Tải bản đầy đủ (.docx) (20 trang)

Nguyen Tuan chu nguoi tu tu VHVN3

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (223.26 KB, 20 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>NGUYỄN TUÂN (1910 - 1987) </b>


<i><b>Chỉ người ưa suy xét đọc Nguyễn Tuân mới thấy thú vị,</b></i>
<i><b>vì văn Nguyễn Tuân không phải thứ văn để người nông nổi thưởng thức. </b></i>
<i><b>(Vũ Ngọc Phan) </b></i>
<b>Bài liên quan : </b>


<b>Vấn đề văn bản của truyện Chữ người tử tù </b>
<b>Người lái đị sơng Đà</b>


<b>Về một cách tiếp cận tác phẩm Chữ người tử tù </b>


Cho đến nay và mãi nhiều năm về sau nữa, chắc chắn không ai nghi ngờ vị trí hàng đầu trong làng văn
Việt Nam hiện đại của Nguyễn Tuân. "Ông là một trong mấy nhà nhà văn lớn mở đường, đắp nền cho
văn xi Việt Nam thế kỷ XX" (Nguyễn Ðình Thi). Nói đến Nguyễn Tuân là nói đến một giá trị hiển
nhiên, gợi nhắc một vùng trời riêng, xôn xao thanh âm ngôn ngữ dân tộc. Sáng tác của ông tồn tại vừa
như những giá trị thẩm mỹ độc lập vừa gợi ý, kích thích tìm tịi, sáng tạo nên các giá trị mới.


<b>I. TIỂU SỬ - CON NGƯỜI - QUAN NIỆM NGHỆ THUẬT </b>


<b>1) Nguyễn Tuân sinh ngày 10-7-1910 tại phố Hàng Bạc, Hà Nội. Gia đình có truyền thống nho học. </b>
Nhưng lúc này nho học đã thất thế, nhường chỗ cho Tây học. Cả một thế hệ vốn gắn bó với cửa Khổng
sân Trình bỗng dưng trở nên lỗi thời trước xã hội giao thời Tây - Tàu nhố nhăng ; sinh ra tư tưởng bất
đắc chí (trong đó có cụ Tú Hải Văn, thân sinh của Nguyễn Tuân). Bối cảnh xã hội, không khí gia đình
đặc biệt ấy đã ghi lại dấu ấn sâu sắc trong cá tính, tư tưởng cũng như phong cách nghệ thuật của nhà
văn Nguyễn Tuân. Là một trí thức giàu tinh thần dân tộc, Nguyễn Tuân đã phải trải qua những năm
tháng vô cùng khổ sở, có lúc bế tắc, tuyệt vọng.


- Năm 1929, bị đuổi học và không được vào làm việc ở bất cứ cơng sở nào trên tồn cõi Ðơng Dương
(vì tham gia bãi khóa chống giáo viên Pháp nói xấu người Việt Nam, tại trường trung học Nam Ðịnh).
Cùng một nhóm bạn, vượt biên giới sang Lào; bị bắt ở Thái Lan, đưa về giam ở Thanh Hóa. Hơn một


năm sau, ra tù. Ði trái phép vào Sài Gịn, đến Vinh thì bị bắt và bị quản thúc ở Thanh Hóa. Kể từ đây,
Nguyễn Tuân lâm vào tình trạng khủng hoảng tinh thần sâu sắc. Ơng lao vào con đường ăn chơi trụy
lạc, thành kẻ "đại bất đắc chí", như một người "hư hỏng hồn toàn".


- Năm 1938, tham gia vào đoàn làm phim "Cánh đồng ma", quay tại Hồng Kông.
- Từ 1942 đến 1945, ngày càng bế tắc, suy sụp ; đã có ý định tự sát.


* Cách mạng tháng Tám đã cứu sống cuộc đời cũng như trang viết Nguyễn Tn. Ơng hân hoan chào
đón cuộc đổi đời lịch sử, tự "lột xác" và chân thành đứng vào hàng ngũ nhà văn Cách mạng.


- Năm 1950, vào Ðảng Cộng sản Ðông Dương. Từ 1948-1958, là tổng thư ký Hội Văn nghệ Việt Nam.
- Luôn hăng hái tham gia vào hai cuộc kháng chiến. Tiếp tục đi nhiều, có mặt ở tuyến lửa ác liệt, dùng
văn chương ngợi ca đất nước và cùng nhân dân đánh giặc.


* Nguyễn Tuân mất ngày 28-7-1987 tại Hà Nội.


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

Ðọc văn ơng, người đọc khơng chỉ có khối cảm thẩm mỹ từ nghệ thuật ngơn từ mà còn được bồi
dưỡng thêm tri thức về nhạc, họa, điêu khắc, kiến trúc, lịch sử, địa lý, điện ảnh,... Thực tế ấy chứng tỏ
Nguyễn Tuân là một tài năng phong phú, có năng lực ở nhiều lĩnh vực nghệ thuật.


<b>3) Ðời viết văn hơn nửa thế kỷ của Nguyễn Tuân là một quá trình lao động nghệ thuật thật sự nghiêm </b>
túc. Về sau, khi đã ở đỉnh cao nghề nghiệp, ông vẫn không bao giờ tỏ ra lơi lỏng, hời hợt ; mà ngược
lại, luôn nghiêm khắc với chính mình. Ðây là một nhà văn "suốt đời đi tìm cái Ðẹp, cái Thật" (Nguyễn
Ðình Thi), tự nhận mình là người "sinh ra để thờ Nghệ Thuật với hai chữ viết hoa".


- Trước Cách mạng tháng Tám, trong bối cảnh nước mất, xã hội đảo điên "lộn tùng phèo" mọi thứ quan
niệm, mọi giá trị, Nguyễn Tuân đã đứng hẳn về phía dân tộc và truyền thống dũng cảm chống lại sức
công phá của lối sống xu thời. Sáng tác của ông thời kỳ này dồn sức chủ yếu vào việc phục hiện lại các
giá trị văn hóa thuộc lĩnh vực tinh thần và xã hội. Trên trang viết Nguyễn Tuân, những "vẻ đẹp xưa"
chợt sống dậy trong niềm xót xa tiếc nuối khôn nguôi. Dù điều kiện bấy giờ không cho phép nhà văn


bộc lộ trực tiếp tâm sự u hoài đối với dân, với nước, người đọc vẫn cảm nhận được một tấm lòng chân
thành và rất mực thủy chung. Ông đã ghé vai vào chống chỏi, hàn gắn, sắp xếp lại với kỳ vọng gìn giữ
những giá trị thiêng liêng nhất vốn hun đúc nên quốc hồn, quốc túy Việt Nam. Nếu có thể ví trang sách
như tấm lá chắn hữu hiệu thì nhà văn Nguyễn Tuân - giai đoạn trước 1945 - chính là người cảm tử
quân đang chiến đấu với cái Ác, tử thủ ở thành trì Chân - Thiện - Mỹ.


- Từ sau 1945, Nguyễn Tuân viết đều đặn, càng tỏ ra sâu sắc trong tư tưởng nghệ thuật. Nhà văn có
dịp đi nhiều, vừa đi vừa mở lịng đón nhận bao nhiêu thanh sắc của cuộc sống mới đang từng giây từng
phút sinh sôi. Nếu trước kia chỉ có thể bộc lộ tâm sự yêu nước thương dân một cách kín đáo, thì giờ
đây con người tài hoa uyên bác ấy như được tháo cũi sổ lồng, phát huy hết mọi sở trường, cất cao lời
ngợi ca đất nước và con người Việt Nam trong thời đại mới.


Nếu trước Cách mạng tháng Tám, quan niệm về cái Ðẹp của Nguyễn Tuân đậm màu sắc chủ quan,
"khơng bà con gì với ln lý thời đại" thì giờ đây, đã có sự hài hịa cần thiết. Bởi cái Ðẹp giờ hiện hữu
trong thực tại, là đời sống mn màu của Nhân Dân ; như có thể cầm lên tay mà nâng niu ngắm nghía.
Hồi cổ khơng cịn mang ý nghĩa níu kéo dĩ vãng mà được nâng lên thành ý thức về sự góp mặt của dĩ
vãng ở hiện tại.


II. SỰ NGHIỆP SÁNG TÁC :
<b>* Tác phẩm tiêu biểu : </b>


- Trước 1945 : Một chuyến đi (1938), Vang bóng một thời (1939), Ngọn đèn dầu lạc (1939), Thiếu quê
hương (1940), Tàn đèn dầu lạc (1941), Chiếc lư đồng mắt cua (1941), Tùy bút I (1941), Tùy bút II
(1943), Tóc Chị Hồi (1943), Nguyễn (1945).


- Sau 1945 : Chùa Ðàn (1946), Ðường vui (1949), Tình chiến dịch (1950), Thắng càn (1963), Tùy bút
kháng chiến và hịa bình (Tập I/1955, tập II/1956), Sông Ðà (1960), Hà Nội ta đánh Mỹ giỏi (1972),
Ký (1976), Hương vị và cảnh sắc đất nước (1978), Tuyển tập Nguyễn Tuân (1994).


<b>1) Nguyễn Tuân có một khoảng thời gian thử bút ở một số thể loại trước khi dừng lại và tỏa sáng </b>


<b>với tùy bút. </b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

nghênh kiêu bạc ; là lối văn cầu kỳ trúc trắc mà uyên bác hơn người.


