ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
--------------
MAI THANH XUÂN
QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN
CỦA “CHÍNH PHỦ SÀI GỊN”
(1965 – 1975)
LUẬN VĂN THẠC SĨ CHUYÊN NGÀNH LỊCH SỬ VIỆT NAM
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH – 2010
2
ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
--------------
MAI THANH XUÂN
QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN
CỦA “CHÍNH PHỦ SÀI GỊN”
(1965 – 1975)
CHUN NGÀNH: LỊCH SỬ VIỆT NAM
MÃ SỐ: 60.22.54
LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS VÕ VĂN SEN
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH – 2010
3
MỤC LỤC
DẪN LUẬN ............................................................................. 1
1. Lý do chọn đề tài và mục đích nghiên cứu ................................ 1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ...................................................... 3
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ............................................ 8
4. Phương pháp nghiên cứu và nguồn tư liệu ................................ 8
5. Những đóng góp của luận văn ................................................. 9
6. Bố cục của luận văn ............................................................... 9
CHƯƠNG 1: TÌNH HÌNH CHÍNH TRỊ - XÃ HỘI Ở MIỀN NAM
TRƯỚC NĂM 1965 ................................................................ 10
1.1. Tác động của tình hình quốc tế đến chiến lược tồn cầu của Mỹ
..................................................................................... 10
1.2. Tình hình Việt Nam sau hiệp định Geneve ......................... 13
1.2.1. Miền Bắc tiến lên xây dựng cách mạng xã hội chủ nghĩa .... 13
1.2.2. Tình hình cách mạng miền Nam từ năm 1954 đến năm 1965….
..................................................................................... 15
1.3. Âm mưu và thủ đoạn của Đế quốc Mỹ ở miền Nam Việt Nam từ
sau hiệp định Geneve đến trước 1965: ....................................... 23
1.3.1. Thiết lập chính quyền tay sai ........................................... 25
1.3.2. Cải tổ quân đội Sài Gòn .................................................. 28
1.3.3. Thực hiện chiến lược “chiến tranh đặc biệt” ...................... 33
CHƯƠNG 2: QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN CỦA CHÍNH PHỦ SÀI
GỊN GIAI ĐOẠN 1965-1975 .................................................. 37
I. TỔ CHỨC CHÍNH PHỦ SÀI GỊN TỪ GIỮA NĂM 1965 ĐẾN
CUỐI NĂM 1967 ....................................................................... 37
1.1. Thời kỳ khủng hoảng chính trị của Chính phủ Sài Gịn ........... 37
4
1.2. Tổ chức chính phủ Sài Gịn giai đoạn 1965 – 1967: ................ 53
II. SỰ HÌNH THÀNH NỀN ĐỆ NHỊ CỘNG HÒA ....................... 55
2.1. Cuộc vận động bầu cử Quốc hội lập hiến ................................. 55
2.2. Sự ra đời của Quốc hội lập hiến .............................................. 57
2.3. Sự tranh chấp giữa Quốc hội lập hiến và Ủy ban lãnh đạo quốc gia
về thủ tục thảo hiến ..................................................................... 59
2.4. Cuộc bầu cử tổng thống và phó tổng thống và Thượng Nghị viện
.................................................................................................. 62
III. TỔ CHỨC CHÍNH PHỦ SÀI GỊN GIAI ĐOẠN TỪ CUỐI
NĂM 1967 ĐẾN THÁNG 4 NĂM 1975 ........................................ 64
3.1. Tổ chức các cơ cấu công quyền trung ương của nền đệ nhị cộng
hòa ............................................................................................ 64
3.1.1. Cơ quan lập pháp- Quốc hội ................................................ 65
