng ngời từ đủ 15 tuổi đến cha đủ 18 tuổi, nếu có tài sản
riêng đủ để bảo đảm thanh tốn nghĩa vụ thì có thể tự mình xác lập thực hiện giao dịch dân sự
mà không cần ngời đại diện theo PL đồng ý, trừ trường hợp PL có quy định khách.
Căn cứ phát sinh nghĩa vụ dân sự
Hành vi pháp lý đơn phương: Việc những vụ có phát sinh hay khơng phụ thuộc vào việc
tiếp nhận ý chí của bên kia theo đúng các yếu cầu và điều kiện thực hiện mà 1 bên đa ra
- Chiếm hữu, sử dụng, được lợi về tài sản khơng có căn cứ PL:
việc chiếm hữu sử dụng khơng có căn cứ PL do đó sẽ làm phát sinh một quan hệ nghĩa vụ
dân sự phải bồi thường thiệt hại.
- Gây thiệt hại do hành vi trái PL.
- Thực hiện cơng việc khơng có uỷ quyền.
* Căn cứ chấm dứt:
- Nghĩa vụ được hoàn thành
- Theo thoả thuận của các bên
- Bên có quyền miễn cho bên có nghĩa vụ thực hiện nghĩa vụ.
Các điều kiện để cá nhân trở thành chủ thể của luật dân sự.
* Năng lực PL dân sự của cá nhân:
- NL PL dân sự của cá nhân là khả năng của cá nhân có các quyền và nghĩa vụ dân sự. NL
PL dân sự có các đặc điểm:
+ Do nhà nước quy định trong các văn bản PL mà nội dung của nó phụ thuộc vào hình
thái kinh tế xã hội vào các điều kiện chính trị, kinh tế, xã hội tại một thời điểm nhất định HT
Kinh tế Xã hội khác nhau dẫn đến nhân lực PL dân sự khác nhau. Cùng HT kinh tế xã hội nh ng
chế độ chính trị khác nhau, nhân lực PL dân sự của công dân cũng khác nhau. Một nước nh ng
thời điểm khác nhau nhân lực PL dân sự khác nhau.
+ Mọi cá nhân đều bình đẳng về năng lực PL. Nhân lực PL dân sự của cá nhân không hạn
chế bởi bất cứ lý do nào.
+ Nhân lực PL dân sự của cá nhân do nhà nước quy định thì nhân lực PL dân sự của cá
nhân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của PL.
+ Tính bảo đảm của nhân lực PL DS. Nhân lực PL dân sự mới chỉ là khả năng để cá nhân
- Thời điểm bắt đầu và chấm dứt năng lực PL dân sự của cá nhân.
" Năng lực PL dân sự của cá nhân bắt đầu từ khi ngời đó sinh ra và chấm dứt khi ngời đó
chết".
- Nội dung Năng lực PL dân sự.
+ Quyền nhân thân không gắn với tài sản và quyền nhân thân gắn với tài sản.
+ Quyền sở hữu và các quyền khác đối với tài sản, quyền thừa kế.
+ Quyền tham gia vào các quan hệ dân sự và các quyền, nghĩa vụ phát sinh từ quan hệ đó.
* Năng lực hành vi dân sự của cá nhân.
Điều 19BLDS: Năng lực hành vi dân sự của cá nhân là khả năng của cá nhân bằng hành
vi của mình xác lập, thực hiện các quyền và nghĩa vụ dân sự.
Nh vậy năng lực PL dân sự mới là khả năng, là tiền đề cá nhân có quyền và nghĩa vụ dân
sự; còn năng lực hành vi dân sự mới là khả năng thực tế để các chủ thể thực hiện các quyền và
nghĩa vụ dân sự.
- Căn cứ vào khả năng nhận thức, điều khiển hành vi PL dân sự phân biệt mức độ năng
lực hành vi dân sự của cá nhân.
+ Năng lực hành vi đầy đủ: từ đủ 18 tuổi trở lên.
+ Năng lực hành vi không đầy đủ: từ đủ 6 tuổi đến dưới 18 tuổi.
+ Khơng có năng lực hành vi: Ngời dưới 6 tuổi.
+ Mất năng lực hành vi; TA ra quyết định tuyên bố một ngời mất năng lực hành vi dân sự
nếu nh ngời đó bị bệnh tâm thần hoặc các bệnh khác mà họ không thể nhận thức, làm chủ được
hành vi của mình.
+ Hạn chế năng lực hành vi: ngời nghiệm ma tuý và các chất kích thích khác dẫn đến phá
tán tài sản của gia đình.
Tóm lại, năng lực PL dân sự và năng lực hành vi dân sự của cá nhân là hai điều kiện tiên
quyết để cá nhân có thể trở thành chủ thể quan hệ PL dân sự trong đó năng lực PL dân sự là điều
kiện cần còn năng lực hành vi dân sự là điều kiện đủ để cá nhân tham gia các giao dịch dân sự.
<b>Câu 73. Theo quy định của PL hiện hành việc tun bố cơng dân mất tích, cơng dân</b>
<b>chết được thể hiện như thế nào. Hậu quả pháp lý của quyết định tuyên bố mất tích, tuyên</b>
<b>bố chết.</b>
* Tuyên bố mất tích: Nếu một cá nhân vắng mặt ở nơi cứ trú khơng có tin tức gì trong
thời gian dài mà khơng thực hiện các nghĩa vụ của mình thì ngời có quyền lợi liên quan có
quyền u cầu TA tìm kiếm, tun bố chế.
- Biệt tích đã 6 tháng thì ngời có quyền lợi ích liên quan có quyền u cầu TA tìm kiếm
và có biện pháp quản lý tài sản.
- Biệt tích đã 2 năm thì có quyền u cầu TA tun mất tích ( thời hạn 2 năm tính từ ngày
biết tin tức cuối cùng của ngời đó). Việc tuyên bố một ngời mất tích kéo theo những hậu quả
pháp lý nhất định. tài sản của ngời mất tích được quản lý theo quyết định của TA nếu vợ hoặc
chồng của ngời mất tích xin ly hơn thì TA xử cho ly hơn.
* Tuyên bố chết: Theo điều 91 BLDS TA có thể tuyên bố một ng ời đã chết trong bốn
trường hợp sau:
- Sau 3 năm kể từ ngày tuyên bố mất tích của TA có hiệu lực PL mà vẫn khơng có tin tức
là cịn sống hay đã chết.
- Biệt tích đã 5 năm và khơng có tin tức là cịn sống hay đã chết.
- Biệt tích sau 5 năm kể từ ngày chiến tranh kết thúc mà vẫn khơng có tin tức là còn sống.
- Bị tai nạn hoặc thảm hoạ, hoặc thiên tai mà sau 1 năm kể từ ngày bị tai nạn hoặc thảm
hoạ đó xảy ra mà khơng có tin tức là cịn sống.
Khi quyết định của TA tuyên bố một ngời đã chết có hiệu lực PL thì các quan hệ về hơn
nhân gia đình và các quan hệ khác về nhân thân của ngời đó được giải quyết nh đối với một ngời
đã chết. Tài sản của ngời đó được giải quyết theo PL về thừa kế. Vợ hoặc chồng của ngời đó có
quyền kết hôn với ngời khác.
<b>Câu 74. Phân biệt năng lực chủ thể của cá nhân với pháp nhân, hộ gia đình.</b>
* Cá nhân, pháp nhân, hộ gia đình là những chủ thể của quan hệ PL dân sự.
Cá nhân là chủ thể đầu tiên, chủ thể quan trọng nhất của luật dân sự. Năng lực chủ thể của
cá nhân bao gồm năng lực PL dân sự và năng lực hành vi dân sự.
- Năng lực PL dân sự của cá nhân bắt đầu từ khi ngời đó sinh ra và chấm dứt khi ngời đó
chết. Nư vậy năng lực PL dân sự của cá nhân là thuộc tính gắn liền với cá nhân là thuộc tính
gắn liền với cá nhân suốt đời và không chịu ảnh hưởng bởi tuổi tác, hoàn cảnh, tài sản, khả năng
nhận thức.
- Năng lực PL là khả năng của pháp nhân có các quyền và nghĩa vụ dân sự phù hợp với
hoạt động của mình. Năng lực PL dân sự của pháp nhân phát sinh từ thời điểm cơ quan nhà
nước có thẩm quyền ra quyết định thành lập hoặc cho phép thành lập pháp nhân.
- Hộ gia đình là chủ thể trong quan hệ PL dân sự chỉ là những hộ gia đình mà các thành
viên có tài sản chung để hoạt động kinh tế chung trong quan hệ sử đất, trong hoạt động sản
xuất nông lâm ng nghiệp và trong một số lĩnh vực sản xuất kinh doanh khác do PL quy định.
<b>Câu 75. Phân biệt năng lực chủ thể của cá nhân với pháp nhân, hộ gia đình.</b>
1. Phạm vi.
- Năng lực chủ thể của cá nhân là năng lực tổng hợp nghĩa là cá nhân có quyền tham gia
vào mọi quan hệ PL dân sự, mọi giao dịch dân sự.
- Năng lực chủ thể của pháp nhân, hộ gia đình là năng lực chuyên biệt. Pháp nhân chỉ
được phép tham gia vào quan hệ PL dân sự, phù hợp với mục đích hoạt động quy định trong
điều lệ.
- Hộ gia đình tham gia vào quan hệ sử dụng đất vay vốn Ngân hàng để sản xuất nông,
lâm, ngư nghiệp.
2. Quá trình hình thành.
- Năng lực chủ thể của cá nhân không đầy đủ khi được sinh ra, cụ thể là khi sinh ra cá
nhân chỉ có năng lực PL mà chưa có NLHV.
- Pháp nhân, hộ gia đình năng lực chủ thể có đầy đủ khi hình thành năng lực PL và năng
lực hành vi được hình thành đồng thời với nhau.
3. Tính ổn định.
- Năng lực chủ thể của cá nhân được ổn định, xác định cụ thể không thay đổi.
- Năng lực chủ thể của pháp nhân có thể thay đổi theo mục đích hoạt động.
<b>Câu 76. Đại diện là gì, có mấy loại đại diện, phạm vi thẩm quyền đại diện được</b>
<b>phấp luật hiện hành quy định như thế nào?</b>
Đại diện là việc một ngời (gọi là ngời đại diện) nhân danh một ngời khác (gọi là ngời
được đại diện) xác lập thực hiện các giao dịch dân sự trong phạm vi thẩm quyền đại diện.
* Chế định đại diện có những đặc điểm:
Chủ thể tham gia quan hệ đại diện bao gồm ngời đại diện và ngời được đại diện. Ngời
đại diện là cá nhân có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, cịn ng ời được đại diện có thể là cá
nhân (bao gồm ngời khơng có năng lực hành vi, năng lực hành vi khơng đẩy đủ hoặc có năng
lực hành vi đầy đủ) pháp nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác.
* Các loại đại diện:
- Đại diện theo PL: là đại diện do PL quy định hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền
quyết định.
+ Đại diện do PL quy định những ngời đại diện theo PL bao gồm
. Cha mẹ đối với con vị thành niên
. Người được giám hộ với ngời giám hộ.
. Người được TA chỉ định đối với ngời bị hạn chế năng lực hành vi
. Người đứng đầu pháp nhân
. Chủ hộ gia đình với hộ gia đình
. Tổ trưởng tổ hợp tác với tổ hợp tác
. Những ngời khác
. Đại diện theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, chỉ xuất hiện khi có
quyết định của cơ quan hành chính nhà nước.
- Đại diện theo uỷ quyền : Là đại diện được xác lập theo sự uỷ quyền giữa ng ời đại diện
và ngời được đại diện.
+ Là một giao dịch dân sự được xác lập theo ý chí của hai bên
+ Song song tồn tại hai mối quan hệ : quan hệ giữa ngời uỷ quyền với ngời được uỷ
quyền và quan hệ giữa ngời được uỷ quyền với ngời thứ ba.
+ Người đại diện uỷ quyền phải là cá nhân có đầy đủ năng lực hành vi dân sự.
* Phạm vi thẩm quyền đại diện
Phạm vi thẩm quyền đại diện là giới hạn quyền và nghĩa vụ theo đó ngời đại diện nhân
danh ngời đại diện xác lập, thực hiện mọi giao dịch dân sự với ngời thứ ba.
- Với loại đại diện theo PL, thì ngời đại diện có thẩm quyền xác lập thực hiện mọi hành
vi giao dịch DS vì lợi ích của ngời được đại diện, trừ những trường hợp PL có quy định khác.
- Đại diện theo uỷ quyền thì phạm vi thẩm quyền đại diện được xác lập theo văn bản uỷ
quyền.
- Người đại diện chỉ được thực hiện giao dịch DS trong phạm vi thẩm quyền đại diện.
