Tải bản đầy đủ (.docx) (7 trang)

GIA TRI HIEN THUC TRUYEN KIEU

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (134.26 KB, 7 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>TRUYỆN KIỀU LÀ BẢN CÁO TRẠNG ĐANH THÉP LÊN ÁN TỐ CÁO NHỮNG THẾ LỰC TÀN BẠO CHÀ</b>
<b>ĐẠP CON NGƯỜI.</b>


Nếu thơ chữ Hán của Nguyễn Du là tấm gương rọi chiếu tấc lòng của người nghệ sĩ tài hoa trong những tháng năm cuộc đời có
nhiều đau thương và biến động dữ dội thì Truyện Kiều là nơi thi hào gửi gắm nhiều trăn trở, suy tư, cả những nỗi niềm xót xa, bi phẫn
trước thực trạng đau khổ của con người trong xã hội phong kiến. Đứng từ góc độ sáng tác, Truyện Kiều là “đứa con lai” bởi nó được
viết dựa trên cơ sở cuốn tiểu thuyết “Kim Vân Kiều truyện” của Thanh Tâm Tài Nhân. Thế nhưng, từ khi ra đời đến nay, tác phẩm đã
nhận được niềm ưu ái lớn lao vô bờ của độc giả. Truyện Kiều đã vượt xa vỏ kén ban đầu mà nó thốt ra, trở thành dấu son trong lịch
sử văn học nước nhà, là niềm tự hào không vơi cạn của những người dân đất Việt thân yêu. Hình ảnh người con gái tài sắc nhất thế
với chặng đường đời mười lăm năm oan khổ lưu ly nhạt thắm phai đào đã để lại dấu ấn khó phai mờ trong lòng người đọc. Với tấm
lòng nhân đạo cao cả, với “con mắt trông thấu sáu cõi”, “tấm lịng nghĩ đến nghìn đời”, Nguyễn Du đã sáng tạo lại cốt truyện của
Thanh Tâm Tài Nhân theo cách riêng của mình làm cho Truyện Kiều thực sự trở thành khúc “Đoạn trường tân thanh” làm xót xa cõi
lịng bao thế hệ. Trên cơ sở “những điều trông thấy” cùng những suy nghĩ, cảm xúc nóng bỏng trước hiện thực xã hội Việt Nam
đương thời, Nguyễn Du đã cảm nhận “Kim Vân Kiều truyện” và sắp xếp lại theo thể nghiệm của mình bằng ngịi bút tràn đầy ưu
niệm. Kết hợp với thể thơ lục bát ngọt ngào như ca dao, với ngôn ngữ trong sáng và tinh luyện, Truyện Kiều xứng đáng là viên ngọc
tồn bích, lấp lánh nơi đáy lịng khơng biết bao con người từng u tha thiết tiếng mẹ đẻ, từng khát khao kì vọng về tình yêu hạnh
phúc ở trên đời…Với Truyện Kiều, tên tuổi Nguyễn Du đã trở thành bất tử trên thi đàn dân tộc.


Truyện Kiều được đánh giá cao trước hết ở giá trị hiện thực sâu sắc. Ai đó cho rằng thơ ca khó phản ánh hiện thực bởi đặc thù
của thơ ca là tính trữ tình, cảm xúc. Điều đó khơng đúng khi nói về Truyện Kiều của Nguyễn Du. Ngịi bút sắc sảo của nhà thơ đã
miêu tả bộ mặt xã hội với những nhân vật điển hình, có diện mạo và bản chất riêng, có sức sống mãnh liệt, có sức tố cáo mạnh mẽ, có
chiều sâu lịch sử và có tính thời sự đối với mọi thời đại. Với Truyện Kiều, bên cạnh tiếng kêu thương đòi quyền sống cho con người,
Nguyễn Du đã phơi bày bộ mặt xấu xa tàn bạo của xã hội phong kiến Việt Nam đương thời và nói lên hiện thực cơ độc, mong manh
của những kẻ tài sắc.


