ĐẠI HỌC QUỐC GIA TP. HCM
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
KHOA VĂN HỐ HỌC
-----WX-----
ĐỒN THỊ THOA
VĂN HOÁ GIAO TIẾP
CỦA NGƯỜI VIỆT Ở MIỀN TÂY NAM BỘ
LUẬN VĂN THẠC SĨ
CHUN NGÀNH VĂN HỐ HỌC
Tp. HỒ CHÍ MINH, năm 2010
ĐẠI HỌC QUỐC GIA TP. HCM
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
KHOA VĂN HỐ HỌC
-----WX----ĐỒN THỊ THOA
VĂN HOÁ GIAO TIẾP
CỦA NGƯỜI VIỆT Ở MIỀN TÂY NAM BỘ
LUẬN VĂN THẠC SĨ
CHUYÊN NGÀNH VĂN HOÁ HỌC
Mã ngành: 60.31.70
Người hướng dẫn khoa học:
PGS. TS PHAN THU HIỀN
Tp. HỒ CHÍ MINH, năm 2010
MỤC LỤC
DẪN NHẬP ................................................................................................................. 1
1. Lý do chọn đề tài ....................................................................................... 1
2. Lịch sử vấn đề............................................................................................ 1
3. Đối tượng và mục đích nghiên cứu ........................................................... 5
4. Phạm vi nghiên cứu ................................................................................... 5
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn ................................................................... 5
6. Phương pháp nghiên cứu và nguồn tư liệu ................................................ 6
7. Bố cục luận văn ......................................................................................... 7
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG .................................................................. 8
1.1.
VĂN HÓA GIAO TIẾP............................................................................. 8
1.1.1. Giao tiếp ........................................................................................... 8
1.1.2. Văn hóa giao tiếp ........................................................................... 22
1.2.
ĐỊNH VỊ VĂN HĨA NGƯỜI VIỆT MIỀN TÂY NAM BỘ ................. 27
1.2.1. Khơng gian văn hóa ....................................................................... 27
1.2.2. Chủ thể văn hóa.............................................................................. 31
1.2.3. Thời gian văn hóa........................................................................... 34
CHƯƠNG 2: VĂN HĨA NHẬN THỨC VỀ GIAO TIẾP CỦA NGƯỜI VIỆT
MIỀN TÂY NAM BỘ.......................................................................... 39
2.1.
THÁI ĐỘ ĐỐI VỚI GIAO TIẾP ............................................................ 39
2.1.1. Cơ sở hình thành thái độ đối với giao tiếp của người Việt miền
Tây Nam Bộ ................................................................................... 39
2.1.2. Thái độ cởi mở trong giao tiếp....................................................... 46
2.2.
ĐÚC KẾT KINH NGHIỆM GIAO TIẾP................................................ 65
2.2.1. Kinh nghiệm phán xét tính cách, phẩm chất con người qua diện
mạo, cử chỉ, hành động .................................................................. 65
2.2.2. Kinh nghiệm ứng xử trong giao tiếp .............................................. 66
Tiểu kết............................................................................................................... 69
CHƯƠNG 3: VĂN HÓA TỔ CHỨC GIAO TIẾP CỦA NGƯỜI VIỆT MIỀN
TÂY NAM BỘ...................................................................................... 71
3.1.
GIAO TIẾP TRONG GIA ĐÌNH............................................................ 71
3.1.1. Quan hệ ơng bà - cha mẹ - con cháu .............................................. 71
3.1.2. Quan hệ vợ - chồng ........................................................................ 79
3.1.3. Quan hệ anh, chị - em; con trai - con gái, dâu rể ........................... 86
3.1.4. Quan hệ họ hàng............................................................................. 92
3.2.
GIAO TIẾP XÃ HỘI ............................................................................... 96
3.2.1. Quan hệ với hàng xóm, láng giềng ................................................ 96
3.2.2. Quan hệ bạn bè............................................................................. 107
3.2.3. Quan hệ lứa đôi ............................................................................ 112
3.2.4. Quan hệ với người Hoa, Khmer, Chăm ....................................... 121
Tiểu kết............................................................................................................. 128
CHƯƠNG 4: VĂN HÓA ỨNG XỬ TRONG GIAO TIẾP CỦA NGƯỜI VIỆT
MIỀN TÂY NAM BỘ........................................................................ 130
4.1.
TÍNH THẲNG THẮN, BỘC TRỰC, GIẢN DỊ ................................... 130
4.2.
TÍNH CỤ THỂ, THỰC TIỄN ............................................................... 143
4.3.
TÍNH DÂN CHỦ, PHĨNG KHỐNG ................................................ 152
4.4.
CHẤT NAM TÍNH................................................................................ 162
Tiểu kết............................................................................................................. 169
KẾT LUẬN ............................................................................................................. 170
TÀI LIỆU THAM KHẢO......................................................................................... 175
1
DẪN NHẬP
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Giao tiếp là một nhu cầu quan trọng của con người. Ngồi mục đích trao đổi
thông tin, giao tiếp thể hiện cho một loạt các nhu cầu cơ bản của con người: nhu cầu
sinh tồn, nhu cầu an toàn, nhu cầu xã hội, nhu cầu được tôn trọng và nhu cầu tự
khẳng định bản thân. Giao tiếp cịn là một hoạt động mà thơng qua đó con người xác
lập hàng loạt các quan hệ xã hội quanh mình, như một phương thức chung của sự tồn
tại và phát triển. Trong từng mối quan hệ, mỗi người lại cần đến những cách thức ứng
xử giao tiếp khác nhau sao cho quá trình giao tiếp được thuận lợi và hiệu quả. Theo
đó, trong q trình tồn tại và phát triển, con người đã sáng tạo và tích lũy được một hệ
thống các giá trị văn hố thơng qua hoạt động giao tiếp – văn hố giao tiếp.
Miền Tây Nam Bộ là phần đất cuối cùng tổ quốc, nơi mà những lưu dân
người Việt, Hoa, Chăm lần lượt gửi gắm những khát vọng về sự an cư, lạc nghiệp,
nương nhờ bao ước muốn về sự tự do, bình đẳng... Trong từng bước chân xi miền
cực Nam, những lưu dân người Việt luôn phải đối diện với những cái mới lạ, cái đa
dạng và phong phú của môi trường tự nhiên và mơi trường xã hội. Để có thể tồn tại
và phát triển nơi miền đất này con người buộc phải giao tiếp. Chắc chắn rằng, trong
quá trình định cư và phát triển, những lưu dân người Việt đã phải lựa chọn và sáng
tạo cho mình những phương thức ứng xử mới.
Ngoài các lĩnh vực khác, giao tiếp được quan tâm nhiều trong lĩnh vực truyền
thông với mục đích là đem lại một hiệu quả tốt nhất cho q trình thơng tin. Cơng tác
giảng dạy báo chí phát thanh truyền hình chắc chắn tìm được nhiều điều bổ ích từ “Văn
hoá giao tiếp của người Việt ở miền Tây Nam Bộ”, đó cũng là lý do chọn lựa đề tài.
2. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ
Văn hóa giao tiếp của người Việt miền Tây Nam Bộ đã được tiếp cận trực
tiếp và gián tiếp trong một số cơng trình nghiên cứu, bài viết trên các tạp chí khoa
học, mạng truyền thơng …
Thứ nhất, tiếp cận văn hóa giao tiếp của Nam Bộ từ các lĩnh vực
chuyên ngành
2
Từ góc độ ngơn ngữ học: các tác giả Lê Anh Trà 1984, Thạch Phương, Hồ Lê,
Huỳnh Lứa, Nguyễn Quang Vinh 1992, Trần Thị Ngọc Lang 1995, Huỳnh Cơng Tín
1996, Nguyễn Thế Truyền 1999, Nguyễn Thế Truyền 2002, Lâm Uyên Ba 2003, Hồ
Xuân Tuyên 2004, Nguyễn Văn Nở 2004, Huỳnh Cơng Tín 2006, 2007, Lý Tùng
Hiếu 2008 đã lần lượt tìm hiểu về các đặc điểm của phương ngữ Nam Bộ (ngữ âm,
cấu tạo từ, ngữ pháp, cách sử dụng…) thể hiện cho những đặc trưng tư duy và phong
cách diễn đạt, tính cách con người, các tính chất quan hệ trong gia đình và xã hội của
người Việt ở Nam Bộ nói chung và miền Tây Nam Bộ nói riêng.
