ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN
VĂN
_________________________________________________
NGUYỄN PHAN TUẤN
THANH KIẾM TRONG VĂN
HỐ TRUNG HOA
LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HĨA HỌC
Thành phố Hồ Chí Minh - 2009
ĐẠI HỌC QUỐC GIA TP. HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
KHOA VĂN HÓA HỌC
_________________________________________________
NGUYỄN PHAN TUẤN
THANH KIẾM TRONG VĂN HOÁ
TRUNG HOA
Luận văn Thạc sĩ
Chuyên ngành VĂN HOÁ HỌC
Mã số: 60.31.70
Người hướng dẫn KH:
GS.TSKH. TRẦN NGỌC THÊM
TP. Hồ Chí Minh, tháng 1 năm 2010
2
LỜI CẢM ƠN
Với lịng tri ơn sâu sắc, tơi xin chân thành gởi lời cảm ơn đến
GS.TSKH Trần Ngọc Thêm đã hết lịng giúp đỡ, hướng dẫn tơi hồn
thành luận văn này
Tôi xin chân thành cảm ơn quý thầy cô trong nhà trường, q thầy
cơ Khoa Văn hóa học và q thầy cơ giảng dạy lớp cao học văn hóa khóa
6 đã tạo nhiệt tình và tạo điều kiện giúp cho tôi trong học tập và nghiên
cứu.
Tôi xin chân thành cảm ơn Phòng Đào tạo Sau Đại học đã tạo điều
kiện thuận lợi cho tơi trong suốt q trình học tập, nghiên cứu và thực
hiện luận văn tại trường.
Sau cùng, tơi xin chân thành cảm ơn gia đình, bạn bè đã động viên
và giúp đỡ tôi về mọi mặt trong suốt thời gian học tập, nghiên cứu và
thực hiện luận văn.
Thành phố Hồ Chí Minh, tháng 1 năm 2010
Nguyễn Phan Tuấn
3
MỤC LỤC
MỤC LỤC ................................................................................................................ 4
DẪN LUẬN.............................................................................................................. 6
1.
Lý do chọn đề tài......................................................................................... 6
2.
Mục đích nghiên cứu .................................................................................. 7
3.
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu............................................................. 7
4.
Lịch sử nghiên cứu vấn đề......................................................................... 8
5.
Phương pháp nghiên cứu & nguồn tư liệu ............................................. 11
6.
Ý nghĩa khoa học và thực tiễn ................................................................. 11
7.
Bố cục luận văn......................................................................................... 12
Chương Một: NHỮNG TIỀN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN........................13
1.1. Khái niệm kiếm và binh khí lạnh.............................................................. 13
1.1.1. Khái niệm binh khí lạnh và sự phát triển của nó ........................... 13
1.1.2. Kiếm và đặc điểm của kiếm ............................................................ 15
1.1.3. Phân biệt kiếm với các vũ khí có liên quan.................................... 17
1.2. Văn hóa kiếm và nền tảng hình thành văn hóa kiếm Trung Hoa ......... 20
1.2.1. Khái niệm văn hoá kiếm .................................................................. 20
1.2.2. Kiếm trong lịch sử văn hóa Trung Hoa........................................... 21
Chương Hai: VĂN HOÁ NHẬN THỨC VÀ TẬN DỤNG KIẾM .....................47
2.1. Văn hoá nhận thức về kiếm ..................................................................... 47
2.1.1. Kiếm – vũ khí phịng thân................................................................ 47
2.1.2. Kiếm trong tâm thức Trung Hoa – tính tượng trưng của kiếm .... 48
2.2. Văn hóa tận dụng kiếm............................................................................. 59
2.2.1. Đấu kiếm ........................................................................................... 59
2.2.2. Kiếm khách ....................................................................................... 62
2.2.3. Kiếm dùng trong tôn giáo................................................................. 67
4
Chương Ba: VĂN HỐ ĐỐI PHĨ VỚI KIẾM, VĂN HĨA LƯU LUYẾN
KIẾM VÀ VĂN HĨA SÙNG BÁI KIẾM.....................................................77
3.1. Văn hố đối phó với kiếm......................................................................... 77
3.1.1. Thuẫn................................................................................................. 77
3.1.2. Kiếm cách (Hộ thủ)........................................................................... 80
3.1.3. Trụ (nón giáp) ................................................................................... 81
3.1.4. Áo giáp .............................................................................................. 82
3.2. Văn hóa lưu luyến kiếm............................................................................ 84
3.2.1. Kiếm với nghệ thuật sân khấu ........................................................ 85
3.2.2. Kiếm trong nghệ thuật tạo hình....................................................... 89
2.2.1. Kiếm vũ (múa kiếm) và thư họa...................................................... 89
2.2.2. Kiếm thuật với thư pháp ................................................................ 100
3.2.3. Kiếm trong nghệ thuật ngôn từ ..................................................... 102
2.3.1. Mượn kiếm để bày tỏ ý chí và gởi gắm tâm sự .......................... 102
2.3.2. Kiếm trong tiểu thuyết kiếm hiệp................................................... 111
3.3. Văn hóa sùng bái kiếm ........................................................................... 114
3.3.1. Từ yêu thích kiếm đến trượng kiếm hành hiệp: văn hóa hiệp
Trung Hoa ....................................................................................... 114
3.3.2. Sùng bái bảo kiếm.......................................................................... 120
KẾT LUẬN................................................................................................... 130
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................... 136
PHỤ LỤC ..................................................................................................... 148
Phụ lục 1: KIẾM ĐỒNG NGÔ – VIỆT .......................................................... 149
Phụ lục 2: HÌNH ẢNH MINH HỌA................................................................ 168
5
DẪN LUẬN
1. Lý do chọn đề tài
Kiếm là một trong những loại vũ khí ngắn đầu tiên trong q trình chiến
đấu và sinh tồn suốt chiều dài lịch sử của nhân loại. Hình tượng thanh kiếm
trong lịch sử văn hố, văn minh nhân loại đa phần luôn tượng trưng cho chính
nghĩa, cho quyền lực ở hầu khắp các nền văn hoá trên thế giới qua các thời kỳ
lịch sử. Từ xa xưa, trong tâm thức mọi người, kiếm đã là một hình ảnh quen
thuộc. Kiếm sử dụng trên chiến trường, trong chiến đấu, kiếm là vật trang sức
được đeo bên mình của tầng lớp q tộc. Thậm chí, tầng lớp võ sĩ của Nhật
Bản còn coi kiếm như nhất sinh tri kỷ, như người thân, hết sức coi trọng. Kiếm
như là bảo vật linh thiêng được đặt vào nơi trang trọng để thờ phụng, sùng bái.
Như vậy hình ảnh của kiếm đã sớm khắc sâu vào tâm thức mọi người trong đời
sống hàng ngày, không chỉ giới quân nhân mà còn ở cả văn nhân cùng sùng
thượng kiếm nữa. Như vậy kiếm là một vật hết sức quen thuộc và gần gũi trong
lịch sử của lồi người.