Mọi giao dịch dân sự được xác lập, thực hiện vợt qua thẩm quyền đại diện đều không làm phát
sinh quyền nghĩa vụ DS đối với đại diện, trừ trường hợp được ngời đại diện chấp thuận
<b>Câu 77. Trình bày khái niệm và đối tượng của nghĩa vụ dân sự. Nghĩa vụ dân sự</b>
<b>phát sinh và chấm dứt trong những trường hợp nào.</b>
Nghĩa vụ dân sự là việc mà theo quy định của PL thì một hoặc nhiều chủ thể ( gọi là
người có nghĩa vụ ) phải làm một cơng việc hoặc khơng được làm một cơng việc vì lợi ích của
một hoặc nhiều chủ thể khác ( gọi là người có quyền)
Đối tượng của nghĩa vụ dân sự chính là khách thể của nghĩa vụ dân sự. Đối tượng là tài
sản, công việc phải làm hoặc không làm.
Đối tượng của nghĩa vụ có thể là tài sản hoặc hành vi nhưng phải có đầy đủ các điều
kiện:
- Đối tượng của nghĩa vụ phải là hành vi hay tài sản được xác định rõ ràng.
- Phải là hành vi tài sản mà PL không cấm không trái đạo đức xã hội.
<b>Câu 78. Trình bày khái niệm và đặc điểm của pháp nhân, doanh nghiệp tư nhân có</b>
<b>phải là pháp nhân hay khơng ?</b>
* Pháp nhân là một tổ chức có đầy đủ bốn điều kiện sau:
- Được cơ quan nhà nước có thẩm quyền thành lập, cho phép thành lập đăng ký hoặc
cơng nhạn:
- Có cơ cấu tổ chức chặt chẽ
- Có tài sản độc lập với cá nhân, tổ chức khác và tự chịu trách nhiệm băng tài sản đó.
- Nhân danh mình tham gia các quan hệ PL một cách độc lập.
Muốn tham gia vào các quan hệ PL DS, pháp nhân dân phải có năng lực PL DS. Năng
lực PL dân sự cảu pháp nhân là khả năng của pháp nhân có các quyền và nghĩa vụ phù họp với
mục đích hoạt động của mình . năng lực PL dẫn sự của pháp nhân phát sinh từ thời điểm cơ
quan nhà nước có thẩm quyền ra quyết định thành lập hoặc cho phép thành lập pháp nhân
Nội dung năng lực PL dân sự của pháp nhân phụ thuộc vào chức năng nhiệm vụ thẩm
quyền cụ thể của từng pháp nhân. năng lực PL dân sự của pháp nhân chấm dứt kể từ thời điểm
pháp nhân đó bị giải thể .
<b>Câu 79. Phân biệt cầm cố và thế chấp tài sản theo BLDS 2005. </b>
chấp tài sản, do đó trên thực tế đã gây nên những khó khăn, phức tạp cho việc thực hiện, áp
dụng PL. Do vậy, để giải quyết những khó khăn, vướng mắc nêu trên, nhằm đơn giản hố các
thủ tục về cầm cố, thế chấp cũng như yêu cầu đặt ra trong việc xây dựng hệ thống PL Việt Nam
phải tương thích với PL các nước trên thế giới trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế, BLDS
năm 2005 đã loại bỏ căn cứ động sản, bất động sản và qui định rõ một tiêu chí cơ bản để phân
biệt cầm cố và thế chấp tài sản đó là việc chiếm hữu vật, đó là:
Trong trường hợp cầm cố, bên cầm cố phải chuyển giao tài sản cho bên nhận cầm cố;
trường hợp thế chấp, bên thế chấp được giữ tài sản thế chấp, được quyền khai thác, sử dụng tài
sản. Đ326 BLDS 2005 quy định: “Cầm cố tài sản là việc một bên (sau đây gọi là bên cầm cố)
giao tài sản thuộc quyền sở hữu của mình cho bên kia (sau đây gọi là bên nhận cầm cố) để bảo
đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự.” Đ342 BLDS 2005 quy định: “thế chấp tài sản là việc một bên
( sau đây gọi là bên thế chấp) dùng tài sản thuộc quyền sở hữu của mình để bảo đảm thực hiện
nghĩa vụ dân sự với bên kia (sau đây gọi là bên nhận thế chấp) và khơng chuyển giao tài sản đó
cho bên nhận thế chấp”. Việc thay đổi, đưa tiêu chí mới nêu trên làm cơ sở xây dựng quy định
về cầm cố và thế chấp tài sản là một trong những điểm mới, tiến bộ của BLDS 2005, giúp chúng
ta nhận diện và phân biệt rõ ràng hơn về cầm cố, thế chấp tài sản và thuận lợi hơn khi giao kết
hợp đồng.
<b>Câu 80. Thế chấp tài sản là gì? Thế chấp tài sản khác với cầm cố tài sản ở điểm nào?</b>
<b>Thế chấp tài sản phải tuân theo những quy định về hình thức, thời hạn thế chấp như thế</b>
<b>nào?</b>
Theo quy định tại Điều 342 BLDS năm 2005 thì thế chấp tài sản là việc một bên dùng tài
sản thuộc sở hữu của mình để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự đối với bên kia và không
chuyển giao tài sản đó cho bên nhận thế chấp. Tài sản thế chấp do bên thế chấp giữ. Các bên
cũng có thể thoả thuận giao cho người thứ ba giữ tài sản thế chấp. Tài sản thế chấp là tài sản có
thực và cũng có thể là tài sản hình thành trong tương lai.
Trong trường hợp thế chấp toàn bộ bất động sản, động sản có vật phụ thì vật phụ của
động sản, bất động sản đó cũng thuộc tài sản thế chấp. Trong tường hợp thế chấp một phần bất
động sản, động sản có vật phụ mà các bên khơng có thoả thuận về tài sản phụ đó thì tài sản phụ
đó cũng thuộc tài sản thế chấp. Việc thế chấp QSDĐ phải thực hiện theo quy định tại Điều 715
đến Điều 721 BLDS năm 2005 và các quy định khác của PL có liên quan.
Như vậy, thế chấp tài sản khác cầm cố tài sản ở chỗ, trong trường hợp cầm cố, bên cầm
cố phải chuyển giao tài sản cho bên nhận cầm cố giữ; trong trường hợp thế chấp, bên thế chấp
được giữ tài sản thế chấp để tiếp tục khai thác, sử dụng.
Về hình thức thế chấp tài sản: Việc thế chấp tài sản phải được lập thành văn bản, có thể
lập thành văn bản riêng hoặc ghi trong hợp đồng chính. Trong một số trường hợp PL có quy
định văn bản thế chấp phải được cơng chứng, chứng thực hoặc đăng ký thì việc thế chấp tài sản
phải tn thủ các hình thức đó. (Điều 343 BLDS năm 2005)
Về thời hạn thế chấp: thời hạn thế chấp do các bên thoả thuận, nếu khơng có thoả thuận
thì việc thế chấp có thời hạn cho đến khi chấm dứt nghĩa vụ được bảo đảm bằng thế chấp. (Điều
344 BLDS năm 2005).
<b>Câu 81. Khái niệm và đặc điểm trách nhiệm dân sự.</b>
a. Khái niệm TNDS: là một loại trách nhiệm dân sự áp dụng đối với người có hành vi vi
phạm không thực hiện hoặc thực hiện không đúng hợp đồng, buột người này phải gánh chịu hậu
quả pháp lý bất lợi.
Trong hợp đồng nên quy định rõ cụ thể trách nhiệm do vi phạm hợp đồng, trong trường
hợp khơng quy định thì áp dụng theo quy định của PL. "Nhưng tốt nhất là cụ thể trong hợp
đồng, càng rõ ràng càng chi tiết bao nhiêu thì càng bảo vệ quyền lợi của mình tốt bấy nhiêu".
Ngồi thỏa thuận ra có thể quy định thêm bồi thường.
Theo nghĩa khách quan: trách nhiệm dân sự là tổng thể các quy định của PL dân sự về các
căn cứ, các điều kiện phát sinh trách nhiệm, năng lực chịu trách nhiệm, cách thức thực hiện
trách nhiệm và hậu quả pháp lý của việc áp dụng trách nhiệm dân sự.
Theo nghĩa chủ quan: là biện pháp cưỡng chế được áp dụng đối với người đã có hành vi
xâm phạm đến các quyền và lợi ích hợp pháp người khác, nhằm buộc người vi phạm phải thực
hiện những nghĩa vụ nhất định hoặc phải bồi thường thiệt hại nhằm bù đắp tổn thất và khơi phục
các quyền và lợi ích hợp pháp của người bị xâm phạm.
b. Đặc điểm trách nhiệm dân sự: Là biện pháp cưỡng chế mang tính tài sản. (điều 7
BLDS). Là trách nhiệm của người vi phạm trước người có quyền, lợi ích bị xâm phạm.
Được hình thành dựa trên sự thỏa thuận hợp pháp giữa các bên hoặc theo quy định của
PL. => Người có đủ năng lực hành vi khi cam kết điều gì phải chịu trách nhiệm về cam kết của
mình bằng tồn bộ tài sản của mình. Ngược lại, nếu họ khơng cam kết hay PL khơng có quy
định thì cũng khơng thể chịu trách nhiệm dân sự.
Có thể giải quyết bằng biện pháp tự hòa giải, thương lượng hoặc khởi kiện ra cơ quan tư
pháp dựa trên nguyên tắc tự nguyện, thỏa thuận và tự định đoạt. => không cấm các bên tự thỏa
thuận hạn chế trách nhiệm => các điều khoản miễn trừ trách nhiệm.
Nhằm đền bù hoặc khôi phục lại quyền và lợi ích bị xâm phạm.
- Quyền và nghĩa vụ của chủ thể
- Trách nhiệm vật chất: nhiều khi cịn cao hơn giá trị hợp đồng, thậm chí chưa thiệt hại
vẫn phải bị phạt.
- Lỗi: bên vi phạm luôn ln phải có lỗi, khơng có lỗi khơng bồi thường. Điểm khác biệt
nhiều khi chủ thể phải bồi thường do lỗi của người thứ ba. Ví dụ như A ký hợp đồng với công ty
điện lực, B thuê nhà của A, thực hiện hành vi ăn cắp điện, lúc này A phải chịu trách nhiệm với
công ty điện lực.
- Bồi thường xong không đương nhiên chấm dứt nghĩa vụ NV.
<b>Câu 82. Trách nhiệm do vi phạm hợp đồng.</b>
2.1. Trách nhiệm buộc phải thực hiện nghĩa vụ trong hợp đồng:
2.1.1. Khái niệm: khi người có nghĩa vụ khơng thực hiện, thực hiện không đúng, không
đầy đủ nghĩa vụ trong hợp đồng thì bên có quyền u cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền áp
dụng biện pháp cưỡng chế để buộc người có nghĩa vụ phải thực hiện nghĩa vụ.
2.1.2. Nội dung:
Trách nhiệm dân sự do không thực hiện nghĩa vụ giao vật (đ.303)
Trách nhiệm dân sự do không thực hiện nghĩa vụ phải thực hiện hoặc không được thực
hiện một công việc (đ.304)
Trách nhiệm dân sự do chậm thực hiện nghĩa vụ dân sự (đ.305)
TNDS do chậm tiếp nhận việc thực hiện nghĩa vụ dân sự (đ.306)
2.2. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng
2.2.1. Khái niệm: Trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong hợp đồng là trách nhiệm dân sự
phát sinh do hành vi vi phạm hợp đồng của một bên gây thiệt hại nên phải bồi thường thiệt hại
2.2.2. Đặc điểm: Giữa bên gây thiệt hại và bên bị thiệt hại có quan hệ hợp đồng hợp pháp.
Nội dung của trách nhiệm phụ thuộc vào sự thoả thuận của các bên hoặc theo quy định
của PL.
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong hợp đồng chỉ giới hạn trong phạm vi những thiệt
hại thực tế và những thiệt hại có thể tiên liệu được vào thời điểm ký hợp đồng.
Lỗi là một trong những điều kiện bắt buộc của trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong hợp
đồng, nhưng khơng phân biệt hình thức lỗi là cố ý hay vơ ý vì mức trách nhiệm bồi thường
khơng phân hóa theo hình thức lỗi như trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.
Thực hiện xong trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong hợp đồng không đương nhiên
làm chấm dứt quan hệ hợp đồng giữa các bên.
2.2.3. Các điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp
đồng:-Có thiệt hại xảy ra:
Khái niệm thiệt hại: thiệt hại là toàn bộ những tổn thất gây ra cho một bên, do việc vi
phạm hợp đồng của bên kia. Những tổn thất này bao gồm: tổn thất phải gánh chịu và những lợi
ích đáng lẽ phải có từ việc thực hiện hợp đồng. Những tổn thất này có thể là về vật chất hay
tinh thần như xâm phạm sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của bên bị thiệt hại. Thiệt hại vật chất
có thể là thiệt hại trực tiếp và thiệt hại gián tiếp.