Từ góc độ xã hội học: một số tác giả đã tìm hiểu tác động của các điều kiện
kinh tế - xã hội, dân cư, các hệ tư tưởng xã hội như Nho giáo, Phật giáo, phương
Tây đến đời sống vật chất và tinh thần, tính cách và hoạt động giao tiếp của người
Việt ở miền Tây Nam Bộ nói riêng và Nam Bộ nói chung như Phan Quang 1985;
Sơn Nam 1992, 2000; Nguyễn Hữu Hiệp 2008.
Từ góc độ văn học: từ các dữ liệu văn học, một số nhà nghiên cứu đã tìm
hiểu về các đặc trưng ngơn ngữ và phong cách diễn đạt của người Việt ở Nam Bộ
nói chung và miền Tây Nam Bộ nói riêng như Lê Văn Bột 2003, Hồ Tĩnh Tâm
2009a, Trần Phỏng Diều 2008, Trần Văn Nam 2008…
Từ góc độ tâm lý học: Tìm hiểu sự khác nhau trong đặc trưng tư duy và
phong cách người Nam Bộ thơng qua tiếng cười có tác giả Huỳnh Cơng Tín 2006,
Mai Thanh Thắng 2006.
Thứ hai, tiếp cận văn hóa giao tiếp của Nam Bộ theo mảng đề tài, khía cạnh
vấn đề
Tìm hiểu về chủ thể giao tiếp là người Việt ở Nam Bộ nói chung và miền
Tây Nam Bộ nói riêng qua đặc điểm xuất thân, tính cách được lần lượt các tác giả
quan tâm như Sơn Nam 1964/2006, Lê Anh Trà 1984, Thạch Phương, Hồ Lê,
Huỳnh Lứa, Nguyễn Quang Vinh 1992, Huỳnh Lứa 2002, Trần Ngọc Thêm 2006.
Về bối cảnh giao tiếp: sự tác động của không gian giao tiếp đến hoạt động
giao tiếp của người Việt miền Tây Nam Bộ cũng được nhiều tác giả đề cập đặc biệt
là Sơn Nam 1992, 1993, 2000, Huỳnh Lứa 2002.
3
Phương tiện giao tiếp: hệ thống từ xưng hô, ý thức và định danh về thời gian
cũng lần lượt được nghiên cứu bởi các tác giả Trần Thị Ngọc Lang 1995, Mai
Thanh Thắng 2005, Hồ Xuân Tuyên 2007, …
Tìm hiểu về các khía cạnh của đặc trưng giao tiếp như thái độ, phong cách
ứng xử có các tác giả như Sơn Nam 1964/2006, Lê Anh Trà 1984, Phan Quang
1985, Nguyễn Cơng Bình, Lê Xn Diêm, Mạc Đường 1990, Sơn Nam 1992;
Thạch Phương, Hồ Lê, Huỳnh Lứa, Nguyễn Quang Vinh 1992; Sơn Nam 1993,
Nguyễn Văn Nở 2005, Nguyễn Hữu Hiệp 2007, Trần Thanh Vân 2007...
Thứ ba, các cơng trình nghiên cứu về văn hóa giao tiếp của người Việt nói
chung gợi mở cho đề tài các phương pháp nghiên cứu, khía cạnh tìm hiểu, những
sự so sánh để thấy rõ sự thống nhất trong đa dạng của văn hóa Việt Nam như:
-
Xác định các tính chất, khía cạnh văn hóa trong hoạt động giao tiếp của
người Việt Nam (Nguyễn Kim Thản 1982, Nguyễn Thị Hồng Yến 2006).
-
Tính hệ thống của các biểu hiện văn hóa và q trình tiếp biến của chúng
(Trần Ngọc Thêm 1996/2004)
-
Xem xét các bình diện ứng xử của người Việt, giữa ứng xử truyền thống
và hiện đại bằng cách phân tích hồn cảnh lịch sử xã hội (Phạm Minh
Thảo 1996; Nguyễn Văn Khang 1996, Nguyễn Trọng Báu 2006)
-
Xác định các góc độ tiếp cận của văn hóa giao tiếp qua ngôn ngữ, các
phương tiện giao tiếp và qua các loại quan hệ (Hữu Đạt 2000), (Nguyễn
Đăng Khánh 2008).
Tóm lại, về mặt nội dung, các cơng trình đi trước đã nhiều đóng góp đáng kể
cho việc tìm hiểu văn hóa giao tiếp của người Việt miền Tây Nam Bộ.
Văn hóa giao tiếp của người Việt miền Tây Nam Bộ nói riêng và Nam Bộ nói
chung đã được tiếp cận khá phong phú và sâu rộng từ góc độ ngôn ngữ. Cụ thể là
những đặc điểm về ngữ âm, cấu tạo từ, ngữ pháp, hệ thống từ xưng hô và cách thức
xưng hô, mức độ biểu đạt của từ ngữ, dấu ấn thế giới quan và nhân sinh quan của
con người trong ngơn ngữ… Những cơng trình, bài viết tiếp cận từ góc độ ngơn ngữ
trên đã tạo nên những tiền đề khoa học và thực tiễn phong phú về ngôn ngữ trong
4
hoạt động giao tiếp. Đây là nhóm tư liệu mang nhiều ý nghĩa khoa học và thực tiễn
cho người đi sau có thể kế thừa trong q trình nghiên cứu.
Những nhận định, đánh giá về thái độ, tâm lý, tình cảm và phong cách ứng xử
của người Việt ở Nam Bộ nói chung và miền Tây Nam Bộ trong giao tiếp cũng được
nhiều cơng trình, bài viết đề cập. Nó tạo nên những điểm tựa để so sánh, giúp cho việc
nhận thức và đánh giá khách quan hơn. Tuy nhiên, hầu hết các cơng trình chỉ dừng lại
trong một vài phân tích nhỏ, và mang tính dàn trải. Phần chứng minh các nhận định,
đánh giá chưa được xúc tiến làm rõ, và đây sẽ là điểm mà đề tài phấn đấu tiếp nối.
Văn hóa giao tiếp của người Việt Miền Tây Nam Bộ có thể tìm hiểu thơng
qua tính cách con người. “Con người là sự tổng hòa của các mối quan hệ xã hội”
và tính cách con người là sản phẩm của q trình tổng hịa đó. Những nhận định
và đánh giá về tính cách người Việt Nam Bộ là nhóm nội dung tiếp theo cho
phép chúng ta có cái nhìn biện chứng, khách quan về sự tác động của các điều
kiện lịch sử, kinh tế, chính trị, xã hội đến hoạt động giao tiếp và văn hóa giao
tiếp của con người.
Các đặc trưng trong văn hóa giao tiếp của người Việt Nam sẽ là nền tảng cho
việc tìm hiểu Văn hóa giao tiếp của người Việt Miền Tây Nam Bộ. Những điểm
tương đồng và khác biệt trong văn hóa giao tiếp của người Việt miền Tây Nam Bộ
và cả nước (Bắc Bộ) giúp chúng ta thấy được bản sắc văn hóa và sự biến thiên của
văn hóa Việt Nam.
Về mặt phương pháp: Phần lớn các cơng trình trên đều sử dụng phương
pháp nghiên cứu chuyên ngành (ngôn ngữ học, xã hội học, tâm lý học, văn hoá
dân gian…), thực hiện các phương pháp so sánh, phương pháp lịch sử, phương
pháp điền dã, kết hợp với các thao tác miêu tả, phân tích, tổng hợp… Những nhận
định, đánh giá dựa trên các quan sát thực địa, kinh nghiệm, vốn sống và sự cảm
thụ của mỗi nhà nghiên cứu cũng là một phương pháp nghiên cứu được nhiều tác
giả sử dụng.
Phương pháp điều tra và thống kê cũng là một trong các phương pháp mà các
nhà nghiên cứu hay sử dụng để xác định những mặt biểu hiện của văn hóa. Đây là
một trong những phương pháp nghiên cứu đang gặt hái được nhiều thành tựu.