Trong nền văn hóa hàng ngàn năm của Trung Hoa, kiếm là một hình tượng
đặc sắc với một lịch sử hình thành, phát triển lâu dài và độc đáo. Kiếm khơng
chỉ là hình ảnh được khắc họa một cách sống động trong các bộ mơn nghệ thuật
nói chung mà cịn thể hiện rất độc đáo theo tiến trình lịch sử năm ngàn năm của
Trung Quốc. Từ xa xưa trong lịch sử, thơ ca, tiểu thuyết, âm nhạc, hội họa,
điêu khắc, võ thuật, trong dân gian… ở Trung Hoa đều ca ngợi hình ảnh thanh
kiếm, đặc biệt khi gắn với hình ảnh quân tử anh hùng của các kiếm khách –
hiệp khách. Thanh kiếm tạo nên vẻ hùng tráng uy nghi mà tao nhã cho người
kiếm sĩ. Khía cạnh anh hùng khiến nó trở thành một hình tượng sống động đầy
uy lực chứ khơng cịn là một thanh sắt vô tri. Kiếm đi vào lịch sử, văn chương,
ca vũ, hội họa… với tư cách là một hình tượng và là nét đẹp vĩnh hằng của
hàng ngàn năm văn hóa - văn minh Trung Hoa. Hình ảnh của kiếm ln có một
vị trí quan trọng trong tiềm thức của người Trung Hoa. Trong đó, nếu nghiên
cứu, tìm hiểu về văn hóa Trung Hoa thì khơng thể bỏ qua kiếm – một loại hình
văn hóa vật thể đã ảnh hưởng và chi phối đậm nét đến cách ứng xử trong văn
hóa xã hội Trung Quốc.
6
Hiện nay, nghiên cứu về kiếm như là một đối tượng của văn hố học ở Việt
Nam hầu như cịn bỏ ngỏ, chưa có hoặc rất ít tài liệu đề cập tới. Hoặc có thì chỉ
đề cập ở khía cạnh là loại vũ khí chun dụng thuộc loại hình lãnh binh khí sử
dụng trong chiến tranh thời cổ đại chứ chưa xét theo phương diện văn hóa của
kiếm. Xuất phát từ lý do đó chúng tơi chọn đề tài nghiên cứu này với ý muốn
tìm hiểu nhiều hơn về ý nghĩa và vai trị của kiếm trong văn hóa - văn minh
Trung Hoa.
2. Mục đích nghiên cứu
Luận văn sẽ cung cấp một cái nhìn tổng thể về kiếm trong văn hố Trung
Hoa. Tìm hiểu một cách khái qt các khái niệm, sự hình thành và bản chất của
hình tượng thanh kiếm trong văn hóa Trung Hoa. Đề tài sẽ tiến hành nghiên
cứu về kiếm với tư cách là một đối tượng văn hố học cùng với q trình lịch
sử lâu dài và phong phú của nó dưới góc độ văn hố, tác động, ảnh hưởng của
nó lên nhiều mặt của đời sống vật chất và tinh thần xã hội như văn hố, chính
trị, xã hội Trung Hoa qua các thời kỳ lịch sử. Kiếm từ xa xưa đã có ảnh hưởng
lớn và sâu đậm trong văn hóa Trung Hoa trên nhiều phương diện, nghiên cứu
về ý nghĩa của kiếm , biểu tượng của kiếm sẽ giúp chúng ta hiểu biết thêm
nhiều phương diện trong văn hóa Trung Hoa.
Trong cố gắng nhất định, luận văn tiến hành tìm hiểu các mặt của kiếm từ
lịch sử tồn tại và quá trình phát triển, phân loại, vai trị, ảnh hưởng của nó trong
lịch sử văn hố Trung Hoa. Tổng hợp, phân tích, đánh giá hình ảnh thanh kiếm
trong suốt chiều dài lịch sử. Khẳng định vị trí, vai trị và đặc trưng, nội dung
bản chất nhất của hình tượng thanh kiếm, ưu thế nổi bật của nó và sự ảnh
hưởng lâu dài, sâu sắc của nó trong văn hóa truyền thống Trung Hoa.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu chủ yếu của đề tài là thanh kiếm trong văn hóa truyền
thống Trung Hoa như một đối tượng cuả văn hoá học.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
7
Thời gian nghiên cứu chính được giới hạn trong tiến trình lịch sử của Trung
Hoa từ thời cổ đại đến trước cách mạng Tân Hợi năm 1911 – thời kỳ đánh dấu
sự sụp đổ hoàn toàn của chế độ phong kiến Trung Hoa.
Khơng gian nghiên cứu chính được giới hạn ở Trung Hoa lục địa. Đối
tượng nghiên cứu là các loại kiếm dưới góc độ văn hố vật chất và tinh thần nói
chung của nền văn hố truyền thống Trung Hoa trong các giai đoạn lịch sử.
Chủ thể nghiên cứu được giới hạn là người Hoa.
4. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Kiếm là đối tượng đã từ lâu được thế giới biết đến. Trong giai đoạn gần đây,
ở phương Tây kiếm thu hút được nhiều sự quan tâm chú ý và nghiên cứu của
giới hoc thuật, kiếm đã trở thành đề tài của nhiều cơng trình khảo cứu, đề tài
tìm hiểu về nguồn gốc lịch sử của kiếm, giới thiệu, mô tả về kiếm, kiếm thuật...
nhưng chủ yếu chỉ tập trung vào kiếm trong bối cảnh tương đối khái quát và
trong đó nói về kiếm vùng viễn Đơng thì chỉ có kiếm Nhật được đề cập khá
nhiều qua một số những tác phẩm có bàn về kiếm như: Hiroaki Sato (Translator)
1988: The Sword and the Mind. Overlook TP; Winston L. King 1994: Zen and
the Way of the Sword: Arming the Samurai Psyche; Nick Evangelista 1995:
The Encyclopedia of the Sword. Yoshindo Yoshihara 1997: The Craft of the
Japanese Sword; Bruce LaFontaine 1998: History of the Sword (Colouring
Books); Christopher Amberger 1999: The Secret History of the Sword:
Adventures in Ancient Martial Arts; Richard H. Bezdek 1999: American
Swords and Sword Makers, Vol. II. Paladin Press; Robert O'Connell (Author),
John Batchelor (Illustrator) 2002: Soul of the Sword: An Illustrated History of
Weaponry and Warfare from Prehistory to the Present.; Leon Kapp, Hiroko
Kapp, Yoshindo Yoshihara 2002: Modern Japanese Swords and Swordsmiths:
From 1868 to the Present; Leon Kapp Hiroko Kapp, Richard Cohen 2003: By
the Sword : A History of Gladiators, Musketeers, Samurai, Swashbucklers, and
Olympic Champions; Tom Kishida (Kenji Mishina (Translator)) 2004: The
Yasukuni Swords: Rare Weapons of Japan, 1933-1945; Philip Steele 2004:
Swords and Samurai: The Ancient Warrior Culture of the East. Southwater;
8
Yagyu Muenori (Author), Ian Peirce 2004: Swords of the Viking Age…. Tiếc
rằng luận văn chưa thể tiếp cận các công trình này do tác giả cịn nhiều hạn
chế về Anh ngữ1.