Xác định thiệt hại
- Hành vi vi phạm hợp đồng là hành vi trái PL:
Hành vi không thực hiện, thực hiện không đúng, không đầy đủ nghĩa vụ trong hợp đồng
Hành vi vi phạm HĐ không bị coi là hành vi trái PL trong những trường hợp sau đây:
Do sự kiện bất khả kháng
Hoàn tồn do lỗi của bên có quyền
- Có quan hệ nhân-quả giữa hành vi trái PL do vi phạm hợp đồng với thiệt hại xảy ra
trên thực tế:
Quan hệ nhân-quả là mối quan hệ nội tại tất yếu giữa các sự kiện, hiện tượng nối tiếp
nhau trong một không gian và trong một khoảng thời gian xác định. => Chỉ những thiệt hại
phát sinh do "hậu quả của việc vi phạm" và có mối quan hệ nhận quả giữa sự vi phạm thực
hiện hợp đồng và thiệt hại xảy ra thì mới được cơng nhận bồi thường.
Hành vi vi phạm HĐ là nguyên nhân dẫn đến thiệt hại đã xảy ra.
- Phải có lỗi của bên vi phạm:
+ Khái niệm lỗi.
+ Các hình thức lỗi (đ.308).
Lỗi trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong hợp đồng là lỗi suy đốn. Người gây
thiệt hại tự chứng minh là mình khơng có lỗi. => Lỗi có vai trị quan trọng trong việc xác định
mức trách nhiệm mà người gây thiệt hại phải gánh chịu.
Yếu tố lỗi trong việc xác định mức trách nhiệm mà người gây thiệt hại phải gánh chịu
trách nhiệm.
Xác định mức độ lỗi của mỗi bên thường rất khó và một phần phụ thuộc vào các phán
quyết của Tịa án.
2.3.4. Phương thức thanh tốn tiền BTTH (Đ 300 BLDS).
<b>Câu 83. Thế chấp tài sản là gì? Thế chấp tài sản khác với cầm cố tài sản ở điểm</b>
<b>nào? </b>
Theo quy định tại Điều 342 BLDS năm 2005 thì thế chấp tài sản là việc một bên dùng
tài sản thuộc sở hữu của mình để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự đối với bên kia và khơng
chuyển giao tài sản đó cho bên nhận thế chấp. Tài sản thế chấp do bên thế chấp giữ. Các bên
cũng có thể thoả thuận giao cho người thứ ba giữ tài sản thế chấp.
Tài sản thế chấp là tài sản có thực và cũng có thể là tài sản hình thành trong tương lai.
Trong trường hợp thế chấp tồn bộ bất động sản, động sản có vật phụ thì vật phụ của
động sản, bất động sản đó cũng thuộc tài sản thế chấp. Trong tường hợp thế chấp một phần bất
động sản, động sản có vật phụ mà các bên khơng có thoả thuận về tài sản phụ đó thì tài sản
phụ đó cũng thuộc tài sản thế chấp.
Việc thế chấp QSDĐ phải thực hiện theo quy định tại Điều 715 đến Điều 721 BLDS
năm 2005 và các quy định khác của PL có liên quan.
Như vậy, thế chấp tài sản khác cầm cố tài sản ở chỗ, trong trường hợp cầm cố, bên cầm
cố phải chuyển giao tài sản cho bên nhận cầm cố giữ; trong trường hợp thế chấp, bên thế chấp
được giữ tài sản thế chấp để tiếp tục khai thác, sử dụng.
Về hình thức thế chấp tài sản: Việc thế chấp tài sản phải được lập thành văn bản, có thể
lập thành văn bản riêng hoặc ghi trong hợp đồng chính. Trong một số trường hợp PL có quy
định văn bản thế chấp phải được cơng chứng, chứng thực hoặc đăng ký thì việc thế chấp tài
sản phải tuân thủ các hình thức đó. (Điều 343 BLDS năm 2005)
Về thời hạn thế chấp: thời hạn thế chấp do các bên thoả thuận, nếu khơng có thoả thuận
<b>Câu 84. Giải thích và nêu ý nghĩa của quy định tại khoản 2 điều 604 BLDS 2005. </b>
Khoản 2 Điều 604 BLDS 2005 qui định: “Trong trường hợp PL quy định người gây TH
phải BT cả trong trường hợp khơng có lỗi thì áp dụng qui định đó”.
Về nguyên tắc, trách nhiệm BTTH ngồi HĐ phát sinh khi có đầy đủ 04 điều kiện: - Có
TH thực tế xảy ra.
- Có hành vi vi phạm PL
- Có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi VPPL và hậu quả thiệt hại
- Người gây thiệt hại phải có lỗi (NQ03/2006/NQ-HĐTP)
Tuy nhiên trong một số trường hợp cụ thể mà PL qui định, ví dụ như Khoản 3 Điều 623
(BTTH do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra), Điều 624 (BTTH do làm ô nhiễm mơi trường), thì
việc BTTH được đặt ra ngay cả khi khơng có yếu tố lỗi. Đây là trường hợp chủ thể bị buộc
phải chịu trách nhiệm pháp lý khách quan. Ở đây việc đặt ra trách nhiệm BTTH mà không
xem xét đến yếu tố lỗi là nhằm bảo vệ lợi ích nhà nước, lợi ích cơng cộng, quyền và lợi ích
hợp pháp của các chủ thể khác. Ở một góc độ khác, góc độ của khoa học pháp lý, thì vấn đề
nhận thức ln đóng vai trị rất quan trọng trong việc xác định lỗi của một chủ thể. Ví dụ:
người mắc bệnh tâm thần được coi là khơng hề có lỗi ngay cả khi họ gây thiệt hại do họ khơng
có nhận thức (mất NLHV-DS). Tuy nhiên, trong trường hợp này PL vẫn qui định họ phải bồi
thường đ/v thiệt hại đã xảy ra, chỉ có điều việc bồi thường phải do người giám hộ thực hiện
thay mà thôi (k3-Đ606).
<b>Câu 85. Các nguyên tắc của lãnh đạo được thể hiện như thế nào trong các chế định</b>
<b>dân sự đã học ở phần một của BLDS.</b>
Nguyên tắc của Luật Dân sự là những tư tưởng chủ đạo, quán triệt toàn bộ nội dung Luật
Dân sự cũng như định hướng cơ bản cho việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ dân sự.
Các nguyên tắc của Luật Dân sự có thể chia thành bốn nhóm:
-Nhóm ngun tắc thể hiện tính pháp chế
-Nhóm nguyên tắc thể hiện bản sắc truyền thống dân tộc
-Nhóm nguyên tắc thể hiện bản chất của quan hệ dân sự
-Nguyên tắc áp dụng tập quán, áp dụng tương tự PL
Có thể khẳng định rằng những nguyên tắc của Luật Dân sự được thể hiện đậm nét trong
các chế định của phần một BLDS.
1.Nhóm nguyên tắc thể hiện tính pháp chế
- Ngun tắc tơn trọng lợi ích của Nhà nước, lợi ích cơng cộng, quyền và lợi ích hợp pháp
của người khác. Nguyên tắc này đã được thể hiện trong chế định về quyền nhân thân. Điều 26
- BLDS quy định: "Không ai được lạm dụng quyền nhân thân của mình xâm phạm đến lợi ích
của Nhà nước, lợi ích công cộng quyền và lợi ích hợp pháp của người khác".
-Nguyên tắc tôn trọng bảo vệ quyền nhân thân: Chế định quyền nhân thân quy định: "Mọi
người có nghĩa vụ tơn trọng quyền nhân thân của người khác".Quy định này chính là sự cụ thể
hố ngun tắc trên.
2.Nhóm ngun tắc thể hiện bản sắc truyền thống dân tộc trong giao lưu DS.
-Nguyên tắc tôn trọng đạo đức truyền thống dân tộc trong: Chế định giao dịch dân sự đã
đặt ra vấn đề giao dịch dân sự phải không trái PL và đạo đức xã hội. Tôn trọng đạo đức xã hội là
một điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự.
- Nguyên tắc hoà giải: Chế định về thời hiệu quy định việc hồ giải có thể làm gián đoạn
thời hiệu. Điều đó có nghĩa Luật Dân sự rất coi trọng việc hồ giải trong các tranh chấp DS.
3.Nhóm ngun tắc thể hiện bản chất của quan hệ dân sự.
-Nguyên tắc tự do, tự nguyện cam kết, thoả thuận
Nguyên tắc này được thể hiện trong chi giao dịch dân sự. Một điều kiện có hiệu lực của
giao dịch dân sự là mọi người tham gia giao dịch hoàn toàn tự nguyện. Khi giao dịch dân sự
được xác lập do cưỡng ép thì vơ hiệu.
-Ngun tắc bình đẳng: Chế định về năng lực PL dân sự, năng lực hành vi dân sự của cá
nhân quy định: "Mọi người có năng lực PL dân sự như nhau" (K2 Đ 46).
-Nguyên tắc thiện chí, trung thực: Giao dịch dân sự được xác lập do bị lừa dối có thể TA tun bố
vơ hiệu.
-Ngun tắc tự chịu trách nhiệm dân sự: Chế định đại diện quy định người có thẩm quyền
đại diện, xác lập các giao dịch dân sự vượt quá thẩm quyền đại diện thì phải chịu trách nhiệm
thực hiện nghĩa vụ của mình với người giao dịch với mình về phần vượt thẩm quyền đó, trừ
trường hợp có quy định khác.
<b>Câu 86: Khái niệm hợp đồng? Phân biệt hợp đồng dân sự và hợp đồng trong kinh</b>
<b>doanh, thương mại. Ý nghĩa pháp lý?</b>
Hợp đồng theo nghĩa chung nhất là sự thoả thuận giữa các bên về việc xác lập,
thay đổi hoặc chấm dứt các quyền và nghĩa vụ trong những quan hệ cụ thể. Hiện nay
PL Việt nam quy định ba loại hợp đồng cơ bản là hợp đồng dân sự, kinh tế, lao động.
<b>Hợp đồng dân sự: Hợp đồng dân sự là sự thoả thuận giữa các bên về việc</b>
<b>xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự. Nguyên tắc giao kết hợp</b>
Hợp đồng dân sự có thể được giao kết bằng lời nói, bằng văn bản hoặc bằng hành vi cụ thể
khi PL không quy định đối với loại hợp đồng đó phải được giao kết bằng một hình thức nhất
định. Khi các bên thoả thuận giao kết hợp đồng bằng hình thức nhất định, thì hợp đồng được coi
là đã giao kết khi đã tuân theo hình thức đó. Trong trường hợp PL có quy định hợp đồng phải
được thể hiện bằng văn bản, phải được chứng nhận của Công chứng nhà nước, chứng thực, đăng
ký hoặc xin phép, thì phải tuân theo các quy định này.
Hợp đồng được giao kết hợp pháp có hiệu lực bắt buộc đối với các bên. Hợp đồng chỉ có
thể bị sửa đổi hoặc huỷ bỏ, nếu có thoả thuận hoặc PL có quy định. Hợp đồng có hiệu lực kể từ
thời điểm giao kết, trừ trường hợp có thoả thuận khác hoặc PL có quy định khác.
<b>HĐKT: HĐKT là sự thoả thuận bằng văn bản, tài liệu giao dịch giữa các bên ký kết về</b>
việc thực hiện cơng việc sản xuất, trao đổi hàng hố, dịch vụ, nghiên cứu ứng dụng tiến bộ khoa
học kỹ thuật và các thoả thuận khác có mục đích kinh doanh với sự quy định rõ ràng quyền và
nghĩa vụ của mỗi bên để xây dựng và thực hiện kế hoạch của mình.
HĐKT được ký kết giữa (i) Pháp nhân với pháp nhân; (ii) Pháp nhân với cá nhân có đăng
ký kinh doanh.
HĐKT được ký kết theo nguyên tắc tự nguyện, cùng có lợi, bình đẳng về quyền và nghĩa
vụ, trực tiếp chịu trách nhiệm tài sản và không trái PL.
HĐKT được ký kết bằng văn bản, tài liệu giao dịch: công văn, điện báo, đơn chào hàng,
đơn đặt hàng.
HĐKT được coi là đã hình thành và có hiệu lực pháp lý từ thời điểm các bên đã ký vào văn
bản hoặc từ khi các bên nhận được tài liệu giao dịch thể hiện sự thoả thuận về tất cả những điều
khoản chủ yếu của hợp đồng, trừ trường hợp PL có quy định khác đối với từng loại HĐKT.
Hợp đồng lao động: Hợp đồng lao động là sự thoả thuận giữa người lao động và người sử
dụng lao động về việc làm có trả cơng, điều kiện lao động, quyền và nghĩa vụ của mỗi bên trong
quan hệ lao động.