- Ðến 1937, Nguyễn Tuân lại xuất hiện trên các báo với những truyện ngắn hiện thực trào phúng, ở đó
thường vỡ ra những tràng cười châm biếm thoải mái, đậm đà phong vị dân gian (Ðánh mất ví, Một vụ
bắt rượu, Mười năm trời mới gặp lại cố nhân). Tuy nhiên, do trào lưu hiện thực phê phán lúc bấy giờ đã
phát triển rất mạnh với nhiều tên tuổi lớn như Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan, Nguyên Hồng, Nam
Cao,... cho nên thật khơng dễ dàng đối với Nguyễn Tn trong việc tìm một vị trí có hạng trên văn đàn.
Vả chăng, có lẽ hơn ai hết, Nguyễn Tuân sớm nhận ra rằng thể loại truyện ngắn vẫn chưa phù hợp với
sở trường của mình.


- Nguyễn Tn chỉ thực sự cơng nhận như một phong cách văn chương độc đáo kể từ tùy bút - du ký
"Một chuyến đi", năm 1938. Tác phẩm là tập hợp những trang viết từ chuyến du lịch không mất tiền
sang Hương Cảng để tham gia thực hiện bộ phim "Cánh đồng ma" - một trong những phim đầu tiên
của Việt Nam. Nét đặc sắc nhất ở "Một chuyến đi" chính là giọng điệu. Có thể nói đến đây Nguyễn
Tn mới tìm được cách thể hiện giọng điệu riêng, một giọng điệu hết sức phóng túng, linh hoạt đến kỳ
ảo : "Khi thì trang nghiêm cổ kính, khi thì đùa cợt bơng phèng, khi thì thánh thót trầm bổng, khi thì xơ
bồ bừa bãi như là ném ra trong một cơn say chếnh choáng, khinh bạc đấy, nhưng bao giờ cũng rất đỗi
tài hoa" (Nguyễn Ðăng Mạnh). Nhân vật chính trong tác phẩm là cái "tôi" ngông nghênh kiêu bạc của
nhà văn. Một cái "tôi" sau quá nhiều đắng cay tủi cực đã hầu như hoài nghi tất cả, chỉ cịn tin ở cái vốn
tình cảm, ý nghĩ, cảm xúc sắc sảo và tinh tế của mình tích lũy được trên bước đường xê dịch.


- Một năm sau, 1939, bằng tập truyện "Vang bóng một thời" Nguyễn Tuân đã vươn đến đỉnh cao của
sáng tạo nghệ thuật. Tác phẩm gần đạt đến độ "toàn thiện toàn mỹ" ấy (Vũ Ngọc Phan) góp phần đưa
nghệ thuật văn xuôi Việt Nam phát triển thêm một bước mới trên con đường hiện đại hóa. "Vang bóng
một thời" vẽ lại những cái "đẹp xưa" của thời phong kiến suy tàn, thời có những ơng Nghè, ơng Cống,
ơng Tú thích chơi lan chơi cúc, thích đánh bạc bằng thơ hoặc nhấm nháp chén trà trong sương sớm với
tất cả nghi lễ thành kính đến thiêng liêng. Cũng vào thời ấy, tên đao phủ còn chém người bằng đao,
người ta còn đi lại trên đường bằng võng, bằng cáng ; vừa đi vừa dềnh dàng đánh cờ bằng miệng, ...


Thời gian hầu như chưa trở thành nỗi ám ảnh lớn đối với con người, bởi nó còn được đo bằng mùa,
bằng tiết. Nhưng những vẻ đẹp có màu sắc truyền thống ấy đang có nguy cơ bị mai một. Ðau đớn nhận
ra điều đó, Nguyễn Tn ra sức níu giữ, gom góp và phục chế lại bằng tất cả tấm lịng thành kính.
"Vang bóng một thời", vì thế, có thể được xem như một bảo tàng lưu giữ các giá trị văn hóa cổ truyền
của dân tộc.


- Từ sau "Vang bóng một thời" đến năm 1945, sáng tác của Nguyễn Tuân dần đi vào ngõ cụt. Nếu như
ở "Thiếu quê hương" (1940), "Chiếc lư đồng mắt cua" (1941) tuy mải mê với những lạc thú trần tục,
cái "tôi" vẫn còn đầy tự trọng và giữ được ý thức về bản thân mình thì từ 1942, tình hình có khác đi.
Vẫn cái "tơi" ấy nhưng đã có vẻ mất tự tin và niềm tin vào cuộc sống. Trong những năm đen tối này,
đời sống tinh thần của Nguyễn Tuân lâm vào tình trạng ngày càng khủng hoảng sâu sắc. Những trang
viết thưa dần. Bên cạnh những đề tài cũ (vẻ đẹp xưa, đời sống trụy lạc), xuất hiện thêm các đề tài mới
hướng về thế giới của yêu tinh, ma quỷ. Ngay tiêu đề các tác phẩm : "Xác ngọc lam", "Ðới roi", "Rượu
bệnh", "Loạn âm" cũng đủ nói lên tình trạng bế tắc của ngòi bút Nguyễn Tuân thời kỳ này.


* Dõi theo quá trình sáng tác của Nguyễn Tuân giai đoạn trước Cách mạng tháng Tám, thật dễ nhận ra
sự thay đổi rõ rệt về tư tưởng nghệ thuật, nhất là từ "Vang bóng một thời" trở về sau. Ðiều này hồn
tồn có thể lý giải được nếu nhìn vào quy luật của chủ nghĩa lãng mạn : bao giờ cũng khởi đầu thật ấn
tượng bằng việc khám phá và đề cao cái "tôi" cá nhân, để rồi sau giây phút choáng ngợp ấy tất cả vụt
trở nên nhỏ nhoi, trống vắng và buồn chán đến nao lòng. Dẫu sao, những trang viết của Nguyễn Tuân
vẫn luôn được đón nhận bằng thái độ trân trọng và thơng cảm sâu sắc; bởi độc giả nhận ra ở đấy một
tấm lòng chân thành, cả trong những thời điểm khắc nghiệt nhất.


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

hoang mang vừa đầy ắp hy vọng của một trí thức tự "lột xác" để dấn thân vào cuộc đời mới (Vô đề,
Ngày đầy tuổi tơi Cách Mệnh), Nguyễn Tn cịn có "Chùa Ðàn" - một tác phẩm được viết khá công
phu và đầy tâm huyết. "Chùa Ðàn" là truyện về một nhân vật mắc căn bệnh cá nhân chủ nghĩa, ích kỷ
đến tàn nhẫn ; nhưng từ sau 1945, như được uống liều thuốc cải lão hoàn đồng, tự cải tạo vươn lên
thành con người mới, sống chan hòa với xung quanh. Có nhiều ý kiến đánh giá chưa thật thống nhất
đối với tác phẩm này. Mới đọc qua, dễ có ấn tượng về một q trình đổi thay có vẻ giản đơn, cơng
thức. Nhưng nếu xem xét tác phẩm trong cả quá trình sáng tác của nhà văn thì khơng thể khơng cơng


nhận "Chùa Ðàn" là một cố gắng đáng trân trọng.


- Tiếp theo, hai tập tùy bút : "Ðường vui" (1949) và "Tình chiến dịch" (1950) - ghi nhận chuyển biến
thật sự sâu sắc của ngòi bút Nguyễn Tuân. Ðáp lời kêu gọi của Ðảng, Nguyễn Tuân hăng hái xốc ba lô
lên vai dấn thân khắp các nẻo đường chiến dịch. Cái "tơi" giờ đây khơng cịn phá phách, ngơng nghênh
nữa mà rưng rưng hòa nhập, sẻ chia với đồng bào đồng chí. Giọng điệu văn chương trở nên sơi nổi tin
yêu, tràn ngập một tình cảm chân thành đến hồn nhiên đối với quê hương đất nước, với Cách mạng và
kháng chiến. Ngỡ như sau phút dừng chân bên đường để định phương hướng, Nguyễn Tuân lại tiếp tục
bơn ba trên hành trình đi tìm cái Ðẹp, cái Thật. Có điều khác là những giá trị ấy giờ đây khơng phải
mất cơng tìm kiếm ở cõi q vãng hoặc vơ hình nào mà hiện hữu ngay trong cuộc đời thực đang từng
giây từng phút sinh sôi cuồn cuộn trước mắt. Nguyễn Tuân như chuếnh choáng say sưa trước niềm
hạnh phúc vơ biên ấy. Ơng vốc từng vốc lớn chất liệu hiện thực và bày biện một cách hết sức tài hoa,
tinh vi lên trang viết để thết đãi cả nhân dân mình. Hàng loạt tùy bút đặc sắc ra đời trong mạch cảm
hứng ấy : "Phở", "Cây Hà Nội", "Con rùa thủ đô", "Tìm hiểu Sê Khốp",...