Mặc dù kiếm Trung Hoa trong quá khứ đã từng có ảnh hưởng rất sâu sắc tới
kiếm Nhật, thậm chí có thể coi như thủy tổ của kiếm Nhật ngày nay mà ta
thường thấy nhưng hiện những cơng trình nghiên cứu kiếm dưới góc độ văn
hóa hiện nay hầu như rất ít. Tường thuật, mơ tả về kiếm Trung Hoa có thể kể
tới những bài viết, cơng trình nghiên cứu như của tác giả Trung Quốc qua các
tác phẩm viết bằng tiếng Hoa đã được in thành sách và các bài báo được đăng
tải trên mạng: Dương Hoằng 1985:Tập luận về binh khí cổ Trung Quốc; Vương
Đào Xuân 1996: binh khí cổ đại Trung Quốc. Trần Cơn 1998: thanh đồng kiếm
đất Sở; Đoạn Thanh Ba 1998: Đao, Thương, Kiếm, Kích thập bát ban: Binh khí
TQ cổ đại; Lý Diên Tường 1999:Danh kiếm Ngô Việt; Lưu Thu Lâm 2003: Đồ
giải về binh khí cổ đại Trung Quốc; Tạ Vĩnh Minh 2003: Kiếm đồng đầu thời
Chiến Quốc – Việt vương bảo kiếm; Vương Hoằng 2005: Thơng luận binh khí
cổ đại; Lơi Hải Tông 2005: Binh bị Trung Quốc; Dương Ba, CaoVĩ 2006: Đặc
điểm q trình phát triển lãnh binh khí Trung Quốc thời kỳ Bắc Tống; Thạch
Hiểu Đình 2006: Bước đầu phân tích binh khí cách đấu chủ yếu thời Tiên Tần;
Thái Trí Trung 2007: Tìm hiểu nguồn gốc đoản binh Trung Quốc; Tơn Thụy
Lợi 2007: nghiên cứu binh khí triều Tống;…
Hoặc truy cứu tìm về nguồn gốc lịch sử và quá trình hình thành của kiếm có
các tác phẩm: Chung Thiếu Dị 1999: Kim qua thiết kích: Lịch sử và truyền
thuyết binh khí cổ Trung Quốc; Tử Ấm Bạch Sam 2000: Diễn biến kiếm đao
Trung Quốc cổ đại; Dương Nghị, Dương Hoằng 2000: Binh khí sử thoại; Lưu
Kích Phong 2004: Con đường tiến hóa binh khí; Hứa Diệu Hoa 2002: tạp đàm
đao kiếm Trung Quốc Chu Vĩ 2006: sử cảo binh khí Trung Quốc; Chu Vinh
2006: Thuật luận binh khí lạnh Bắc Tống…
Đặt kiếm trong bối cảnh lịch sử mà xem xét nó như một đối tượng có ảnh
hưởng tới văn hóa xã hội truyền thống Trung Hoa cũng có những cơng trình
1
Tuy nhiên, với việc giới thiệu ở đây, tác giả hy vọng có thể giúp ích cho những
người đi sau được thuận lợi hơn trong việc bổ sung phần khiếm khuyết của luận văn
này.
9
sau: Văn Hội Đường 1994: Kiếm – Đeo kiếm và múa kiếm; Điền Diên Phong
2000: Sự thay đổi của tập tục đeo kiếm và nội hàm của nó; Vương Lập, Hách
Minh 2003: Hình tượng kiếm trong sùng bái kiếm thuật và thơ Đường; Trương
Quân 2004: Kiếm và nghệ thuật truyền thống Trung Quốc; Thiệu Vĩ 2004: Từ
diễn biến của lãnh binh khí Trung Quốc tìm hiểu sự phát triển của thể dục
quân sự Trung Quốc thời cổ đại ;Lý Anh và nnk 2004: Khảo luận “Kiếm
vũ”Giang Nghiêm 2005: Binh khí và dụng binh triều Tần; Lý Thủ Nghĩa 2007:
Đao mâu kiếm kích và chiến tranh; Ân Bùi Nhiên, Ân Vĩ 2008: Kiếm – mộng
hiệp khách của văn nhân thiên cổ Trung Hoa; Lâm Vĩnh Cường 2008: Luận
chế độ binh khí cá nhân thời Hán và trị an xã hội;…
Nhìn chung qua những bài viết, cơng trình nghiên cứu trên chủ yếu mô tả về
kiểu loại kiếm qua các thời kỳ lịch sử và nguồn gốc hay lịch sử diễn biến của
kiếm. Về khía cạnh ảnh hưởng xã hội mà kiếm chi phối tựu chung tập trung
vào một số mặt nhất định nào đó, hoặc có mơ tả nhưng khơng đi sâu vào vấn đề
cụ thể mà chỉ giới thiệu về vấn đề còn tương đối khái quát.
Ở Việt Nam, những bài viết có bàn về kiếm cho tới nay chủ yếu là những
bài viết trên mạng internet về những vấn đề: kiếm trong lịch sử, kiếm trong các
tác phẩm văn chương, các di vật khảo cổ học như bài viết “Tìm hiểu về kiếm
Trung Hoa và Việt Nam”2, “Đao kiếm luận”3. hay “Kiếm luận”4 …Trong một
số khảo luận về các tiểu thuyết kiếm hiệp, các tác giả cơng trình cũng có đề cập
kiếm như là một phương diện khơng thể thiếu trong thế giới võ hiệp, hiệp
khách. Ngồi ra cịn có các sách, các tạp chí chun về võ thuật như “Sổ tay
Võ thuật” cũng có giới thiệu về kiếm và kiếm thuật… Nhìn chung, các tài liệu
phần lớn chỉ tập trung vào khía cạnh lịch sử hình thành và phát triển của kiếm
là chủ yếu hoặc chỉ giới thiệu, mô tả về phương diện võ thuật hay đơn thuần chỉ
là một sản phẩm thuộc về văn hoá vật chất, chỉ nhận diện nó một cách khái
quát. Riêng ở Việt Nam, nhìn chung kiếm chưa được nhận thức rõ ràng, còn rất
2
/>
3 />4 />
10
ít tài liệu nghiên cứu về kiếm nói chung, thậm chí cũng khơng phân biệt được
rõ kiếm với vũ khí tương tự như kiếm, (ví dụ như đao), kiếm với gươm, kiếm
giữa các nước, khu vực và các giai đoạn khác nhau. Vì vậy tính văn hố của
kiếm càng mờ nhạt trong nhận thức của mọi người, kiếm chưa được coi như
một đối tượng thuộc phạm trù văn hoá học.
5. Phương pháp nghiên cứu & nguồn tư liệu
6.1 Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp so sánh được sử dụng để khái quát các kiểu dạng kiếm khác
nhau trong cùng một giai đoạn hoặc trong các giai đoạn lịch sử khác nhau.
Phương pháp phân tích, tổng hợp được dùng để phân tích và tổng hợp các
yếu tố văn hóa từ đối tượng nghiên cứu để có cái nhìn cụ thể hơn về những đặc
điểm thuộc về đối tượng nghiên cứu.
Phương pháp hệ thống – cấu trúc dùng để hệ thống các yếu tố văn hóa riêng
lẻ thành một cấu trúc mang tính hệ thống hoàn chỉnh.
Phương pháp nghiên cứu lịch sử được dùng để trình bày đối tượng trong
bối cảnh lịch sử cổ đại Trung Hoa để thấy rõ hoàn cảnh lịch sử cụ thể mà nó ra
đời, làm rõ giá trị mà đối tượng đóng góp trong nền văn hóa Trung Hoa.
Phương pháp diễn dịch được sử dụng để diễn dịch các hiện tượng văn hóa
do đối tượng tạo ra, từ đó thấy được sự liên kết trong tổng thể những hiện
tượng văn hóa.
6.2. Nguồn tư liệu
Nguồn tư liệu nghiên cứu của đề tài rất đa dạng gồm rất nhiều mảng khác
nhau, bổ sung cho nhau. Đó là những những cơng trình, tác phẩm, bài viết có
nội dung nghiên cứu về kiếm trong lịch sử Trung Quốc. Bên cạnh đó là các học
báo thường kỳ của các trường đại học Trung Quốc, các trang web có cung cấp
thơng tin về kiếm… trong và ngồi nước có liên quan thiết thực đến đề tài.
Trong đó, nguồn tài liệu tiếng Hoa là nguồn cung cấp chính và cực kỳ quan
trọng cho đề tài, làm cho những nhận định, đánh giá của đề tài được cụ thể và
khách quan hơn.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn
11
Với đề tài này, luận văn giúp người đọc hiểu rõ hơn về kiếm và hình tượng
thanh kiếm trong văn hố Trung Hoa, tạo cơ sở so sánh với hình tượng về kiếm
của các nền văn hố khác, trong đó có Việt Nam. Trên cơ sở hiểu biết về kiếm
và hình tượng thanh kiếm, chúng ta sẽ hiểu thêm các mặt khác trong văn hoá
truyền thống Trung Hoa cũng như để hiểu rõ thêm về loại hình văn hố có
nguồn gốc du mục này. Trong phạm vi thực hiện, luận văn này sẽ là tài liệu
tham khảo trong việc nghiên cứu văn hố Trung Hoa nói riêng và văn hố học
nói chung.
