Tải bản đầy đủ (.docx) (10 trang)

duc tinh khiem nhuong

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.07 MB, 10 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1></div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

<b>Nguồn gốc(</b>

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia)


Lá lốt là cây

thân thảo

đa niên, có tên khoa học

<i><b>Piper lolot</b></i>

thuộc



họ Hồ tiêu

(Piperaceae), gồm các lồi như trầu khơng, hồ tiêu v.v.


Một số địa phương còn gọi là "nốt", (ở Nam bộ có nơi gọi là "Lá


lốp").



<b>Đặc điểm</b>



Cây lá lốt cao khoảng 30-40 cm, mọc thẳng khi cịn


non, khi lớn có thân dài không thể mọc thẳng mà


trườn trên mặt đất. Lá đơn, có mùi thơm đặc sắc,


nguyên, mọc so le, hình tim, mặt lá láng bóng, có năm


gân chính phân ra từ cuống lá; cuống lá có bẹ. Hoa


hợp thành cụm ở nách lá. Quả mọng, chứa một hạt.


Lốt thường được trồng bằng cách giâm cành nơi ẩm ướt, dọc bờ nướcLá và thân chứa các



ancaloit

và tinh dầu, có thành phần chủ yếu là

beta-caryophylen

; rễ chứa tinh dầu có thành phần


chính là

benzylaxetat

.



</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

Lá lốt có vị nồng, hơi cay, có tính ấm, chống hàn (như bị lạnh bụng), giảm đau, chống phong


hàn ở mức thấp, tay chân lạnh, tê tê, nơn mửa, đầy hơi, khó tiêu (có lẽ vì thế mà được dùng với


thịt bị nướng vốn khó tiêu), đau đầu vì cảm lạnh...



<b> </b>

<b> Cơng dụng</b>



Nước sắc toàn cây trị đầy bụng, nơn mửa vì bị hàn. Nước sắc rễ chữa tê


thấp vì bị khí hàn. Cành lá sắc đặc ngậm chữa đau răng. Lá tươi giã nát,


phối hợp với lá khế, lá đậu ván trắng, mỗi thứ 50g thêm nước gạn uống


giải độc, chữa say nắng.




Lá lốt còn được dùng để nấu nước ngâm tay chân cho người bị bệnh tê


thấp, hay đổ mồ hôi tay, mồ hôi chân.



Lá lốt được dùng làm gia vị và làm thuốc.Nó cịn là một ngun liệu để


nấu các món ăn như

chả băm viên lá lốt

,

ốc nấu chuối đậu

,

canh lá lốt

,… là


những món ăn đặc sắc của

Việt Nam

.



<b>Đặc điểm</b>



Đây

là các cây bụi mọc đứng hoặc mọc



leo,

thân và cành có gai. Lá kép lơng



chim

lẻ, lá chét khía răng, có lá kèm.



Hoa

thơm, màu sắc đa dạng: hồng,



trắng,

vàng hay đỏ... Hoa thường có



nhiều

cánh do nhị đực biến thành. Đế



hoa

hình chén.

<b>Quả bế</b>

, tụ nhau trong



đế hoa dày lên thành quả



<b>Nguồn gốc</b>

<b> Bách khoa toàn thư mở Wikipedia</b>


Hồng hay hường là tên gọi chung cho các lồi thực vật có<i><b>Rosaceae</b></i>, với hơn 100 lồi với màu
hoa đa dạng, phân bố từ miền ôn đới đến nhiệt đới. Các lồi này nổi tiếng vì hoa đẹp nên thường


gọi là hoa hồng. Đa phần có nguồn gốc bản địa châu Á, số ít cịn lại có nguồn gốc bản địa châu
Âu, Bắc Mỹ, và Tây Bắc Phi. Các loài bản địa, <b>giống cây trồng</b> và <b>cây lai ghép</b> đều được trồng
làm cảnh và lấy hương thơm.<b>[1]</b><sub>. Đơi khi các lồi này được gọi là tường vi.</sub>