5
3. ĐỐI TƯỢNG VÀ MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu là văn hoá giao tiếp của người Việt miền Tây Nam Bộ,
bao gồm những giá trị vật chất và tinh thần mà người Việt miền Tây Nam Bộ đã
sáng tạo và tích lũy trong q trình hoạt động giao tiếp.
Mục đích nghiên cứu nhằm tìm hiểu những đặc trưng cơ bản của văn hoá
giao tiếp của người Việt ở miền Tây Nam Bộ.
4. PHẠM VI NGHIÊN CỨU
Về chủ thể phạm vi nghiên cứu của luận văn là những người Việt từ miền
ngoài lần lượt định cư tại Tây Nam Bộ.
Về không gian trong phạm vi của các tỉnh ở miền Tây Nam Bộ, hay là Đồng
bằng sông Cửu Long.
Về thời gian: Từ thế kỉ 17 - thời kỳ đi khai hoang mở đất về phương Nam
đến nay.
Văn hóa giao tiếp là một đề tài rất rộng, bởi nó là sự biểu hiện văn hóa của
con người trong nhiều hoạt động sống. Với khuôn khổ của một luận văn thạc sĩ, đề
tài “Văn hóa giao tiếp của người Việt ở miền Tây Nam Bộ” giới hạn tư liệu khảo sát
trong tục ngữ, ca dao và một số tác phẩm văn học ở Nam Bộ nói chung và miền Tây
Nam Bộ nói riêng.
5. Ý NGHĨA KHOA HỌC VÀ THỰC TIỄN
Về mặt khoa học, luận văn góp phần sáng tỏ thêm một số vấn đề lý luận về
văn hoá giao tiếp, văn hoá vùng và văn hoá Việt Nam.
Về mặt thực tiễn, luận văn góp phần làm sáng tỏ những đặc trưng giao tiếp
của người Việt ở Tây Nam Bộ, sự phong phú và đa dạng trong văn hoá giao tiếp của
người Việt trong cả nước. Điều này mong góp phần giữ gìn và phát triển các giá trị
văn hóa giao tiếp tốt đẹp mà nhân dân miền Nam đã sáng tạo và tích lũy.
Từ góc độ cá nhân, những kiến thức và kết quả nhận được từ luận văn sẽ
giúp ích rất nhiều trong cơng tác giảng dạy báo chí phát thanh truyền hình, như
trang bị kiến thức và kỹ năng giao tiếp, văn hóa giao tiếp cho phóng viên, phát
thanh viên chun ngành phát thanh truyền hình. Điều này góp phần tích cực cho
6
cơng tác quản lý văn hố, bảo tồn và phát triển các giá trị văn hố trên làn sóng
truyền thơng Việt Nam.
6. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU VÀ NGUỒN TƯ LIỆU
6.1. Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu văn hóa giao tiếp của người Việt miền Tây Nam Bộ là nghiên
cứu một tiểu thành tố của Văn hóa Việt Nam nói chung nên luận văn sẽ sử dụng
phương pháp hệ thống - cấu trúc. Vì giao tiếp liên đến thành tựu của nhiều ngành
như: tâm lý học, giao tiếp học, ngôn ngữ học, xã hội học, dân tộc học, văn hóa dân
gian … nên để tiếp cận đối tượng luận văn sẽ cần đến phương pháp nghiên cứu
liên ngành.
Nghiên cứu văn hóa giao tiếp của người Việt miền Tây Nam Bộ, khơng chỉ
nhìn nhận lại những giá trị văn hóa theo chân cha ông ta vào miền cực Nam mở
đất, mà còn hướng tới những giá trị văn hóa mới hình thành và phát triển trong sự
tương tác của con người với môi trường tự nhiên và môi trường hội ở miền Tây
Nam Bộ. Vì vậy luận văn sẽ sử dụng phương pháp lịch sử - xã hội, áp dụng cái
nhìn đồng đại và lịch đại để quan sát, nghiên cứu tọa độ chủ thể, thời gian và
khơng gian văn hóa.
Văn hóa giao tiếp là một bộ phận của văn hóa tổ chức cộng đồng nên việc
nghiên cứu cần sử dụng phương pháp điều tra- thống kê, các thao tác miêu tả, phân
tích, tổng hợp số liệu. Luận văn cần sử dụng phương pháp so sánh văn hóa để làm
sáng tỏ tính dân tộc và tính địa phương trong văn hóa giao tiếp của người Việt miền
Tây Nam Bộ.
6.2. Nguồn tài liệu
Bao gồm các cơng trình nghiên cứu từ các lĩnh vực lịch sử, ngơn ngữ, văn
hóa, tâm lý, kinh tế xã hội, văn học dân gian, địa lý khí hậu … về Nam Bộ nói
chung và Tây Nam Bộ nói riêng.
Các cơng trình nghiên cứu, biên khảo, bài viết trên các tạp chí, tư liệu mạng
của các tác giả trong và ngồi nước về khoa học giao tiếp, văn hóa giao tiếp của
người Việt và văn hóa của người Việt ở Nam Bộ.
7
7. BỐ CỤC LUẬN VĂN
Ngoài phần dẫn nhập và kết luận, luận văn gồm 4 chương
Chương một: “Những vấn đề chung” bao gồm cơ sở lý luận về giao tiếp, văn
hóa giao tiếp và cơ sở thực tiễn dùng để định vị văn hóa người Việt ở miền Tây
Nam Bộ.
Chương hai: “Văn hóa nhận thức về giao tiếp của người Việt miền Tây Nam
Bộ” tìm hiểu thái độ đối với giao tiếp và kinh nghiệm trong giao tiếp của người Việt
ở Nam Bộ nói chung và miền Tây Nam Bộ nói riêng.
Chương ba: “Văn hóa tổ chức giao tiếp của người Việt miền Tây Nam Bộ”
tìm hiểu các nguyên tắc tổ chức và tính chất của các mối quan hệ trong giao tiếp gia
đình và xã hội của người Việt ở miền Tây Nam Bộ.
Chương bốn: “Văn hóa ứng xử trong giao tiếp của người Việt miền Tây Nam
Bộ” với mục đích làm rõ những đặc trưng có tính địa phương của văn hóa ứng xử
trong giao tiếp người Việt ở miền Tây Nam Bộ nói riêng và Nam Bộ nói chung.
8
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
1.1. VĂN HĨA GIAO TIẾP
Văn hóa giao tiếp được sáng tạo và tích lũy thơng qua hoạt động giao tiếp.
Vậy, tìm hiểu về văn hóa giao tiếp sẽ bắt đầu từ việc tìm hiểu giao tiếp.
1.1.1. Giao tiếp
Trong Từ điển Tiếng Việt của Hoàng Phê, 1992 ghi “Giao tiếp là trao đổi,
tiếp xúc với nhau”, từ điển Từ và ngữ Việt Nam của Nguyễn Lân, 2000 xác định
“giao” là trao đổi, “tiếp” là nối với nhau, giao tiếp là tiếp xúc với người khác. Trước
khi trở thành đối tượng nghiên cứu của các ngành khoa học, các tư tưởng về giao
tiếp đã xuất hiện từ rất sớm trong lịch sử phát triển của nhân loại. Từ thời kỳ cổ đại,
Socrate và Platon đã xem “đối thoại như là sự giao tiếp trí tuệ, phản ánh các mối
quan hệ giữa con người với con người”. Trong Bản thảo kinh tế - Triết học 1884,
Macx (1818 – 1883) đã dùng khái niệm “giao tiếp vật chất” để chỉ mối quan hệ sản
xuất thực tiễn của con người. Trên cơ sở này, ông cho thấy trong sản xuất vật chất
và tái sản xuất con người phải có giao tiếp trực tiếp. Con người chỉ trở thành con
người khi có quan hệ trực tiếp với những người khác. Như vậy, theo Macx giao tiếp
là “khí quan xã hội” [Hồng Anh 2007:161,162].