7. Bố cục luận văn
Ngồi phần mở đầu và kết thúc, nội dung luận văn sẽ được chia làm ba
chương chính.
Chương Một sẽ trình bày về Cơ sở lý luận và thực tiễn của kiếm và văn
hóa kiếm để làm nền tảng triển khai cho chương hai và chương ba tiếp theo.
Chương Hai đi vào trình bày về Văn hóa nhận thức kiếm và Văn hóa tận dụng
kiếm để tìm hiểu về vai trị của kiếm trong thực tiễn văn hóa xã hội Trung Hoa.
Vì vậy mục đầu tiên của chương sẽ tìm hiểu vai trị của kiếm trong nhận thức
và kiếm được sử dụng ra sao trong thực tiễn xã hội Trung Hoa. Sau khi đã xác
định vai trị của kiếm, chương Ba sẽ đi vào tìm hiểu Văn hóa đối phó với kiếm,
Văn hóa lưu luyến và Văn hóa sùng bái kiếm để khảo sát vị trí của kiếm trong
văn hóa Trung Hoa và thái độ ứng xử của văn hóa Trung Hoa. Từ việc nhận
thức đầy đủ và sử dụng kiếm, thái độ ứng xử đó ra sao qua sự lưu luyến thậm
chí sùng bái kiếm trong văn hóa truyền thống.
Cuối luận văn là phần Tài liệu tham khảo và phụ lục. Phần phụ lục sẽ
gồm hình ảnh minh họa cho luận văn và phần Kiếm đồng Ngô – Việt.
----- o0o -----
12
Chương Một:
NHỮNG TIỀN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1.1. Khái niệm kiếm và binh khí lạnh
1.1.1. Khái niệm binh khí lạnh và sự phát triển của nó
Binh khí lạnh (冷兵器 Lãnh binh khí) là vũ khí dùng để đâm và chém,
tác dụng chiến đấu của nó là dùng sức người kết hợp với lực của các công cụ
đơn giản để phát huy ra, khác với hỏa khí có thể phát ra ánh sáng và nhiệt độ
dùng tác dụng hóa học cháy nổ của thuốc súng. Do đó người ta gọi chúng là
binh khí lạnh, như: rìu, mâu, thương, kích, kiếm, đao, cung tên…, binh khí lạnh
ban đầu là dùng chất liệu đá chế thành, về sau lấy đồng xanh hay sắt thép chế
tác ra.
Vũ khí ngun thủy là do cơng cụ sản xuất, đặc biệt là từ các công cụ
săn bắt phát triển thành. Tổ tiên của lồi người vì để sinh tồn đã lấy đá, cây gỗ,
song mây có sẵn trong thiên nhiên gia công đơn giản thành búa, rìu, cung, tên
bằng gỗ, đá… làm cơng cụ sản xuất, dùng để săn các lồi thú, chim mng…
lấy thực phẩm, hơn nữa cịn dùng để đối phó với sự tấn công của thú dữ để bảo
vệ bản thân và bầy đàn phục vụ cho bản năng sinh tồn của mình. Trong lúc
phát sinh những xung đột vũ lực, họ tiện tay sử dụng những công cụ sản xuất
thường ngày trên để đánh nhau. Một khi các công cụ này đã dính máu của đồng
loại, thì các cơng cụ sản xuất ngun thủy sẽ bắt đầu chuyển hóa theo hướng vũ
khí. Đây là một quá trình lịch sử lâu dài.
Khoảng sáu, bảy ngàn năm trước trong một số thị tộc sinh sống ở lưu
vực Hoàng Hà, bắt đầu bước vào giai đoạn giữa của thời kỳ đồ đá mới, các
công cụ như búa đá, rìu đá, dao đá, các lưỡi cuốc, liềm, lưỡi cày đá, đầu mũi
tên bằng đá đã được chế tác và sử dụng tương đối khá nhiều, từ đó sức sản xuất
được nâng cao. Đồng thời, do điều kiện sinh hoạt được cải thiện khiến cho các
13
thị tộc này có thể bắt đầu cuộc sống định cư. Một số thành viên của thị tộc có
lợi ích giống nhau ln ln tụ cư cùng một chỗ hình thành ra những tập hợp
bộ lạc. Vì vậy, đã hình thành nên các bộ lạc sơ khai và liên minh các bộ lạc.
Lúc đó, do cơng cụ sản xuất cịn thơ sơ, sức sản xuất cịn thấp, lồi người phải
tập trung thành một tập thể quẩn cư cùng lao động, phân phối sản phẩm lao
động cơng bằng khơng có sự bóc lột, khơng có xung đột quyền lợi. Trong sinh
hoạt hàng ngày, các nông cụ săn bắt, đánh cá tuy có lúc được sử dụng làm vũ
khí phịng thân, nhưng chủ yếu là để phịng chống dã thú chứ khơng phải đối
phó với con người. Tuy nhiên, theo sự phát triển của dân số và nhu cầu sản
xuất, có lúc vì tranh chấp nguồn nước, đất đai và cưỡng đoạt hôn nhân… đã
dẫn tới những xung đột võ lực. Trong những cuộc xung đột võ lực, họ đã dùng
những công cụ sản xuất như rìu đá, dao đá, lưỡi liềm đá để chiến đấu. Thế là,
trong quá khứ công cụ đơn thuần chỉ dùng ở lao động sản xuất và phòng ngự
thú dữ, giờ đây đã được sử dụng làm công cụ đánh nhau.
Vào khoảng 5000 năm trước của giai đoạn cuối thời đại đồ đá mới, một
số thị tộc bộ lạc bắt đầu quá trình chuyển từ xã hội thị tộc mẫu hệ qua xã hội thị
tộc phụ hệ, sản xuất bắt đầu có sự phát triển nhất định. Hiện tượng tư nhân
chiếm hữu tài sản dần dần phát sinh, xung đột võ lực giữa các bộ lạc đã dẫn tới
cướp đoạt tài sản. Xung đột võ lực ngày càng lớn đã phát triển và hình thành
chiến tranh giữa các bộ lạc. Vì bảo vệ địa vị và quyền thế của mình, các đầu
lãnh của các bộ lạc thường xuyên dùng vũ lực đi chinh phục các bộ lạc hay liên
minh các bộ lạc khác, dẫn đến các cuộc chiến tranh thời nguyên thủy ngày càng
tàn khốc và kịch liệt. Trong các cuộc chiến tranh này, chỉ đơn thuần dựa vơ tính
năng của cơng cụ sản xuất đã khơng cịn có thể thỏa mãn nhu cầu chiến đấu,
vậy là đã xuất hiện các loại vũ khí và cơng cụ sản xuất riêng biệt do một số ít
người chế tạo ra. Hễ cơng cụ nào có thể lợi dụng vào tính năng bén nhọn của
nó đều được người ta sử dụng để chém giết nhau. Các loại vũ khí này đều do
người thời đó lấy chất liệu là đá, xương, trúc… mơ phỏng theo hình dáng của
động vật như sừng, vuốt của thú, mỏ của các loài chim mà chế thành, gia công
đơn giản tăng sức sát thương của các công cụ này. Vậy là các công cụ sản xuất
này kiêm ln tính năng vũ khí sát thương. Để đạt được thắng lợi trong những
cuộc chiến này, với các tính năng của cơng cụ sản xuất bình thường thì khó bề
thủ thắng, điều này càng bức bách người ta đi tới chế tạo những công cụ
14
chun mơn dùng để sát thương. Vũ khí chun dùng để sát thương địch thủ
cũng bắt đầu xuất hiện từ đây.