HĐ lao động phải được giao kết theo một trong các loại sau đây:
(i) HĐLĐ không xác định thời hạn là hợp đồng mà trong đó hai bên khơng xác định thời
hạn, thời điểm chấm dứt hiệu lực của hợp đồng;
(ii) Hợp đồng lao động xác định thời hạn là hợp đồng mà trong đó hai bên xác định thời
hạn, thời điểm chấm dứt hiệu lực của HĐ trong khoảng thời gian từ đủ 12 tháng đến 36 tháng;
(iii) Hợp đồng lao động theo mùa vụ hoặc theo một công việc nhất định có thời hạn dưới
12 tháng.
Hợp đồng lao động có hiệu lực từ ngày giao kết hoặc từ ngày do 2 bên thoả thuận hoặc từ
ngày người lao động bắt đầu làm việc.
Trong quá trình thực hiện hợp đồng lao động, nếu bên nào có yêu cầu thay đổi nội dung
hợp đồng thì phải báo cho bên kia biết trước ít nhất ba ngày. Việc thay đổi nội dung hợp đồng
lao động được tiến hành bằng cách sửa đổi, bổ sung hợp đồng lao động đã giao kết hoặc giao kết
hợp đồng lao động mới. Trường hợp hai bên không thoả thuận được việc sửa đổi, bổ sung hoặc
giao kết hợp đồng lao động mới thì tiếp tục thực hiện hợp đồng lao động đã giao kết hoặc thỏa
thuận chấm dứt HĐ
<b>Hợp đồng dân sự là gì ? HĐKT là gì? So sánh HĐ DS và HĐKT?</b>
Về cơ bản, một hợp đồng là một sự thỏa thuận về việc sẽ thực hiện hay khơng thực hiện
một điều gì đó. Một hợp đồng có tính logic có nghĩa là nó có sự ràng buộc về mặt pháp lý và có
Theo BLDS năm 2005 thì hợp đồng dân sự là sự thoả thuận giữa các bên về việc xác lập,
thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự. Tuy hình thức và nội dung của hợp đồng dân sự
được Bộ luật quy định nhưng để soạn thảo được một hợp đồng thể hiện ý chí của các bên, bảo
đảm không trái PL và đạo đức xã hội thì là vấn đề khơng dễ.
HĐKT là loại hợp đồng được điều chỉnh bởi Pháp lệnh HĐKT (HĐKT), được ban hành từ
năm 1989. Theo đó, HĐKT là loại hợp đồng được ký giữa pháp nhân với pháp nhân, hoặc giữa
pháp nhân với cá nhân có đăng ký kinh doanh.
HĐKT là sự thỏa thuận bằng văn bản giữa các bên về việc thực hiện công việc sản xuất,
trao đổi hàng hóa, dịch vụ, nghiên cứu, ứng dụng tiến bộ khoa học - kỹ thuật và các thỏa thuận
khác nhằm mục đích kinh doanh. Như vậy, HĐKT là một khái niệm vừa rất rộng, thậm chí cịn
có thể bị coi là một khái niệm “mơ hồ” (về đối tượng của hợp đồng), nhưng cũng lại rất hẹp về
chủ thể ký kết (các bên ký kết). Mặt khác, với những thay đổi mang tính tất yếu của nền kinh tế
thị trường, những quy định của Pháp lệnh HĐKT tỏ ra khơng cịn thích ứng với mơi trường kinh
doanh đa dạng về mọi mặt, phản ánh một cách cụ thể trình độ phát triển của nền kinh tế thị
trường nước ta trong giai đoạn hiện nay. Do đó, việc BLDS năm 2005 “khai tử” Pháp lệnh
HĐKT khơng nằm ngồi dự đốn của giới chun mơn, mà cịn thể hiện là một kết thúc có hậu
cho cả một q trình tranh luận sơi nổi, nhằm làm thay đổi cơ bản về tư duy nhận thức của nhà
làm luật. Bài viết này nhằm giới thiệu một số vấn đề cơ bản liên quan đến việc ký kết các giao
dịch kinh doanh giữa các bên như là hệ quả của sự “xóa sổ” HĐKT.
Tên của các HĐ được ký kết nên thể hiện rõ nội dung của thỏa thuận
Cho đến nay, khơng ít doanh nghiệp vẫn có thói quen ký kết hợp đồng với các đối tác làm
ăn của mình với tên gọi là HĐKT. Thực tế này là hệ quả của việc quy định khái niệm về
HĐKT theo Pháp lệnh HĐKT. Các doanh nghiệp này cho rằng, nếu tên của hợp đồng mà khác
với cái gọi là HĐKT thì có thể sẽ khơng có văn bản PL nào điều chỉnh và vì vậy, khi có tranh
chấp xảy ra, sẽ khơng có cơ quan thụ lý giải quyết. Có thể nói, đây là một quan điểm lỗi thời,
bởi lẽ, quan hệ hợp đồng xét về bản chất chính là sự tự nguyện thỏa thuận giữa các bên về việc
thực hiện hoặc không thực hiện một công việc nào đó. Vậy tại sao tên gọi của hợp đồng lại
không thể hiện cụ thể nội dung của các giao dịch do các bên ký kết với nhau? Mặt khác, nếu
có tranh chấp xảy ra, các cơ quan nhà nước không phải căn cứ vào tên gọi của hợp đồng mà áp
dụng các quy định của PL để giải quyết tranh chấp. Các tranh chấp trước tiên phải được xác
định thuộc về loại tranh chấp gì, do hệ thống văn bản PL nào điều chỉnh để từ đó có thể xác
định chính xác các quy phạm PL điều chỉnh các quan hệ bị tranh chấp, nhằm giải quyết các
tranh chấp đúng PL.
Do đó, lời khuyên đối với các DN là khi ký kết một hợp đồng nào đó với đối tác kinh
doanh của mình, nên xác định cụ thể nội dung của hợp đồng ký kết mà đặt tên cho hợp đồng.
Điều này vừa dễ cho công tác quản lý (do có cơ sở để phân loại hợp đồng theo tên gọi), vừa là
cơ sở để các bên có thể tìm hiểu một cách có hiệu quả các quy định của PL về loại hợp đồng
với nội dung đó (do đã giới hạn được phạm vi của các văn bản PL điều chỉnh loại quan hệ giao
dịch sắp ký kết). Ví dụ, nếu là hợp đồng gia cơng thì các bên có thể đặt tên cho hợp đồng của
mình là “hợp đồng gia cơng”, mua bán hàng hóa thì ghi rõ là “HĐMB hàng hóa”…
BLDS, Luật Thương mại hay các luật khác được ưu tiên áp dụng.
“Sát thủ” của Pháp lệnh HĐKT là BLDS. Thế nhưng, nội dung của BLDS và Luật
Thương mại lại có một số quy định trùng nhau về một số loại hợp đồng thông dụng, ví dụ hợp
đồng gia cơng hàng hóa. Nếu xét về mặt đối tượng điều chỉnh thì BLDS có đối tượng điều
chỉnh rộng hơn Luật Thương mại. Nhưng nếu xét về mức độ chi tiết của các điều luật về một
số loại hợp đồng được cả hai văn bản luật này điều chỉnh thì Luật Thương mại lại có những
quy định chi tiết hơn. Luật Thương mại là một đạo luật điều chỉnh các hoạt động thương mại.
Trong khi đó, BLDS được coi là một bộ luật chung, chứa đựng rất nhiều quy phạm PL
khác nhau. Do đó, có những hoạt động thương mại giữa các các bên mà không được quy định
trong Luật Thương mại và các luật khác thì áp dụng quy định của BLDS.
Cũng tương tự như vậy, đối với những hoạt động thương mại đặc thù, được quy định
trong các luật khác thì quy định của văn bản luật đó lại được ưu tiên áp dụng, ví dụ hợp đồng
vận chuyển hành khách bằng đường hàng không sẽ do các quy định của Luật Hàng khơng dân
dụng điều chỉnh.
Nói cách khác, thứ tự ưu tiên áp dụng quy định PL là đi từ quy định PL đặc thù đến quy
định PL chung. Nếu không có quy định đặc thù thì mới áp dụng quy định PL chung.
Thời hiệu giải quyết các tranh chấp phát sinh từ việc ký kết hợp đồng
Trước đây, theo quy định tại Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế thì thời hiệu
khởi kiện vụ án kinh tế chỉ là… 6 tháng, kể từ ngày phát sinh tranh chấp. Thế nhưng, kể từ
ngày 1/1/2005, ngày có hiệu lực của Bộ Luật Tố tụng dân sự, cũng là ngày chấm dứt hiệu lực
của Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế, thì thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự là 2
năm. Theo quy định của Bộ Luật Tố tụng dân sự, vụ án dân sự bao gồm cả các tranh chấp kinh
doanh, thương mại. Như vậy, kể từ thời điểm đầu năm 2005, thời hiệu để các bên có thể khởi
kiện nhằm giải quyết các tranh chấp kinh doanh, thương mại đã được kéo dài đến 2 năm thay
vì chỉ 6 tháng như trước đây.
Luật Thương mại mới năm 2005 có hiệu lực từ ngày 1/1/2006 cũng có quy định thống
nhất với Bộ Luật Tố tụng dân sự về thời hiệu là 2 năm đối với các tranh chấp thương mại, kể
từ thời điểm quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm. Chỉ có một ngoại lệ duy nhất trong việc
áp dụng thời hiệu khởi kiện theo Luật Thương mại đó là trường hợp doanh nghiệp kinh doanh
<b>Hợp đồng thương mại là gì? So sánh giữa hợp đồng thương mại và HĐ dân sự?</b>
hợp đồng thương mại được hiểu là sự thoả thuận giữa các cá nhân , tổ chức có đăng ký
kinh doanh với nhau về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền và nghĩa vụ trong hoạt
động kinh doanh-thương mại nhằm kiếm lợi nhuận
- So sánh
HĐKT: những người đủ 18t có hành vi dân sự tìm kiếm lợi nhuận.
Hợp đồng thương mại: có đăng ký kinh doanh phục vụ thoả mãn nhu cầu sinh hoạt, tiêu
dùng hàng ngày
<b>Câu 87: Phân biệt thế chấp tài sản và cầm cố tài sản. Nhà ở là đối tượng của thế</b>
<b>chấp hay cầm cố tài sản?</b>
Theo quy định tại Điều 342 BLDS năm 2005 thì thế chấp tài sản là việc một bên dùng tài
sản thuộc sở hữu của mình để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự đối với bên kia và khơng
chuyển giao tài sản đó cho bên nhận thế chấp. Tài sản thế chấp do bên thế chấp giữ. Các bên
cũng có thể thoả thuận giao cho người thứ ba giữ tài sản thế chấp.
Tài sản thế chấp là tài sản có thực và cũng có thể là tài sản hình thành trong tương lai.
Trong trường hợp thế chấp toàn bộ bất động sản, động sản có vật phụ thì vật phụ của
động sản, bất động sản đó cũng thuộc tài sản thế chấp. Trong tường hợp thế chấp một phần bất
động sản, động sản có vật phụ mà các bên khơng có thoả thuận về tài sản phụ đó thì tài sản
phụ đó cũng thuộc tài sản thế chấp.
Việc thế chấp QSDĐ phải thực hiện theo quy định tại Điều 715 đến Điều 721 BLDS năm
2005 và các quy định khác của PL có liên quan.
Như vậy, thế chấp tài sản khác cầm cố tài sản ở chỗ, trong trường hợp cầm cố, bên cầm
cố phải chuyển giao tài sản cho bên nhận cầm cố giữ; trong trường hợp thế chấp, bên thế chấp
được giữ tài sản thế chấp để tiếp tục khai thác, sử dụng.
Về hình thức thế chấp tài sản: Việc thế chấp tài sản phải được lập thành văn bản, có thể
lập thành văn bản riêng hoặc ghi trong hợp đồng chính. Trong một số trường hợp PL có quy
định văn bản thế chấp phải được cơng chứng, chứng thực hoặc đăng ký thì việc thế chấp tài
sản phải tn thủ các hình thức đó. (Điều 343 BLDS năm 2005)
<b>Nhận định đúng sai và giải thích:</b>
<i>1. Trách nhiệm dân sự hỗn hợp là TN mà trong đó lỗi hồn tồn thuộc về người bị thiệt</i>
<i>hại. </i>
SAI: Trách nhiệm DS hỗn hợp là trách nhiệm BTTH phát sinh trong trường hợp mà người
gây ra thiệt hại và người bị thiệt hại đều có hành vi trái PL, có lỗi, hành vi trái PL của mỗi người
đều là nguyên nhân dẫn đến thiệt hại xảy ra - Điều 617 BLDS.