<b>Ý nghĩa văn hóa</b>

Bách khoa tồn thư mở Wikipedi


Với vẻ đẹp, hình dáng và hương thơm nổi bật, hoa hồng là hoa biểu trưng hay được dùng nhất ở
phương Tây, tương ứng trong tổng thể với hình tượng hoa sen ở châu Á, cả hai đều gần gũi với
biểu tượng bánh xe. Trong văn hóa Ấn Độ, bơng hồng vũ trụ Triparasundari được dùng làm vật
đối chiếu với vẻ đẹp của người Mẹ thánh thần, biểu thị một sự hoàn mĩ trọn vẹn và khơng có
thiếu sót. Bên cạnh đó, hoa hồng còn tượng trưng cho phần thưởng cuộc sống, tâm hồn, trái tim,
tình u, và có thể được chiêm ngưỡng như một mandala[2] . Trong hệ tranh tượng Kitô giáo, hoa


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

thậm chí, là chính vết thương của Chúa[3]. Hình hoa hồng gơ-thích và hoa hồng hướng gió (hình


hoa hồng 32 cánh ứng với 32 hướng gió) đánh dấu bước chuyển của xu hướng biểu trưng của
hoa hồng sang xu hướng biểu trưng bánh xeTrong văn hóa phương Tây, hoa hồng, bởi sự tương
hợp với màu máu chảy, thường xuất hiện như là biểu tượng của sự phục sinh huyền bí. Abd Ul
Kadir Gilani so sánh hoa hồng với những vết sẹo trên cơ thể sống, trong khi đó F. Portal quan
niệm hoa hồng vào màu hồng hợp thành một biểu tượng của sự tái sinh do có quan hệ gần gũi
ngữ nghĩa của từ latinh rosa (hoa hồng) với ros (mưa, sương). Với người Hy Lạp hoa hồng vốn
là một loài hoa màu trắng, nhưng khi Adonis bị tử thương, nữ thần Aphorodite chạy đến cứu
chàng đã bị đâm phải một cái gai và máu đã nhuộm thẫm những bơng hồng cung tiến nàng.
Chính ý nghĩa biểu trưng về sự tái sinh đã khiến con người, từ thời cổ đại, đặt những bông hồng
lên các nấm mộ và Hecate, nữ thần âm phủ đôi khi được thể hiện với hình ảnh đầu quấn một
vịng hoa hồng có 5 lá.


<b> Cơng dụng(</b>

www.tienphong.vn/Suc-Khoe<i>)</i>


Hoa hồng dùng trị bệnh trong Đông y là chỉ cây cỡ nhỏ thuộc họhoa hồng, cịn gọi là hoa


hường, có mùi thơm, cánh hoa có màu hồng, trắng, vàng hay đỏ. Hoa hồng chủ yếu dùng để
chiết xuất hoặc cất làm nước hoa, ngồi ra hoa hồng cịn có tác dụng phịng và chữa bệnh rất
phong phú.Hoa hồng có vị ngọt, mùi thơm mát, tính bình. Từ thời cổ đại, người ta thường sử
dụng nước chiết xuất từ hoa hồng để điều trị rối loạn dây thần kinh, xông hương cho những
bệnh nhân mắc bệnh ung thư phổi, điều trị bệnh tim, thận...


Đặc điểm sinh thái


Cây sống dai, có khi khơng có thân, có khi thân cao lên hóa thành gỗ, ngắn, to,
thơ. Lá mọng nước, tiết diện 3 cạnh, có gai ở mép lá, mặt lá có đốm trắng màu xám
lợt hay màu xanh sáng chói, lá không cuống, đầu nhọn sắc, dài 20-30cm, rộng
3-5cm, dày 1-1,5cm. Lá mọc thành cụm như hoa thị ở gốc. Hoa có cán dài đến 1m,
màu vàng đỏ, hợp thành chùm dài. Quả nang hình trứng thn, lúc đầu màu xanh
sau nâu và dai, có 3 ơ, mỗi ơ đựng nhiều hạt. Lô hội ở miền Bắc Việt Nam được
trồng làm cảnh là Aloe maculata Forsk. Cây ra hoa vào mùa Thu.


Đặc tính( <i>caycanhthanglong.vn/A41B3688/<b>dac</b>-<b>tinh</b>-<b>cua</b>-cay-<b>nha</b>-<b>dam</b>.html)</i>


Cây nha đam (Cây Aloe) được biết đến tính chất có giá trị thượng hạng cho việc dùng trong y khoa và mục đích bảo
dưỡng sức khỏe.