Theo sự tan rã của xã hội nguyên thủy, sức sản xuất được đề cao, khoa
học kỹ thuật tiến bộ, phương thức sản xuất lạc hậu đã khơng cịn thích ứng với
sự tồn tại và phát triển của loài người. Sự ham muốn tài sản và quyền lực khiến
cho các cuộc chiến tranh nguyên thủy dần được nâng cao. Vũ khí theo đó mà
tách khỏi cơng cụ lao động, hơn thế nữa lại thúc đẩy nghề chế tạo vũ khí
nguyên thủy hình thành thành một hệ thống nhất định. Từ đó, sự phát triển của
vũ khí được bắt đầu với một khởi đầu tốt đẹp.
1.1.2. Kiếm và đặc điểm của kiếm
Về kiếm, trong các thư tịch cổ của Trung Hoa đã ghi lại những hình dung
về nó. Trong “Khảo cơng ký”5, bộ trước tác chuyên về thủ công nghệ thời Tiên
Tần (thời kỳ trước thời Tần) viết: “tên binh khí cổ, hai lưỡi và có sống”. Ngồi
ra Hứa Thận trong “Thuyết văn giải tự”6 đời Hán cũng nói: “kiếm, là binh khí
người ta đeo”, ý nói kiếm là vũ khí hộ thân bình thường người ta hay đem theo
bên người. Lại có Lý Tùng Chu thời Nam Tống trong “Tự thơng”7 nói: “kiếm,
là binh khí” [Ân Vĩ, Ân Bùi Nhiên 2008, 3].
Trong thực tế, kiếm là một loại đoản binh khí thốt thai từ đầu mũi mâu và
chủy thủ mà ra. Ban đầu kiếm đồng xanh xuất hiện vào khoảng thời Thương,
hình dạng rất ngắn, chi kiếm chỉ có hình dẹp mà phẳng khơng phải dạng ống
trịn như ngày nay. Kiếm lúc này chỉ dài hơn 10cm, sống thẳng hai bên có lưỡi.
Lưỡi kiếm rộng, dẹp, chi kiếm dùng phiến gỗ mỏng buộc lại, khơng có kiếm
cách. Về sau hình thức cố định chủ yếu là do lưỡi kiếm và cán kiếm hai bộ
phận hợp lại mà thành. Kiếm có thân thẳng, hai lưỡi bén, có mũi nhọn dùng để
đâm, chém. Kiếm do thân kiếm và cán kiếm tạo thành. Thân kiếm thon dài, hai
bên đều có lưỡi, ở giữa là sống kiếm, trước nhỏ sau rộng, cuối thân kiếm gắn
5 ”
Khảo công ký” là cổ tịch cuối thời Xuân Thu, đầu Chiến Quốc ghi chép lại quy
phạm, khuôn mẫu của quốc gia về những kỹ thuật thủ công nghiệp sớm nhất. Tác
giả hiện cịn chưa rõ danh tính
6
“Thuyết văn giải tự” là bộ từ điển giải thích văn tự, do nhà kinh học, nhà văn tự,
ngôn ngữ học học thời Đông Hán Hứa Thận (58 – 147) người Nhữ Nam Chiêu Lăng
(nay thuộc Hà Nam) soạn.
7
“Tự Thông”: bộ sách chủ yếu giải thích nguồn gốc các điểm giống và khác
nhau của thể chữ Lệ và chữ Khải do Lý Tùng Chu người đời giữa thời Nam Tống
soạn
15
cán kiếm. Giữa thân kiếm và cán kiếm là kiếm cách (hay cịn gọi là hộ thủ),
thơng thường kiếm đều có bao kiếm đi kèm để tiện đem theo bên mình. Một
thanh kiếm thơng thường do thân kiếm và cán kiếm hợp lại mà thành. Thân
kiếm bao gồm mũi kiếm, lưỡi kiếm, sống kiếm. Cán kiếm bao gồm chuôi kiếm
và kiếm cách, tuyệt đại đa số kiếm cịn có đầu chi kiếm, có thể gắn vào tua
kiếm. Ngồi ra thơng thường kiếm thường phối với bao kiếm để tiện đem theo
bên mình và bảo vệ thân kiếm.
Mỗi bộ phận của kiếm đều có tên gọi, do những bộ phận sau hợp thành:
lưỡi kiếm ở phần phía trước nơi hai bên lưỡi gặp nhau gọi là “phong 鋒”; giữa
lưỡi kiếm có sống nổi gồ lên gọi “tích 脊”; khoảng rộng từ phần sống kiếm ra
tới lưỡi kiếm gọi “tùng 從”; nguyên cả lưỡi kiếm dài gọi “nhận 刃”; phần lưỡi
bén ngoài cùng gọi là “ngạc 鍔”; độ rộng của lưỡi kiếm là “lạp 臘”; chi kiếm
gọi là “kinh 茎”. Chi có hai loại hình dẹp và hình trịn. Trên chi thường có
vịng đai đai chi lại là “cơ 箍”. Giữa chi kiếm và lưỡi kiếm có phần bảo vệ
tay cầm gọi hộ thủ hay “cách 格”, cách cịn có tên là “vệ 衛”; cuối chi kiếm
phình to ra hình trịn hay dẹp gọi là “thủ 首”. Trên chuôi thường lấy thừng buộc
quanh để cầm, thừng được gọi là “câu 緱”. Bao đựng kiếm gọi là “thất 室”. Tùy
theo từng thời đại mà kiếm có thay đổi một chút, ví dụ như về sau người ta
thường chế thêm vòng, gắn thêm dải tơ ở phía cuối chi kiếm để khi múa
kiếm lên dải tơ này sẽ vũ động không ngừng khiến người ta lóa mắt.
Thân kiếm (lưỡi kiếm): kiếm có ba loại cơng kích: chém, cắt và đâm,
Thường kiếm ln nhỏ nhọn dần về phía mũi, mũi nhọn của kiếm dùng để đâm.
Cán kiếm (chuôi kiếm): cán kiếm là bộ phận nối liền với lưỡi kiếm để người
ta có thể điều khiển thanh kiếm. Nó bao gồm tay nắm và hộ thủ hay còn gọi là
kiếm cách.
Kiếm cách: là phần trung gian ngăn giữa lưỡi kiếm và chi kiếm, phần này
cịn gọi là hộ thủ vì nó dùng để bảo vệ tay cầm người cầm kiếm. Hộ thủ là phần
ngăn cách giữa thân kiếm với cán kiếm, có hình chữ nhất và nhiều hình dạng
khác như hình trịn, hình bầu dục, hình vng, hình chữ nhật….
16
Ngồi ra cịn có bao kiếm chủ yếu dùng để bảo vệ lưỡi kiếm. Trong lịch sử
nhân loại người ta từng dùng da thuộc, gỗ cho tới các kim loại như đồng, sắt
đảm nhiệm vai trị này của bao kiếm.