- "Sơng Ðà", viết từ 1958 đến 1960, là cái mốc quan trọng, đỉnh cao mới trong sáng tác của Nguyễn
Tuân từ sau Cách mạng tháng Tám. Tác phẩm như một dòng thác lớn thanh âm ngôn ngữ, cảm xúc, tư
tưởng được khơi đúng nguồn mạch chính, hệt con sơng Ðà "hung bạo và trữ tình", chảy băng băng qua
vùng Tây Bắc hùng vĩ và ngạo nghễ với thời gian. Ðọc "Sông Ðà", thấy trữ lượng cái Ðẹp - chất "vàng
mười" của đất nước và con người Việt Nam trong cuộc sống mới - quả là nhiều vô kể. Cánh cửa tâm
hồn tài hoa, lãng tử của Nguyễn Tuân như mở toang ra cho cái Ðẹp ùa vào :


"Ðời sống Tây Bắc ngày nay là một tấm lòng tin tưởng khơng bờ bến, tin mình tin người, mấy chục
dân tộc miền cao và đồng bằng tin cậy lẫn nhau, và nhất là tin chắc vào cái chế độ đẹp sáng do tay
mình đắp cao mãi lên trên chỗ cao nguyên tiềm tàng sức sống này".


- Từ sau "Sông Ðà", Nguyễn Tuân tiếp tục đi và viết nhiều, chủ yếu vẫn ở thể tùy bút, được tập trung in
trong các tác phẩm tiêu biểu : "Hà Nội ta đánh Mỹ giỏi" (1972), "Ký" (1976), "Hương vị và cảnh sắc
đất nước" (1978). Nhìn chung, sáng tác thời kỳ này có thể phân thành hai mảng chính : mảng thứ nhất
viết về tình cảm Bắc - Nam và đấu tranh chống Mỹ - Ngụy chia cắt đất nước ; mảng thứ hai tiếp tục


khai thác vẻ đẹp của đất nước và con người Việt Nam, của truyền thống văn hóa Việt Nam trong thời
đại mới. Cơng cuộc chống Mỹ đã đưa dân tộc ta lên tầm cao của thời đại mới. Tinh thần quyết thắng từ
tầm cao lịch sử ấy là âm hưởng chung của văn học thời kỳ này. Tuy nhiên, Nguyễn Tuân đã thể hiện
tinh thần ấy theo một cách riêng. Dưới ngòi bút của ông, người Việt Nam vừa đánh Mỹ vừa sản xuất
trong tư thế ung dung, sang trọng và đầy tài hoa ; tư thế của một dân tộc khơng chỉ giành được chính
nghĩa trong chiến đấu giữ nước mà cịn có bề dày truyền thống văn hóa lâu đời. Nhiều bài ký khiến
người đọc phải ngỡ ngàng trước một sức bút kỳ lạ với vốn sống ngồn ngộn, tinh tế ; vừa đầy ắp liên
tưởng bất ngờ, thú vị vừa nóng hổi tính thời sự. Giai đoạn này, bọn xâm lược Mỹ và bè lũ tay sai như
lọt vào đúng tầm ngắm của Nguyễn Tuân. Sự đối lập rõ rệt giữa truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân
tộc ta với dã tâm của kẻ thù tạo nên nguồn cảm hứng lớn cho sáng tác. Ông đã nã những phát cực kỳ
lợi hại, bóc trần bản chất xảo quyệt của chúng, dù được chúng ngụy trang rất khéo léo ; góp phần động
viên và tăng cường nhận thức của quần chúng về chiến tranh chống Mỹ, cứu nước.


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

<b>1) Giáo sư Nguyễn Ðăng Mạnh có nhận định : "Hạt nhân của phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân có</b>
thể gói gọn trong một chữ ngơng. Cái ngơng vừa có màu sắc cổ điển, kế thừa truyền thống tài hoa bất
đắc chí của những Nguyễn Khuyến, Tú Xương, Tản Ðà,... và trực tiếp hơn là cụ Tú Lan, thân sinh nhà
văn ; vừa mang dáng vẻ hiện đại, ảnh hưởng từ các hệ thống triết lý nổi loạn của xã hội tư sản phương
Tây như triết lý siêu nhân, quan niệm về con người cao đẳng, thuyết hiện sinh...”


Ngông là biểu hiện của sự chống trả mọi thứ nền nếp, phép tắc, định kiến cứng nhắc, hẹp hòi của xã
hội bằng cách làm ngược lại với thái độ ngạo đời.


Trước Cách mạng tháng Tám, Nguyễn Tuân chơi ngông một cách cực đoan. Mọi sở thích, quan niệm
riêng đều được đẩy lên thành các thứ chủ nghĩa : chủ nghĩa duy mỹ, chủ nghĩa xê dịch, chủ nghĩa
hưởng lạc, chủ nghĩa ẩm thực,.... Thực ra, chủ nghĩa độc đáo trong đời sống cũng như trong nghệ thuật
mà biểu hiện là thú chơi ngông của Nguyễn Tuân không chỉ đơn thuần là phản ứng tâm lý của một cá
nhân trước tấn kịch xã hội. Nó cịn bao hàm cái khí khái của người trí thức u nước khơng cam tâm
chấp nhận chế độ thực dân, tự đặt những nghịch thuyết để tách mình ra và vượt lên trên cái xã hội của
những kẻ xu thời, thỏa mãn với thân phận nơ lệ. Như vậy, từ bản chất, cái ngơng đó bao hàm một nội
dung luân lý đạo đức truyền thống. Sau 1945, Nguyễn Tn khơng cịn lý do để mà gây sự, mà ném đá


vào đời như trước nữa. Cái ngông tự mất đi phần cực đoan, chỉ giữ lại cái cốt cách vốn tạo nên nét độc
đáo cho trang biết. Thói quen và sở thích tìm cách nói mới lạ, khơng giống ai khiến ngịi bút ông luôn
tràn đầy sáng tạo và có sức hấp dẫn mạnh mẽ. Do đó, hồn tồn có thể khẳng định : cái ngông tồn tại
như hạt nhân, chi phối toàn bộ các phương diện khác của phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân ; từ đề
tài, hệ thống nhân vật cho đến thể loại, giọng điệu, ngôn ngữ.


<b>2) Mới, lạ, không giống ai - là những đặc điểm dễ nhận thấy ở hệ thống đề tài. Mọi thứ Nguyễn Tuân </b>
bày biện đều có hương vị đặc sản, từ những nguồn "chưa ai khơi" nên thường tạo được cảm giác rất
mạnh, ấn tượng rất sâu. Ðến với những trang viết của ngòi bút tài hoa ấy một mặt người đọc thấy say
sưa trước cảnh, tình và tri thức phong phú các các loại được bày biện một cách đẹp đẽ ; mặt khác, khi
cảm giác nhất thời qua đi, bao giờ người ta cũng thấy như quý yêu thêm một chút, tự hào thêm một
chút về dân tộc mình, về thời đại mình đang sống. Hóa ra những điều tưởng chừng tủn mủn, lặt vặt kia
được Nguyễn Tuân gọi về để làm sống dậy trong chúng những ý nghĩa có tính tư tưởng cao cả, chứ
không nhằm thỏa mãn cảm giác hiếu kỳ, hời hợt.


Hệ thống nhân vật của Nguyễn Tuân bao giờ cũng mang dáng vẻ riêng, độc đáo và rất đẹp - vẻ đẹp của
tài hoa, của nhân cách. Ở cả hai giai đoạn sáng tác, nhà văn luôn trân trọng những "đấng tài hoa" và say
mê miêu tả, chiêm ngưỡng họ. Mỗi nhân vật thường sành hơn người ở một thú chơi hoặc một ngón
nghề nào đó, đầy tính nghệ thuật. Ðó là cụ Kép, cụ Sáu, cụ Nghè Móm, ơng Phó Sứ, ơng Cử Hai,...
những nghệ sĩ bậc thầy của nghệ thuật uống trà, uống rượu, chơi đèn kéo quân và đánh bạc bằng thơ
(trong "Vang bóng một thời"). Là ơng Thơng Phu lắm tài nhiều tật, cuối cùng đã gục chết trên một ván
cờ đất vì uất ức (trong "Chiếc lư đồng mắt cua"). Tài hoa, một khi đi kèm với nhân cách cao thượng thì
càng đáng kính trọng. Nhân vật Huấn Cao tài hoa với khí phách, nghị lực phi thường là một tính cách
tiêu biểu, được Nguyễn Tuân rất mực yêu thích.


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

vườn hoa hợp tác".


Hình ảnh người lao động mới trong "Sơng Ðà (1960) cũng thật đẹp đẽ, lung linh giữa vùng hào quang
của tài hoa. Chính họ, chứ khơng ai khác, là những kỹ sư, nghệ sĩ đang tự nguyện tự hào góp cái tài cái
trí của mình để đắp xây cuộc sống mới, nền văn hóa nghệ thuật mới.



<b>3) Tìm đến với tùy bút cũng là con đường tất yếu của cá tính và phong cách Nguyễn Tuân. Dường </b>
như ơng chỉ có thể gắn bó với lối văn nào thật sự tự do và chấp nhận những cảm xúc đậm màu sắc chủ
quan. Trong tay ông, thể tùy bút đã đạt đến đỉnh cao của khả năng ghi nhận và thể hiện đời sống.
- Xét đến cùng, cái duyên riêng không lẫn lộn, không ai bắt chước được của tùy bút Nguyễn Tuân
chính ở sự linh hoạt, phong phú đến thần tình của giọng điệu văn chương. Có nhiều chi tiết tưởng rất
bình thường nhưng bằng giọng điệu độc đáo, khả năng quan sát sắc sảo, thơng minh, hóm hỉnh cộng
với hệ thống lý lẽ khúc chiết, những triết lý có chiều sâu - nhà văn đã khiến nó trở nên lung linh kỳ ảo,
gợi mở nhiều liên tưởng mới lạ. Giọng điệu của tùy bút Nguyễn Tuân thường là giọng kể. Người dẫn
chuyện ln đóng vai trị quan trọng, trực tiếp tham gia vào câu chuyện và có quan hệ thân mật, tin cậy
với các nhân vật khác. Người ấy thường có giọng lịch lãm, đơi khi tỏ ra hoài nghi, đùa bỡn nhưng vẫn
đảm bảo độ mãnh liệt của cảm xúc và tầm cao tư tưởng bằng rất nhiều từng trải.