Giao tiếp được nghiên cứu đầy đủ trong Chủ nghĩa hiện sinh của Iaxpecxo
Caclo (1883 – 1969), đại diện cho những người theo chủ nghĩa hiện sinh Đức. Về
mặt lịch sử, thuyết giao tiếp được hình thành để đối lập lại với khế ước xã hội bắt
nguồn từ phong trào khai sáng. Những người theo thuyết giao tiếp nhấn mạnh rằng
khế ước xã hội về cơ bản chỉ là “một sự thỏa thuận, một sự hợp đồng” trong đó
những người tham gia bị hạn chế bởi những lời cam kết từ hai phía; họ chỉ tự giác
và hiểu nhau dưới ánh sáng của các lời cam kết này, “Khế ước” - theo họ đó là một
liên hệ dựa trên sự chia tách thực tế của những con người”. Còn giao tiếp thì được
xem là “một sự lệ thuộc lẫn nhau được thiết lập một cách tự giác và đối lập lại với
khế ước và biện pháp để xác định sự giao tiếp là tranh luận” [Nguyễn Sinh Huy,
Trần Trọng Thủy 2006:12].
9
Từ thế kỉ XX, hoạt động giao tiếp của con người ngày càng được các nhà triết
học, tâm lý học, xã hội học quan tâm nhiều hơn. Trong triết học, các nhà nghiên cứu
xem xét sự tồn tại của con người thơng qua giao tiếp, theo đó “tồn tại là đối thoại”
của Mác Tinbutơ (1876 – 1965). Khi nghiên cứu và đề xuất các phản xạ học trong
“Tâm lý học khách quan”(1907), “Phản xạ học tập thể” (1921), nhà triết học người
Nga V. M.Bécchurép (1857 – 1927) cho rằng giao tiếp là ảnh hưởng tâm lý qua lại
giữa người này với người kia, là điều kiện thực hiện giáo dục truyền đạt kinh nghiệm
cho các thế hệ, góp phần quan trọng phát triển nhân cách của con người. Đồng thời,
với sự phát triển của điều khiển học, lý thuyết thông tin và lý thuyêt hệ thống thì khái
niệm giao tiếp khơng chỉ đơn thuần như một q trình truyền đạt thơng tin từ một
điểm phát tới một điểm thu [Hồng Anh 2007: 162 -165].
Như vậy, theo thời gian, giao tiếp không chỉ trở thành đối tượng nghiên cứu
của nhiều chuyên ngành khoa học như tâm lý học giao tiếp, ngữ dụng học… mà cịn
là đối tượng tìm hiểu của nhiều ngành khoa học như triết học, xã hội học, y học,
thơng tin học… Cũng như hoạt động văn hóa, sự giao tiếp của con người ln mang
tính chất lựa chọn, kế thừa và phát triển.
Một số nội dung cơ bản của giao tiếp từ những hướng tiếp cận của các khoa
học chuyên ngành
Trong tâm lý học: Hoạt động giao tiếp bao gồm quá trình thiết lập và thực thi
mối quan hệ giữa người với người và trong quá trình đó con người sáng tạo lẫn
nhau. Bất kỳ một hoạt động giao tiếp nào cũng là mối quan hệ tác động qua lại lẫn
nhau giữa các chủ thể. Mỗi người có động cơ của riêng mình, thơng qua các cơng cụ
phương tiện, con người nhận thức về nhau, về thế giới xung quanh, tác động qua lại
và sáng tạo lẫn nhau [www.tamlyhoc.net/forum/index.php?topic=838.0].
1995, trong cơng trình Khoa học và nghệ thuật giao tiếp, tác giả Trần Tuấn
Lộ đã xem xét bản chất tâm lý - xã hội của học động giao tiếp: “Giao tiếp là một
hoạt động trong đó người này tiếp xúc và đối tác với người kia để có sự truyền
thông tâm lý cho nhau hoặc để cùng nhau thực hiện một hoạt động khác sau khi đã
có truyền thông về mặt tâm lý” và “Giao tiếp là sự vận động và biểu hiện của
những quan hệ xã hội”.
10
2007, Tác giả Hoàng Anh viết “Giao tiếp là sự tiếp xúc tâm lý tạo nên giữa
hai hay nhiều người với nhau, chứa đựng nội dung xã hội – lịch sử nhất định, có
chức năng tác động, hỗ trợ nhau: thơng báo, điều khiển, nhận thức, hành động và
tình cảm … nhằm thực hiện mục đích nhất định của một hoạt động nhất định”
[Hồng Anh (cb) 2007: 169].
Từ góc độ tâm lý học, các tác giả trên thế giới cũng có một số định nghĩa sau
về giao tiếp. Các nhà tâm lý học Liên Xô cũ từng đưa ra khái niệm như “giao tiếp là
sự liên hệ và đối xử lẫn nhau” (Từ điển tiếng Nga văn học hiện đại tập 8, trang 523
của NXB Matxcơva) “giao tiếp là quá trình chuyển giao tư duy và cảm xúc”
(L.X.Vgơtxki) [ />Từ góc độ tâm lý học, các chức năng của giao tiếp bao gồm: (1) Giao tiếp
thỏa mãn các nhu cầu cơ bản của con người, là điều kiện của sự tồn tại và phát triển
của con người như là một nhân cách; (2) Giao tiếp có chức năng trao đổi thơng tin,
tâm lý, tư tưởng tình cảm.là sự thơng qua sự tiếp xúc giữa người; (3) Giao tiếp là
một hoạt động thể hiện sự liên kết, phối hợp và điều khiển lẫn nhau.
Trong ngôn ngữ học: Ngôn ngữ là một phương tiện giao tiếp quan trọng của
con người. Trong giao tiếp con người sử dụng cả ngôn ngữ viết và cả phương tiện
tiếp cận ngơn ngữ (giọng nói – paralanguage) [Nguyễn Sinh Huy, Trần Trọng Thủy
2006: 21].
Giao tiếp như một thuật ngữ chỉ loại, bao trùm tất cả các thông điệp được
phát ra trong những ngữ cảnh và tình huống khác nhau [Diệp Quang Ban 2006: 19].
Giao tiếp được hiểu là một q trình thơng tin diễn ra giữa ít nhất là hai
người giao tiếp và trao đổi với nhau, gắn với một ngữ cảnh và một tình huống nhất
định. [Diệp Quang Ban 2009:18].
Thông điệp (message) trong ngôn ngữ học được hiểu là tin được mã hóa
thành lời nói học lời viết, được truyền đi từ người phát đến người nhận. Trong cách
hiểu này, giao tiếp được coi như tất cả các kết qủa của hành động xã hội bằng ngôn
ngữ, chưa phân biệt các mục đích cụ thể, xuất hiện trong những hồn cảnh khơng
gian và thời gian khác nhau và trong những tình huống xã hội khác nhau.
11
“Ngữ cảnh” là tất cả những gì ở bên ngồi q trình thơng tin đó (kể cả hồn
cảnh thời gian và khơng gian) có quan hệ với q trình đó. Ngữ cảnh là nơi cung
cấp đề tài, nhân vật, điều kiện cho giao tiếp diễn ra, và qua đó quy định cả cách thức
tiến hành cuộc giao tiếp. “Tình huống” được hiểu là các khung sự việc chung
thường lập đi lập lại có thể hình dung như một kịch bản cho sẵn (bữa cơm gia đình,
cuộc khám bệnh,…)
Ngữ dụng học là một chuyên ngành trong ngôn ngữ học, mục tiêu cơ bản cơ
bản là làm thế nào đạt được sự hiểu nhau tốt nhất và đạt được mục tiêu giao tiếp
như mong muốn. Trong ngôn ngữ học: Giao tiếp bằng lời nói là “cái vốn có trong
thơng điệp ngơn ngữ”: qua bình diện nội dung và bình diện biểu hiện (hình thức)
của thơng điệp ngơn ngữ, người ta có thể hiểu tình huống, ngữ cảnh, và bản thân
những người trao đổi với nhau tự thể hiện mình.
Xã hội học: cũng nghiên cứu hiện tượng giao tiếp như ở góc độ là một hiện
tượng mang bản chất xã hội và chức năng xã hội - Giao tiếp là một hành vi xã hội.