Hình 1.1: Các bộ phận của kiếm
/>
1.1.3. Phân biệt kiếm với các vũ khí có liên quan
1.1.3.1. Chủy thủ (dao găm)
Vũ khí cận chiến là vũ khí mang tính tấn cơng cơ bản nhất trong thời đại
binh khí lạnh, có tác dụng quyết định thắng bại quan trọng trong khi giao đấu
cận chiến, vì vậy những binh khí thuộc hệ thống binh khí ngắn thường được
người ta coi trọng, chủy thủ là loại vũ khí đầu tiên trong hệ thống binh khí ngắn
đó. Chủy thủ là một loại binh khí mang hai tác dụng lấy đâm làm chính bên
cạnh đó cịn có thể kiêm thêm chức năng chặt, bổ. Do cán và lưỡi đều ngắn tạo
thành, hình thức cấu tạo tương tự như kiếm mà lại ngắn hơn, chủy thủ được
17
dùng nhiều ở hình thức phịng thân cận chiến, là vũ khí phịng thân chun
dụng. Vào thời cuối thời đại đá mới, người ta đã dùng phương pháp mài đá và
xương thú để chế tạo chủy thủ. Hình thức chế tạo của chủy thủ lúc này cùng
với đầu qua, đầu mâu không khác biệt mấy, chỉ khác ở chỗ phần thân sau chế
tạo có lỗ để dễ cầm. Lại có loại phần thân sau có tay cầm, thường lấy miếng gỗ
mỏng buộc lên để dễ cầm. (Hình 81 – 87 trang 181)
Do chủy thủ nhỏ gọn lại bén nhọn, dễ cất giấu cho nên ngồi tác dụng
dùng làm phịng thân ra chủy thủ còn thường được người xưa làm lợi khí để
hành thích, là vũ khí các thích khách hay sử dụng để thích sát địch nhân. Trong
“Sử ký” phần “Thích khách truyện” có ghi lại chuyện “Tào Mạt cầm chủy thủ
bức Tề Hồn Cơng”. Trong “Chiến Quốc sách”8 phần “Yên sách” cũng có ghi
lại việc thời Chiến Quốc Thái tử Đan của nước Yên “cầu chủy thủ bén trong
thiên hạ” để dũng sĩ Kinh Kha hành thích Tần Thủy Hoàng [Tổ biên tập Lịch
sử quân sự Trung Quốc 2007: 51]. Kinh Kha vì để báo đáp ơn đãi ngộ Thái tử
Đan nước Yên, đem dao cuốn giấu vào địa đồ nước Yên. Lúc Tần vương coi
địa đồ, khi chủy thủ sắp lộ ra, Kinh Kha liền cầm chủy thủ đâm Tần vương, lần
hành thích này tuy khơng thành cơng nhưng câu “Đồ cùng chủy hiện” (cuối địa
đồ hiện ra chủy thủ) đã trở thành một điển cố thành ngữ được người ta truyền
tới ngày nay.
1.1.3.2. Đao
“Thích danh” 9 có nói: “Đao, âm xưa là đáo. Dùng để phạt, chém”
[Dương Hoằng 1985: 123]. Đao là vũ khí hộ thân chỉ có một lưỡi, cán ngắn,
dùng để bổ, chặt chém. Được hình thành từ lưỡi dao bằng đá và dao bằng
xương từ cuối thời kỳ đồ đá mới. Xuất hiện từ kỹ thuật luyện đúc đồng và
không ngừng được nâng cao. Ban đầu người ta đúc và sử dụng lưỡi dao đồng
xanh làm cơng cụ. Sau đó tới đời Thương, do kỹ thuật luyện đúc đồng xanh đã
tiến lên một trình độ cao hơn, bèn chế ra ba loại dao đồng xanh là sống dao
thẳng lưỡi dày; sống dao cong lưỡi dày; lưỡi dao uốn cong lên trên. Do tác
8
“Chiến Quốc sách” bộ danh tác sử học trứ danh của Trung Quốc do Lưu
Hướng đời Tây Hán chỉnh lý và biên soạn theo thứ tự các thời Tây Chu, Đông Chu
và các nước Tần, Tề, Sở, Triệu, Ngụy, Hàn, Yên, Tống, Vệ, Trung Sơn. Tổng cộng
33 quyển.
9
“Thích danh”: do Lưu Hi người thời Đông Hán soạn, gồm 8 quyển 27 thiên giải
thích phân biệt về các loại danh tự.
18
dụng sát thương của các loại dao không bằng các loại qua, mâu đâm thẳng và
hoành ngang, cho nên người ta chế tạo và sử dụng chúng không nhiều, và cũng
không được phổ biến nhiều trong trang bị quân đội. Đời Tần cũng chưa thay
đổi hình thức của loại dao này. Tới thời kỳ Tây Hán đã xuất hiện một loại binh
khí mới: đao cán trịn, lưỡi thẳng chỉ có một lưỡi, đầu chi đổi thành hình
vịng trịn dẹt, khơng có kiếm cách, gọi là Hồn thủ thiết đao (đao sắt đầu vòng),
cán đao thường lấy gỗ dùng dây buộc lại để cầm, đây là loại vũ khí chuyên
dùng để chém chặt, chỉ có một bên lưỡi, bên cịn lại làm thành sống đao dày
chắc, đồng thời bỏ đi phần mũi kiếm dài bén nhọn. Sống dày lưỡi mỏng, thân
đao bằng phẳng, cán ngắn, từ góc độ động
lực học có lợi ở thế chém, hơn nữa sống đao
khơng có lưỡi có thể gia tăng độ dày, từ đó
trở nên khó gẫy.10. (Hình 89 -90 trang 176)
Hình 1.2: Kỵ binh tay trái cầm thuẫn, tay phải
cầm đao (Dương Hoằng 1979: 237)
Trong chế độ y phục, xe cộ thời Tây Hán, từ hồng đế đến bá quan, khơng
ai khơng đeo kiếm, sau khi đao trở nên hưng thịnh, tất cả bình thời thường đeo
đao. Đặc biệt tướng lãnh trong quân đội lại càng như vậy. Kiếm lúc này gần
như chỉ trong lúc thượng triều mới phải đeo. Đến đầu thời Đông Hán, hồng đế
trong lúc ban thưởng kiếm cho bề tơi thì đồng thời cũng thưởng luôn bội đao.
Trong “Hậu Hán thư”11 phần “Ngu Diên truyện” nói: “Võ Đế ban thưởng cho
Ngu Diên tiền bạc và kiếm, bội đao”. Như vậy, đeo đao cũng đã trở thành một
loại thuộc về chế độ xe cộ, y phục do vương triều phong kiến quy định. Về điều
này phần “Dư Phục chí” (chương về quần áo xe cộ) trong “Hậu Hán thư” có
tường thuật tỉ mỉ. [Dương Hoằng 1985: 125]
Như vậy, trải qua thực tế lịch sử cho thấy việc hiệp khách dùng kiếm hành
hiệp, đánh kiếm và việc trong chiến tranh hai quân chém giết lẫn nhau là khơng
có quan hệ gì với nhau hết. Điều đó cho thấy trong chiến tranh tác dụng của
kiếm không nhiều. Bảo kiếm trở thành kẻ lạc ngũ trong hàng ngũ vũ khí, đây là
10
Vương Triệu Xuân 1996: 66
11
“Hậu Hán thư”: thư tịch do Phạm Diệp người triều Tống thuộc Nam Triều thời
Nam Bắc triều soạn. Gồm 90 quyển.
19
việc không thể thay đổi, và đao thay thế vị trí của kiếm đã lên đứng hàng đầu
trong binh khí cho tới giai đoạn chấm dứt thời đại của lãnh binh khí. Cho dù
sau sự ra đời của hỏa khí, đao vẫn tiếp tục được lưu lại trong hàng ngũ binh khí.
Đến thời cận đại, kỵ binh vẫn khơng thể rời xa thanh mã đao (đao đeo theo bên
ngựa) (Hình 91 – 94 trang 182)
1.2. Văn hóa kiếm và nền tảng hình thành văn hóa
kiếm Trung Hoa
1.2.1. Khái niệm văn hố kiếm
“Văn hóa là một hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần do con
người sáng tạo và tích lũy qua q trình hoạt động thực tiễn, trong sự tương tác
giữa con người với môi trường tự nhiên và xã hội” [Trần Ngọc Thêm 1997:10].
Như vậy, dựa trên cơ sở định nghĩa về văn hóa này, vận dụng vào kiếm thì văn
hóa kiếm chính là một hệ thống giá trị được con người sáng tạo và tích lũy
qua q trình sáng tạo và sử dụng KIẾM như một công cụ tự vệ và tấn công
trong thực tiễn ứng xử với mơi trường xã hội.