<i>2. Khi thiệt hại do nhiều người gây ra thì những người đó phải chịu trách nhiệm liên đới</i>
<i>bồi thường cho người bị thiệt hại. </i>
SAI: Nếu nhiều người cùng gây ra thiệt hại cho 1 chủ thể nhưng trong số các hành vi vi
phạm PL đó chỉ có một hoặc một số hành vi có mối quan hệ nhân quả với hậu quả thiệt hại (là
nguyên nhân quyết định, trực tiếp gây ra thiệt hại) còn các hành vi còn lại tuy vi phạm PL nhưng
lại khơng có mối quan hệ nhân quả đối với thiệt hại (chỉ là điều kiện, là nguyên nhân thúc đẩy
thiệt hại xảy ra nhanh chóng & thuận lợi hơn chứ không phải là nguyên nhân trực tiếp gây thiệt
hại) thì trách nhiệm của các chủ thể này là hoàn toàn độc lập với nhau. Mỗi chủ thể chỉ phải
<i>3. Pháp nhân chỉ phải BTTH đối với những thiệt hại do người của pháp nhân gây ra</i>
<i>trong khi thực hiện nhiệm vụ được pháp nhân giao. </i>
SAI: Trong trường hợp pháp nhân là trường học, bệnh viện hay một tổ chức khác đang
trực tiếp quản lý người dưới 15 tuổi, người mất NLHVDS thì nếu những người này gây thiệt hại
trong thời gian được các pháp nhân này trực tiếp quản lý thì pháp nhân phải bồi thường (theo k1
& k2 Điều 621 BLDS).
<i>4. Một người gây thiệt hại cho người khác thì phải bồi thường thiệt hại mà mình gây ra. </i>
SAI : Một người gây thiệt hại cho người khác nhưng nếu thuộc các trường hợp miễn trừ
trách nhiệm thì khơng phải bồi thường thiệt hại mà mình gây ra. Các trường hợp miễn trừ trách
nhiệm bồi thường gồm:
- Có sự kiện BKK. Ví dụ: Bão làm mái tôn của nhà anh A bay sang nhà anh B gây thiệt
hại cho anh B về tài sản.
- Người gây thiệt hại trong các trường hợp: PVCĐ (K1-Đ613); TTCT (K1-Đ614)
- Người bị thiệt hại hồn tồn có lỗi.
- Người gây thiệt hại nhưng do thực hiện quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm
quyền. Vd: Anh A,B,C thực hiện tháo dỡ nhà của anh D theo quyết định cưỡng chế tháo dỡ của
UBND cấp có thẩm quyền.
<i>5. Cơ sở để phát sinh trách nhiệm BTTH là những qui định của PL được ghi nhận trong</i>
<i>BLDS, qui định các hành vi vi phạm và quyền yêu cầu bồi thường của người bị thiệt hại.</i>
SAI: Cơ sở để phát sinh trách nhiệm BTTH ngoài những qui định của PL được ghi nhận
<i>6. Chủ thể bị xâm hại chỉ có quyền yêu cầu chủ thể nghĩa vụ chịu trách nhiệm trong phạm</i>
<i>vi qui định của PL.</i>
SAI: Chủ thể bị xâm hại có quyền yêu cầu cao hơn nếu có sự tự nguyện của bên gây thiệt
hại. Bởi lẽ PL DS luôn tơn trọng ý chí tự nguyện của các bên. Ví dụ: PL qui định mức BT tổn
thất về tinh thần do SK bị xâm phạm là không quá 30 tháng lương tối thiểu do NN qui định tại
thời điểm giải quyết nhưng luật qui định rõ là chỉ được áp dụng nếu như “khơng thỏa thuận
được” (K2-Đ609).
<i>7. TN-BTTH ngồi HĐ chỉ phát sinh khi có lỗi của bên vi phạm.</i>
SAI: Nguyên tắc trên chỉ áp dụng đ/v TNBTTH trong hợp đồng. Đối với TNBTTH ngồi
hợp đồng thì trách nhiệm BT đặt ra ngay cả khi chủ thể khơng có lỗi. Có thể lấy ví dụ khoản 3
Điều 623, Điều 624. Đây là loại trách nhiệm pháp lý khách quan.
<i>8. Được lợi về TS khơng có căn cứ luật định là hệ quả của TN bồi thường thiệt hại ngoài</i>
<i>HĐ.</i>
SAI: Mục đích của trách nhiệm BTTH ngồi hợp đồng khơng phải là “để được lợi về tài
sản” mà là nhằm khôi phục lại tình trạng như ban đầu cho chủ thể bị xâm phạm. TN bồi thường
ngoài hợp đồng chỉ phát sinh khi có đầy đủ 4 điều kiện… (NQ03/2006/NQ-HĐTP)
<i>9. Trách nhiệm DS là trách nhiệm bồi thường TH ngoài HĐ</i>
SAI: Trách nhiệm DS bao gồm 3 hình thức: trách nhiệm thực hiện một công việc cụ thể;
trách nhiệm phạt vi phạm và trách nhiệm bồi thường thiệt hại. Riêng trách nhiệm BTTH lại
<i>10. Bất kỳ người nào gây thiệt hại cho người khác đều phải bồi thường</i>
SAI: Một người gây thiệt hại cho người khác nhưng nếu thuộc các trường hợp miễn trừ
trách nhiệm thì khơng phải bồi thường thiệt hại mà mình gây ra. Các trường hợp miễn trừ trách
nhiệm bồi thường gồm:
- Có sự kiện bất khả kháng. Ví dụ: Bão làm mái tơn của nhà anh A bay sang nhà anh B
gây thiệt hại cho anh B về TS.
- Người gây thiệt hại trong các trường hợp: PVCĐ (K1-Đ613); TTCT (K1-Đ614)
- Người bị thiệt hại hồn tồn có lỗi. Ví dụ: Đ617 đoạn 2
- Người gây thiệt hại nhưng do thực hiện quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm
quyền. Vd: Anh A,B,C thực hiện tháo dỡ nhà của anh D theo quyết định cưỡng chế tháo dỡ của
UBND cấp có thẩm quyền.
<i>11. Trong mọi trường hợp nếu người gây thiệt hại có lỗi thì đều phải bồi thường tồn bộ</i>
<i>thiệt hại</i>
SAI: Theo Điều 617 về BTTH trong trường hợp người bị hại có lỗi thì người gây thiệt hại
mặc dù có lỗi nhưng chỉ phải bồi thường phần thiệt hại tương ứng với mức độ lỗi của mình chứ
khơng bồi thường tồn bộ thiệt hại.
<i>12. BTTH do súc vật gây ra là trường hợp của BTTH do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra</i>
SAI: BTTH do súc vật gây ra không phải là BTTH do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra vì
<i>13. Khi thiệt hại do nhiều người gây ra thì những người này phải liên đới BT</i>
SAI: Nếu nhiều người cùng gây ra thiệt hại cho 1 chủ thể nhưng trong số các hành vi
VPPL đó chỉ có một hoặc một số hành vi có mối quan hệ nhân quả với hậu quả thiệt hại, còn các
hành vi còn lại tuy VP PL nhưng lại khơng có mối quan hệ nhân quả đối với thiệt hại thì trách
nhiệm của các chủ thể này là hoàn toàn độc lập với nhau. Mỗi chủ thể chỉ phải thực hiện phần
trách nhiệm của mình và sau khi thực hiện xong, trách nhiệm đó chấm dứt. Khoa học pháp lý
gọi đây là trách nhiệm DS riêng rẽ.
<i>14. Người có thẩm quyền của cơ quan tiến hành TT gây thiệt hại thì cơ quan tiến hành TT</i>
<i>ấy phải BTTH</i>
SAI: Chỉ khi nào người có thẩm quyền của cơ quan tiến hành TT gây thiệt hại khi đang
thực hiện nhiệm vụ trong quá trình tiến hành TT thì cơ quan tiến hành TT mới phải bồi thường
(Đ620). Nếu người có thẩm quyền của cơ quan tiến hành TT gây thiệt hại khi họ đang nghỉ phép
thì đó là trách nhiệm DS của cá nhân.
<i>15. TN bồi thường của cha mẹ đối với thiệt hại do con chưa thành niên gây ra là trách</i>
<i>nhiệm của người giám hộ đương nhiên</i>
SAI: TN bồi thường của cha mẹ đối với thiệt hại do con chưa thành niên chưa đủ 15 tuổi
là trách nhiệm BTTH ngoài HĐ được qui định tại K2-Đ606 BLDS, không phải là trách nhiệm
của người giám hộ đương nhiên. Theo Đ61 thì Cha mẹ khơng phải là người giám hộ đương
nhiên của người chưa thành niên.
<i>16. Khi người bị thiệt hại cũng có lỗi thì họ chỉ được bồi thường 1 phần thiệt hại</i>
SAI: Trong BLDS, lỗi được qui định tại Đ308, theo đó lỗi được chia làm 2 loại là lỗi cố
<i>17. BTTH do CC-VC, người có thẩm quyền của cơ quan tiến hành TT gây ra là BTTH</i>
<i>do người của pháp nhân gây ra.</i>
ĐÚNG: Vì các cơ quan tiến hành tố tụng có đầy đủ các yếu tố của 1 PN như : được cơ
quan NN có thẩm quyền thành lập hoặc cơng nhận; có TS độc lập với cá nhân và tổ chức khác;
được nhân danh mình tham gia vào các quan hệ PL. Theo Đ618 thì “PN phải BTTH do người
của mình gây ra trong khi thực hiện nhiệm vụ được PN giao”.
<i>18. Pháp nhân BTTH bao nhiêu thì người của PN đó phải hồn trả bấy nhiêu</i>
SAI: Khơng có cơ sở pháp lý nào qui định điều này. Đ618 chỉ qui định : “nếu PN đã
BTTH thì có quyền u cầu người có lỗi trong việc gây TH phải hoàn trả một khoản tiền theo
qui định của PL”. Mặt khác, theo qui định tại khoản 2-Đ605 thì “người gây thiệt hại có thể
được giảm mức bồi thường, nếu do lỗi vô ý mà gây thiệt hại quá lớn so với khả năng kinh tế
trước mắt và lâu dài của mình”.
<i>19. Nếu pháp nhân có lỗi trong việc gây ra thiệt hại thì người của PN cũng có lỗi</i>
SAI: Trong trường hợp người của PN, khi thực hiện nhiệm vụ được PN giao, đã phát
hiện và cảnh báo với người có thẩm quyền quản lý trực tiếp của mình về việc có khả năng thiệt
hại sẽ xảy ra nhưng bị phớt lờ và bị bắt buộc phải thực hiện đến cùng theo ý định ban đầu của
PN và gây ra TH thì người đó hồn tịan khơng có lỗi vì đã làm hết trách nhiệm của mình.
Trong trường hợp này PN đó phải chịu hồn tồn trách nhiệm BTTH do có lỗi cố ý để cho
thiệt hại xảy ra.
<i>20. Trách nhiệm BTTH do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra là trách nhiệm ngoại trừ yếu</i>
<i>tố lỗi.</i>
ĐÚNG: Theo qui định tại khoản 3 – Điều 623 về BTTH do nguồn NHCĐ gây ra thì :
“Chủ SH, người được chủ SH giao chiếm hữu, sử dụng nguồn NHCĐ phải BTTH cả khi
khơng có lỗi”. Nghĩa là ở đây khơng xem xét đến yếu tố lỗi. Việc có lỗi hay không không ảnh
hưởng đến trách nhiệm BTTH.
<i>21. Khi một người thực hiện hành vi gây thiệt hại cho người khác thì hành vi đó là trái</i>
<i>PL</i>
SAI: Theo qui định tại khoản 3 Điều 262 thì: “Gây thiệt hại trong tình thế cấp thiết
khơng phải là hành vi xâm phạm quyền SH”. Nói rộng hơn thì thực hiện hành vi gây thiệt hại
cho người khác trong các trường hợp sau thì khơng bị coi là trái PL:
- Có sự kiện BKK. Ví dụ: Bão làm mái tơn của nhà anh A bay sang nhà anh B gây thiệt
hại cho anh B về tài sản. Hành vi của anh A không phải là hành vi trái PL.
- Người gây thiệt hại trong các trường hợp: PVCĐ (K1-Đ613); TTCT (K1-Đ614)
- Người bị thiệt hại hồn tồn có lỗi
- Người gây thiệt hại nhưng do thực hiện quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm
quyền. Vd: Anh A,B,C thực hiện tháo dỡ nhà của anh D theo quyết định cưỡng chế tháo dỡ
của UBND cấp có thẩm quyền.