Ðặc điểm nổi bật của giọng điệu tùy bút Nguyễn Tuân chính là sự phong phú, đa thanh, thỏa mãn đến
hoàn hảo những sắc thái tình cảm tinh tế nhất. Trong mọi tình huống nhà văn ln có cách nói phù hợp,
khơng chung chung, tạo được khơng khí cần thiết cho ý đồ nghệ thuật của mình. Dường như một khi đã
bắt đúng giọng thì khơng cịn giản đơn là viết nữa, nhà văn trở thành nghệ sĩ, mặc sức vẫy vùng múa
lượn trên đỉnh cao sáng tạo nghệ thuật. Như dịng sơng Ðà "vừa hung bạo vừa trữ tình", mạch văn có
lúc cuồn cuộn, ầm ào, gân guốc ; có lúc đằm thắm, sâu lắng, thiết tha :


"Còn xa lắm mới đến cái thác dưới. Nhưng đã thấy tiếng nước réo gần mãi lại, réo to mãi lên. Tiếng
nước thác nghe như là ốn trách gì, rồi lại như là van xin, rồi lại như là khiêu khích, giọng gằn mà chế
nhạo. Thế rồi nó rống lên như tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu rừng tre nứa
nổ lửa, đang phá tung rừng lửa, rừng lửa càng gầm thét với đàn trâu da cháy bùng bùng. Tới cái thác
rồi. Ngoặt khúc sông lượn, thấy sóng bọt đã trắng xóa cả một chân trời đá".


" Con sông Ðà tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung
nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xn".


- Nguyễn Tn có lối ví von, so sánh thật chính xác, mới lạ ; sự vật được miêu tả trong trường liên


tưởng, cảm giác chuyển đổi tinh tế, bất ngờ :


"Nước bể Cô Tô sao chiều nay nó xanh quá quắt đến như vậy ? (...) Cái màu xanh luôn luôn biến đổi
của nước bể chiều nay trên biển Cô Tô như là thử thách cái vốn từ vị của mỗi đứa tôi đang nổi gió
trong lịng. Biển xanh như gì nhỉ ? Xanh như lá chuối non ? Xanh như lá chuối già ? Xanh như mùa thu
ngả cốm làng Vòng ? Nước biển Cô Tô đang đổi từ vẻ xanh này sang vẻ xanh khác. Nó xanh như cái
màu áo Kim Trọng trong tiết Thanh Minh ? Ðúng một phần thơi. Bởi vì con sóng vừa dội lên kia đã gia
giảm thêm một chút gì, đã pha biến sang màu khác. Thế thì nước biển xanh như cái vạt áo nước mắt
của ơng quan Tư Mã nghe đàn tì bà trên con sóng Giang Châu thì có đúng khơng ? (...) Sóng cứ kế tiếp
cái xanh mn vẻ mới, và nắng chiều ln ln thay mầu cho sóng. Mà chữ thì khơng tài nào tn ra
kịp với nhịp sóng".


</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

chợt trở nên dồi dào sức biểu hiện. Hãy xem cách ông dùng hai từ "góa bụa" và "lõa lồ" :


"Hiu quạnh sống trong người mình và chung quanh mình, cái gì cũng gợi đến những ý vắng, lạnh và cũ
và mỏi và ngừng hết. Ngồi ăn một mình cả một mâm cơm chiều nay, tự nhiên tơi có cái cảm tưởng gở
dại là mình đã trở nên một người góa bụa, hồn tồn góa bụa. Góa vợ con, thân thích, anh em bạn, góa
nhân loại, góa tất cả. Bát cơm và vào miệng, chỉ là những miếng thê lương".


"Mãi đến bây giờ về gần đến Phố, tôi mới nhớ ra trong xe cịn có thêm một hành khách nữa. Ấy là một
người đàn bà, một thứ đàn bà tồi. Tồi ở chỗ lõa lồ trong câu nói tiếng cười. Tồi ở cái cách phục sức rẻ
tiền mà cứ gắng làm ra lộng lẫy cho kỳ được".


Vốn từ vựng ấy, có lúc Nguyễn Tn dùng để chơi ngơng với đời, hoặc để trêu ghẹo thiên hạ và xót xa
cho thân mình. Ơng tự nhận xét : "Ngơn ngữ của Nguyễn lủng cà lủng củng, dấm dẳn cứ như đấm vào
họng. Ðọc lên nghĩa tối quá lời sấm ông trạng. Nguyễn cứ lập ngôn một cách bướng bỉnh vì đời nó ngu
thế thì khơng bướng bỉnh sao được". Từ sau Cách mạng tháng Tám, khơng cịn cực đoan nữa, Nguyễn
Tuân dùng ngôn từ như công cụ đắc lực để cất cao lời ngợi ca tổ quốc, ngợi ca nhân dân mình và giáng
những địn thật cay độc vào bản chất tàn bạo của kẻ thù.



<b>IV. KẾT LUẬN : </b>


Trong nền văn học Việt Nam hiện đại, Nguyễn Tuân thật xứng đáng ở tầm cỡ nhà văn lớn. Nói đến
ơng, người ta nghĩ ngay đến một sự nghiệp sáng tác đồ sộ, rất mực tài hoa và độc đáo. Không thể tưởng
tượng nổi sẽ lạnh lẽo và tiêu điều tới mức nào nếu đại ngàn văn chương dân tộc thiếu vắng những nghệ
sĩ ngôn từ bậc thầy như nhà văn Nguyễn Tuân.


Ðặc biệt, Nguyễn Tuân "lớn" ở cả hai thời kỳ, từ cuộc đời cũ đến cuộc đời mới ; vừa là cây bút nổi bật
của xu hướng văn học lãng mạn trước năm 1945 với đủ thứ "tật bệnh điển hình", vừa ở trong hàng ngũ
những nhà văn thành tâm chào đón và chân thành đi theo Cách mạng đến cùng. Trong hành trình gian
khổ hơn nửa thế kỷ ấy có lúc va vấp, có lúc chênh vênh, cũng có lúc phải tự "lột xác" đớn đau, nhưng
nhà văn vẫn luôn giữ vẹn được nhân cách, bản ngã của mình. Cái ngơng, suy đến cùng, lại như một giá
trị, được đảm bảo bởi sức bền vững của tài hoa và tầm cao tư tưởng nghệ thuật. Trên đỉnh cao sáng tạo
vừa chói lịa vinh quang vừa cực kỳ cheo leo hiểm trở, nhà văn phải dốc đến kỳ cùng sức lực để không
trở nên nhạt nhẽo, vẫn luôn giữ được nét độc đáo của phong cách nghệ thuật.


Tinh thần tự nguyện dấn thân, bám trụ ở thành trì cái Ðẹp là biểu hiện sinh động của một nhân cách
văn hóa lớn. Nhà văn Nguyễn Tuân "đặc Việt Nam" (chữ dùng của Vũ Ngọc Phan) từ quan niệm cho
tới thực tế sáng tác. Chất văn hóa như sợi chỉ đỏ xuyên suốt, là cái phần cơ bản nhất làm nên giá trị
vĩnh hằng cho văn nghiệp của ơng.


Do đó, vẻ đẹp của trang viết Nguyễn Tuân là kết quả tất yếu từ một cách viết mang chiều sâu, bề rộng
và tầm cao văn hóa. Lịng u nước và tinh thần dân tộc, đặc biệt biểu hiện ở thái độ thành kính trân
trọng tiếng mẹ đẻ và các giá trị truyền thống chính là động lực bên trong, thơi thúc nhà văn khơng
ngừng tìm tịi, khơi nguồn vốn cũ và sáng tạo nên giá trị mới. Ông xứng đáng được mệnh danh là
"chuyên viên cao cấp tiếng Việt", là "người thợ kim hoàn của chữ" (Ý của Tố Hữu). Trong lâu đài văn
chương nghệ thuật dân tộc Việt Nam ở thế kỷ 20, rất dễ nhận ra phần chạm trổ tinh xảo của người nghệ
sĩ ngôn từ Nguyễn Tuân.


<i><b>( Sưu tầm ) </b></i>


<b>VỀ MỘT CÁCH TIẾP CẬN TÁC PHẨM </b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(8)</span><div class='page_container' data-page=8>

Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân là một truyện ngắn xuất sắc trong tập truyện Vang bóng một thời,
được chọn đưa vào giảng dạy trong chương trình lớp 11- PTTH (SGK Văn học 11 – NXBGD, 2000).
Đây là một tác phẩm có giá trị đặc sắc cả về nội dung lẫn hình thức nghệ thuật, vì vậy cách tiếp cận tác
phẩm nhằm khám phá các tầng nghĩa của tác phẩm là một hướng khảo sát cần xem xét.