Nha đam cơ bản thuộc loại cây thuộc loại Asphodelaceae, thân cây gồm lá mọc thẳng đứng, có gai ở hai bên rìa lá, màu
xám lợt hay màu xanh sáng chói.Là loại thơng thường có thấy ở lục địa African. Tuy nhiên, ngày nay người ta trồng như
một loại cây cảnh, bạn có thể thấy hầu như ở khắp nơi trên thế giới.


Nha đam có tính chất dịu mát và thanh nhiệt(<i>flpvietnam.com</i>)


Công dụng <i>www.webtretho.com/.../cho-hoi-cong-dung-cay-<b>nha</b>-<b>dam</b>-lo-hoi-aloe</i>
Dùng để chữa bệnh



</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

- Trị viêm loét dạ dày: Uống gel tươi
của lá Nha đam. Cứ vài giờ uống
một muỗng canh gel tươi lúc bụng
khơng có thức ăn sẽ làm lành vết
viêm loét dạ dày (không được quá
400mg gel tươi/ngày).


- Trị bệnh ngoài da: Dịch Nha đam
tươi có tác dụng làm săn da, làm
nhỏ lỗ chân lơng. Bơi gel tươi hàng
ngày lên mặt có tác dụng ngừa
nám, làm mịn da, ngừa mụn...
- Phòng ngừa sỏi niệu: Các
Anthraquinon sẽ kết hợp các ion
Calcium trong đường tiểu thành hợp
chất tan được để tống ra ngoài theo
nước tiểu.


Trong thực phẩm, lá Nha đam dùng
để ăn tươi với đường hoặc nấu chè.
Có nơi cịn dùng lá Nha đam để nấu
canh. Ngoài ra gel Nha đam cịn
được làm chất đơng kết cho rất
nhiều món ăn.


Trong mỹ phẩm


Do những đặc tính kỳ diệu trên. Các
nhà y dược học đã nghĩ đến những
loại mỹ phẩm được chế tạo từ gel


Nha đam để tạo ra những loại kem
dưỡng da, do pH của gel Nha đam
gần giống với pH của da cho nên
chúng làm cho da tươi tắn và điều
hòa được độ acid của da.


Hiện nay trên thị trường, nhiều hãng
mỹ phẩm đã lấy ngay chính tên Aloe
vera làm tên thương mại cho những
loại kem chống nắng, dưỡng da,
các loại dầu gội, dầu khử mùi hơi,
chất có tác dụng chống mốc, xà
phịng, dầu cạo râu...


Khơng những được làm mỹ phẩm,
cây Nha đam cũng đóng góp một
phần đáng kể trong lĩnh vực... mỹ
thuật. Giữa muôn ngàn hoa khoe
sắc thắm. Cây Nha đam tràn đầy
sức sống, mọc sừng sững hiên
ngang trông chẳng khác nào
"Gươm lạc giữa rừng hoa".


Bách khoa toàn thư mở Wikipedia


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

châu Phi. Hiện nay nó có mặt gần như tại mọi vùng nước ngọt của khu
vực nhiệt đới và cận nhiệt đới thông qua phổ biến tự nhiên hay nhờ
con người.


Đặc điểm sinh thái và nơi sống



Nó sống nổi trên mặt nước trong khi rễ của nó chìm dưới nước gần các đám lá trơi nổi. Nó là một loại cây lâu
nămmột lá mầm với các lá dầy, mềm tạo ra hình dáng giống như một cái nơ. Các lá có thể dài tới 14 cm và
khơng có cuống, có màu xanh lục nhạt, với các gân lá song song, các mép lá gợn sóng và được che phủ bằng
các sợi lông tơ nhỏ và ngắn. Nó là một lồi thực vật đơn tính, có các hoa nhỏ ẩn ở đoạn giữa của cây trong các
đám lá, các quả mọng màu lục có kích thước nhỏ được tạo ra sau khi hoa được thụ phấn. Lồi cây này có thể


sinh sản vơ tính, các cây mẹ và cây con liên kết với nhau bằng một thân bò ngắn, tạo ra các cụm bèo cái dầy
dặc.