<i><b>1.</b></i> <i><b>Bộ mặt xấu xa, tàn bạo của xã hội phong kiến Việt Nam đương thời:</b></i>


Khác với những nhà thơ khác như Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm…khi vấp phải một thực tế cuộc sống khơng như ý mình
mong muốn thì lui về ở ẩn, hoặc vui thú điền viên hoặc hồi niệm về dĩ vãng hịng giữ cho lịng mình được trong sạch, khơng vướng
bụi trần. Nguyễn Du có những nỗi niềm nhớ cổ thương kim nhưng ơng khơng hồn toàn rút lui khỏi cuộc đời mà vẫn sống gần với
hiện thực. “Tư tưởng Nho giáo về chính trị, tấm lịng nhân đạo chủ nghĩa, sự thơng cảm với nhân dân, nhất là luồng tư tưởng tiến bộ


<i>là luồng quán xuyến cả thời đại đã khiến cho trái tim, khối óc của ông bắt rễ sâu vào hiện thực” (Lê Trí Viễn). Nguyễn Du tun bố</i>
những điều mình viết là: “những điều trông thấy” (Truyện Kiều), “<i><b>nhãn kiến</b>” (Trở binh hành), “sở <b>kiến</b>” (Sở kiến hành), “ngã sạ</i>
<i><b>kiến </b>chi” (Thái Bình mại giả ca), “<b>Mục</b> trung sở xúc” (Tỉ Can mộ)…Điều đó chứng tỏ tinh thần hiện thực được ơng ý thức rõ ngay</i>
trong các tác phẩm của mình.


Bởi thế, Truyện Kiều không phải là tác phẩm được chuyển thể từ văn xuôi sang thơ một cách thuần túy, đó là máu, là nước mắt, là
nỗi lịng, là trải nghiệm cay đắng của Nguyễn Du:


Trải qua một cuộc bể dâu


<i> Những điều trơng thấy mà đau đớn lịng</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

<i>vọng bừng sáng lên nhưng rồi lại bị dập tắt.” (Lê Đình Kị). Cho dù nhà thơ đã lí giải số phận nàng Kiều bằng một triết lí duy tâm</i>
thần bí:


<i>Trăm năm trong cõi người ta</i>
<i> Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau</i>


nhưng trong toàn bộ câu chuyện nhà thơ lại chỉ cho người đọc thấy cội nguồn sâu xa của mọi nỗi đau khổ trong cuộc đời Kiều là thực
tại đen tối của xã hội đương thời. Xã hội đó khơng chỉ bất cơng, ngang trái mà cịn là nơi ngự trị của bao thế lực hắc ám chà đạp con
người.


Đầu tiên phải kể đến là thế lực quan lại. Nhắc đến cuộc đời Kiều chúng ta nghĩ đến kiếp nạn “thanh lâu hai lượt, thanh y hai lần”
nhưng còn một nơi mà người con gái đáng thương, tội nghiệp ấy đã hơn một lần phải tới và trở thành nạn nhân, đó là cửa quan.
Khơng ở đâu thế giới quan lại hiện lên sinh động, chân thực, đa dạng như trong tác phẩm Truyện Kiều. Đó là những kẻ đại diện cho
bộ máy chính quyền phong kiến, những kẻ được xem là cha mẹ dân, có kẻ chịu trách nhiệm cầm cân nảy mực nhưng lại chính là thủ
phạm gây ra biết bao oan khốc đến nỗi sinh li tử biệt cho người dân vô tội. Thế lực đen tối ấy đã phủ bóng đen lên cuộc đời Kiều từ
một chuyện tai bay vạ gió. Chỉ một lời xưng xuất của một thằng bán tơ không tên không tuổi, giông tố đã nổi lên giữa cuộc sống yên
bình của gia đình họ Vương. Nguyễn Du chỉ nhắc đến thằng bán tơ lơ lửng trong một câu thơ và người đọc thấy rằng những chuyện
tai bay vạ gió như thế trong xã hội phong kiến cũng là chuyện thường tình, đâu phải là cá biệt. Bọn sai nha ập vào nhà Vương viên


ngoại như một đám cướp, hai cha con họ Vương bị tra tấn tại chỗ trước mặt những người thân, tài sản bị vét sạch sành sanh. Hành
động của chúng không phải là hành động của cơng lí, hay cơng lí của chúng là cơng lí của bọn đầu trộm đi cướp. Đằng nào cũng
vậy. Mỉa mai hơn, “thần cơng lí” ấy chỉ dịu cơn thịnh nộ khi ngửi thấy có mùi tanh của hơi đồng:


Có ba trăm lạng việc này mới xuôi.