3.1.2. Cơ quan hành pháp và chính phủ ......................................... 72
3.1.3. Cơ quan tư pháp ................................................................ 78
3.1.4. Tổ chức các định chế đặc biệt trong hệ thống chính quyền Sài
Gịn giai đoạn 1967-1975 ............................................................. 80
3.2 Vai trị của Chính phủ trong hệ thống chính quyền trung ương của Việt
Nam Cộng hòa ............................................................................................. 83
3.2.1. Sự tương quan trong tổ chức nội bộ của Chính phủ ............................ 83
3.2.1.1. Tổng thống lãnh đạo Chính phủ....................................................... 83
3.2.1.2. Sự tương quan trong nội bộ chính phủ ............................................ 94
3.2.2. Vai trị của chính phủ trong hệ thống cơng quyền trung ương thời Đệ
nhị cộng hịa Việt Nam................................................................................. 97
3.2.2.1. Hậu quả của việc hành xử quyền hạn bất thường ............................. 97
3.2.2.2. Sự nới rộng quyền lập quy của chính phủ ........................................ 99
CHƯƠNG 3: HOẠT ĐỘNG CỦA CHÍNH PHỦ SÀI GÒN GIAI ĐOẠN
1965 – 1975………………………………………………………………...103
5
3.1. Hoạt động của “chính phủ Sài Gịn”trên lĩnh vực chính trị, văn hóa,
tư tưởng...................................................................................................... 103
3.2. Hoạt động của “chính phủ Sài Gòn”trên lĩnh vực quân sự ......... 114
3.3. Hoạt động của “chính phủ Sài Gịn”trên lĩnh vực ngoại Giao .... 125
3.4. Hoạt động của “chính phủ Sài Gịn”trên lĩnh vực kinh tế .......... 133
KẾT LUẬN .................................................................................... 143
PHỤ LỤC.................................................................................... 149
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ....................................... 235
1
DẪN LUẬN
1. Lý do chọn đề tài và mục đích nghiên cứu
Chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ ở Việt Nam đã kết thúc
hơn 30 năm. Đó là cuộc chiến tranh mà đế quốc Mỹ đã huy động mọi
lực lượng quân sự hùng mạnh cả về quy mô lẫn phương tiện hiện đại.
Âm mưu thống trị Việt Nam được củng cố và tiếp nối qua năm đời
Tổng thống Mỹ với các chiến lược chiến tranh và những thủ đoạn ngày
càng tinh vi. Không chỉ đơn phương độc chiến hay công khai đặt ách
cai trị tại miền Nam Việt Nam, đế quốc Mỹ đã ngụy trang một cách
tinh vi thông qua một tổ chức chính quyền tay sai, một lực lượng quân
đội bản xứ khổng lồ và một thế lực đồng minh tạo nên một thành trì
vững chắc là lá chắn cho Mỹ trước lực lượng cách mạng và dư luận
thế giới. Tất cả những nỗ lực và cố gắng của Mỹ nhằm hướng tới mục
tiêu biến miền Nam Việt Nam thành thuộc địa kiểu mới của Mỹ.
Những thắng lợi cuối cùng trái với những toan tính của Mỹ. Sức mạnh
của vũ khí hiện đại, khơng thể thắng nổi ý chí quật cường, tinh thần
đồn kết chống ngoại xâm của quân và dân Việt Nam.
Đại thắng mùa xâun năm 1975 của quân dân Việt Nam đã đánh
bại hoàn toàn hệ thống ngụy quyền của Mỹ ở miền Nam, đập tan mưu
đồ thực dân kiểu mới của Mỹ ở khu vực này. Từ đây, chiến tranh xâm
lược của Mỹ ở Việt Nam cũng chính thức khép lại. Dù vậy, cuộc chiến
tranh này cho đến nay vẫn luôn gợi mở nhiều vấn đề mà giới chính trị
gia, các tướng lĩnh và các nhà khoa học trong và ngồi nước quan tâm.
Nhiều cơng trình khoa học, các bài phóng sự, bài báo đã khảo cứu và
khai thác nhiều vấn đề của cuộc chiến tranh này trên nhiều bình diện
khác nhau. Tựu trung lại, vấn đề được quan tâm nhiều nhất là tại sao
2
Mỹ lại thất bại ở Việt Nam? Mỹ đã tiêu tốn bao nhiêu kinh phí, tiền
của và nhân lực cho cuộc chiến tranh này ?....