Sự phát triển của nó làm cho nó trở thành một loại cỏ dại trong các tuyến đường thủy. Nó là loại cỏ dại sống
dưới nước phổ biến tại Hoa Kỳ, cụ thể là ở Florida là khu vực mà số lượng lớn của nó gây cản trở trên các tuyến
đường thủy. Nó là một lồi thực vật có khả năng làm giảm tính đa dạng sinh học của các vùng nước ngọt. Các
cụm bèo cái cản trở sự trao đổi khí trong mặt phân giới nước-khơng khí, điều này làm giảm lượng ơxy trong
nước và giết chết nhiều loài cá, chúng cũng ngăn cản sự chiếu sáng và giết chết nhiều loài thực vật sống ngầm
dưới nước, cũng như làm thay đổi cộng đồng thực vật sống nổi trên mặt nước bằng cách chèn ép chúng.
Sự sinh sản và sinh trưởng


Người ta có thể kiểm sốt sự sinh sản của chúng bằng cách vớt chúng khỏi mặt nước và đem đi xử lý. Các loại
thuốc diệt cỏ dưới nước cũng có thể sử dụng. Hai loại cơn trùng cũng đang được thử nghiệm như là biện pháp


kiểm soát sinh học. Một loại mọt (Neohydronomous affinis) ở vùng Nam Mỹ và ấu trùng của nó ăn các lá của
bèo cái, cũng như ấu trùng của một loài nhậy (Spodoptera pectinicornis) ở Thái Lan, đều là các công cụ kiểm
sốt có hiệu quả sự sinh trưởng của bèo cái.Bèo cái thông thường được sử dụng trong các ao nuôi cá ở các vùng
nhiệt đới để tạo nơi trú ẩn cho cá bột và cá nhỏ. Bèo cái cạnh tranh thức ăn với tảo trong nước vì thế nó có ích
trong việc ngăn ngừa sự bùng nổ của loài này.


Sử dụng


Một số tác giả cho rằng cây bèo cái có tác dụng hấp thụ các kim loại nặng và một số chất dinh dưỡng trong mơi


trường nước. Vì thế họ cho rằng nó có tính năng chống ơ nhiễm cho nước, đặc biệt quan trọng cho các vùng đô
thị một số quốc gia đang phát triển, do hệ thống dẫn và xử lý nước thải còn chưa hồn chỉnh nên đã gây ra tình
trạng ơ nhiễm nặng cho nước bề mặt.


<b>Nơi phân bố và sinh sống(Bách khoa tồn thư mở Wikipedia </b>

)



<b> Họ Rong đi chó</b> (danh pháp khoa học: <i><b>Ceratophyllaceae</b></i>) là
một họ thực vật có hoa chỉ chứa một chi duy nhất là


<i><b>Ceratophyllum</b></i>. Chi này phân bổ rộng khắp thế giới, nói chung
hay được tìm thấy trong các loại ao, hồ, đầm lầy cũng như các
dòng suối chảy chậm tại khu vực nhiệt đới và ôn đới và hay được
thả trong các bể cá cảnh.


</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

Cây thảo sống dai, khơng có rễ, mọc chìm lơ lửng trong nước, cành dài nhỏ. Lá mọc đối, phiến lá phân chia 3 -
4 lần làm thành các đoạn nhỏ hình sợi hơi cứng, mép có răng. Hoa đơn tính cùng gốc, mọc ở nách lá, khơng có
cuống. Hoa có nhiều lá đài, cánh hoa màu trắng; nhị nhiều ( đến 30 ) xếp thành nhiều vịng, khơng có chỉ nhị.
Quả bế hình trứng có mũi nhọn và 2 sừng dài đến 1cm.