Không lộ mặt, rõ tên nhưng viên quan đầu tiên này chính là kẻ đã đẩy Kiều – một cô gái trắng trong lương thiện vào nhà chứa, hắn
cũng chính là kẻ viết những dịng đầu tiên lên sổ đoạn trường của đời nàng.


Viên quan thứ hai xuất hiện trong Truyện Kiều không đến nỗi quá nhem nhuốc nhưng cũng không phải là người công minh, chính
trực. Khi bị Thúc ơng cáo giác, Kiều thốt được cuối cùng cũng nhờ cách xử kiện khá “tài tử” của ông quan này:


<i>Đã đưa đến trước cửa cơng</i>
<i> Ngồi thì là lí nhưng trong là tình</i>
Nghĩa là Kiều được hưởng ân huệ đặc biệt chứ lí ra thì:


<i>Một là cứ phép gia hình</i>
<i> Hai là lại cứ lầu xanh phó về</i>


Cái ân huệ đặc biệt ấy Kiều được hưởng chỉ vì một phút ngẫu hứng thơ văn của ơng. Khi biết Kiều có tài thơ, máu tài tử nổi lên, ông
hào hứng bắt Kiều làm thơ về cái gông:


Mộc già hãy thử một thiên, trình nghề


Một tâm trạng như Thúy Kiều lúc đó, lại viết về một đề tài như thế, bài thơ hay dở thế nào có thể biết được. Thế mà ơng ta khen lấy
khen để, tha bổng cho nàng. Trong ý Nguyễn Du, ông quan xử kiện không phải là người xấu. Nhưng với tất cả cái tốt kia, Kiều cũng
đã bị một trận đòn nên thân:


Phận đành chi dám kêu oan
<i> Đào hoen quẹn má, liễu tan tác mày</i>


<i> Một sân lầm cát đã đầy</i>


<i> Gương lờ nước thủy, mai gầy vóc sương</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

Lần thứ ba, Kiều rơi vào tay “họ Hoạn danh gia” cũng là rơi vào miệng hùm nọc rắn – một gia đình quan lại uy quyền nghiêng ngửa
thiên hạ. Nguyễn Du gọi đó là “địa ngục ở miền nhân gian”. Hai lần trước, ít ra quan lại cịn núp dưới hình thức pháp luật nào đó,
nhưng đối với mẹ con Hoạn Thư thì khơng có pháp luật nào ngồi cái quyền thế vơ thượng của chúng. Chúng có sẵn trong tay một
bầy “cơn quang ưng khuyển”, tự do đốt nhà, bắt cóc, một lũ a hoàn sẵn sàng đánh đập “vả miệng bẻ răng” những ai không vừa ý
chúng. Không phải chỉ đối với Kiều mà thôi, mọi người ở dưới trướng họ Hoạn đều sống trong cảnh nơm nớp vì tai họa có thể giáng
xuống đầu họ bất cứ lúc nào. Kiều khơng cịn nghĩ đến kêu oan hay chống đỡ. Thế lực của họ Hoạn bao trùm len lỏi vào các nhà chùa,
cho đến một kẻ tu hành từ tâm như Giác Duyên cũng không dám dung nạp Kiều để đến nỗi cuối cùng nàng phải rơi vào nhà chứa của
Bạc Bà Bạc Hạnh.


Lần thứ tư, kẻ đại diện cho thế lực quan lại hắc ám mà Kiều phải đối mặt đó là Hồ Tơn Hiến:
Có quan Tổng đốc trọng thần


<i> Là Hồ Tôn Hiến kinh luân gồm tài</i>


Hắn là tên quan to nhất, cũng là tên quan ti tiện và bỉ ổi nhất trong Truyện Kiều. Hắn đại diện cho triều đình, nhưng thêm vào tính tàn
bạo thơng thường của bọn quyền thế, hắn cịn là kẻ hèn nhát và phản trắc. Không dám đương đầu với Từ Hải, hắn đã lừa Kiều để dụ
Từ Hải ra hàng. Nghe lời Kiều, Từ Hải đã mắc mưu Hồ Tôn Hiến. Người anh hùng một thời dọc ngang nào biết trên đầu có ai ấy đã
bị bao vây, phục kích, phẫn uất mà chết đứng giữa trận tiền. Hồ Tôn Hiến đã mở tiệc mừng công giữa mùi tanh máu của Từ Hải và
trên cõi lòng tan nát của Kiều. Bắt nàng hầu rượu, đánh đàn, “chau mày rơi châu” xót xa cho thân phận Kiều để rồi liền sau đó bng
lời ve vãn làm nhục Kiều như Hoạn Thư đã bắt Kiều hầu rượu, đánh đàn trước Thúc Sinh. Có thể nói Hồ Tơn Hiến là kẻ đã viết những
dòng cuối cùng vào sổ đoạn trường của Kiều và hoàn thành nốt bức tranh đen tối về bộ mặt quan lại đương thời. Bao nhiêu lần đối
mặt với cửa quan là bấy nhiêu lần Kiều phải chịu đớn đau, oan trái, tủi nhục:


“Tiếng oan dậy đất, án ngờ lòa mây”
<i> “Oan này còn một kêu trời nhưng xa”</i>
<i> “Tiếng oan đã muốn vạch trời kêu lên”</i>


<i> “Vuốt đâu xuống đất, cánh đâu lên trời”</i>


Con người bị áp bức giày xéo trong chế độ phong kiến chỉ còn biết kêu trời bởi những kẻ cha mẹ dân không cầm cân nảy mực đúng
chức trách bổn phận của mình, ngược lại cịn gieo biết bao oan khiên thảm khốc cho người vơ tội. Cơng lí ở đâu trong cái xã hội “nhai
thịt người ngọt xớt như đường” kia? Mở đầu và kết thúc mười lăm năm đoạn trường của Kiều đều có bóng dáng những vị quan. Hơn
mọi lời tố cáo, đó là bản cáo trạng đanh thép với lời kết án sâu sắc bọn quan lại phong kiến đương thời.


Xã hội Truyện Kiều không chỉ tồn tại một thế lực đen tối ấy. Còn một lũ người gớm ghiếc khác chung tay nhào nặn, đẩy đưa
số phận con người khiến cho tiếng đoạn trường trong thiên truyện đến mn năm cịn bẫm máu. Đó là sự hồnh hành tác qi của bọn
buôn thịt bán người. Người đọc không thể quên một Mã Giám Sinh “mày râu nhẵn nhụi, áo quần bảnh bao”, một Tú Bà “thoắt trông
<i>lờn lợt màu da”, một Sở Khanh “hình dong chải chuốt áo khăn dịu dàng”, mỗi tên một vẻ nhưng chúng đều là một cốt một đồng,</i>
chung một nghề nghiệp kiếm ăn trên thân xác con người. Chỉ vài nét phác họa, Nguyễn Du đã vẽ nên những chân dung điển hình cho
hạng người xấu xa này. Nếu như thế lực quan lại đã lấy đi của Kiều viễn cảnh cuộc đời bình yên tươi sáng, xô giạt đời nàng trên
những bước đường lưu ly chìm nổi thì bọn bn thịt bán người như Mã Giám Sinh, Tú Bà…là những kẻ đã đưa nàng xuống đáy sâu
xã hội, xuống vực thẳm của sự nhơ nhớp. Ngịi bút sắc sảo và cái nhìn tỉnh táo của Nguyễn Du đã cho chúng ta thấy lầu xanh, kĩ viện
không chỉ là chốn đi về của khách làng chơi:


Biết bao bướm lả ong lơi


<i> Cuộc say đầy tháng, trận cười suốt năm</i>
<i> Dập dìu lá gió cành chim</i>


<i> Sớm đưa Tống Ngọc, tối tìm Tràng Khanh.</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

Với những thủ đoạn đê hèn nhất, Tú Bà cùng với Sở Khanh đã đập tan mọi toan tính phản kháng dù chỉ cịn thoi thóp ở Kiều. Đau đớn
xiết bao khi người con gái có ý thức cao về nhân phẩm đó lại phải tuyên bố từ bỏ nhân phẩm của mình:


Thân lươn bao quản lấm đầu
<i> Chút lòng trinh bạch từ sau xin chừa.</i>



Con đường duy nhất để có thể ngoi lên khỏi vực thẳm này là bám víu vào tấm chân tình của khách làng chơi, tìm kiếm một hạnh phúc
thừa thãi, mong manh, dẫu rằng điều ấy không dễ dàng. Cho dù được Thúc Sinh cũng như Từ Hải yêu thương, chuộc ra khỏi lầu xanh
nhưng rút cục đời Kiều cay đắng xót xa ra sao chúng ta đều đã rõ. Có thể nói trong suốt quãng đời mười lăm năm lưu lạc, hai lần sống
ở lầu xanh là những tháng ngày đen tối, đau thương, tủi nhục và ê chề nhất của Kiều. Điều ấy cho thấy dù khơng có quyền hành, địa
vị, bọn buôn thịt bán người vẫn là một thế lực ghê gớm tác oai, tác quái vùi dập con người. Sự tồn tại của chúng trong xã hội không
chỉ minh chứng cho sự xuống cấp về đạo đức mà còn biểu hiện sự phá sản một thể chế xã hội vốn được xem là khuôn vàng thước ngọc
trong cả gần ngàn năm. Chúng là những ung nhọt bên trong một xã hội được che đậy bằng vỏ ngồi hào nhống: trung hiếu tiết nghĩa,
tam cương ngũ thường… Khơng phải vơ tình mà Tú Bà phát biểu:


Mụ rằng ai cũng như ai
<i> Người ta ai mất tiền hồi đến đây</i>


Mụ có đủ tư cách hơn ai hết để nói lên cái triết lí của cả xã hội rộng lớn cũng như xã hội lầu xanh của mụ:
Chơi cho liễu chán hoa chê


<i> Cho lăn lóc đá, cho mê mẩn đời.</i>


Sự rành rẽ ấy của Tú Bà không phải chỉ do kinh nghiệm những ngày phấn son trăng gió để lại mà cịn là sự ranh ma nắm bắt thói đời.
Thói đời ấy khơng phải mình mụ muốn mà có được, thói đời ấy là con đẻ của xã hội phong kiến lúc bấy giờ. Đến đây ta hiểu vì sao
Thúy Kiều tiêu cực đến thế khi rơi vào lầu xanh lần thứ hai:


Biết thân chạy chẳng khỏi trời
<i> Cũng liều mặt phấn cho rồi ngày xanh.</i>


Đó là tiếng than chán chường tuyệt vọng, là sự bng xi phó mặc số phận của Kiều nhưng đã vạch trần được bản chất xấu xa, tàn
bạo của một xã hội khơng có đất sống cho người tiết nghĩa.


Sau thế lực quan lại, nhà chứa, Nguyễn Du cũng lên án, tố cáo gay gắt quyền lực vạn năng của đồng tiền. Trong xã hội Truyện
Kiều, đồng tiền có một sức mạnh phi thường ghê gớm. Đồng tiền đổi trắng thay đen, đồng tiền lăn trên lương tâm và phẩm giá con
người:



- Làm cho khốc hại chẳng qua vì tiền
<i> - Có ba trăm lạng việc này mới xi</i>
<i> - Máu tham hễ thấy hơi đồng thì mê…</i>


Con người đã trở thành một món hàng theo cái nghĩa không chút ẩn dụ của danh từ này. Thơng thường, Nguyễn Du ít dừng lại miêu tả
tỉ mỉ, nhưng chúng ta không thiếu những chi tiết về sự mua bán, “đầu tư” đủ kiểu trên cái nhan sắc của Kiều, và điều này Nguyễn Du
đã làm với một ý thức tố cáo rõ rệt. Đối với bọn buôn thịt bán người, Kiều chỉ là một món hàng khơng hơn không kém. Mã Giám Sinh
đã đem tài sắc của Kiều ra mà “cân” theo cả nghĩa bóng lẫn nghĩa đen của chữ. Hắn ưa Kiều, say Kiều nhưng ở cả những phút say
đắm nhất, hắn vẫn không quên đồng nhất Kiều với <i>“vàng”, với “ngọc”, với “vốn”, với “lời”. Hắn có cả một kế hoạch “đầu cơ” về</i>
cái trinh tiết của Kiều với những con số chính xác nhất:


Đã nên quốc sắc thiên hương
<i> Một cười này, hẳn nghìn vàng chẳng ngoa</i>
<i> Về đây, nước trước bẻ hoa, </i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

Còn với Tú Bà, đồng tiền đã thay thế cho đạo đức, hay nói cách khác, đạo đức của mụ là tiền. Mụ mừng cuống lên khi thấy Mã Giám
Sinh mua được Kiều, rồi tức đến lộn ruột khi biết Kiều thất thân với Mã Giám Sinh, và run sợ tái mét mặt mày khi thấy Kiều rút dao
ra toan tự tử…Không tình người, khơng đạo nghĩa, ở đây tất cả chỉ vì tiền.