Chính vì vậy, văn hóa kiếm bản thân mang đầy đủ bốn đặc trưng của
văn hóa: văn hóa kiếm có tính hệ thống vì nó chứa đựng những mối liên hệ
giữa các hiện tượng, các sự kiện khác nhau trong liên quan đến việc sáng tạo và
sử dụng KIẾM như một công cụ tự vệ và tấn công trong thực tiễn ứng xử với
mơi trường xã hội của một nền văn hóa. Tiếp theo văn hóa kiếm có tính giá trị
về cả vật chất lẫn giá trị tinh thần. Tính nhân sinh của văn hóa kiếm được thể
hiện qua việc tác động trực tiếp của con người lên kiếm ở cả hai khía cạnh:
khía cạnh vật chất và khía cạnh tinh thần. Sau cùng, văn hóa kiếm cịn được thể
hiện ở tính lịch sử với lịch sử lâu dài của việc sáng tạo và sử dụng kiếm được
tích lũy qua nhiều thời đại trong lịch sử của một nền văn hố.
Văn hóa Trung Hoa mang tính bao dung và bền vững, trừ sự khác biệt
về thời gian ra, nó cịn mang tính khác biệt về khu vực và dân tộc. Trong suốt
mấy ngàn năm liên tục phát triển của văn hóa Trung Hoa, văn hóa của dân tộc
Trung Hoa bao gồm văn hóa của khu vực Trung ngun, văn hóa Tề Lỗ (Sơn
Đơng), văn hóa Sở (Hồ Bắc, Hồ Nam), văn hóa Ba Thục (Tứ Xuyên), văn hóa
20
Ngơ-Việt (Giang Tơ, Triết Giang), văn hóa Lĩnh Nam (Quảng Đơng, Quảng
Tây), văn hóa Mân (Phúc Kiến)… và văn hóa của các dân tộc thiểu số Trung
Quốc tạo nên một nền văn hóa Trung Hoa chung nhưng lại chứa đựng nhiều
yếu tố mang sắc thái đặc sắc riêng biệt. Vì vậy, chính sự phong phú đa dạng về
khu vực trong văn hóa Trung Hoa này đã tạo nên sự phong phú đa dạng về
kiếm, một biểu tượng quan trọng, và văn hóa kiếm trong nền văn hóa chung
Trung Hoa. Trong q trình phát triển của lịch sử khơng ngừng bành trướng
xuống phương Nam của Trung Quốc, khái niệm Trung Hoa được mở rộng từ
phía Bắc đến tận vùng phía Nam sơng Trường Giang, do đó trong phạm vi đề
tài này, văn hóa kiếm Trung Hoa được tập trung trên cơ sở chủ thể chủ yếu của
văn hóa Trung Hoa: Hán tộc trong vùng văn hóa Hán của Trung Hoa từ Bắc
xuống Nam Trung Hoa.
1.2.2. Kiếm trong lịch sử văn hóa Trung Hoa
Trung Quốc là một trong những nước có nền văn minh cổ xưa ảnh
hưởng tới thế giới. Những quốc gia cổ đại đã từng có nền văn minh xán lạn trên
thế giới, đa số khơng đủ sức duy trì tiếp tục tới ngày nay, có nền văn minh suy
vong, có nền văn minh dựa theo sự thay đổi trọng tâm văn hóa mà chuyển dời
tới khu vực khác. Duy chỉ có Trung Quốc và văn hóa Trung Hoa từ xưa tới nay,
trong suốt năm ngàn năm hầu như vẫn được bảo lưu tồn vẹn và vẫn có thể duy
trì tiếp tục trong thời đại mới. Nhắc tới văn hóa Trung Hoa, người ta thường
nghĩ ngay đến những tư tưởng, học thuyết thâm sâu đã chi phối gần như cả
Trung Hoa trong trường kỳ lịch sử. Một trong những điểm nổi bật của văn hóa
Trung Hoa chính là chiến tranh liên miên trong lịch sử dài dằng dặc đã tạo nên
những độc đáo về tư tưởng, cách ứng xử với môi trường chiến tranh của người
Trung Hoa cổ đại. Trong tư tưởng đó ban đầu là để đối phó với thời cuộc tao
loạn, dần dần đã hình thành nên một mơi trường văn hóa độc đáo của văn hóa
Trung Hoa: văn hóa quân sự Trung Hoa. Nó được thể hiện qua những trước tác
lưu truyền đời đời cho hậu thế như “Thái Công binh pháp”, “Tôn Tử binh
pháp”, “Ngô Khởi binh pháp”, “Hàn Phi Tử”, “Tam thập lục kế” và hằng hà sa
số các cổ tịch khác bàn về binh pháp, thái độ ứng xử với thời loạn và những
cuộc chinh chiến bất tận, cách bố trận, quy chế, thành phần quân chủng… với
21
những nhân vật xuất thế mà ai ai cũng từng nghe danh: Tôn Tử, Gia Cát Lượng,
Khương Thái Công, Tôn Tẫn, Mặc Tử, Hàn Phi Tử…
Trong lịch sử quân sự của Trung Hoa cố nhiên không thể không nhắc tới
binh khí, cơng cụ chính của chiến tranh. Binh khí cố hữu của một dân tộc với
nhân chủng, văn hóa, lịch sử, khoa học, mỹ thuật, kỹ nghệ, cùng với sự tăng
giảm, thịnh suy, sống còn và diệt vong của một dân tộc đều có quan hệ mật
thiết với nhau. Trong thời đại chiến tranh thuộc binh khí lạnh dài dằng dặc này
thì loại cơng cụ, binh khí được nhắc tới nhiều nhất, được người ta coi trọng
nhất, thậm chí cịn sùng bái chỉ có kiếm, thậm chí kiếm cịn trở thành vật biểu
trưng của văn hóa Trung Hoa. Tiến vào lịch sử thâm sâu dài dằng dặc và đa
dạng phong phú của hàng ngàn năm Trung Hoa này, ý thức về kiếm đã thấm
sâu vào các tầng diện của đời sống xã hội. Ý thức của chủ thể dân tộc Trung
Hoa với kiếm, những truyền thuyết li kì về kiếm, múa kiếm, đeo kiếm, lấy
kiếm trừ tà trấn trạch, kiếm thuật trong dân gian…, tất cả đã hình thành nên
một văn hóa kiếm Trung Hoa hay nói cách khác, văn hóa ứng xử với thanh
kiếm và hình tượng thanh kiếm trong tâm khảm của người Trung Hoa một cách
độc đáo mang đậm sắc thái riêng biệt, đặc trưng Trung Hoa so với những nền
văn hóa khác trên thế giới.
Trong phần này, luận văn sẽ trình bày về kiếm trong lịch sử văn hóa
Trung Hoa với tiêu chí phân kỳ dựa trên quá trình phát triển về mặt hình thể
của kiếm qua các giai đoạn trong lịch sử Trung Hoa.
1.2.2.1.
Kiếm thời Tây Chu
Khoảng vào thời nhà Hạ (21TCN – 16 TCN), Trung Quốc bắt đầu bước
vào thời kỳ đồ đồng. Dựa theo trình độ nắm bắt kỹ thuật đúc đồng ngày càng
thuần thục, lấy đồng để đúc kiếm, là một quá trình rất tự nhiên trong lịch sử.