Trong xã hội, các cá nhân có sự tác động qua lại với nhau, mỗi cá nhân qua giao
tiếp sẽ học hỏi được những hành vi xã hội thích hợp và hiểu được tác dụng, ý nghĩa
của hành vi đó trong điều kiện xã hội mà họ đang sống. Giao tiếp có vai trị rất quan
trọng đối với q trình xã hội hóa của mỗi cá nhân và cả với cả sự phát triển tiến bộ
của xã hội nói chung. Chức năng xã hội của hoạt động giao tiếp được xác lập: tổ
chức, điều kiển, phối hợp [Nguyễn Sinh Huy, Trần Trọng Thủy 2006: 3, 22].
Thông tin học: Trao đổi thông tin (communication) là một mặt không thể
thiếu được của giao tiếp. Trong quá trình giao tiếp, con người gửi và nhận các thông
điệp – thông tin với nhau. Các thơng điệp này được người gửi mã hóa và người
nhận giải mã theo một cách thức nhất định.
Trên thế giới, các mơ hình thơng tin ra đời cho phép xác định đầy đủ tính
tính tương tác, trao đổi hai chiều của q trình thơng tin. Tùy theo góc độ tìm hiểu
và nghiên cứu, người ta đã đưa ra rất nhiều định nghĩa khác nhau về truyền thông
như “Truyền thông xảy ra khi thông tin được truyền từ nơi này đến nơi khác” hay
“Truyền thơng là q trình trao đổi thơng điệp giữa các thành viên hay các nhóm
người trong xã hội nhằm đạt sự hiểu biết lẫn nhau” [Dương Xuân Sơn, Đinh Hường
2002: 12].
12
Ở Việt Nam, “Truyền thơng là một q trình liên tục trao đổi hoặc chia sẻ
thơng tin, tình cảm, kỹ năng nhằm tạo sự liên kết lẫn nhau để dẫn tới sự thay đổi
trong hành vi và nhận thức” [Dương Xn Sơn, Đinh Hường 2002:13].
Truyền thơng là một q trình liên tục – có nghĩa nó khơng phải là một việc làm
nhất thời hay xảy ra trong một khuôn khổ thời gian hẹp mà là một việc diễn ra trong
khoảng thời gian lớn. Qúa trình này mang tính liên tục vì khơng thể kết thúc ngay sau
khi ta chuyển tải nội dung mà cịn tiếp diễn sau đó. Truyền thơng dẫn tới sự thay đổi
trong hành vi và nhận thức xác định tính hiệu quả của q trình truyền thơng.
Trong lịch sử phát triển của mình, các lý thuyết thơng tin đã làm rõ tính chất
hai chiều của q trình truyền thông. Tuy nhiên, mặt hạn chế của lý thuyết thơng tin
là khơng khảo sát được tính chất của ngữ cảnh và tình huống trong giao tiếp.
Phân biệt giao tiếp với thông tin: Trước hết, các nhà nghiên cứu cho rằng
chính ý nghĩa được chủ định trong thơng điệp là cái dùng để phân biệt thông tin: giao
tiếp chứa đựng ý nghĩa được chủ định từ phía người phát như là điều kiện tiên quyết,
thông tin không lấy ý nghĩa làm điều kiện tiên quyết (một quảng cáo đưa ra không bắt
buộc người khác phải tiếp nhận và cũng không bắt buộc phải hiểu chủ định của người
phát). Kế đến là nguyên tắc cộng tác (Grice) là yếu tố thứ hai được đưa vào đề phân
biệt giao tiếp với thông tin : giao tiếp có sự cùng chung và tương tác, khác với thơng
tin khơng coi hai tính chất này là bắt buộc [Diệp Quang Ban 2009: 25].
Từ cách hiểu đó lý thuyết thơng tin phân biệt cái thơng điệp truyền tải và
cách hiểu thơng điệp đó. Tin được hiểu lệ thuộc vào trình độ của người nhận tin, sự
truyền tải có thể bị “nhiễu” do kênh truyền dẫn và có thể làm giảm độ chính xác của
thơng tin. Trong giao tiếp, đối với thơng điệp, người phát phải tính đến khả năng
người nhận hiểu thơng điệp từ chính người phát, và phải tính đến thái độ của người
nhận trong việc giải đoán ý chủ định của người phát.
Định nghĩa về giao tiếp
Từ các góc độ trên, ta có thể khái quát nội dung của khái niệm giao tiếp như sau:
Xét về bản chất, giao tiếp là một nhu cầu cơ bản của con người, là điều kiện
của sự tồn tại và phát triển của con người như là một nhân cách.
Xét về đặc trưng, giao tiếp là sự trao đổi thông tin.
13
Xét về bản thể, giao tiếp là các thông điệp được phát ra trong những ngữ cảnh
và tình huống khác nhau.
Xét về hoạt động, giao tiếp là một hoạt động liên kết, tổ chức và điều khiển
lẫn nhau của con người.
Xét về kết quả, giao tiếp là sự truyền đạt.
Xét về phương tiện, giao tiếp thực hiện nhờ phương tiện ngôn ngữ và phi
ngôn ngữ
Vậy : Giao tiếp là một q trình thơng tin nhằm liên kết, tổ chức và điều kiển
lẫn nhau của con người, thông qua các thông điệp phát ra trong những ngữ cảnh và
tình huống khác nhau, thể hiện các nhu cầu cơ bản, các điều kiện tồn tại và phát
triển của con người.
Các chức năng của giao tiếp
Thông tin hai chiều: Chức năng này bao qt tất cả các q trình truyền và
nhận thơng tin. Với tư cách là một q trình truyền tín hiệu, chức năng này có cả ở
người và động vật. Tuy nhiên, con người khác con vật ở chỗ có hệ thống tín hiệu
thứ hai, q trình truyền tin được phát huy đến tối đa tác dụng của nó và kết quả là
con người có khả năng truyền đi bất cứ thơng tin, tín hiệu gì mình muốn. Chức năng
này thể hiện ở cả chủ thể giao tiếp và đối tượng giao tiếp, nhằm thoả mãn nhu cầu
nào đó như nhu cầu truyền tin, nhu cầu tình cảm, nhu cầu tiếp xúc, giải trí… Nhưng
cũng chính vì con người có hệ thống tín hiệu thứ hai, có ý thức, có trí tuệ phát triển
hơn so với các động vật khác mà hiệu quả của q trình này có thể được tăng lên
hay giảm đi.
Tổ chức, điều khiển và phối hợp hành động: Thơng qua giao tiếp, cá nhân
khơng chỉ có khả năng điều chỉnh hành vi của mình mà cịn có thể điều chỉnh hành
vi của người khác. Chức năng này chỉ có ở người với sự tham gia của q trình
nhận thức, của ý chí và tình cảm. Khi tiếp xúc, trao đổi thông tin với nhau, các chủ
thể giao tiếp đã hoặc đang ý thức được mục đích, nội dung giao tiếp, thậm chí cịn
có thể dự đốn được kết quả đạt được sau quá trình giao tiếp. Nhằm đạt được mục
đích mong muốn, các chủ thể thường linh hoạt tuỳ theo tình huống thời cơ mà lựa
chọn, thay đổi cách thức hoặc phương hướng, phương tiện giao tiếp sao cho phù
14
hợp. Chức năng này thể hiện khả năng thích nghi lẫn nhau của các chủ thể giao tiếp.
Ngồi ra, nó cịn thể hiện cho vai trị tích cực của các chủ thể, tính mềm dẻo, linh
hoạt của các phẩm chất tâm lý cá nhân trong giao tiếp.
Giáo dục và phát triển nhân cách: Con người không thể sống cô lập, tách khỏi
gia đình người thân, bạn bè và cộng đồng người. Giao tiếp nhóm là loại giao tiếp phổ
biến, nó có vài trị to lớn đối với việc hình thành và phát triển tâm lý. Cùng với hoạt
động của mỗi cá nhân, giao tiếp giúp cho con người lĩnh hội các chuẩn mực đạo đức
xã hội, nắm vững được các kinh nghiệm xã hội lịch sử và hình thành nhân cách.
Cấu trúc của giao tiếp
Thứ nhất, giao tiếp là một hoạt động.