<i>22. Gây TH mà có sự đồng ý của người bị hại là khơng trái PL</i>
SAI: Nếu sự đồng ý đó là trái PL thì hành vi đó vẫn là trái PL. Ví dụ : TM, SK của con
người được PL bảo vệ. PL nghiêm cấm mọi hành vi xâm hại đến TM, SK của con người dưới
bất kỳ hình thức nào. Ví dụ: một bệnh nhân bị bệnh nan y muốn được bác sỹ can thiệp để kết
<i>23. Trách nhiệm dân sự hỗn hợp là TN mà trong đó lỗi hồn tồn thuộc về người bị</i>
<i>thiệt hại. </i>
SAI: Trách nhiệm DS hỗn hợp là trách nhiệm BTTH phát sinh trong trường hợp mà
người gây ra thiệt hại và người bị thiệt hại đều có hành vi trái PL, có lỗi, hành vi trái PL của
mỗi người đều là nguyên nhân dẫn đến thiệt hại xảy ra -Điều 617 BLDS.
<i>24. Khi thiệt hại do nhiều người gây ra thì những người đó phải chịu trách nhiệm liên</i>
<i>đới bồi thường cho người bị thiệt hại. </i>
SAI: Nếu nhiều người cùng gây ra thiệt hại cho 1 chủ thể nhưng trong số các hành vi vi
phạm PL đó chỉ có một hoặc một số hành vi có mối quan hệ nhân quả với hậu quả thiệt hại,
còn các hành vi còn lại tuy vi phạm PL nhưng lại khơng có mối quan hệ nhân quả đối với thiệt
hại thì trách nhiệm của các chủ thể này là hoàn toàn độc lập với nhau. Mỗi chủ thể chỉ phải
thực hiện phần trách nhiệm của mình và sau khi thực hiện xong, trách nhiệm đó chấm dứt.
Khoa học pháp lý gọi đây là trách nhiệm DS riêng rẽ.
<i>25. Pháp nhân chỉ phải BTTH đối với những thiệt hại do người của pháp nhân gây ra</i>
<i>trong khi thực hiện nhiệm vụ được pháp nhân giao. </i>
SAI: Trong trường hợp pháp nhân là trường học, bệnh viện hay một tổ chức khác đang
trực tiếp quản lý người dưới 15 tuổi, người mất NLHVDS thì nếu những người này gây thiệt
hại trong thời gian được các pháp nhân này trực tiếp quản lý thì pháp nhân phải bồi thường
(theo k1 & k2 Điều 621 BLDS).
<i>26. Một người gây thiệt hại cho người khác thì phải bồi thường thiệt hại mà mình gây</i>
<i>ra. </i>
SAI: Một người gây thiệt hại cho người khác nhưng nếu thuộc các trường hợp miễn trừ
trách nhiệm thì khơng phải bồi thường thiệt hại mà mình gây ra. Các trường hợp miễn trừ trách
nhiệm bồi thường gồm:
- Có sự kiện BKK. Ví dụ: Bão làm mái tôn của nhà anh A bay sang nhà anh B gây thiệt
hại cho anh B về tài sản.
- Người gây thiệt hại trong các trường hợp: PVCĐ (K1-Đ613); TTCT (K1-Đ614)
- Người bị thiệt hại hồn tồn có lỗi.
- Người gây thiệt hại nhưng do thực hiện quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm
quyền. Vd: Anh A,B,C thực hiện tháo dỡ nhà của anh D theo quyết định cưỡng chế tháo dỡ
của UBND cấp có thẩm quyền
<b>Bài tập tình huống: </b>
<i><b>Bài 1:</b> Ơng A bị bắt quả tang đang vận chuyển hàng trái phép qua biên giới nên bị bộ</i>
<i>đội biên phòng Đồn 1 huyện X đã ra lệnh bắt & tạm giam tạm giữ ông A. Qua điều tra xác</i>
<i>minh xác định được giá trị hàng hoá chưa đến mức phải truy cứu TNHS. vì vậy lệnh tạm giam</i>
<i>giữ hủy bỏ và xử lý hành chính về hành vi của ơng A. hỏi: </i>
1. Ơng A có quyền u cầu địi bồi thường thiệt hại hay khơng?
Như vậy, trong trường hợp này, tuy ông A đã có quyết định hủy bỏ quyết định tạm giữ,
tạm giam để xử lý hành chính song vì ơng A đã có hành vi vi phạm PL là “vận chuyển trái phép
hàng hóa qua biên giới” nên ơng khơng được giả quyết bồi thường thiệt hại theo NQ388.
2. Nếu có quyền u cầu địi bồi thường thì ơng sẽ được bồi thường những khoản thiệt hại
Nếu ông A không thực hiện bất kỳ một hành vi vi phạm PL nào và thuộc trường hợp có
quyền u cầu địi bồi thường theo qui định thì ơng sẽ được giải quyết bồi thường những khoản
thiệt hại sau đây:
a) Thiệt hại do tổn thất về tinh thần theo K1-Điều 5 NQ388/2003: mức bồi thường được
tính là mỗi ngày bị tạm giữ, tạm giam được bồi thường 03 ngày lương tối thiểu tại thời điểm giải
quyết bồi thường.
b) Thiệt hại về vật chất (nếu chứng minh được) trong trường hợp bị tổn hại sức khỏe theo
Điều 7 NQ388, gồm:
- Chi phí hợp lý cho việc cứu chữa, bồi dưỡng, phục hồi SK và chức năng bị mất, bị giảm
sút.
- Chi phí hợp lý và thu nhập thực tế bị mất của người chăm sóc người bị oan trong thời
gian điều trị.
- Chi phí hợp lý cho việc chăm sóc người bị oan và khoản cấp dưỡng cho những người
mà người bị oan đang thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng, trong trường hợp người bị oan mất khả
năng lao động và phải có người thường xuyên chăm sóc.
c) Bồi thường thiệt hại trong trường hợp TS của người bị oan bị thu giữ, tạm giữ, kê biên,
tịch thu mà bị xâm hại (nếu chứng minh được thiệt hại đó) theo K2-Điều 8 NQ388
d) Bồi thường thiệt hại do thu nhập thực tế bị mất (nếu chứng minh được) theo Điều 9
NQ388
Ngoài các khoản được quyền yêu cầu bồi thường như đã nêu trên thì ơng cịn được hoàn
Vế cơ quan có trách nhiệm bồi thường cho ông A được qui định tại Điều 10 – NQ388
theo nguyên tắc “cơ quan có trách nhiệm BTTH là cơ quan đã gây ra oan sau cùng” (tiểu mục
2.2-mục 2- Phần III – TTLT 04/2006). Trong trường hợp này nếu việc tạm giữ, tạm giam có phê
chuẩn của VKS thì VKS đã phê chuẩn có trách nhiệm BT; nếu khơng có phê chuẩn của VKS thì
cơ quan đã ra lệnh tạm giữ, tạm giam có trách nhiệm bồi thường (KĐiều 10 NQ388 và Mục
2-Phần III TTLT 04/2006).
Riêng đối với TS bị thu giữ, tạm giữ, kê biên, tịch thu mà bị thiệt hại thì cơ quan đã ra QĐ
thu giữ, tạm giữ, kê biên, tịch thu có trách nhiệm BT (khoản 8 – Điều 10 NQ388 và tiểu mục
2.5-mục 2- phần III TTLT 04/20006).
<i><b>Bài 2:</b> Công ty A giao nhiệm vụ cho anh B vận chuyển hai chuyến hàng với tổng khối</i>
<i>lượng là 16 tấn gạo. B tự ý chở toàn bộ số gạo trên thành 1 chuyến nên đã làm sập cầu ( tải</i>
<i>trọng cầu là 10 tấn đã được cắm biển báo). Anh chị hãy chọn một trong những phương án sau</i>
<i>đây để xác định ai là người phải chịu TN Bồi thường cho người bị thiệt hai do cầu bị sập và</i>
<i>giải thích tại sao lại chọn phương án đó: </i>
1. Anh B.
2. Công ty A.
3. Anh B và Cty A cùng liên đới.
4. Anh B và Cty A chiu trách nhiệm riêng rẽ.
5. Một phương án khác
Phương án 1 là phương án đúng.
Cty A là một pháp nhân. Quan hệ giữa anh Cty A và anh B là quan hệ giữa pháp nhân và
người của pháp nhân (nhân viên của pháp nhân). Ở đây do chủ thể bị thiệt hại khơng phải là
pháp nhân mà là người ngồi pháp nhân nên thuộc phạm vi điều chỉnh của BLDS về trách
nhiệm DS bồi thường ngoài HĐ. Theo Điều 618 BLDS về bồi thường thiệt hại do người của PN
gây ra thì : “PN phải bồi thường TH do người của mình gây ra trong khi thực hiện nhiệm vụ
được PN giao”. Ở đây ta thấy thiệt hại thực tế xảy ra là do việc anh B tự ý chở toàn bộ số hàng
trên thành một chuyến bất chấp nhiệm vụ được PN giao là phải vận chuyển thành 02 chuyến. Vì
vậy khơng được coi là “thiệt hại gây ra trong khi thực hiện nhiệm vụ được PN giao” và khơng
có cơ sở để áp dụng Điều 618 BLDS. Do đó ta loại trừ trách nhiệm bồi thường của PN. Anh B
phải chịu toàn bộ trách nhiệm bồi thường thiệt hại đối với thiệt hại do mình gây ra do thỏa mãn
đầy đủ 4 điều kiện sau (qui định tại NQ03/2006/NQ-HĐTP):
- Có thiệt hại thực tế xảy ra
- Có hành vi vi phạm PL : hành vi bất chấp các qui định về ATGT đường bộ (không
nghiêm chỉnh chấp hành hiệu lệnh của bảng báo cấm) là hành vi vi phạm PL.
- Có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm PL và hậu quả thực tế xảy ra : hậu quả
sập cầu là hậu quả tất yếu gây ra bởi hành vi xem thường PL của anh B hay nói khác, chính
hành vi trái PL của anh B là nguyên nhân trực tiếp đưa đến hậu quả thiệt hại.
- Người gây thiệt hại có lỗi : Ở đây anh B đã phạm lỗi. Lỗi ở đây có thể là lỗi cố ý nhưng
cũng có thể là lỗi vô ý vi phạm các qui định ATGT đường bộ gây hậu quả nghiêm trọng.
Như vậy về mặt nguyên tắc, anh B phải chịu trách nhiệm bồi thường toàn bộ thiệt hại do
mình gây ra đối với nhà nước cũng như đối vời những người bị thiệt hại do hậu quả sập cầu.
Tuy nhiên theo qui định tại khoản 2 – Điều 605 về nguyên tắc BTTH thì nếu một người, do lỗi
vô ý mà gây thiệt hại, và thiệt hại đó là quá lớn so với khả năng kinh tế trước mắt và lâu dài của
mình, thì có thể được giảm mức bồi thường.
<b>NGHIÊN CỨU</b>
Thế chấp QSDĐ là một trong những quyền năng cơ bản của người sử dụng đất, được ra
đời kể từ khi Quốc hội nước ta ban hành Luật Đất đai năm 1993. Sau đó, BLDS (BLDS) năm
1995 đã có các quy định cụ thể nhằm tạo điều kiện để quyền năng này tham gia vào các giao
dịch dân sự. Các quy định về hợp đồng thế chấp QSDĐ được BLDS đề cập tại Phần
năm-Chương V (từ đ727 đến đ737). Đây là những cơ sở pháp lý quan trọng để người sử dụng đất
thực hiện được các quyền năng của mình trong quá trình sử dụng đất. Mặt khác, tạo cơ sở cho
ngành Ngân hàng thực hiện việc “giải ngân” cho vay, góp phần thúc đẩy sản xuất phát triển.
Tuy nhiên, trên thực tế khi thực hiện các quy định này đã bộc lộ một số vấn đề bất cập,
cần được tháo gỡ. Trong phạm vi bài viết này, chúng tôi muốn nêu nên một vài suy nghĩ xung
quanh các quy định về hợp đồng thế chấp QSDĐ trong BLDS và các văn bản PL có liên quan.
<b>I. Các quy định của BLDS về thế chấp QSDĐ</b>
<b>1. Khái niệm: Theo điều 727- BLDS thì: Hợp đồng thế chấp QSDĐ là sự thoả thuận giữa</b>
các bên tuân theo các điền kiện, nội dung, hình thức chuyển QSDĐ được Bộ luật này và PL về
đất đai quy định, theo đó bên sử dụng đất dùng QSDĐ của mình để bảo đảm việc thực hiện
nghĩa vụ dân sự. Bên thế chấp được tiếp tục sử dụng đất trong thời hạn thế chấp. Hiện nay, trong
các văn bản PL hiện hành đang sử dụng hai thuật ngữ “thế chấp QSDĐ” (BLDS, Luật Đất đai)
và “thế chấp giá trị QSDĐ” (Nghị định số 17/1999/NĐ- CP ngày 29/03/1999). Vậy giữa hai
thuật ngữ này thì thuật ngữ nào chính xác hơn? Thiết nghĩ rất cần sự nghiên cứu, trao đổi xung
quanh việc sử dụng hai thuật ngữ này trong các văn bản PL.Trong phạm vi bài viết này, chúng
tôi sử dụng thuật ngữ “thế chấp QSDĐ” được đề cập trong BLDS và Luật Đất đai.