Các loài trong chi Ceratophyllum mọc hồn tồn dưới mặt nước, thơng thường (mặc dù khơng phải luôn luôn)
trôi nổi trong môi trường sống của chúng. Thân cây có thể dài tới 1 m trong nhiều bể cá cảnh. Chúng không
chịu được sự khô hạn. Tại các khoảng dọc theo các đốt của thân cây chúng sinh ra các vòng lá màu xanh lục
sáng, thường là hẹp bản và tạo nhánh. Các lá phân nhánh này khá giịn và cứng. Chúng khơng có rễ, nhưng đôi
khi phát triển các lá bị biến đổi có bề ngồi tựa như rễ, với mục đích neo đậu cả cây xuống đáy nước. Hoa nhỏ
và không hấp dẫn, với hoa đực và hoa cái trên cùng một cây. Chúng sinh sống tốt trong môi trường nhiều ánh
sáng. Mặc dù có thể sống được trong mơi trường ít ánh sáng nhưng tốc độ phát triển rất chậm. Ở nhiệt độ thấp
chúng cũng phát triển chậm và tạo ra các lá dày hơn, tạo ra bề ngoài giống như một loài khác. Trong ao hồ nó
tạo thành các chồi dày vào mùa thu và chìm xuống đáy tạo ra cảm giác như thể nó bị sương giá làm chết nhưng
khi mùa xuân đến thì các chồi này sẽ phát triển trở lại dạng thân dài và dần



dần phủ kín ao hồ
Đặc tính


Việc nhân giống chúng khá dễ dàng. Chỉ với một mẩu nhỏ thân cây thì cuối
cùng nó cũng sẽ phát triển thành một cây mới. Nó tiết ra các chất có độc tính
đối với các lồi tảo (hành vi cảm nhiễm) và trong điều kiện thích hợp với nó
thì gần như nó ngăn cản một cách có hiệu quả sự phát triển của các loại tảo.
Cơng dụng:


Do bề ngồi của chúng cũng như khả năng tạo ra nhiều ôxy, nên người ta
hay sử dụng chúng trong các bể nuôi cá cảnh. Cây thường hay được thả trong


các bể nuôi cá làm cây trang trí. Rong đi chó cũng được dùng làm thức ăn cho lợn, cho ăn hoặc nấu chín với thức ăn
tinh, 1000g rong này tương đương 0,07 - 0,08 đơn vị thức ăn.


Ở Trung Quốc, toàn cây được dùng trị nội thương xuất huyết, viêm tuyến mang tai, viêm khí quản mạn tính. Ở Ấn Độ, lại
được dùng chữa thiểu năng mật và dùng trị bò cạp đốt.


<b>(Bách khoa toàn thư mở Wikipedia)</b>Phượng hay phượng vĩ,
phượng vỹ, xoan tây, điệp tây hoặc hoa nắng,là một loài <b>thực vật có </b>
<b>hoa</b> sinh sống ở vùng <b>nhiệt đới</b> hoặc <b>cận nhiệt đớ</b>i.<b> Mùa nở </b>


<b>hoa :</b>Phượng vĩ nở hoa từ khoảng tháng 4 đến tháng 6, tùy theo khu
khu vực


<b>Nguồn gốc, đặc điểm</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(8)</span><div class='page_container' data-page=8>

thường nó có thể cao tới một độ cao vừa phải (khoảng 5 m, mặc dù đơi khi có thể cao tới 12 m) nhưng có tán lá
tỏa rộng và các tán lá dày dặc của nó tạo ra những bóng mát. Trong những khu vực với mùa khô rõ nét thì nó
rụng lá trong thời kỳ khơ hạn, nhưng ở những khu vực khác thì nó là lồi cây thường xanh.Các hoa của phượng


vĩ lớn, với 4 cánh hoa tỏa rộng màu đỏ tươi hay đỏ hơi cam, dài tới 8 cm, còn cánh hoa thứ năm mọc thẳng,
cánh hoa này lớn hơn một chút so với 4 cánh kia và lốm đốm màu trắng/vàng hoặc cam/vàng (cũng có khi
trắng/đỏ). Thứ flavida nguồn gốc tự nhiên có hoa màu vàng (kim phượng). Quả là loại quả đậu có màu nâu sẫm
khi chín, dài tới 60 cm và rộng khoảng 5 cm; tuy nhiên, các hạt riêng rẽ lại nhỏ và cân nặng trung bình chỉ
khoảng 0,4 g, hạt to cỡ hai ngón tay út, hạt ăn rất bùi và ngon. Các lá phức có bề ngồi giống như lơng chim và
có màu lục sáng, nhạt đặc trưng. Nó là loại lá phức lơng chim kép: Mỗi lá dài khoảng 30-50 cm và có từ 20 đến
40 cặp lá chét sơ cấp hay lá chét lông chim lớn, và mỗi lá chét lông chim lớn lại được chia tiếp thành 10-20 cặp
lá chét thứ cấp hay lá chét con. Phượng vĩ cần khí hậu nhiệt đới hay cận nhiệt đới để phát triển tốt, nhưng nó có
thể chịu được các điều kiện khô hạn và đất mặn.