Đồng xanh là hợp kim của đồng đỏ và những nguyên tố hóa học của thiếc, chì,
nhơm, niken… tạo thành. Đồng xanh có độ cứng cao, tính năng hóa học ổn
định, có thể đúc tạo ra các công cụ, đồ vật bằng đồng sử dụng trong sản xuất và
cuộc sống. Vũ khí được chế tạo từ đồng xanh so với vũ khí phi kim loại sử
dụng tiện lợi, có sức sát thương mạnh. Vào đầu thời Tây Chu, khu vực Trung
22
ngun xuất hiện loại kiếm cán dẹp, có hoặc khơng có sống kiếm, khơng có
kiếm cách, khơng có đầu của chi kiếm, thân kiếm thường khá ngắn, thơng
thường kích thước chỉ khoảng 20 – 30 cm, tương tự như dao găm ngày nay.
Hình 1.3: Kiếm và bao kiếm....
(Tử Âm Bạch Sam 2000: 33)
Hình 1.4: Đoản kiếm đồng
(Dương Hoằng 2005: 84)
....
Kiếm có hình dạng như hình lá liễu nên thường gọi là liễu diệp kiếm.
Chuôi kiếm thời này ruột thường hay rỗng, hình dẹt, chế tác thường thơ sơ và
đơn giản, nhỏ hẹp so với thân kiếm, Trên chi thường có xuyên lỗ dùng để cố
định cán gỗ trên chuôi. Tiêu biểu cho loại kiếm thời này là thanh kiếm đào
được trong một ngôi mộ thời Tây Chu ở dốc Trương Gia tỉnh Thiểm Tây. Ở
Cam Túc dốc Bạch Thảo trong mộ thời Tây Chu cũng đào được một thanh
kiếm đồng, kiếm này có thân thon dài, góc nhọn hình tam giác, tiếp theo thân
kiếm là chuôi khá hẹp và ngắn, cắm trong bao kiếm bằng đồng điêu khắc hoa
văn long xà có thể nhìn xun qua thấy bên trong. Thời kỳ này kiểu loại kiếm
có chi cong của khu vực phía Bắc trên cơ bản đã dần biến mất, một vài bộ
phận cịn lưu lại có hình đầu thú ở chi kiếm. (Hình). Giữa thời Tây Chu, hình
dạng của kiếm bắt đầu thay đổi theo chiều hướng sáp nhập đặc điểm của kiếm
vùng phía Bắc và vùng Trung ngun: chi kiếm chuyển qua dạng ống, lưỡi
kiếm phát triển chiều dài lên [Dương Nghị, Dương Hoằng 2000: 38]
23
Cũng chính là trong thời kỳ này, hình dạng cấu tạo của kiếm có sự đổi
mới: đều là kiếm có sống trụ. Cũng chính là từ cán hình trụ trịn hướng thẳng ra
trước mà hình thành nên sống kiếm dạng lồi trên thân kiếm, chỉ khác nhau ở
chỗ là có thanh ở phần cán kiếm có đầu kiếm (chỗ trịn to ra cuối chi kiếm),
có thanh khơng có. Đến thời Đơng Chu, trong khi khu vực phía Tây của Trung
Hoa vẫn cịn đang trong tình trạng sơ khai thì ở Trung thổ công nghiệp đúc
đồng đã rất phát triển. Thợ rèn đại đa số lấy đồng rèn kiếm, đã chế tạo ra số
lượng lớn kiếm tinh phẩm chất lượng cao. Kỹ thuật rèn kiếm cũng dần dần tiến
bộ. (Hình 4,5,6,7 trang 165 - 167)
Trên đại thể, kiếm đời Chu có thể chia làm mấy loại chính sau đây:
• Loại kiếm chi đặc ruột có phần hậu (đế):
Loại này đại bộ phận có cán trịn thẳng hình ống, trên chi có
hai hoặc ba đai quấn vịng quanh chi. Phần đai vịng này là để
ngăn cách các ngón tay với nhau khi cầm kiếm. Loại kiếm này
thường ở phần đầu chuôi kiếm người ta hay lấy các chất liệu như
xương, sừng, ngọc hoặc các chất liệu khác để trang trí. Phần đầu
kiếm có hình trịn loe ra hướng xuống, phần mặt đáy của phần hậu
này thơng thường phẳng và láng khơng có hoa văn hay các đồ trang
trí, cũng có một số kiếm vị trí này có khắc hình xoắn trịn hướng tâm.
Kiếm cách đa phần theo hình vng xéo hoặc theo hình van tim, hai
bên kiếm cách ơm nhẹ hướng lên thân kiếm. Cả thanh kiếm đều do
một khối đồng rèn đúc ra. Từ lưỡi kiếm, kiếm cách, chuôi kiếm đến
đầu kiếm đều liền thành một khối. Kiếm cách loại này đặc ruột, bề
mặt khơng có hoa văn nhưng cũng có lúc có chạm hoa văn hay văn
tự. Loại kiếm này trên lưỡi kiếm có lúc người ta cố ý rèn tạo ra hoa
văn thiên nhiên, đây là thành tựu cao nhất về mặt nghệ thuật đúc
kiếm thời Chu. [Chu Vĩ: 2006, 73] (Hình 8,9,10,11 trang 166)
• Loại kiếm chi rỗng:
Loại kiếm này có cán trịn, bên trong cán rỗng. Loại kiếm này
tồn thể phần cán kiếm trịn và rỗng ruột bên trong. Phần cán gần
24
đầu chuôi kiếm to ra và chỗ chuôi nối với kiếm cách và lưỡi thon
nhỏ lại. Phần đầu chuôi kiếm, đại bộ phận đều hướng ra ngồi làm
thành hình đai vịng quanh hoặc hình mâm trịn rỗng ruột. Phần
chi của kiểu kiếm này người ta thường lấy vải hoặc thừng buộc
quanh. Kiếm cách kiểu kiếm này là chỉ là một miếng mỏng phẳng
hình vng dài và xéo. Cùng giống như loại kiếm trên, cả thanh kiếm
đều do một khối đồng rèn ra. Chiều dài loại kiếm này tương đối ngắn,
phạm vi phổ biến khơng rộng lớn như loại trên. (Hình 12,13,14,15
trang 167)
•
Loại kiếm có cán trịn nhưng khơng thuộc hai loại trên:
Tức là kiếm có chi rỗng nhưng có kiếm cách giống loại đầu
tiên (kiếm cách to bản có chạm hoặc khơng chạm khắc); chi rỗng
mà có phần hậu (đế); chi rỗng và khơng có kiếm cách mà có mấy
cạnh trên thân kiếm; chi rỗng và có đầu chi rèn thành hình lọ
hay hình chén. Kiểu loại kiếm này trên những kiếm có kiếm cách đa
phần khơng có hoa văn chạm. Những kiếm thuộc kiểu loại này có thể
là những dạng biến thể của hai loại trên, được chế tạo cùng lúc với
hai loại trên. Cũng có thể là dạng quá độ phát triển từ hai loại trên
mà ra. (Hình 16 – 22 trang 168)
z
Kiểu loại kiếm chuôi nhỏ, dẹp khơng có kiếm cách lẫn đầu chi:
Loại kiếm này cũng do một khối đồng rèn thành, hình dáng cực
kỳ đơn giản, có thể nói là khơng có cán, chỉ có một cái chuôi dẹp,
nhỏ, thường đục một lỗ hoặc mấy lỗ, khơng đầu chi, khơng kiếm
cách. Hình dạng giống như lưỡi mâu. Ở giữa thân kiếm có sống nổi
lên. Hai bên sống kiếm thường có hai rãnh lõm xuống, có lúc lại hơi
nổi lên, cũng có kiếm tồn bộ lưỡi và chuôi đều bằng phẳng. Loại
kiếm này nếu muốn làm kiếm cách gắn thêm vơ có lúc người ta dùng
miếng đồng, có lúc lại lấy ngọc chế thành. Kiểu kiếm này có cán gắn
vào được làm từ gỗ, xương hay sừng thú đai vòng lại chế tạo thành.
25