Lâu nay ở nhà trường PTTH trong cách tiếp cận truyền thống theo định hướng của sách giáo viên – vốn
được xem là hệ giá trị chuẩn – một số giáo viên khi giảng tác phẩm này thường chỉ tập trung vào nhân
vật Huấn Cao như hình tượng trung tâm mà quên mất nhân vật viên quản ngục cũng đóng vai trị quan
trọng khơng kém trong chuyển tải thơng điệp thẩm mỹ của tác phẩm. Đây là nhân vật sóng đôi cùng
Huấn Cao- người tạo ra cái đẹp, người trân trọng và tôn vinh cái đẹp, một hiện tượng văn hóa nhân
cách. Vì vậy nếu chỉ ca ngợi cái đẹp tài hoa tài tử trong nhân cách, khí tiết nhân vật Huấn Cao mà xem
nhẹ vai trò của nhân vật quản ngục thì giá trị của tác phẩm sẽ không khai thác hết, nguyên tắc mỹ học
của tác phẩm sẽ bị phá bỏ. Hai con người này tồn tại trong tác phẩm như một cặp song trùng – một “sự
thể hiện sự vật theo nguyên lý cặp đơi, thể hiện tính lưỡng diện, sự tồn tại không thể thiếu nhau của các
đối cực” (1). Trong Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân, hai nhân vật Huấn Cao và viên quản ngục xuất
hiện như một kiểu song trùng của sự tồn tại không thể thiếu nhau giữa hai khách thể đối cực, thậm chí
là đối thủ trong một hồn cảnh đặc biệt. Điều đó làm nảy sinh một sự liên tưởng đặc biệt, vượt ra ngồi
mọi quy luật thơng thường. Bản thân sự tồn tại của viên quản ngục, đời sống tâm hồn, nhân cách…
được phát hiện, chiêu tuyết và chớp nhoáng nhờ sự xuất hiện của Huấn Cao. Đồng thời tài năng cùng
sức cuốn hút mãnh liệt về khí tiết, nhân cách của Huấn Cao cũng được soi rọi, nâng lên, nhấn mạnh
hơn từ cách ứng xử “biệt nhỡn liên tài” của viên quản ngục. Có thể nói hai nhân vật này khi được lồng
vào cảm hứng ngợi ca cái đẹp đều mang trọng trách chuyên chở thông điệp thẩm mỹ và chiều sâu nhân
bản của tác phẩm – điều mà Nguyễn Tuân luôn trăn trở và đặt lên hàng đầu trong các sáng tác của
mình.


Chữ người tử tù viết về một thời đã qua. Đấy là thời phong trào Cần Vương đã tắt, thực dân Pháp đã
đặt xong nền đô hộ. Tầng lớp nho sĩ khí phách tài hoa nhưng bất lực trước thời cuộc đành gắng gỏi giữ
gìn lấy cái thiên lương, giữ gìn cách sống, cách nghĩ, cách làm kể cả cách tiêu khiển mang chất văn hóa


và đậm sắc màu dân tộc, xem đó như một thái độ quay lưng, khước từ và chối bỏ chế độ thực dân cùng
với lối sống thô lậu, xu thời. Nằm trong mạch ca ngợi một nét đẹp của văn hóa dân tộc, Chữ người tử
tù thể hiện một thú tiêu khiển độc đáo – việc xin chữ cho chữ cũng như thú chơi chữ của người xưa đã
khơi dậy trong thẳm sâu tâm linh người đọc vấn đề về con người, về bản chất và thân phận con người
trong xã hội…


</div>
<span class='text_page_counter'>(9)</span><div class='page_container' data-page=9>

một bóng tối mịt mù, quạnh quẽ, tiếng trống thu không, tiếng kẻng tiếng mõ thưa thớt, tiếng chó sủa
vào những bóng ma mơ hồ huyền bí mà cứ ám mãi vào màn đêm hoang hút… Những sợi dây, những
vịng dây trói vơ hình cứ trịng lên, thít vào cuộc đời mịn rỉ của con người mà Nguyễn Tuân nói là:
“đang băn khoăn ngồi bóp thái dương”. Với ngoại hình “tóc hoa râm, râu đã ngả màu, bộ mặt tư lự”
(5), quản ngục dường như đang trải qua một cuộc đời mòn mỏi cô đơn, dáng vẻ trầm tư kia cho thấy
ông đang phải trăn trở trước một việc khó xử. Nhưng rồi cách chuyển giọng văn của tác giả “những
đường nhăn nheo của bộ mặt tư lự, bây giờ đã biến mất hẳn. Ở đây, giờ chỉ còn mặt nước ao xuân,
bằng lặng, kín đáo, êm nhẹ” (6), như một nhịp chuyển trong diễn biến tâm lí của nhân vật. Quyết định
biệt đãi Huấn Cao đã làm tươi sáng diện mạo viên quản ngục. Đó cịn là nỗi vui mừng kín đáo được
tiếp nhận một con người tài hoa như Huấn Cao. Vẻ đẹp trong tâm hồn quản ngục được Nguyễn Tuân
đánh giá là “thanh âm trong trẻo chen vào giữa một bản đàn mà nhạc luật đều hỗn loạn và xô bồ”(7), là
cái thuần khiết giữa lũ người cặn bã, quay quắt. Đoạn độc thoại nội tâm, những băn khoăn về thầy thơ
lại của quản ngục soi sáng lòng nhân ái, tấm lòng quý trọng biết đánh giá con người của nhân vật này.
Điều này dường như trái với quy luật về sự ảnh hưởng của mơi trường sống đến tính cách của con
người “ở bầu thì trịn ở ống thì dài”.


Đã là tử tù và quản ngục tất có sự đối lập gay gắt. Nhưng Nguyễn Tuân từ sự đối lập như một định kiến
của xã hội đó lại muốn xây dựng hai nhân vật này như một cặp song trùng trong sự tương liên đặc biệt
nơi sâu thẳm tâm hồn con người. Đó là sự gặp gỡ, là tiếng nói tri kỷ rất nhân bản giữa Huấn Cao và
viên quản ngục trước cái đẹp. Ý đồ nghệ thuật ấy buộc thiên truyện tập trung vào một tình huống độc
đáo đến bất ngờ: Cuộc gặp gỡ giữa người viết chữ đẹp với người yêu chữ đẹp.


Cuộc gặp gỡ giữa hai con người này diễn ra trong một hoàn cảnh đặc biệt: quản tù tiếp nhận tù nhân.
Với bút pháp miêu tả mang phong cách tùy bút, cách sử dụng ngôn ngữ chọn lọc, tác giả để sáu phạm


nhân xuất hiện với chiếc gông nặng đến bảy, tám tạ đè trên sáu đơi vai gầy. Hình ảnh gây ấn tượng
mạnh mẽ bởi vẻ đẹp kiêu hùng của những con người coi thường gian truân khổ ải, tuy vất vả nhưng
không hề bi lụy. Huấn Cao càng khí khái, cương trường, coi khinh quyền lực bao nhiêu trong hành
động “rỗ gơng” thì quản ngục càng nhẫn nhịn, kiêng nể, kính phục bấy nhiêu trong thái độ hiền lành,
lời nói ung dung khi mắng bọn lính canh tù. Huấn Cao nhận sự chăm sóc của quản ngục một cách thản
nhiên, coi đó là việc làm tự nhiên trong “cái hứng sinh bình lúc chưa bị giam cầm”. Lời miệt thị quản
ngục của Huấn Cao chỉ nhấn mạnh thêm khí phách hiên ngang, bất khuất trong chờ chết vẫn ung dung
thanh sạch của ông. Trước sự coi khinh của Huấn Cao, quản ngục chỉ lễ phép lui ra mà không một lời
trách cứ, thái độ đó gây cho Huấn Cao ít nhiều băn khoăn. Huấn Cao càng tuyệt vời trong vẻ khí khái,
khinh thế ngạo vật bằng lời nói khoảnh: “Ta chỉ muốn một điều. Là nhà ngươi đừng đặt chân vào đây”,
quản ngục càng cam chịu, khép nép, nhún nhường “xin lĩnh ý”, chỉ vì một sở nguyện “được treo ở nhà
riêng đôi câu đối do tay ông Huấn Cao viết”(8), chỉ vì xót xa một tài năng bị vùi dập, bị mất đi vĩnh
viễn.


</div>
<span class='text_page_counter'>(10)</span><div class='page_container' data-page=10>

mà văn chương thì “vơ tiền Hán” nhân cách thì “một đời chỉ cúi đầu trước hoa mai” (Nhất sinh đê thủ
bái mai hoa). Một nhân cách quý giá kiêu hùng như thế nhưng khi chạm phải “khối tình lớn” quản
ngục đã bị lay chuyển để rồi hạ bút cho chữ trong một “cảnh tượng xưa nay chưa từng có”.


Đọc Chữ người tử tù trong tương quan với cảm hứng chủ đạo để thấy ý nghĩa giá trị của cặp nhân vật
song trùng Huấn Cao – viên quản ngục cũng là một cách tiếp cận có cơ sở để khai thác các tầng nghĩa
ẩn sâu bên trong tác phẩm. Từ đó có thể tránh được sự máy móc một chiều chỉ đánh giá cao người tử tù
mà bỏ qua người quản ngục, như vậy cấu trúc thẩm mỹ của tác phẩm sẽ khơng cịn chặt chẽ, ý đồ nghệ
thuật của tác giả phần nào không được khai thác hết.