<b> Sinh trưởng</b>


Cây tái sinh hạt và chồi đều mạnh, có thể phát triển tốt trên mọi loại địa hình: ven biển, đồi núi, trung du. Cây
thuộc loại ưa sáng, mọc khoẻ, phát triển nhanh, không kén đất, rất dễ gây trồng. Tuy nhiên, nhược điểm lớn là
tuổi thọ không cao: cây trồng trên đường phố chỉ 30 tuổi là đã già cỗi, thân có dấu hiệu mục rỗng. Sâu bệnh,
nấm bắt đầu tấn cơng, cây trồng trong cơng viên, trường học có thể có tuổi thọ cao hơn nhưng cũng chỉ đạt
40-50 năm tuổi.


<b>Khu vực trồng:</b>Tại <b>Việt Nam</b>, Phượng vĩ được người <b>Pháp</b> du nhập vào trồng vào những năm cuối thế kỷ 19 tại các


thành phố lớn như: <b>Hải Phòng</b>, <b>Đà Nẵng</b>, <b>Sài Gòn</b>. Hiện nay Phượng vĩ là loài cây phổ biến của Việt Nam được trồng
rộng rãi từ Bắc vào Nam trên vỉa hè, công viên, trường học.


Công dụng:Quả phượng vĩ được sử dụng tại khu vực Caribe trong vai trò của bộ gõ âm nhạc với tên gọi:
<i>shak-shak hay maraca.Gỗ thuộc loại trung bình, dùng trong xây dựng,đồ gỗ dân dụng, đóng hịm, xẻ ván. Cây cho vỏ</i>
và rễ làm thuốc hạ nhiệt,chống sốt. Vỏ cây có thể sắc nước uống trị sốt rét, đầy bụng, tê thấp, giảm huyết áp. Lá
trị tê thấp và đầy hơi.


Tại Việt Nam, phượng vĩ là biểu tượng gắn liền với tuổi học trò, do mùa nở hoa của nó trùng với thời điểm kết



thúc năm học, mùa chia tay của nhiều thế hệ học trò. Do vậy, nó gắn liền với nhiều kỷ niệm buồn vui của tuổi
học trị, và vì thế người ta gắn cho nó tên gọi "hoa học trị". Thành phố Hải Phịng là khu vực trồng rất nhiều
phượng vĩ, vì thế thành phố này còn được gọi một cách văn chương là "thành phố Hoa Phượng Đỏ". Nhà thơ
Thanh Tùng có bài thơ Thời hoa đỏ đã được nhạc sĩ Nguyễn Đình Bảng phổ nhạc thành bài hát cùng tên, viết
vềnhững kỷ niệm của tuổi trẻ với mùa hoa phượng vĩ.


Đặc điểm sinh tháiBách khoa toàn thư mở Wikipedia


<b>Bàng</b> (danh pháp khoa học: <i><b>Terminalia catappa</b></i>) là một loài
cây thân gỗ lớn sinh sống ở vùng nhiệt đới, thuộc họ Trâm
bầu (Combretaceae). Nguồn gốc của loài này hiện vẫn đang
là vấn đề gây tranh cãi, nó có thể có nguồn gốc từ Ấn Độ,


bán đảo Mã Lai hay New Guinea.


</div>
<span class='text_page_counter'>(9)</span><div class='page_container' data-page=9>

cm, hình trứng, xanh sẫm và bóng. Đây là lồi cây có lá sớm rụng về mùa khơ; trước khi rụng thì các lá chuyển
màu thành màu đỏ ánh hồng hay nâu vàng, do các sắc tố như violaxanthin, lutein hay zeaxanthin.


Hoa đơn tính cùng gốc, với các hoa đực và hoa cái mọc trên cùng một cây. Cả hai loại hoa có đường kính
khoảng 1 cm, có màu trắng hơi xanh, khơng lộ rõ, khơng có cánh hoa; chúng mọc trên các nách lá hoặc ở đầu
cành. Quả thuộc loại quả hạch dài 5-7 cm và rộng 3-5,5 cm, khi non có màu xanh lục, sau đó ngả sang màu
vàng và cuối cùng có màu đỏ khi chín, chứa một hạt.