Trong lịch sử gần ngàn năm của văn học trung đại Việt Nam, chưa bao giờ thế lực của đồng tiền lại bị phanh phui một cách trần trụi
đến thế. “Đồng tiền đã muốn làm chủ thế gian. Đồng tiền đã chà đạp lên đạo lí thần thánh của phong kiến. Trung, hiếu, tiết, hạnh, tài
<i>hoa, nhan sắc như cơ Kiều đã bị đồng tiền làm cho ba chìm bảy nổi, đã hóa cơ Kiều thành món hàng xa xỉ của thế gian…Mọi sinh</i>
<i>hoạt xã hội đều quay về đồng tiền” (Lê Duẩn). Quan lại có kẻ vì tiền mà hành hạ con người, nho sĩ có kẻ vì tiền mà lưu manh hóa, bọn</i>
bn thịt bán người tất cả vì tiền mà bày ra trăm phương nghìn kế để bẫy người phụ nữ, bắt họ phải đem thân ra làm món hàng cho
chúng bn bán, kiếm chác…Cũng chưa bao giờ trong một tác phẩm tự sự, qua những lời phát biểu trực tiếp của tác giả, hay qua ngôn
ngữ trực tiếp của nhân vật, tác dụng của đồng tiền lại được bóc trần nhiều lần đến thế:


<i>…Tiền lưng đã sẵn việc gì chẳng xong</i>
<i>…Tờ hoa đã kí, cân vàng mới trao</i>



<i>…Trong tay sẵn có đồng tiền</i>
<i>Dù lịng đổi trắng thay đen khó gì</i>


<i>…Có ba mươi lạng trao tay</i>
<i>Khơng dưng chi có chuyện này trị kia</i>


<i>…Thấy nàng mặn phấn tươi son</i>
<i>Mừng thầm được chốn bán bn có lời…</i>


Cho đến một người đội trời đạp đất ở đời như Từ Hải mà cũng phải khuất phục quy luật của đồng tiền mới có được Kiều. Là con
người suốt đời nạn nhân của đồng tiền, cuối cùng Thúy Kiều trở thành “tội nhân” nhận “bạc nghìn cân” của Hồ Tơn Hiến mà khuyên
Từ Hải ra hàng, biến Từ Hải thành con thiêu thân thảm hại của triều đình phong kiến.


Có thể khi viết Truyện Kiều, Nguyễn Du chưa định hình nên cái gọi là <i><b>chủ nghĩa hiện thực</b></i> nhưng những gì nhà văn phản ánh
trong tác phẩm của mình thực sự đã đặt nền móng cho sự xuất hiện chủ nghĩa hiện thực trong văn học Việt Nam đầu thế kỉ XX. Mặc
dù ở thời đại Nguyễn Du, những điều gọi là lẽ phải không hiện ra vằng vặc trước mắt nhưng Nguyễn Du là người có tài, có tầm tư
tưởng sâu rộng, đủ để nhận chân hiện thực thời đại. Vì thế, dẫu xuất thân trong gia đình quan lại phong kiến, dẫu bản thân làm quan
dưới triều Nguyễn nhưng chân dung quan lại xấu xa, thối nát vẫn bị nhà thơ bóc trần trong tác phẩm Truyện Kiều dưới cái nhìn chân
thực nhất. Với trái tim mẫn cảm, “quốc phá gia vong”, “thập tải phong trần”, “sở kiến hành”… đều có tác động dữ dội đến nhà thơ,
nó giúp ơng vượt lên khỏi dây buộc của đẳng cấp mình, vượt lên giới hạn nho sĩ để thực hiện con người nhân bản phi thường, kì diệu.
Và cũng chỉ ở Nguyễn Du, thế giới nhân vật ngoài cuộc đời mới bước vào trang sách nhiều đến thế: Từ những ông quan tai to mặt lớn
đến những kẻ sai nha tầm thường, từ những thiếu nữ khuê các đến những mụ chủ chứa mặt dạn mày dày, từ những người thật thà chất
phác đến những kẻ lèo lá lọc lừa…tất cả đều ồ ạt bước vào tác phẩm của Nguyễn Du, làm sống dậy một thời kì lịch sử xã hội loạn lạc,
đảo điên đến chóng mặt, suy vi đến cùng cực.