<i>(Theo TS. HOÀNG THỊ HUẾ - Trường Đại học Sư phạm Huế </i>
<b>Câu hỏi :</b>


<b>Qua truyện ngắn “chữ người tử tù” và chi tiết quản ngục cúi lạy Huấn Cao.anh chị hãy suy nghĩ </b>
<b>về câu nói sau"có những cái cúi đầu đã làm cho người ta trở nên hèn hạ,nhưng có những cái cúi </b>
<b>đầu làm cho người ta cao cả hơn".</b>



(sugiahoanggia9x hỏi )


Đây là kiểu bài tổng hợp , từ 1 tác phẩm văn học mà liên hệ đến thực tiễn, đến bản thân rồi từ đó khẳng
định cái đẹp, chính vì vậy phải đi từ tác phẩm để mở rộng ra câu nói đã cho.


<i><b>Dàn ý:</b></i>
MB:


Nói sơ lược qua cảnh cúi lạy trong tác phẩm “Chữ người tử tù” và nêu lên câu nói
VD:


TRong cảnh nhà giam ẩm thấp đầy những phân chuột phân gián, có 1 điều lạ lung đã diễn ra . Một
người quản ngục lại cúi lạy một kẻ tù sắp bị kết án tử hình cổ đeo gơng chân vướng xiềng. Ở cái địa vị


cao hơn đại diện cho tầng lớp phong kiến lại cúi đầu khúm núm trước 1 kẻ tù đang ở đại vị thấp hơn?
Điều này cho thấy trong nhà ngục tối tăm này cái đẹp, cái thiện cao cả, cái đẹp đang làm chủ . “Có
những cái cúi đầu làm cho người ta trở nên hèn hạ nhưng có những cái cúi đầu làm cho người ta trở


nên cao cả hơn”.
TB


- Nêu rõ vể hoàn cảnh của cái cúi đầu


- Nêu lên vẻ đẹp tâm hồn , tình cách nhân vật Huấn Cao, viên quản ngục
 Cái cúi đầu thể hiện sự thắng thế của cái đẹp, cái cao cả


- Có những cái cúi đầu thấp hèn (dẫn chứng từ trong 1 tác phẩm văn học hoặc thực tiễn, đó là những
cái cúi đầu tượng trưng cho sự nịnh nọt đê hèn, cúi đầu trước cái ác)



</div>
<span class='text_page_counter'>(11)</span><div class='page_container' data-page=11>

*Hướng dẫn


+ Một tên tù được đưa đến trại - một tên tù có tài hoa hơn người , 1 tên tù có khí phách hơn người. Một
viên quản ngục coi trọng cái đẹp, luôn ao ước “ một ngày kia được treo ở nhà riêng mình 1 câu đối do
tay ơng Huấn Cao viết” . Trong tác phẩm “Chữ người tử tù, viên quản ngục đã cúi đầu 2 lần trước tên
tử tù ngang ngược ấy , một lần là vì nhẫn nhịn, lần thứ 2 là cúi đầu trước cái đẹp. Cầm trên tay câu đối
mà Huấn Cao cho, đạt được nguyện ước bấy lâu, nghe lời Huấn Cao dạy mà tay run run đầu cúi xuống.


Huấn Cao trong “Chữ người tử tù” chính là âm thanh trong trẻo, đẹp đẽ nhất, đại diện cho cái đẹp
thanh cao trên đời. Ơng có tài viết chữ rất đẹp – viết ra những chữ cho người tat reo tại nơi tơn kính
đẹp đẽ nhất trong nhà nhưng trừ chỗ tri kỉ ơng ít chịu cho chữ . Khơng phải vì sự kiêu ngạo mà chính là


biết quý, biết trân trọng cái đẹp, biết đặt nó vào nơi xứng đáng, trao cho người biết thưởng thức. Vào
ngục ông vẫn rất lạnh lung, ngang tàn. Không them đếm xỉa đến những “biệt nhỡn “ của viên quản
ngục, thản nhiên nhận rượu thịt…..-> Huấn Cao là hiện thân của cái đẹp, là nơi hội tụ giữa tài hoa nghệ


sĩ, khí phách hiên ngang và cái tâm trong sáng. Ơng có cái thiên lương của 1 tri thức yêu nước , rất tự
trọng nhân cách và cũng không phải là có 1 trái tim bằng thép . Ơng biết trân trọng , ni dưỡng cái


thiên lương, làm cho nó nảy mầm và sống mãi.


+ Viên quản ngục “là thanh âm trong treo chen vào giữa 1 bản đàn mà nhạc luật đều hỗn loạn, xơ bồ”.
Ơng là người coi trọng cái đẹp, quý trọng người tài. Ngoài là một người kiên trì, cơng phu trong việc
“biệt nhỡn” người tù để xin chữ, viên cai ngục còn là người dũng cảm, có bản lĩnh ,dám biệt đãi 1 tên


tử tù . Trước sự nổi nóng, khinh thường của Huấn Cao ơng càng thêm kính nể hơn vì “những người
chọc trời, khuấy nước , đến trên đầu người ta , người ta cũng chẳng còn biết ai nữa , huống chi cái thứ


mình chỉ là 1 kẻ tiểu lại giữ tù”. Hành động của viên quản ngục là hành động của 1 kẻ có tâm, sống
trong cảnh đề lao hỗn loạn, người ta sống bằng lừa lọc và tàn nhẫn mà vẫn giữ được phẩm chất cao


quý, ông đã vượt qua bỏn phận làm quan…chính những điều đó đã làm lay động Huấn Cao, dẫn đến


cảnh cho chữ có một khơng hai, hiếm có.


Hai cái cúi đầu có ý nghĩa lầm nổi bật nên cái tâm , làm nên vẻ đẹp nhân cách viên quản ngục, chứng
tỏ sự chiến thắng của cái đẹp. Lòng yêu mến cái đẹp chiến thắng bổn phận tàn ác. Có những cái cúi đầu
khiến người ta trở nên hèn hạ, có những cái vái lạy làm con người ta trở nên đê tiện , nhưng cũng có cái
cúi lạy làm cho con người ta bỗng trở nên cao cả, sang trọng hơn. Cái cúi đầu của viên cai ngục chính


là một trường hợp như thế. Đó chính là cái cúi đầu trước cái tài, cái đẹp, cái thiên lương. Huy- gơ nói
“TRước 1 trí tuệ tơi cúi đầu, trước 1 thiên lương tôi qùy gối” Cái cúi đầu của viên quản ngục mang ý


nghĩa đó.
+


</div>
<span class='text_page_counter'>(12)</span><div class='page_container' data-page=12>

VD: Xuân tóc đỏ - NGuyễn Trọng Phụng- từ lúc hắn có chức quyền, từ 1 kẻ đầu đường xó chợ, chả ra
gì nhưng bao nhiêu người cúi đầu kính nể hắn chỉ vì bây giờ hắn có tiền có quyền.


(Lấy vài dẫn chứng từ những tác phầm mang tính hiện thực như trong Truyện Kiều , Số đỏ, các tác
phẩm của Nguyễn Công Hoan, Nam Cao…)


+ Liên hệ.


Ngày nay, trong cuộc sống xô bồ này, trước thế lực của đồng tiền , của quyền lực, nhiều người đã chịu
cúi đầu, hạ mình làm những việc khiến mình phải đánh mất phẩm giá, lương thiện, họ vơ cảm trước nỗi


đau, bất hạnh của người khác nhưng lại khúm núm, nịnh nọt trước những kẻ có tiền , vì tiền vì quyền
người ta bán rẻ lương tâm, làm những điều trái pháp luật tội lỗi.


(Ví dụ: Năm Cam, những kẻ buôn thuốc phiện , giết người cướp của….=> tự lấy dẫn chứng qua sách


báo ấy)


KB:


Liên hệ cuộc sống thực tiễn và hành động bản thân


“Có những cái cúi đầu đã làm cho người ta trở nên hèn hạ,nhưng có những cái cúi đầu làm cho người
ta cao cả hơn".


Sống trong xã hội đầy hôn loạn, xô bồ này, chúng ta càng cần phải giữ được thiên lương trong sáng,
ni dướng cái đẹp, khơng nên sa mình vào cạm bẫy. Cái cúi đầu hướng về cái đẹp của viên quản ngục


trong “Chữ người tử tù” chính là 1 bài học q giá cần noi theo.


<b>ìm hiểu tác phẩm Chữ người tử tù ( Nguyễn Tuân ) </b>


<b>Bài liên quan: </b>


<b>Vấn đề văn bản của truyện ngắn Chữ người tử tù</b>
<b>Tư liệu về tác giả Nguyễn Tuân</b>


<b>Người lái đò sơng Đà</b>


<b>Về một cách tiếp cận Chữ người tử tù</b>


<b>I/Tìm hiểu chung</b>
<b>1.Tác giả</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(13)</span><div class='page_container' data-page=13>

uyên bác, độc đáo. Tác phẩm của Nguyễn Tuân là những tờ hoa, trang văn đích thực thể hiện tấm lịng
gắn bó thiết tha với những giá trị văn hóa cổ truyền, với nếp sống thanh cao, đầy nghệ thuật của ông


cha… Nguyễn Tuân sở trường về tuỳ bút.