<b>2. Nội dung</b>
a. Điều kiện thế chấp QSDĐ
Điều kiện thế chấp QSDĐ được BLDS quy định tại Điều 728, theo đó: Hộ gia đình, cá
nhân sử dụng đất có giấy chứng nhận QSDĐ được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp theo
quy định của PL về đất đai, thì có quyền thế chấp QSDĐ theo quy định của Bộ luật này và PL
về đất đai.
Từ quy định này, chúng ta có thể đưa ra một số nhận xét sau đây:
Thứ nhất: BLDS mới chỉ dừng lại ở các quy định về thế chấp QSDĐ của hộ gia đình, cá
nhân, mà chưa có các quy định về thế chấp QSDĐ cho các tổ chức. Trong khi đó, Luật sửa
đổi, bổ sung một số điều của Luật Đất đai được Quốc hội khố X thơng qua ngày 02/12/1998
và Nghị định 17/1999/NĐ-CP ngày 29/03/1999 của Chính phủ: Về thủ tục chuyển đổi, chuyển
nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế QSDĐ và thế chấp, góp vốn bằng giá trị QSDĐ (sau
đây gọi tắt là Nghị định 17/CP) khơng chỉ có các quy định về thế chấp QSDĐ cho hộ gia đình,
cá nhân, mà cịn cho cả các tổ chức.
Thứ hai: Điều kiện duy nhất để hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất được thế chấp QSDĐ
là họ có giấy chứng nhận QSDĐ hợp pháp. Họ không phải xin phép, cũng khơng phải trình
bày các lý do với cơ quan nhà nước có thẩm quyền để được thế chấp QSDĐ.
Sở dĩ điều kiện thế chấp QSDĐ được BLDS quy định khơng khắt khe so với các hình
thức chuyển QSDĐ khác vì sau khi ký kết hợp đồng thế chấp, người sử dụng đất (bên thế
chấp) vẫn tiếp tục được chiếm hữu và sử dụng đất. Trên thực tế chưa có sự chuyển giao QSDĐ
cho người khác (bên được thế chấp). Nói cách khác, PL thấy chưa cần thiết phải can thiệp sâu
vào quan hệ này. Bởi lẽ thế chấp QSDĐ về thực chất cũng chỉ là một biện pháp bảo đảm cho
hợp đồng vay vốn, là hình thức chuyển QSDĐ có điều kiện, tức là chỉ xảy ra khi hộ gia đình,
cá nhân khơng trả được vốn vay.
Tuy nhiên, trên thực tế việc thực hiện quy định về điều kiện thế chấp QSDĐ gặp khơng
ít khó khăn. Vấn đề là ở chỗ, hiện nay trong phạm vi cả nước tiến độ cấp giấy chứng nhận
QSDĐ cho hộ gia đình, cá nhân tiến hành rất chậm, khơng đáp ứng được địi hỏi của cơng tác
b. Quy định về thế chấp QSDĐ nông nghiệp, đất lâm nghiệp để trồng rừng và đất ở Việc
thế chấp QSDĐ nông nghiệp, đất lâm nghiệp để trồng rừng và đất ở của hộ gia đình, cá nhân
được quy định tại Điều 729 và điều 730- BLDS.
Trên cơ sở của các quy định này, chúng ta có thể đưa ra một số nhận xét như sau:
Thứ nhất: Bên nhận thế chấp và mục đích sử dụng vốn vay khi hộ gia đình, cá nhân thế
chấp QSDĐ nơng nghiệp, đất lâm nghiệp để trồng rừng được PL quy định khác với khi hộ gia
đình, cá nhân thế chấp QSDĐ ở. Cụ thể:
Hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất nông nghiệp, đất lâm nghiệp để trồng rừng chỉ được
thế chấp quyền sử dụng các loại đất này tại Ngân hàng Việt Nam, các tổ chức tín dụng Việt
Nam do Nhà nước cho phép thành lập, mà không được thế chấp ở bất kỳ một tổ chức kinh tế
nào khác. Mục đích sử dụng vốn vay khi thế chấp quyền sử dụng các loại đất này cũng được
PL quy định rất chặt chẽ, họ chỉ được sử dụng vốn vay vào sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp,
không sử dụng vào các mục đích sản xuất – kinh doanh nói chung hoặc tiêu dùng.
Đối với trường hợp thế chấp QSDĐ ở, PL quy định đối tượng được nhận thế chấp
QSDĐ của hộ gia đình, cá nhân và mục đích sử dụng vốn vay rộng rãi hơn so với trường hợp
hộ gia đình, cá nhân thế chấp QSDĐ nơng nghiệp, đất lâm nghiệp để trồng rừng.
Trong trường hợp này bên nhận thế chấp QSDĐ ở của hộ gia đình, cá nhân là các tổ
chức kinh tế, cá nhân Việt Nam ở trong nước (trong đó có hệ thống Ngân hàng và các tổ chức
tín dụng Việt Nam). Hộ gia đình, cá nhân được sử dụng vốn vay phục vụ vào việc phát triển
sản xuất nói chung và các nhu cầu của đời sống.
Thứ hai: Sở dĩ có sự khác nhau trên đây vì nhà làm luật mong muốn việc thế chấp
QSDĐ nông nghiệp, lâm nghiệp tạo điều kiện để người sử dụng đất có vốn đầu tư phát triển
sản xuất nông- lâm nghiệp, nâng cao hiệu quả sử dụng đất đai. Mặt khác, bảo đảm cho quyền
sử dụng các loại đất này không chuyển giao cho nhiều tổ chức, cá nhân khác, không được biến
đất nông nghiệp, đất lâm nghiệp để trồng rừng thành phương tiện bảo đảm tràn lan cho việc
thực hiện các nghĩa vụ khác.
c. Phạm vi thế chấp QSDĐ: Phạm vi thế chấp QSDĐ được quy định tại Đ732- BLDS,
theo đó QSDĐ có thể được thế chấp một phần hoặc toàn bộ. Mặt khác, người sử dụng đất cịn
có thể thế chấp cả nhà ở, cơng trình xây dựng khác, rừng trồng, vườn cây và các tài sản khác
gắn liền với đất, nếu có thoả thuận giữa họ và bên nhận thế chấp.
d. Hình thức hợp đồng thế chấp QSDĐ: Trên thực tế, thế chấp QSDĐ được thực hiện
dưới hình thức hợp đồng dân sự. Theo Điều 731- BLDS thì hợp đồng thế chấp QSDĐ được lập
thành văn bản. Việc thế chấp QSDĐ phải được làm thủ tục và đăng ký tại UBND cấp có thẩm
quyền theo quy định của PL về đất đai.
e. Quyền và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ thế chấp QSDĐ: Khi thiết lập một
quan hệ thế chấp QSDĐ, phát sinh quyền và nghĩa vụ giữa bên thế chấp (người sử dụng đất)
và bên nhận thế chấp (người cho vay vốn). Các quyền và nghĩa vụ giữa các bên được quy định
tại các Đ733, 734, 735 và Đ736 của BLDS.
Một điểm đáng lưu ý trong các quy định này là: người sử dụng đất được sử dụng đất
trong thời hạn thế chấp và họ không được chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê QSDĐ đã
được thế chấp.
g. Xử lý QSDĐ đã thế chấp: Một vấn đề không thể thiếu được trong các quy định về thế
chấp QSDĐ là xử lý QSDĐ đã thế chấp. Bởi lẽ, không phải bất cứ lúc nào, bất cứ ai (người thế
chấp) cũng đều thực hiện đúng các nghĩa vụ của mình. Trên thực tế, có rất nhiều nguy cơ có
BLDS đã có quy định về xử lý QSDĐ đã thế chấp tại Điều 737. Theo đó, khi đã đến hạn
thực hiện nghĩa vụ được bảo đảm bằng thế chấp QSDĐ mà bên thế chấp không thực hiện hoặc
thực hiện khơng đúng nghĩa vụ, thì bên nhận thế chấp có quyền yêu cầu cơ quan nhà nước có
thẩm quyền tổ chức đấu giá QSDĐ để thu hồi vốn và lãi.
<b>II. Thực trạng thực hiện các quy định, những bất cập nảy sinh </b>
<b>1. Thực trạng thực hiện</b>
Tuy nhiên, thực tế hiện nay cho thấy người SDĐ thực hiện quyền thế chấp QSDĐ chưa
nhiều. Lý do là họ chưa được cấp GCN QSDĐ. Mà một trong những nguyên nhân chủ yếu là
tiến độ cấp GCN QSDĐ, đặc biệt là đối với đất ở trong thời gian vừa qua thực hiện rất chậm trễ.
Mặt khác, tâm lý chung của người sử dụng đất khi đi vay vốn là muốn vay được số vốn lớn.
Trong khi đó, theo quy định các tổ chức tín dụng VN chỉ cho vay: ” Số tiền cho vay tối đa bằng
70% giá trị tài sản thế chấp, cầm cố và tài sản bảo lãnh đã được xác định và ghi trên hợp đồng
“(Điều 12- Quy chế thế chấp, cầm cố tài sản và bảo lãnh vay vốn ngân hàng. Ban hành kèm theo
Quyết định số 217/QĐ-NH1 ngày 17/08/1996 của Thống đốc NHNN). Cũng tại Điều 26 của
Quyết định này quy định việc xác định giá trị QSDĐ thế chấp dựa trên Bảng giá do UBND tỉnh,
thành phố trực thuộc Trung ương ban hành theo khung giá Chính phủ quy định. Mà khung giá
đất do Chính phủ ban hành tại Nghị định số 87/CP ngày 17/08/1994, mặc dù đã qua một số lần
bổ sung, điều chỉnh vẫn còn nhiều điều quy định bất cập, chưa hợp lý cần được thay thế bằng
một văn bản mới. Do đó, tâm lý của người sử dụng đất không muốn thế chấp QSDĐ tại các tổ
chức tín dụng Việt Nam.
<b>2. Những bất cập</b>
Trong q trình thực hiện các quy định này và những quy định của các VBPL khác có
liên quan đã bộc lộ những bất cập, làm cản trở người sử dụng đất thực hiện việc thế chấp. Cụ
thể: Thứ nhất: Đ729 và Đ730- BLDS quy định hộ gia đình, cá nhân được thế chấp QSDĐ nông
nghiệp, đất lâm nghiệp để trồng rừng tại Ngân hàng VN, tại các tổ chức tín dụng VN do NN cho
phép thành lập. Được thế chấp QSDĐ ở với các tổ chức kinh tế, cá nhân VN ở trong nước.
Như vậy, các quy định của BLDS chưa cho phép hộ gia đình, cá nhân được thế chấp
QSDĐ tại các Chi nhánh Ngân hàng nước ngoài, các Ngân hàng liên doanh được phép hoạt
động tại Việt Nam.
Trong khi đó Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam (đã được sửa đổi, bổ sung ngày
09/06/2000) lại cho phép: ” Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi được thế chấp tài sản gắn
liền với đất và giá trị QSDĐ để bảo đảm vay vốn tại các tổ chức tín dụng được phép hoạt động
tại Việt Nam ” (Khoản 3- Điều 46). Cụ thể hoá quy định này, tại khoản 1- Điều 92 của Nghị
định số 24/2000/ NĐ-CP ngày 31/07/2000 của Chính phủ- Quy định chi tiết thi hành Luật Đầu
tư nước ngồi tại Việt Nam thì các tổ chức tín dụng được phép hoạt động tại Việt Nam, mà
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi được thế chấp giá trị QSDĐ và tài sản gắn liền với đất
bao gồm:
Tổ chức tín dụng Việt Nam, Chi nhánh ngân hàng nước ngoài hoạt động tại Việt Nam và
ngân hàng liên doanh giữa Việt Nam với nước ngoài theo quy định của Luật các tổ chức tín
dụng. Như vậy, chúng ta thấy rằng quyền bình đẳng của người sử dụng đất trong các quy định
của hệ thống PL hiện hành chưa được bảo đảm. Hộ gia đình, cá nhân chưa có quyền lựa chọn
nơi thế chấp. Điều này gây cản trở họ trong việc “tiếp cận” với nguồn vốn của các tổ chức tín
dụng nước ngồi hoạt động tại Việt Nam. Mặt khác, sự không thống nhất giữa các quy định của
hệ thống PL Việt Nam vơ hình chung đã gây ra tâm lý cho các nhà đầu tư nước ngoài cảm giác
họ bị đối xử bất bình đẳng so với các nhà đầu tư trong nước. Đây là một lý do cản trở các nhà
đầu tư nước ngoài đầu tư vào lĩnh vực này ở nước ta.