<b> Trồng và sử dụng</b>


Bàng được trồng trong khu vực nhiệt đới như là một loại cây cảnh hay để lấy bóng râm nhờ tán lá lớn và rậm.
Quả ăn được và có vị hơi chua. Hạt bàng thì dùng làm nguyên liệu để chế biến thành mứt.


Gỗ có màu đỏ, rắn chắc và chống thấm nước khá tốt;
tại Polynesia người ta dùng nó để đóng các loại canoe



(xuồng gỗ).


Lá chứa một số flavonoid (chẳng hạn kamferol hay


quercetin) cũng như các chất tanin (như punicalin,


punicalagin, tercatin), các chất saponin và


phytosterol. Do chứa nhiều hóa chất nên lá và vỏ thân
cây bàng còn được sử dụng trong nhiều nền y học cổ
truyền khác nhau vào một số mục đích. Chẳng hạn,
tại Đài Loan người ta dùng các lá rụng làm thuốc
chữa một số bệnh liên quan tới gan. Tại Suriname,
chè được làm từ lá bàng được dùng để chữa các bệnh
như lỵ và tiêu chảy. Người ta cũng cho rằng lá bàng
có chứa các chất ngăn cản ung thư (mặc dù không
thấy chúng thể hiện khả năng chống ung thư) và các
đặc trưng chống ôxi hóa cũng như chống phá hủy bộ
nhiễm sắc thể.


<b>Rau má </b>



Bách khoa toàn thư mở Wikipedia


<b>Đặc điểm</b>



</div>
<span class='text_page_counter'>(10)</span><div class='page_container' data-page=10>

Hoa rau má có màu từ ánh hồng tới đỏ, mọc thành các tán nhỏ, tròn gần mặt đất. Mỗi


hoa được bao phủ một phần trong 2 lá bắc màu xanh. Các hoa lưỡng tính này khá nhỏ


(nhỏ hơn 3 mm), với 5-6 thùy tràng hoa. Hoa có 5 nhị và 2 vịi nhụy. Quả có hình mắt



lưới dày dặc, đây là điểm phân biệt nó với các lồi trong chi Hydrocotyle có quả với bề


mặt trơn, sọc hay giống như mụn cơm. Quả của nó chín sau 3 tháng và toàn bộ cây,


bao gồm cả rễ, được thu hái thủ công.



<b>Sử dụng</b>



Theo Trung y, rau má có tính hàn (lạnh), tân (cay), khổ (đắng). Khi ăn ở dạng tươi như một loại


rau, người ta cho rằng nó giúp cho việc duy trì sự trẻ trung. Nước sắc từ lá rau má được coi là


có tác dụng hạ huyết áp. Loại nước sắc này cũng được coi là một loại thuốc bổ dưỡng để có sức


khỏe tốt (tăng trí nhớ, thị lực). Loại thuốc đắp từ lá cũng được dùng để điều trị những chỗ đau,


hạ sốt. Nó cịn được dùng trong điều trị các chứng phù; viêm thanh quản, tĩnh mạch, phế quản;


các bệnh trĩ, phong, eczema hay vẩy nến; giải ngộ độc sắn và lợi tiểu .



Một vài báo cáo khoa học cho thấy khả năng của rau má trong việc hỗ trợ làm lành vết thương.


Khi điều trị bằng rau má, sự liền sẹo được kích thích bằng việc sản xuất ra các chất keo loại I.


Việc điều trị này cũng cho thấy sự giảm sút đáng kể của các tác động viêm nhiễm và việc tạo ra


các nguyên bào sợi.



Các nhà thảo mộc học còn cho rằng nó có chứa nhân tố trường thọ gọi là 'Vitamin X trẻ trung'


có tác dụng

<i>bổ dưỡng cho não và các tuyến nội tiết</i>

và xác nhận rằng nước chiết từ rau má giúp


cải thiện các vấn đề về hệ tuần hoàn và da.



Tại Việt Nam, tinh rau má tươi đã được

Viện Công nghiệp Thực phẩm

sản xuất thành công.



</div>

<!--links-->

<a href=' /><a href=' /><a href=' /><a href=' />


<a href=' />

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×