Trong tâm lý học, giao tiếp được coi là một hoạt động. Hoạt động này diễn ra
trong mối quan hệ người - người nhằm hiểu biết lẫn nhau và làm thay đổi mối quan
hệ bằng cách tác động đến tri thức tình cảm và tồn bộ nhân cách con người. Đó là
sự tác động trực tiếp người - người diễn ra trong mối quan hệ giữa chủ thể với chủ
thể. Theo A.A. Leonchiev: Giao tiếp có thể là một hoạt động, hoặc có thể là phương
thức, điều kiện của hoạt động [Hoàng Anh 2006: 178]. Như vậy, giao tiếp có mối
quan hệ khăng khít với hoạt động, giao tiếp là một trong các dạng của hoạt động
cùng nhau (Kagan, Anđơrêea, Leonchiev). Sự gắn bó này thể hiện ở chỗ giao tiếp
diễn ra như một điều kiện, một phương thức để tiến hành hoạt động khác.
Xét về mặt cấu trúc tâm lý, giao tiếp có cấu trúc chung với hoạt động, nghĩa
là có động cơ quy định hình thành và diễn biến của nó, được tạo thành bởi các hành
động và các thao tác. Giao tiếp nào cũng có những đặc điểm cơ bản của một hoạt
động: bao giờ cũng có chủ thể, đều nhằm vào đối tượng nào đó, đều tạo ra một sản
phẩm nào đó. Và thơng thường, sản phẩm của giao tiếp thuộc về tinh thần, trong khi
sản phẩm của hoạt động thuộc về cả vật chất lẫn tinh thần.
Giao tiếp có thể diễn ra theo hai cách sau trong mối liên quan đến hoạt động:
(1) Giao tiếp diễn ra như một điều kiện để tiến hành các hoạt động khác;
(2) Giao tiếp như một hoạt động độc lập, hay nói đúng hơn như một dạng của
hoạt động người, như là hoạt động nhận thức, hoạt động lao động.
15
Hoạt động giao tiếp được thực hiện bởi chủ thể giao tiếp với những mục đích
giao tiếp nhất định.
Chủ thể giao tiếp là con người cụ thể tham gia vào q trình giao tiếp. Vai trị
của chủ thể giao tiếp ln thay đổi, khi người này làm chủ thể thì người kia làm đối
tượng và ngược lại. Chủ thể giao tiếp có thể là một người hay nhiều người. Mỗi một
chủ giao tiếp đều ứng với những đặc điểm sinh lý, tâm lý, xã hội, với trình độ tri
thức nhất định... Tất cả các đặc điểm trên của chủ thể đều ảnh hưởng đến hiệu quả
của quá trình giao tiếp.
Mục đích giao tiếp là điều mà chủ thể giao tiếp hướng đến và mong đạt được
trong quá trình giao tiếp. Nó nhằm thoả mãn những nhu cầu phong phú và đa dạng của
con người. Ví dụ như nhu cầu được bảo an (tiếng khóc ở trẻ nhỏ), nhu cầu được gần
gũi và chia sẻ thơng tin, tình cảm, nhu cầu tiếp xúc giải trí, nhu cầu khẳng định …
Thứ hai, giao tiếp diễn ra trong một bối cảnh nhất định. Bối cảnh của giao
tiếp là những điều kiện, hoàn cảnh trong đó diễn ra q trình giao tiếp, bao gồm cả
bối cảnh vật lý và bối cảnh tâm lý - xã hội.
Bối cảnh vật lý của giao tiếp còn được hiểu là khí hậu ở nơi giao tiếp. Nó bao
gồm các yếu tố không gian và thời gian tác động đến quá trình giao tiếp, cụ thể như
nhiệt độ, thời điểm, ánh sáng, tiếng ồn, màu sắc đồ vật xung quanh, kích thước
khơng gian gặp gỡ, địa điểm diễn ra giao tiếp… Đây là những yếu tố nằm bên ngoài
các chủ thể giao tiếp.
Nhiệt độ có một tác động khơng nhỏ đến trạng thái tâm lý và sức khỏe của
các chủ thể trong giao tiếp. Ở một khí trời oi bức khoảng 380c, tâm lý con người ít
được thoải mái và tình trạng sức khỏe có thể trở nên xấu đi.
Thời điểm giao tiếp cũng có sự chi phối nhất định đến hoạt động giao tiếp,
nó liên quan đến nhịp độ tâm - sinh lý ở con người. Ở từng thời điểm giao tiếp,
người ta lại phải chú ý đến nội dung giao tiếp nào là phù hợp, chẳng hạn cha mẹ
thường ít bao giờ kể tội con cái trước bữa cơm, bởi “Trời đánh còn tránh bữa ăn”.
Trong từng mối quan hệ, bản thân thời điểm cũng mang một ý nghĩa riêng, phản
ánh tính chất nào đó của mối quan hệ giữa các đối tượng, đơi lúc nó tham dự như
một nội dung của cuộc giao tiếp. Ví dụ, một chàng trai nói với một cơ gái “Tối nay,
16
anh đến nhà em chơi được khơng?” thì bản thân “tối nay” là một cụm từ chỉ sự
riêng tư và khá thân mật.
Các sắc độ của ánh sáng có một ảnh hưởng không nhỏ đối với tâm trạng của
con người. Trong giao tiếp, ánh sáng như một trong những xúc tác làm nên sự thành
bại của hoạt động này. Người ta thường khá khó khăn khi bày tỏ những điều riêng
tư, thầm kín dưới một ánh sáng trắng, quá sáng. Nhưng ánh sáng trắng lại hỗ trợ
tích cực cho các sáng kiến, quan điểm, các tranh luận tại phòng hội nghị.
Âm thanh đóng vai trị quan trọng trong q trình giao tiếp, một thành tố đáng
chú ý trong hoạt động chuyển mã. Âm thanh được phân loại làm hai nhóm đối với
hoạt động giao tiếp: âm thanh tích cực và âm thanh tiêu cực. Âm thanh tích cực là
những âm thanh tạo những thuận lợi cho quá trình giao tiếp và ngược lại âm thanh
tiêu cực thì cản trở, làm đứt đoạn và có khi phá hỏng cả cuộc giao tiếp. Âm thanh quá
nhiều trở thành tiếng ồn, gây nhiễu thông tin và tác động xấu đến tâm lý người giao
tiếp. Ngày nay, con người còn sử dụng âm thanh để tạo nên nhịp độ giao tiếp.
Kích thước khơng gian nơi giao tiếp là phần mở rộng của kích thước sở hữu
cá nhân của các chủ thể. Kích thước nơi giao tiếp tác động nhiều đến tâm lý của con
người. Nó có thể làm cho chủ thể giao tiếp cảm thấy thoải mái, n bình, ấm cúng
và cũng có thể tạo sự lạc lõng, ngột ngạt, chèn ép,... Khi điều tra tội phạm, người ta
thường dùng những chiếc phòng nhỏ để tạo tâm lý dồn nén nơi bị cáo. Ngược lại,
trong những buổi mít tinh, lễ hội người ta thường chọn nơi có tiền sảnh lớn, khơng
gian thống đạt, trang trọng…
Thời tiết cũng là một thành tố thường xuyên tham sự vào hoạt động giao
tiếp. Nó chi phối đến nhiệt độ, hơi ẩm, ánh sáng, … của không gian giao tiếp và đặc
biệt đến tâm lý con người. Mùa xuân thường gợi cho con người nhiều suy nghĩ và
tình cảm tích cực hơn. Mùa thu con người dễ suy tư lãng mạn hơn là mùa hè.
Địa điểm giao tiếp góp phần tạo nên tình thái của hoạt động giao tiếp. Địa
điểm sẽ tạo nên hệ tọa độ không gian cho các chủ thể trong giao tiếp. Mỗi loại
không gian lại được qui định những ý nghĩa rất riêng, có khơng gian chung và
khơng gian riêng, khơng gian chính và khơng gian phụ …1
1
[ />
17
Bối cảnh tâm lý - xã hội: Các học thuyết về giao tiếp ở người chú trọng nhiều
đến tầm quan trọng của các yếu tố tâm lý – xã hội của chủ thể giao tiếp.