Để lừa gạt dư luận và che lấp bản chất chiến tranh xâm lược, đế
quốc Mỹ đã dựng lên ở miền Nam Việt Nam một hệ thống chính quyền
tay sai bản xứ. Xuất phát từ mưu đồ chính trị đó, Mỹ đã đẩy mạnh
cơng cuộc “bảo trợ” để củng cố và tăng cường sức mạnh cho “Chính
phủ Việt Nam Cộng hịa” mới được thiết lập ở miền Nam. Do vậy, để
phát huy được hiệu lực tối ưu của bộ máy tay sai, Mỹ quan tâm đặc
biệt đến vai trò của những “con bài chủ chốt” trong guồng máy vận
hành. Cuộc đảo chính ngày 1 tháng 11 năm 1963 lật đổ Ngơ Đình
Diệm chỉ là bước khởi đầu cho hàng loạt cuộc thử nghiệm khác. Một
khi “con bài” khơng cịn khả năng đáp ứng được những mục tiêu qn
sự- chính trị do Mỹ đặt ra thì ngay lập tức sẽ bị thay thế. Điều này
cũng lý giải tại sao từ năm 1963 cho đến năm 1965, chính quyền tay
sai của Mỹ ở miền Nam Việt Nam liên tục bị “thay ngơi” Tổng thống.
Cuộc khủng hoảng chính trị này diễn tiến bằng con đường đảo chính,
thay chính quyền bù nhìn cũ bằng một chính quyền bù nhìn mới. Lộ
trình này mãi đến năm 1965, Mỹ mới tìm ra lời giải đáp thơng qua
cuộc đảo chính ngày 11 tháng 09 năm 1965. Ngay sau thành cơng của
đảo chính, ngày 14 tháng 06 năm 1965 “Ủy ban Lãnh đạo Quốc gia”
được thành lập, quá trình chuyển giao quyền lực từ dân sự sang quân
sự đã bước đầu hoàn thành. Nguyễn Văn Thiệu chính thức được Mỹ
tín nhiệm giao quyền.
Bằng hàng loạt chính sách nhằm củng cố chính quyền, Nguyễn
Văn Thiệu đã tạo được lòng tin của Mỹ trong suốt một thời gian gần
10 năm. Chí ít thì Nguyễn Văn Thiệu cũng đã có cơng trong việc duy
trì một sự ổn định tương đối trong nội bộ ngụy quyền. Mặc dù nền Đệ
nhị Cộng hòa chỉ được thiết lập từ năm 1967, nhưng xét về tính chất,
3
đây vẫn là chính quyền tay sai thân Mỹ. Có khác chăng, chính quyền
mới ấy được thành lập thơng qua con đường “qn sự hóa”. Vì thế
cũng có thể xem đây là giai đoạn phát triển tiếp theo của “chính phủ
Sài Gịn”, chính quyền tay sai của Mỹ ở miền Nam Việt Nam.
Từ năm 1965 đến năm 1975 là giai đoạn đánh dấu những bước
phát triển lớn mạnh của cách mạnh Việt Nam nói chung, của miền
Nam Việt Nam nói riêng. Quân dân ta đã giành nhiều thắng lợi liên
tiếp góp phần thuận lợi đưa đến đại thắng mùa xuân năm 1975. Đồng
thời, về phía địch, trước những thành quả của cách mạng Việt Nam,
Mỹ và “chính phủ Sài Gịn” cũng không ngừng phát triển về tổ chức,
về chiến lược để đối phó lại nhân dân ta. Vì lẽ đó, khi nghiên cứu về
chiến tranh Việt Nam giai đoạn 1965-1975, chúng ta cũng khơng thể
khơng tìm hiểu về những chuyển biến, những thay đổi của Mỹ và
chính quyền tay sai. Đó là lý do tơi chọn đề tài “Q trình phát triển
của “chính phủ Sài Gịn” giai đoạn 1965-1975” làm luận văn tốt
nghiệp của mình.
Mục đích của đề tài này là phác họa lại một mơ hình tổ chức
chính quyền và những hoạt động chủ yếu của “chính phủ Sài Gòn” vốn
đã được gây dựng từ năm 1954. Nhưng đặc biệt nhấn mạnh ở những
khía cạnh đổi mới, khác biệt của tổ chức bộ máy chính quyền trong
giai đoạn 1965-1975 so với giai đoạn trước. Đồng thời nêu bật được
những tác động của cách thức tổ chức này đối với quản lý và cai trị
Mỹ cũng như ngụy quyền ở miền Nam Việt Nam.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân Việt Nam
(1954-1975) không chỉ là đề tài nghiên cứu của các nhà sử học mà nó
cịn thu hút sự quan tâm của rất nhiều học giả khác ở trong và ngoài
nước. Từ những ấn phẩm giáo khoa, những giáo trình lịch sử trong các
4
trường đại học, cao đẳng cho đến các cơng trình nghiên cứu chuyên
sâu, những hồi ức của các sĩ quan từng tham gia trong cuộc chiến
tranh ở Việt Nam, các tác giả đã khai thác và diễn giải sâu sắc từng sự
kiện, từng diễn biến về lịch sử của cuộc chiến tranh này ở nhiều góc
độ khác nhau. Phần lớn các tác phẩm này ít nhiều đều đề cập đến
những diễn biến của cuộc chiến tranh từ năm 1954 đến năm 1975.