Thứ hai: Nghị định số 178/1999/NĐ-CP ngày 29/12/1999 của Chính phủ: Về bảo đảm
tiền vay của các tổ chức tín dụng (sau đây gọi tắt là Nghị định số 178/CP) mới quy định về
trường hợp thế chấp giá trị QSDĐ mà trên đất có tài sản gắn liền thì ” Gía trị tài sản bảo đảm
tiền vay bao gồm giá trị QSDĐ và giá trị tài sản gắn liền với đất ” (K4- Điều 8). Mà chưa có quy
định cụ thể về các trường hợp người sử dụng đất chỉ thế chấp một phần QSDĐ hoặc một phần
tài sản của họ trên đất. Vậy, giả sử nếu người sử dụng đất thế chấp một phần giá trị QSDĐ hoặc
một phần giá trị tài sản trên đất thì vấn đề này sẽ được giải quyết như thế nào?
Câu trả lời cho vấn đề này đang chờ đợi từ phía các nhà làm luật.
Thứ ba: Tại Điểm a, Khoản 3- Điều 8 của Nghị định số 178/CP quy định: ” Giá trị QSDĐ
thế chấp được xác định theo giá đất của UBND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương ban hành
áp dụng tại thời điểm thế chấp “. Quy định này không nhận được sự đồng tình của một số
chuyên gia pháp lý ở nước ta. Bởi lẽ, nó mâu thuẫn với bản chất của việc thế chấp QSDĐ. Như
tất cả chúng ta đều đã biết, thực chất của việc thế chấp QSDĐ là quan hệ giao dịch dân sự, mà
đã là quan hệ giao dịch dân sự thì yếu tố tự do thoả thuận ý chí của các bên phải được đặt lên
hàng đầu và phải được tơn trọng triệt để. Do đó, giá đất thế chấp phải do bên thế chấp và bên
nhận thế chấp thoả thuận thì mới phù hợp. Có như vậy thì quyền lợi của bên thế chấp mới khơng
bị thiệt thòi. Mặt khác, nhiều chuyên gia pháp lý cho rằng việc Nhà nước xác định khung giá đất
được quy định tại Điều 12- Luật Đất đai năm 1993 là để Nhà nước quản lý đất đai về mặt giá trị,
chứ không phải là giá đất xác định cho các bên tham gia trong các quan hệ giao dịch dân sự.
Chúng tôi tán thành với quan điểm này.
Thứ tư: Một vấn đề nảy sinh trên thực tế, làm cản trở việc thế chấp QSDĐ để vay vốn đầu
tư cho sản xuất. Đó là trường hợp các hộ nhận khốn đất của các nơng trường, lâm trường để sử
dụng vào mục đích sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp. Trong trường hợp này, QSDĐ của họ bị
ràng buộc bởi hợp đồng nhận khoán đất đối với nông trường, lâm trường. Họ không được cấp
giấy chứng nhận QSDĐ. Do vậy, họ không được hưởng các quyền của người sử dụng đất mà PL
quy định, trong đó có quyền thế chấp QSDĐ. Mặc dù, trên thực tế họ là người trực tiếp lao
Thứ năm: Người sử dụng đất mới được phép thế chấp giá trị QSDĐ để vay vốn, chưa
được phép dùng đất như là một biện pháp để bảo lãnh vay vốn cho người khác. Điều này, cũng
phần nào gây khó khăn cho người sử dụng đất trong việc huy động vốn, vì nhu cầu của sản xuất
và đời sống.
Thứ sáu: Về điều kiện đăng ký hợp đồng thế chấp QSDĐ.
Theo tác giả Nguyễn Xuân Trọng thì trong Nghị định số 08/2000/NĐ-CP ngày
10/03/2000, theo đó sau khi ký kết hợp đồng thế chấp QSDĐ thì phải đăng ký hợp đồng thế
chấp QSDĐ tại cơ quan đăng ký giao dịch bảo đảm. Song đến nay, hệ thống cơ quan đăng ký
giao dịch bảo đảm mới bắt đầu được thành lập. Các quy định về sự phối hợp giữa cơ quan đăng
ký giao dịch bảo đảm với cơ quan làm thủ tục thế chấp QSDĐ (UBND cấp xã, Sở Địa chính
hoặc Sở Địa chính? Nhà đất) chưa rõ ràng. Hơn nữa năng lực quản lý của UBND cấp xã hiện
nay liệu có hoàn thành được nhiệm vụ đăng ký đất đai theo hệ thống cơ quan đăng ký quốc gia
không? 3 . Đây cũng là một vấn đề nảy sinh, gây khó khăn cho việc thực hiện các quy định về
thế chấp QSDĐ trên thực tế. Chúng tôi chia sẻ băn khoăn này với tác giả Nguyễn Xuân Trọng.
Thứ bảy: Trình tự, thủ tục quy định về xử lý QSDĐ đã thế chấp, trong trường hợp người
sử dụng đất không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ trả nợ tại các văn bản PL còn
chồng chéo, phức tạp và chưa rõ ràng. Hiện nay, chúng ta chưa xây dựng được một cơ chế thống
nhất trong việc xử lý QSDĐ đã thế chấp để thu hồi vốn cho vay. Những phân tích dưới đây sẽ
chứng minh cho nhận định này.
Nghị định số 17/CP quy định: ”Khi bên thế chấp giá trị QSDĐ không thực hiện hoặc thực
hiện không đúng nghĩa vụ trả nợ theo hợp đồng thế chấp thì QSDĐ đã thế chấp được xử lý theo
Nghị định 86/CP ngày 19/12/1996 của Chính phủ về bán đấu giá tài sản (sau đây gọi tắt
là Nghị định 86/CP), có quy định: ” Riêng QSDĐ trước khi bán đấu giá phải được cơ quan nhà
nước có thẩm quyền cho phép bán đấu giá “. Đến đây, một vấn đề đặt ra là: Luật Đất đai
không quy định khi bán đấu giá QSDĐ phải được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép.
Trong khi đó, Nghị định 86/CP lại quy định khi bán đấu giá QSDĐ phải được cơ quan
nhà nước có thẩm quyền cho phép. Rõ ràng, ở đây có sự mâu thuẫn giữa các quy định trong
các văn bản PL, hiệu lực pháp lý của văn bản luật không được tôn trọng. Điều này gây cản trở,
làm chậm tiến độ xử lý QSDĐ đã thế chấp để thu hồi nợ cho các tổ chức tín dụng. Mâu thuẫn
này cần sớm được khắc phục.
Mặt khác, so với Nghị định 17/CP và Nghị định 86/CP thì Nghị định số 178/CP có quy
định rõ ràng hơn là: ” trường hợp tổ chức tín dụng (bên nhận thế chấp) được quyền thực hiện
xử lý tài sản để bảo đảm tiền vay bằng cách bán, nhận chính tài sản bảo đảm tiền vay hoặc trực
tiếp nhận các khoản tiền hoặc tài sản từ bên thứ ba là người có nghĩa vụ trả thay cho khách
hàng vay “. Nhưng Nghị định số 178/CP lại không quy định rõ là trong trường hợp tài sản bảo
đảm tiền vay là giá trị QSDĐ, thì tổ chức tín dụng đó có được trực tiếp bán hoặc nhận chính
diện tích đất đó khơng?
Trong các văn bản PL nêu trên, chưa quy định rõ cơ quan nhà nước có thẩm quyền tổ
chức bán đấu giá QSDĐ có phải là cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép bán đấu giá
QSDĐ khơng? Trường hợp đấu giá QSDĐ để thu hồi vốn vay có phải là trường hợp chuyển
QSDĐ cho người khác khơng? Khi bán đấu giá tài sản gắn liền với QSDĐ, thì có làm thủ tục
<b>III. Một số kiến nghị: </b>
Trên cơ sở các phân tích trên đây, chúng tơi mạnh dạn đưa ra một vài kiến nghị nhằm
khắc phục các bất cập trong các quy định về thế chấp QSDĐ.
Thứ nhất: BLDS cần bổ sung quy định cho phép các tổ chức, hộ gia đình, cá nhân được
thế chấp QSDĐ tại các tổ chức tín dụng được phép hoạt động tại Việt Nam nhằm phù hợp với
các quy định của Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều
của Luật Đất đai vừa được Quốc hội khố X thơng qua ngày 29 tháng 06 năm 2001 tại kỳ họp
thứ 9. Có như vậy, mới tạo được một mơi trường pháp lý bình đẳng cho các thành phần kinh tế
trong nước và ngoài nước trong hoạt động sản xuất, kinh doanh. Bảo hộ cho người sử dụng đất
được lựa chọn bên nhận thế chấp tài sản là giá trị QSDĐ.
Thứ hai: Sửa đổi quy định tại Khoản 5, Điều 6- Nghị định 178/CP ngày 29/12/1999,
không nên quy định: ” Khi thế chấp tài sản gắn liền với đất, khách hàng vay phải thế chấp cả
giá trị QSDĐ cùng với tài sản đó, trừ trường hợp PL có quy định khác “. Vì quy định được
viện dẫn vừa rồi mâu thuẫn với quy định tại Điều 732- BLDS.
Thứ ba: Sửa đổi quy định tại khoản 5, Điều 8- Nghị định 178/CP ngày 29/12/1999 về
xác định giá trị QSDĐ. Chúng tôi ủng hộ quan điểm của một số chuyên gia pháp lý cho rằng
không nên quy định: ” Giá trị QSDĐ thế chấp được xác định theo giá đất của UBND tỉnh,
thành phố trực thuộc Trung ương ban hành áp dụng tại thời điểm thế chấp “. Bởi vì, xét về bản
chất thế chấp QSDĐ chính là một loại quan hệ giao dịch dân sự. Do đó phải để cho các bên
(bên thế chấp và bên nhận thế chấp) được thoả thuận về giá trị QSDĐ thế chấp. Mặt khác,
Điều 12- Luật Đất đai năm 1993 về khung giá đất khơng hề có quy định: Khung giá đất do
Nhà nước ban hành được áp dụng để tính giá trị QSDĐ khi thế chấp.
Thứ tư: Theo quy định tại chương II, III và IV ? Phần thứ nhất của BLDS, thì chủ thể
của QHPL dân sự là các tổ chức, hộ gia đình và cá nhân. Thế nhưng tại phần thứ năm của
BLDS lại chỉ có các quy định về chuyển QSDĐ của hộ gia đình, cá nhân, mà chưa có các quy
định về chuyển QSDĐ cho các tổ chức. Do đó, có thể thấy rằng giữa các quy định của các
phần trong BLDS đã chưa có sự nhất quán, chứ chưa nói đến sự thống nhất với các quy định
của các đạo luật khác. BLDS cần bổ sung quy định về chuyển QSDĐ cho các tổ chức để bảo
đảm sự thống nhất với các quy định trong các văn bản PL khác như Luật sửa đổi, bổ sung một
số điều của Luật ĐĐ, Nghị định 17/CP ngày 29/03/1999, Nghị định số 04/CP v.v…
Thứ năm: Chúng tôi ủng hộ quan điểm cho phép hộ gia đình, cá nhân được thế chấp
quyền sử dụng tất cả các loại đất tại các tổ chức kinh tế, cá nhân Việt Nam ở trong nước.Với
mục đích phát huy “nội lực”, huy động mọi nguồn vốn trong nhân dân đầu tư vào việc phát
triển sản xuất.
Thứ sáu : Trong các văn bản PL hiện hành cần bổ sung quy định cho phép các hộ gia
đình nhận khốn đất của các nơng trường, lâm trường sử dụng vào mục đích sản xuất nơng
nghiệp, lâm nghiệp được thế chấp QSDĐ để vay vốn phát triển sản xuất, Có như vậy, mới bảo
đảm sự bình đẳng về địa vị pháp lý giữa họ với các chủ thể sử dụng đất khác, đồng thời, tạo
điều kiện giúp họ phát triển sản xuất, nâng cao hiệu quả sử dụng đất.
Thứ bảy: Khẩn trương rà soát các văn bản PL hiện hành quy định về thế chấp QSDĐ,
nhằm khắc phục các quy định mâu thuẫn, bất cập. Xây dựng một cơ chế thống nhất trong việc
xử lý QSDĐ đã thế chấp, nhằm bảo vệ quyền lợi cho bên nhận thế chấp. Cụ thể:
- PL phải xác định rõ cơ quan nhà nước nào có thẩm quyền cho phép bán đấu giá
QSDĐ? Cơ quan nhà nước nào có quyền tổ chức đấu giá QSDĐ?
- Cần có quy định giải thích rõ trong trường hợp tài sản bảo đảm tiền vay là giá trị
QSDĐ, thì tổ chức tín dụng có được trực tiếp bán hoặc nhận chính diện tích đất đó không?
- Trường hợp đấu giá QSDĐ để thu hồi vốn vay có phải là trường hợp chuyển QSDĐ
khơng?