Trước hết, giao tiếp ở người thể hiện hàng loạt các nhu cầu đối với cuộc sống.
Abraham Maslow (1908-1970) là người đầu tiên hình dung sự phát triển nhu cầu của
con người theo các bậc của một chiếc thang, mỗi nhu cầu đó phải được thỏa mãn
trong mối quan hệ với môi trường dọc theo chiếc thang phát triển này. Theo ông,
những nhu cầu này là cơ sở cho sự phát triển lành mạnh. Hệ thống phân cấp các nhu
cầu cơ bản của con người này rất quan trọng: mỗi một bậc phụ thuộc vào một bậc
trước đó, nếu nhu cầu này chưa được đáp ứng đủ thì các nhu cầu khác chưa được thúc
đẩy. Theo Abraham Maslow, nấc thang nhu cầu thể hiện như sau: nhu cầu sinh lý
(nhu cầu được sinh tồn) – nhu cầu an toàn – nhu cầu xã hội – nhu cầu được tơn trọng
– nhu cầu tự khẳng định mình (tự thể hiện) [Nguyễn Ngọc Lâm 2007, 34].
Ở điểm này, có nhiều người khơng tán đồng hồn tồn với Maslow, từ thực
tế chúng ta vẫn có thể hốn đổi thứ bậc của các nhu cầu. Ví dụ: một đứa trẻ đánh
giầy thì nhu cầu vật chất là chính, phải làm việc để tự thỏa mãn nhu cầu vật chất của
mình. Song vẫn có trường hợp khi được cho thêm tiền, thì cậu bé lại bảo “Tơi đánh
giầy kiếm sống chứ không đi xin”, ở đây ta thấy nhu cầu được tôn trọng cần được
thỏa mãn hơn nhu cầu vật chất. Tuy nhiên, chúng ta cần thấy rằng, những nhận định
của Maslow về nấc thang nhu cầu ở con người là mang tính chuẩn tắc, nó cho phép
lý giải động lực của những nhu cầu cá nhân một cách phổ quát nhất, chứ không phải
là những nhận định thực chứng.
Nhu cầu chính là nguyên nhân hoạt động của con người và chính trong hoạt
động của mình con người tham gia vào xã hội như một thành viên. Xã hội học đã
chứng minh: “mỗi cá nhân bao giờ cũng ứng với một tọa độ xã hội nhất định”. Tọa
độ xã hội là mối quan hệ xã hội của cá nhân đó, nó qui định thuộc tính xã hội, tâm
lý, nhân cách, lối sống, ứng xử xã hội và ứng xử ngôn ngữ của các cá nhân trong
nhóm và trong tập đồn. Các thành viên trong một hệ thống xã hội bao giờ cũng ở
vào một địa vị nhất định với các quan hệ xã hội nhất định theo các qui tắc thiết chế
và chuẩn mực xã hội của từng hệ thống. Tâm lý học xã hội gọi vị trí hay chức trách
mà các quan hệ xã hội ấn định cho một cá nhân là vai xã hội của người đó.
18
Vai xã hội được quyết định bởi địa vị cá nhân trong mối quan hệ với các
thành viên khác. Các vị trí ấy làm nên “giá trị xã hội” của mỗi cá nhân trong nhóm.
Mỗi vai được xác định từ một “cặp vai”. Mối quan hệ xã hội của cá nhân quyết định
tính đa dạng và phong phú hay nghèo nàn, đơn điệu của số cặp vai. Trong quan hệ
vai, mỗi thành viên của nhóm được ấn định cho một bộ hành vi cá nhân (ổn định,
lập đi lập lại, phù hợp với chuẩn mực ứng xử xã hội, như ngôn ngữ của nhà giáo,
“giọng lãnh đạo” của thủ trưởng. Mỗi bộ vai có một biến thể ngơn ngữ đặc trưng
cho vai – chuyển mã (chuyển cương vị - chuyển sang một biến thể ngôn ngữ cá nhân
khác) nhằm tạo ra các phát ngôn thỏa đáng về mặt xã hội. Vai xã hội bao gồm vai
thường xuyên và vai lâm thời. Vai xã hội chi phối thái độ giao tiếp: ngang vai – bình
đẳng, hơn vai - lấn lướt, kém vai - nhún nhường [Như Ý 1990: 1-5].
Như vậy, ta có thể thấy rằng các cơ sở tâm lý – xã hội của chủ thể trong q
trình giao tiếp ln gắn bó mật thiết với nhau. Tác giả Nguyễn Huy Cẩn trong bài Về
phương hướng nghiên cứu giao tiếp trong tâm lý – ngơn ngữ học có viết “Mặc dù
hoạt động ngôn ngữ bao gồm các thành tố tâm lý nhưng lại được thực hiện bằng qui
luật xã hội chứ khơng khơng phải bằng qui luật của tâm lý” [Hồng Anh 2006: 270].
Q trình giao tiếp ln có người nói và người nghe cụ thể gắn với một tình
huống cụ thể, bên cạnh những thuộc tính tâm lý xã hội của nó, đã tạo ra trục kết hợp
thứ 3 trong ngôn ngữ - trục giá trị xã hội của ký hiệu ngôn ngữ (trục 1: thời gian; trục
2: không gian). Lý thuyết trên cho ngơn ngữ học- xã hội có thể nói đến những “cái sai
có căn cứ xã hội”. Hàm ngơn và hiển ngơn đều có thể hiểu được thơng qua tổng thể
các nhân tố có mặt trong tình hướng giao tiếp, cả nhân tố bằng lời và nhân tố phi lời.
Thứ ba, hành vi giao tiếp bao gồm nội dung giao tiếp, hình thức giao tiếp và
phương tiện giao tiếp
Nội dung giao tiếp là những vấn đề mà chủ thể đề cập đến khi giao tiếp với
người khác. Đây là yếu tố quan trọng nhất trong quá trình giao tiếp thể hiện ở thông tin
cần truyền đạt. Thông tin cần phải được cấu trúc như thế nào để nó phản ánh được
đúng nội dung cần truyền đạt, cũng như đến được người thu với kết quả cao nhất. Ở bất
kỳ một cuộc giao tiếp nào giữa con người với con người đều để lại trong chủ thể và đối
tượng giao tiếp một phẩm chất nhất định về nhận thức. Nội dung nhận thức trong giao
tiếp rất phong phú, đa dạng và sinh động. Thông qua giao tiếp để người ta trao đổi vốn
19
kinh nghiệm, tranh luận về quan điểm, thái độ. Sau mỗi lần giao tiếp mọi thành viên
đều nhận thức thêm được những điều mới mẻ. Nội dung giao tiếp chịu ảnh hưởng của
lứa tuổi, nghề nghiệp, giới tính…của các chủ thể giao tiếp. Ngồi ra nó cịn chịu ảnh
hưởng của hoàn cảnh, điều kiện giao tiếp cũng như trạng thái tâm lý của chủ thể.
Hình thức giao tiếp bao gồm giao tiếp trực tiếp và giao tiếp gián tiếp. Giao
tiếp trực tiếp là giao tiếp mặt đối mặt (face to face) cho phép nhận biết về đối tượng
giao tiếp cụ thể hơn, quá trình tương tác hiệu quả hơn. Giao tiếp gián tiếp là giao
tiếp dưới hình thức điện thoại, thư từ, hình thức giao tiếp này hạn chế thơng tin về
đối tượng hơn, q trình tương tác cũng ít hiệu quả hơn là giao tiếp trực tiếp.