<i><b>2.</b></i> <i><b>Hiện thực về thân phận con người</b></i>


Cũng trong Truyện Kiều, trên cái nền tối đen, xám xịt của xã hội phong kiến bất công và thối nát, Nguyễn Du đã phơi bày hiện
thực đau đớn đến nhức nhối lương tâm về số phận con người, đặc biệt là người phụ nữ. Xưa, Bạch Cư Dị từng nói: <i>“Nhân sinh mạc</i>


<i>túc phụ nhân thân. Bách niên khổ lạc do tha nhân” (Đời người không nên làm phụ nữ. Trăm năm sướng khổ do người khác quyết</i>
định). Dẫu đã hơn một lần Nguyễn Du cất tiếng kêu bi thiết:


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

Nhưng hiện thực về số phận con người kết tinh trong hình tượng nàng Kiều khơng chỉ được nhìn từ góc độ giới tính mà cịn được nhà
thơ cắt nghĩa, lí giải từ góc độ xã hội. Làm nên thân phận ấy không phải bởi tại trời sinh ra là phụ nữ, thân phận ấy là <i>hệ quả tất yếu</i>
<i>của một xã hội xem thường giá trị con người. Không riêng Truyện Kiều mà “Long Thành cầm giả ca”, “Độc Tiểu Thanh kí” đều nói</i>
đến “nỗi hờn kim cổ” của những kẻ tài hoa phong vận. Hiện thực ấy đâu chỉ dành riêng cho người phụ nữ, hiện thực ấy còn bao hàm
cả những ai trót tài tình hơn thiên hạ. Chúng ta hiểu vì sao trong “Độc Tiểu Thanh kí”, Nguyễn Du lại nhận mình là người cùng hội,
cùng thuyền với Tiểu Thanh, cũng như trong Truyện Kiều, nhà thơ phát biểu: “Cùng người một hội một thuyền đâu xa”. Phải chăng
đâu chỉ Đạm Tiên - Thúy Kiều mà còn hàm nỗi xót xa cho thân phận mình nữa? Đằng sau những tác phẩm của Nguyễn Du nói chung
và Truyện Kiều nói riêng, nhà thơ đã cho người đọc cảm nhận một hiện thực đau lịng: Đó là sự qn lãng, vơ tình, sự vùi dập của thế
<i>nhân đối với cái tài, cái đẹp. Cái tài không được trân trọng, cái đẹp khơng được nâng niu, đó là một xã hội bất công. Cái tài bị vùi dập,</i>
cái đẹp bị giày xéo, đó là một xã hội vơ đạo. Chỉ có đơi mắt trơng thấu sáu cõi mới nhìn ra, mới ý thức được hiện thực đáng sợ ấy. Nó
trở thành nỗi nhức nhối đối với mọi tài năng, một vấn đề xã hội đối với con người và thời đại.


Câu chuyện trầm luân của Thúy Kiều xưa nay biết bao người nói tới, lời thơ của Nguyễn Du đã đi qua hàng thế kỉ nhưng bao nhiêu
nỗi đoạn trường cùng những vần thơ đứt ruột kia như vẫn còn thổn thức trong tim người đọc. Kiều không chỉ hiện thân cho nhan sắc,
mà còn hiện thân cho tài hoa và phẩm hạnh. Tài sắc của Kiều không phải thông thường mà là tuyệt đỉnh của tài sắc. Một con người
như vậy lẽ ra phải được sống cuộc đời tốt đẹp, hạnh phúc nhưng xã hội bất công vô đạo đó đã biến tất cả những phẩm chất cao quý
của nàng trở thành tai họa đối với chính bản thân nàng. Đang sống trong cảnh “Êm đềm trướng rủ màn che - Tường đông ong bướm
<i>đi về mặc ai”, chỉ một phen gió thảm mưa sầu đã hất tung nàng ra giữa cuộc đời giông tố. Sự thay đổi đó khơng thể gọi là hồn cảnh</i>
đẩy đưa mà là tang thương dâu bể, điều khơng thể đã hóa thành có thể trong một xã hội tàn bạo Hạnh phúc đã khơng đến với một
người tài tình, hiếu hạnh như Kiều. Thậm chí nàng cũng khơng được sống một cuộc đời bình n. Nhan sắc bị đem ra cị kè mua bán,
tài năng bị đưa ra làm phương tiện mua vui, lòng hiếu nghĩa bị đem ra đánh đổi thành tiền bạc, nhân phẩm bị chà đạp, giày xéo…
Kiều đã nếm trải tất cả những khổ nhục mà người phụ nữ thời trước có thể phải chịu đựng: Làm đĩ, đi ở, đi tu, bị lừa gạt, bị đánh
ghen…Không phải là nỗi khổ vì chiến tranh của người chinh phụ, không phải là nỗi cay cực của người cung phi thất sủng, cũng không
phải là nỗi oan uổng của người tôi trung bị hàm oan…Trong con người Kiều, trong cảnh ngộ Kiều, hình như tất cả những đau khổ tủi
nhục của cuộc sống trong xã hội cũ đã dồn lại và cất lên thành những tiếng đoạn trường. Thế nào là cái khổ của người bị cắt mối
duyên đầu, thế nào là cái khổ của người phải đem thân làm lẽ mọn, thế nào là cái khổ phải cúi mình làm tơi địi kẻ khác, thế nào là cái
khổ phải làm nghề bn nguyệt bán hoa…Kiều đều đã thấm thía và trải nghiệm. Còn một xã hội nào bạo tàn và bất nhân hơn thế!