Tác phẩm tiêu biểu: Vang bóng một thời (1940), Sơng Đà (1960), Hà Nội ta đánh Mỹ giỏi (1972),…


<b>2.Tác phẩm</b>


-Xuất xứ: “Vang bóng một thời” có 12 truyện xuất bản năm 1940. “Chữ người tử tù” rút trong “Vang
bóng một thời”.


- Chủ đề: Tác giả ca ngợi Huấn Cao - một nhà nho chân chính - giàu khí phách chọc trời khuấy nước,
có tài viết chữ, qua đó khẳng định một quan niệm sống: phải biết yêu quý cái đẹp, đồng thời phải biết
coi trọng thiên lương.


<b>II/Đọc hiểu văn bản</b>


<b>1. Truyện “Vang bóng một thời” chưa đầy 2500 chữ nhưng hàm chứa một dung lượng lớn. Chỉ có ba </b>
nhân vật và ba cảnh: Quản ngục và viên thơ lại đọc công văn và nói về tử tù Huấn Cao; Huấn Cao bị
giải đến và sự biệt đãi của ngục quan đối với tử tù; cảnh Huấn Cao cho chữ trong nhà ngục. Cảnh nào
cũng hội tụ cả ba nhân vật này.


</div>
<span class='text_page_counter'>(14)</span><div class='page_container' data-page=14>

<b>3. Ngục quan</b>


- Chọn nhầm nghề. Giữa bọn người tàn nhẫn, lừa lọc thì ngục quan lại có “tính cách dịu dàng và lịng
biết giá người, biết trọng người ngay” chẳng khác nào “một thanh âm trong trẻo chen vào giữa một bàn
đàn mà nhạc luật đều hỗn loạn xô bồ”.


- Lần đầu gặp Huấn Cao trong cảnh nhận tù, ngục quan có “lịng kiêng nể”, lại cịn có “biệt nhỡn” đối
riêng với Huấn Cao. Suốt nửa tháng trời, ngục quan bí mật sai viên thơ lại dâng rượu và đồ nhắm cho
tử tù - Huấn Cao và các đồng chí của ơng.



- Lần thứ hai, y gặp mặt Huấn Cao, nhẹ nhàng và khiêm tốn bày tỏ “muốn châm chước ít nhiều” đối
với tử tù, nhưng đã bị ông Huấn miệt thị nặng lời, gần như xua đuổi, nhưng ngục quan vẫn ôn tồn, nhã
nhặn “xin lĩnh ý” rồi lui ra.


- Ngục quan là một nhà nho “biết đọc vỡ nghĩa sách thánh hiền” suốt đời chỉ ao ước một điều là “có
một ngày kia treo ở nhà riêng mình một câu đối do tay ơng Huấn Cao viết”. Ngục quan đang sống
trong bi kịch: y tâm phục Huấn Cao là một người chọc trời khuấy nước nhưng lại tự ti “cái thứ mình
chỉ là một kẻ tiểu lại giữ tù”. Viên quản ngục khổ tâm nhất là “có một ơng Huấn Cao trong tay mình,
khơng biết làm thế nào mà xin được chữ”. Là quản ngục nhưng lại không can đảm giáp mặt tử tù vì y
cảm thấy Huấn Cao “cách xa y nhiều quá?”. Tử tù thì ung dung, trái lại, ngục quan lại lo “mai mốt đây,
ơng Huấn bị hành hình mà chưa xin được mấy chữ thì ân hận suốt đời”. Bi kịch ấy cho thấy tính cách
quản ngục là một con người biết phục khí tiết, biết quý trọng người tài và rất yêu cái đẹp. Y yêu chữ
Huấn Cao, chứng tỏ y có một sở thích cao q. Vì thế khi nghe viên thơ lại nói lên ước nguyện của
ngục quan, Huấn Cao cảm động nói: “Ta cảm cái tấm lòng biệt nhỡn liên tài của các người. Nào ta biết
đâu một người như thầy quản đây mà lại có những sở thích cao q như vậy. Thiếu chút nữa, ta phụ
mất một tấm lòng trong thiên hạ”. Như vậy, trong vị thế xã hội, ngục quan và tử tù là đối địch, còn trên
lĩnh vực nghệ thuật, họ là tri âm. Huấn Cao đã tri ngộ một kẻ biệt nhỡn liên tài là ngục quan.


</div>
<span class='text_page_counter'>(15)</span><div class='page_container' data-page=15>

- Có thể, sau khi Huấn Cao bị giải vào Kinh thụ hình thì cũng là lúc ngục quan trả áo mũ, “tìm về nhà
quê mà ở” để giữ lấy thiên lương cho lành vững và thực hiện cái sở thích chơi chữ bấy nay? Nguyễn
Tuân đã xây dựng ngục quan bằng nhiều nét vẽ có thần. Ngoại hình thì “đầu đã điểm hoa râm, râu đã
ngả màu”. Một con người ưa sống bằng nội tâm; cái đêm hơm trước đón nhận tử tù, ông sống trong
trạng thái thanh thản, gương mặt ông ta “là mặt nước ao xuân, bằng lặng, kín đáo và êm nhẹ”. Trong
một xã hội phong kiến suy tàn, chốn quan trường đầy rẫy kẻ bất lương vô đạo, nhân vật ngục quan
đúng là một con người vang bóng. Nhân vật này đã thể hiện sâu sắc chủ đề tác phẩm.


<b>4. Huấn Cao: là nhân vật bi tráng, cao đẹp mang màu sắc lãng mạn.</b>
<b>a </b>


- Lúc đầu được giới thiệu gián tiếp qua một tiếng đồn: “cái người mà vùng tỉnh ta vẫn khen…”, “nhiều


người nhấc nhỏm đến cái danh đó ln…”, “một tên tù có tiếng là…”, và “thầy có nghe người ta
đồn…” - Đó là một con người khơng phải tầm thường!


- Ngục quan và viên thơ lại mới “kiến kì thanh” mà đã tâm phục Huấn Cao, họ trầm trồ: “Người đứng
đầu…”, “người mà vùng tỉnh Sơn ta vẫn khen cái tài viết chữ rất nhanh và rất đẹp…”, một tử tù lừng
lẫy tiếng tăm “văn võ đều có tài cả”…


- Lấy xa để nói gần, lấy bóng làm lộ hình, sử dụng lối tả gián tiếp… đó là bút pháp Nguyễn Tuân vận
dụng sáng tạo để giới thiệu nhân vật, tạo ra sự cuốn hút nghệ thuật kì diệu.


<b>b </b>


- Là một nhà nho kiệt hiệt dám chọc trời khuấy nước. Chí lớn khơng thành mà vẫn hiên ngang. Chết
chém cũng chẳng sợ. Một tinh thần gang thép “vô úy” bất khuất. Một cái “rỗ gông” trước của ngục.
Một câu miệt thị ngục quan: “Ngươi hỏi ta muốn gì? Ta chỉ muốn có một điều: Là nhà ngươi đừng tới
quấy rầy ta”. Không phải ai cũng có cái gan dám thách thức cường quyền bạo lực thế đâu?


<b>c</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(16)</span><div class='page_container' data-page=16>

<b>d </b>


- Với Huấn Cao thì thiên lương là ngọn lửa, là “ánh sáng đỏ rực” như ngọn đuốc kia. Nếu ngục quan
tâm phục con người nghĩa khí, tài hoa thì Huấn Cao lại nể trọng con người biệt nhỡn liên tài. Suốt đời
ông chỉ “cúi đầu vái lạy hoa mai” thế mà khi nghe viên thơ lại nói lên tâm sự của chủ mình muốn “xin
chữ”, Huấn Cao đã ân hận nói: “Thiếu chút nữa ta phụ mất một tấm lòng trong thiên hạ”. Cảnh “cho
chữ” được miêu tả bằng bút pháp lãng mạn gợi lên một khơng khí thiêng liêng bi tráng. Phóng giam ẩm
ướt bẩn thỉu, hôi hám. Lửa đuốc sáng rực. Tấm lụa trắng. Chậu mực thơm lắm. Ba cái đầu cúi xuống
tấm lụa trắng. Huấn Cao hiện ra với vẻ uy nghi, hào hùng. Cổ đeo gông, chân vướng xiềng, Huấn Cao
vung bút viết. “Những nét chữ vuông vắn rõ ràng” hiện lên rực rỡ trên phiến lụa óng. Tư thế đĩnh đạc
ung dung. Mai kia ông đã bước lên đoạn đầu đài, nhưng đêm nay ông vẫn ung dung. Một cử chỉ “đỡ


viên quản ngục đứng thẳng người dậy”. Một lời khuyên: “Ta khuyên thầy quản nên thay chỗ ở đi…
thầy quản nên tìm về nhà quê mà ở đã rồi hãy nghĩ đến chuyện chơi chữ. Ở đây, khó giữ thiên lương
cho lành vững và rồi cũng đến nhem nhuốc mất cái đời lương thiện đi”. Với Huấn Cao thì thiên lương
là cái gốc của đạo lý, có giữ được thiên lương mới biết quý trọng tài năng và cái đẹp ở đời.