Phương tiện giao tiếp gồm giao tiếp ngôn từ và giao tiếp phi ngôn từ
Giao tiếp ngôn từ: Cùng với lao động, ngôn ngữ là một trong những yếu tố
quyết định quá trình phát triển của loài người và sự phát triển của mỗi cá nhân. Nhờ
ngơn ngữ con người có thể trao đổi thơng tin, tư tưởng, tình cảm và tạo lập các mối
quan hệ. Ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp và tư duy. Chức năng cơ bản này được
thực hiện nhờ tính hệ thống và tính tín hiệu của ngơn ngữ. Tuy nhiên không phải
mọi yếu tố, mọi đơn vị của ngôn ngữ đếu tham gia như nhau vào quá trình giao
tiếp.Trực tiếp tham gia vào q trình mang thơng tin và truyền đạt thông tin là các
đơn vị định danh như từ, cụm từ, các đơn vị thông báo như câu, văn bản. Ngược lại,
các đơn vị như âm vị, hình vị lại chỉ gián tiếp tham gia vào quá trình giao tiếp, vì
chúng chỉ là chất liệu tạo nên các đơn vị nêu trên mà thôi [Mai Ngọc Chừ 2006: 12]
Tính tín hiệu của ngơn ngữ gồm hai mặt: cái biểu hiện (hình thức) và cái
được biểu hiện (nội dung và ý nghĩa). Nội dung ý nghĩa của tín hiệu chính là ngữ
nghĩa của chúng. Trong ngơn ngữ, đơn vị tín hiệu tiêu biểu nhất là từ.
Lời nói là sản phẩm tạo ra trong quá trình giao tiếp. Bởi lời nói là sự vận
dụng ngơn ngữ nên nó phải tuân thủ theo các quy luật chung của ngôn ngữ, nhằm
thống nhất được cách hiểu chung trong cộng đồng. Lời nói vừa là sản phẩm vừa là
phương tiện để giao tiếp. Giao tiếp ngôn ngữ là sự giao tiếp được tiến hành thơng
qua hệ thống tín hiệu thứ hai: lời nói và chữ viết. Đây là hình thức giao tiếp đặc
trưng cơ bản nhất trong hệ thống giao tiếp xã hội bởi nó có những chức năng: chức
năng thơng báo, chức năng diễn cảm và chức năng tác động. Tùy vào tác động và
20
biểu hiện, ngôn ngữ trong giao tiếp chia làm hai loại: ngơn ngữ bên trong và ngơn
ngữ bên ngồi. Tuy nhiên, đề tài giới hạn sự khảo sát ở ngôn ngữ bên ngồi.
Ngơn ngữ bên ngồi là dạng ngơn ngữ được thể hiện tường minh ra ngoài
bằng âm thanh, chữ viết. Ngơn ngữ bên ngồi bao gồm ngơn ngữ nói và ngơn ngữ
viết. Ngơn ngữ nói là ngơn ngữ biểu hiện bằng âm thanh và được tiếp nhận bằng
thính giác, bao gồm ngôn ngữ độc thoại và ngôn ngữ đối thoại. Ngơn ngữ viết ra đời
muộn hơn ngơn ngữ nói, biểu hiện bằng chữ viết và được thu nhận bằng thị giác.
Ngơn ngữ viết có đặc điểm riêng là u cầu chặt chẽ về mặt ngữ pháp, chuẩn về
chính tả và cũng chia thành ngôn ngữ đối thoại và ngôn ngữ độc thoại.
Giao tiếp phi ngôn từ: “là những biểu diễn thông qua cơ thể, như cử động, tư
thế, hoặc một số đồ vật gắn liền với thân thể như áo, mũ, hoặc thông qua việc tạo ra
những khoảng cách gần xa giữa người này và người khác”(Bác sĩ Nguyễn Khắc
Viện) [Nguyễn Văn Lê 2006: 25]
Hay, “Giao tiếp phi ngôn từ là toàn bộ các bộ phận kiến tạo nên giao tiếp
khơng thuộc mã ngơn từ (verbal code), có nghĩa là khơng được mã hóa bằng từ
ngữ, nhưng có thể thuộc về cả hai kênh (channels) ngôn thanh (vocal) và phi ngơn
thanh (non – vocal). Nó bao gồm các yếu tố cận ngôn (phi ngôn từ - ngôn thanh)
như tốc độ, cường độ ngữ lưu và các yếu tố ngoại ngôn (phi ngôn từ - phi ngôn
thanh) thuộc về ngôn ngữ cơ thể như cử chỉ, dáng điệu, diện hiện …, thuộc ngôn
ngữ vật chất như áo quần trang sức…, và thuộc ngôn ngữ môi trường như khoảng
cách đối thoại, địa điểm giao tiếp. [Nguyễn Quang 2006: 61]
Các tính chất của giao tiếp phi ngôn từ: (1) không dùng lời nói, mà dùng các
phương tiện ngơn ngữ phong phú, đa dạng (2) Sự giao tiếp ở trẻ em khi chưa biết
nói là sự giao tiếp phi ngơn ngữ hay tiền ngôn ngữ; (3) Giao tiếp phi ngôn ngữ là
một tập tính học động vật
Các nhà nghiên cứu về giao tiếp phi ngôn từ đều thống nhất cao ở các chức
năng của phương tiện giao tiếp phi ngôn từ như sau: (1) Bổ sung, làm rõ nghĩa và
sắc thái cho ngôn từ; (2) Phụ họa và thay thế cho ngôn từ. [Phạm Văn Thấu
1997:13 ], [Phi Tuyết Hinh 1996: 36]; (3) thể hiện mâu thuẫn với các hành vi ngôn
từ; (4) điều tiết chuỗi giao tiếp ngôn từ [Nguyễn Quang 2006: 65].
21
Giao tiếp phi ngôn từ bao gồm giao tiếp cận ngôn từ (Paralanguage) và giao
tiếp ngoại ngôn từ (Extralanguage) [Nguyễn Quang 2006: 87-99]
Giao tiếp cận ngôn từ là tổng thể các hiện tố ngôn thanh phi ngôn từ trong
giao tiếp. Nó được sử dụng chủ yếu để diễn tả cái thế nào thì đúng hơn là cái gì của
giao tiếp. Cận ngơn ngữ có thể phân loại như sau:
(1) Các đặc tính ngơn thanh: Cao độ là độ cao thấp của giọng nói; Cường độ
là độ to nhỏ của âm thanh được phát ra; Tốc độ là độ nhanh hay chậm của ngữ lưu;
Phẩm chất ngôn thanh là giọng điệu, thanh cốt và chất giọng của giọng nói. Nó liên
quan chặt chẽ đến các loại thanh lưu.
(2) Các yếu tố xen ngôn thanh: Các yếu tố xen ngôn thanh là những âm
thanh can thiệp vào chuỗi lời nói. Chúng có thể được gọi là các yếu tố ngắt lời nói
(speech stallers). Chúng thường được nhìn nhận như là kết quả của một trạng thái
tình cảm, một thói quen nói năng mang tính cá nhân, một hàm ý chỉ “xin đợi một
chút”. Ý nghĩa biểu hiện của các yếu tố xen ngơn thanh có thể là sự thiếu tự tin, sự
thiếu tin tưởng, sự không đồng ý, sự không chắc chắn, sự miễn cưỡng, sự tế nhị, sự
cân nhắc, sự khiêm nhường …
(3) Các loại thanh lưu: lượn – dầy, lượn mỏng, nhỏ - to, to – nhỏ, bẹt – dày,
bẹt - mỏng, sắc – dày, sắc mỏng, liên thanh, giáng thanh, Im lặng (silence) hay các
quãng lặng (pauses). Ứng với mỗi loại thanh lưu là những dự đoán về phẩm chất
tính cách của chủ thể.
(4) Im lặng (silence) hay các quãng lặng (pauses) được phân làm hai loại “im
lặng theo qui ước” (conventional silence) và “im lặng có ý nghĩa” (Significant
silence) “Im lặng theo qui ước” (“im lặng trong nghi lễ”, “im lặng theo thơng lệ xã
hội”), “Im lặng có ý nghĩa” – “một trục trặc về mức độ quan hệ”. Chức năng của sự
im lặng: (1) kết nối hoặc chia tách các đối tượng giao tiếp, tạo cảm xúc, tình cảm,
thái độ, (2) để lộ hoặc che dấu một điều gì đó; (3) phán xét; (4) kích hoạt; (5) giữ
thể diện (face – saving); (6) sự tôn trọng.
Giao tiếp ngoại ngôn từ (Extralanguage): Ngôn ngữ thân thể (body language)
gồm các yếu tố cơ bản: hiện diện, nhãn giao, cử chỉ điệu bộ, bố cục cơ thể - tư thế,
sự đụng chạm…; Ngôn ngữ vật thể (object language): trang phục, phụ kiện, trang