Trong đó, các tác giả cũng điểm qua những chính sách cai trị, những
thủ đoạn thực dân mới của Mỹ và chính quyền tay sai ở từng lĩnh vực,
từng giai đoạn cụ thể.
Các tác phẩm nghiên cứu về chính quyền Sài Gòn từ năm 1965
đến năm 1975 được biết đến cịn hạn chế. Tiêu biểu có thể kể đến
những cơng trình sau:
Tác phẩm “Miền Nam giữ vững thành đồng” của tác giả Trần
Văn Giàu do Nhà xuất bản Khoa học Xã hội phát hành từ năm 1966.
Tác phẩm gồm 5 tập, trong đó, tác giả mơ tả, phân tích và lý giải rất
xác đáng về tương quan lực lượng trên chiến trường giữa ta và địch.
Đồng thời, tác giả cũng đưa ra những nhận định về ý đồ và và đối sách
của Mỹ trong việc “thay ngựa giữa dòng” bằng hàng loạt các cuộc đảo
chính để “tái thiết” lại một chính quyền tay sai mới có thể tiếp tục leo
thang chiến tranh Việt Nam. Tác phẩm cung cấp những tư liệu rất ý
nghĩa về toàn cảnh của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của
nhân dân ta. Song “chính phủ Sài Gòn” giai đoạn 1965-1975” chỉ được
ghi nhận ở những khía cạnh của cuộc chiến, chưa được nghiên cứu
tồn diện về tổ chức.
Tác phẩm “Hệ thống tổ chức quân sự của Mỹ và Việt Nam cộng
hòa trong chiến tranh Việt Nam ( 1965-1975)” của Viện Lịch sử Quân
sự Việt Nam, xuất bản tại Hà Nội năm 2003, cũng đã góp phần mơ tả
tổ chức bộ máy chiến tranh của Mỹ và chính quyền Sài Gịn cùng cơ
5
chế hoạt động của nó. Từ đó giúp cho việc nghiên cứu cuộc chiến
tranh một cách toàn diện hơn. Tuy nhiên, cuốn sách này mới chỉ khái
quát và mô tả cơ cấu tổ chức, quá trình triển khai các hoạt động qn
sự có tính chất chiến lược của Mỹ và Việt Nam Cộng hịa giai đoạn
1965-1975, cịn “chính phủ Sài Gịn” chưa được đề cập đến.
Tác phẩm “Qúa trình cuộc chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ
và quy luật hoạt động của Mỹ- Ngụy trên chiến trường B2” của Ban
tổng kết chiến tranh B2, xuất bản năm 1984. Trong tác phẩm, các tác
giả đã phân tích về đặc điểm tình hình, âm mưu của đế quốc Mỹ trên
chiến trường B2 (Nam bộ và Cực Nam Trung bộ) đồng thời mô tả chi
tiết về các giai đoạn chiến lược thực hiện âm mưu chủ trương của địch
trên địa bàn này từ tháng 7-1954 đến 30-4-1975. Từ đó, các tác giả rút
ra một số vấn đề có tính chất quy luật và kinh nghiệm về chỉ đạo tiến
hành chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ trên chiến trường B2.
Cuốn sách dù chưa nghiên cứu nhiều về tổ chức của “chính phủ Sài
Gòn” nhưng cũng đã cung cấp những tư liệu hữu ích về âm mưu của
Mỹ, ngụy ở miền Nam Việt Nam 1965-1975.
Những tác phẩm tiêu biểu trên được nghiên cứu từ cuối thập
niên 60 của thế kỷ XX đến nay là những cơng trình đề cập khá nhiều
đến qúa trình hình thành, cơ cấu tổ chức, chính sách cai trị của chính
quyền Sài Gịn những giai đoạn lịch sử nhất định.