Trong xã hội ấy, mọi giá trị đều bị đảo lộn. Quyền sống của con người đã bị thủ tiêu hoàn toàn. Đạo đức phong kiến suy vi, phá sản
đến độ tai ác là con người muốn tự khép mình vào đó cũng khơng được. Muốn u đương chính đáng thì giữa đường đứt gánh, trâm
gãy bình tan, cha mẹ con cái muốn cùng nhau sum họp thì tai bay vạ gió, phút chốc nên cảnh sinh li tử biệt. Dù chịu đem thân ngọc
mình vàng cam phận tì thiếp thì ngọc nát vàng phai, cam chịu tơi địi thì lại một phen mây gió tan tành, mong nương nhờ cửa phật
hứng giọt nước cành dương thì cửa từ bi nào thốt cảnh trầm ln khổ ải… Nhan sắc, tài hoa, phẩm hạnh, tất cả đã bị chôn vùi theo
mười lăm năm lưu lạc của đời Kiều. Giữa cuộc đời giông tố, thân phận con người trở nên mỏng manh chẳng khác gì cánh bèo mặt
nước.


Phận bèo bao quản nước sa
<i> Lênh đênh đâu nữa cũng là lênh đênh.</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

Có thể thấy, chưa bao giờ trong lịch sử văn học Việt Nam, vấn đề xã hội, vấn đề con người lại được đặt ra một cách trực diện,
khẩn trương, thống thiết, đứt ruột như trong Truyện Kiều. Và cũng chưa bao giờ con người phải sống đày đọa, điêu đứng, vừa giãy
giụa chống lại, vừa cảm thấy bế tắc, bất lực như bị trói tay, trói chân trước số mệnh như thế:


Thơi cịn chi nữa mà mong
<i> Đời người đến thế là xong một đời…</i>


Đó khơng phải là tiếng thở dài ngao ngán mà là tiếng kêu tuyệt vọng của con người giữa trùng trùng bủa vây của tai ách mà xã hội
mang lại.


***


Với Truyện Kiều, Nguyễn Du đã đem đến cho người đọc bức tranh sinh động về hiện thực đen tối của xã hội đương thời với
những đường nét sắc sảo. Điều đáng nói là hiện thực ấy khơng tồn tại như một đối tượng khách quan trong tác phẩm mà gắn liền với
tấm lòng nhân đạo cao cả của nhà thơ. Với con mắt và trái tim của người nghệ sĩ chân chính, Nguyễn Du khơng chỉ day dứt, dằn vặt
lương tri trước những bất công ngang trái của cuộc đời, nhà thơ còn chia sẻ nỗi đau truyền kiếp và cảm thông với những khát vọng
thiết tha tự ngàn đời của con người, bức xúc trước những vấn đề nóng bỏng của thời đại. Đúng như thi hào đã nói:


<i>Trải qua một cuộc bể dâu</i>



<i>Những điều trông thấy mà đau đớn lòng.</i>


Thiên tài của Nguyễn Du là ở đó!


</div>

<!--links-->

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×