Ở con người Huấn Cao, từ cử chỉ, hành động đến ngông ngữ, từ nét chữ đến phong thái - đều toát ra
một vẻ đẹp vừa phi thường, vừa bình dị, vừa anh hùng, vừa nghệ sĩ, bên cạnh cái hùng có cái bi, tính
vốn khoảnh mà lại trân trọng kẻ biệt nhỡn liên tài, coi thường vàng bạc quyền uy mà lại đề cao tình
bằng hữu, đến chết vẫn nghĩa khí và giữ trọn thiên lương. Nguyễn Tuân đã dàn cảnh, tả người và kể
chuyện, sử dụng những ẩn dụ so sánh, những tình tiết đan chéo, ràng buộc vào nhau, tạo nên một
không gian nghệ thuật cổ kính, bi tráng nâng nhân vật Huấn Cao lên một tầm vóc lịch sử. Văn học lãng
mạn thời tiền chiến chỉ có một Huấn Cao đẹp hào hùng như vậy.


<b>III/Tổng kết</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(17)</span><div class='page_container' data-page=17>

Hai câu văn: “Thiếu chút nữa ta phụ mất một tấm lòng trong thiên hạ”, và: “Kẻ mê muội này xin bái
lĩnh” - đẹp như những bức châm trong các thư họa nghìn xưa lưu lại trong các viện bảo tàng mĩ thuật.
Cũng là bài học làm người sáng giá!


( Sưu tầm)


<b>PHÂN TÍCH CẢNH CHO CHỮ TRONG "CHỮ NGƯỜI TỬ TÙ" CỦA NGUYỄN TUÂN</b>
<b>Đề bài: Phân tích cảnh cho chữ trong “ Chữ người tử tù” của Nguyễn Tuân</b>


<b>Bài làm:</b>


Khi nhắc tới lối văn chương luôn khát khao hướng tới chân-thiện-mĩ, người ta thường nhắc
tới Nguyễn Tuân- một nghệ sĩ suốt đời đi tìm cái đẹp. Ơng được đánh giá là một trong những
cây bút tài hoa nhất của nền văn học Việt Nam hiện đại. Trong các sáng tac của Nguyễn
Tuân, các nhân vật thường được miêu tả, nhìn nhận như một nghệ sĩ . Và tác phẩm “Chữ


người tử tù” cũng được xây dựng bằng cách nhìn nhận như vậy. Bên cạnh đó, nhà văn đã
khéo léo sáng tạo lên một tình huống truyện vơ cùng độc đáo. Đó là cảnh cho chữ trong nhà
giam- là phần đặc sắc nhất của thiên truyện này “một cảnh tượng xưa nay chưa từng có”.
Đoạn cho chữ nằm ở phần cuối tác phẩm.ở vị trí này tình huống truyện được đẩy lên đến
đỉnh điểm vì viên quản ngục bỗng nhận được công văn về việc xử tử những tên phản loạn,
trong đó có Huấn Cao. Do vậy cảnh cho chữ có ý nghĩa cởi nút,giải tỏa những băn khoăn
,chờ đợi nơi người đọc, từ đó tốt lên những giá trị lớn lao của tác phẩm.


</div>
<span class='text_page_counter'>(18)</span><div class='page_container' data-page=18>

Đây quả thực là một cuộc gặp gỡ xưa nay chưa từng có giữa Huấn Cao-người có tài viết
chữ nhanh , đẹp và viên quản ngục, thầy thơ lại-những người thích chơi chữ. Họ đã gặp
nhau trong hoàn cảnh thật đặc biệt: một bên là kẻ phản nghịch phải lĩnh án tử hình( Huấn
Cao) và một bên là những người thực thi pháp luật. Trên bình diện xã hội, họ ở hai phía đối
lập nhau nhưng xét trên bình diện nghệ thuật họ lại là tri âm, tri kỉ của nhau. Vì thế mà thật là
chua xót vì đây là lần đầu tiên nhưng cũng là lần cuối cùng ba con người ấy gặp nhau. Hơn
thế nữa, họ gặp nhau với con người thật, ước muốn thật của mình. Trong đoạn văn, nhà văn
đã sử dụng sự tương phản giữa ánh sáng và bóng tối làm câu chuyện cũng vận động theo
sự vận động của ánh sáng và bóng tối. Cái hỗn độn, xô bồ của nhà giam với cái thanh khiết
của nền lụa trắng và những nét chữ đẹp đẽ. Nhà văn đã làm nổi bật hình ảnh của Huấn Cao,
tô đậm sự vươn lên thắng thế của ánh sáng so với bóng tối, cái đẹp so với cái xấu và cái
thiện so với cái ác. Vào lúc ấy, từ một quan hệ đối nghịch kì lạ: ngọn lửa của chính nghĩa
bùng cháy ở chốn ngục tù tối


tăm, cái đẹp được sáng tạo giữa chốn hôi hám, nhơ bẩn… ở đây, Nguyễn Tuân đã nêu bật
chủ đề của tác phẩm: cái đẹp chiến thắng cái xấu xa, thiên lương chiến thắng tội ác. Đó là sự
tôn vinh cái đẹp, cái thiện đầy ấn tượng.


Sau khi cho chữ xong, Huấn Cao đã khuyên quản ngục từ bỏ chốn ngục tù nhơ bẩn: “đổi chỗ
ở” để có thể tiếp tục sở nguyện cao ý. Muốn chơi chữ phải giữ được thiên lương. Trong môi
trường của cái ác, cái đẹp khó có thể bền vững. Cái đẹp có thể nảy sinh từ chốn tối tăm, nhơ
bẩn, từ môi trường của cái ác( cho chữ trong tù) nhưng không thể chung sống với cái ác.


Nguyễn Tuân nhắc đến thú chơi chữ là mơn nghệ thuật địi hỏi sự cảm nhận không chỉ bằng
thị giác mà còn cảm nhận bằng tâm hồn. Người ta thưởng thức chữ không mấy ai thấy, cảm
nhận mùi thơm của mực. Hãy biết tìm trong mực trong chữ hương vị của thiên lương. Cái
gốc của chữ chính là cái thiện và chơi chữ chính là thể hiện cách sống có văn hóa.


</div>
<span class='text_page_counter'>(19)</span><div class='page_container' data-page=19>

trong bất kì hồn cảnh nào con người vẫn luôn khao khát hướng tới chân- thiện-mĩ.


Có ý kiến cho rằng: Nguyễn Tuân là nhà văn duy mĩ, tức là điều khiến ông quan tâm chỉ là
cái đẹp, là nghệ thuật. Nhưng qua truyện ngắn “ Chữ người tử tù” mà đặc biệt là cảnh cho
chữ ta càng thấy rằng nhận xét trên là hời hợt, thiếu chính xác. Đúng là trong truyện ngắn
này, Nguyễn Tuân ca ngợi cái đẹp nhưng cái đẹp bao giờ cũng gắn với cái thiện, thiên lương
con người. Quan điểm này đã bác bỏ định kiến về nghệ thuật trước cách mạng, Nguyễn
Tuân là một nhà văn có tư tưởng duy mĩ, theo quan điểm nghệ thuật vị nghệ thuật. Bên cạnh
đó, truyện cịn ca ngời viên quản ngục và thầy thơ lại là những con người tuy sống trong môi
trường độc ác xấu xa nhưng vẫn là những “thanh âm trong trẻo” biết hướng tới cái thiện. Qua
đó cịn thể hiện tấm lịng u nước, căm ghét bọn thống trị đương thời và thái độ trân trọng
đối với những người có “thiên lương” trên cơ sở đạo lí truyền thống của nhà văn.


“Chữ người tử tù” là bài ca bi tráng, bất diệt về thiên lương, tài năng và nhân cách cao cả
của con người. Hành động cho chữ của Huấn Cao, những dong chữ cuối cung của đời
người có ý nghĩa truyền lại cái tài hoa trong sáng cho kẻ tri âm, tri kỉ hôm nay và mai sau.
Nếu khơng có sự truyền lại này cái đẹp sẽ mai một. Đó cũng là tấm lịng muốn giữ gìn cái
đẹp cho đời.


Bằng nhịp điệu chậm rãi, câu văn giàu hình ảnh gợi liên tưởng đến một đoạn phim quay
chậm. Từng hình ảnh, từng động tác dần hiện lên dưới ngòi bút đậm chất điện ảnh của
Nguyễn Tuân: một buồng tối chật hẹp…hình ảnh con người “ba cái đầu đang chăm chú trên
một tấm lụa trắng tinh”, hình ảnh người tù cổ đeo gơng, chân vướng xiềng đang viết chữ.
Trình tự miêu tả cũng thể hiện tư tưởng một cách rõ nét: từ bóng tối đến ánh sáng, từ hôi
hám nhơ bẩn đến cái đẹp. Ngơn ngữ, hình ảnh cổ kính cũng tạo khơng khí cho tác phẩm.


Ngôn ngữ sử dụng nhiều từ hán việt để miêu tả đối tượng là thú chơi chữ. Tác giả đã “phục
chế” cái cổ xưa bằng kĩ thuật hiện đại như bút pháp tả thực, phân tích tâm lí nhân vật.( văn
học cổ nói chung khơng tả thực và phân tích tâm lí nhân vật)


</div>
<span class='text_page_counter'>(20)</span><div class='page_container' data-page=20></div>

<!--links-->
“NHẤT SINH ĐÊ THỦ BÁI MAI HOA” TỪ NGUYÊN MẪU CAO BÁ QUÁT ĐẾN HÌNH TƯỢNG HUẤN CAO TRONG “CHỮ NGƯỜI TỬ TÙ” CỦA NGUYỄN TUÂN
  • 8
  • 2
  • 39
  • ×