Ngồi ra, liên quan đến chính quyền Sài Gịn cịn rất nhiều cơng
trình khác đã được các tác giả ở trong và ngoài nước nghiên cứu từ
những năm 60 trở đi.
Nhiều cơng trình trong nước được xuất bản từ sau ngày miền
Nam hồn tồn giải phóng có viết về chính quyền Sài Gịn giai đoạn
1965-1975 có thể kể đến như: “Bước ngoặt lớn của cuộc kháng chiến
chống Mỹ”, tác giả Văn Tiến Dũng, xuất bản năm 1989; “Những con
6
rối trên sân khấu Sài Gòn: Lược nghi những trò hề cũa Mỹ - Ngụy ở
Sài Gòn từ năm 1964-1975”, do Nhà xuất bản Văn nghệ giải phóng ấn
hành năm 1976; “Tổng kết cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước
(1954-1975)- thắng lợi và bài học”, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia
phát hành năm 1995;… cùng nhiều cơng trình khác của Viện Lịch sử
Quân sự, của các địa phương. Tuy nhiên, hầu hết các cơng trình này
chỉ đề cập đến những khía cạnh chiến lược chiến tranh, chính sách cai
trị Mỹ - Ngụy chứ chưa nghiên cứu toàn diện về chính quyền Sài Gịn.
Tuy vậy, cũng có nhiều tác phẩm khác khai thác khá chi tiết về
từng chi tiết, từng bộ phận, từng sự kiện diễn ra trong nội tại của
chính quyền Sài Gịn từ năm 1965 đến năm 1975. Tác giả Lý Nhân có
hàng loạt tác phẩm viết về những nhân vật đầu não trong “chính phủ
Sài Gịn” ( 1965 – 1975) như: “Trần Lệ Xuân- giấc mộng chính
trường”, Nhà xuất bản Công an Nhân dân, 1998; “Thiệu – Kỳ: một
thời hãnh tiến một thời suy vong”, Nhà xuất bản Công an Nhân dân,
2000; Nguyễn Cao Kỳ trở về đất mẹ, Nhà xuất bản Công an Nhân dân
2007. Tác giả Hoàng Linh Đỗ Mậu cũng đã phản ánh về chính quyền
Sài Gịn trong cuốn hồi ký của mình như: Tâm sự tướng lưu vong (Việt
Nam máu lửa quê hương tôi), Nhà xuất bản Công an Nhân dân 1991. Bên
cạnh đó, cũng có rất nhiều cơng trình nghiên cứu về các cơ cấu tổ
chức của từng bộ phận, các chính sách cai trị của rất nhiều các tướng
lĩnh trong quân đội Việt Nam Cộng hòa. Tuy nhiên, đa số các cơng
trình này cịn mang nặng tính chủ quan, phản ánh cách nhìn lệch lạc,
thành kiến có khi với cách mạng Việt Nam nhưng cũng có lúc với
chính quyền Sài Gịn tùy thuộc vào mối quan hệ của các tác giả với
chính quyền Sài Gịn.
Các tác giả ở nước ngồi cũng có nhiều tác phẩm nghiên cứu về
chiến tranh của Mỹ ở Việt Nam. Tiêu biểu có thể kể đến các tác phẩm
7
“Chuẩn bị sẵn sàng cho cuộc chiến tranh chính trị ở miền nam Việt
Nam”, tác giả Samuel P.Hungtingtơn, 1969; “Nước Mỹ và Đông
Dương từ Ru-dơ-ven đến Nich- xơn” của tác giả P.A.Pulơ , Nhà xuất
bản Thông tin lý luận, 1985; “Nhìn lại q khứ - tấm thảm kích và bài
học Việt Nam” của Robert S.McNamara, Nhà xuất bản Chính trị Quốc
gia, 1995; “Những ngày cuối cùng của Mỹ - Thiệu ở Sài Gịn” của Ixa-Ác Ác-nơn. R.Mác-tin M, Nhà xuất bản Đồng Tháp, 1985; “Cuộc
chiến dài ngày của nước Mỹ và Việt Nam (1950-1975)” của George C.
Henrring, Nhà xuất bản Công an Nhân dân, 2004,… Trong các tác
phẩm này, các tác giả chỉ tập trung nghiên cứu sâu về những đối sách
của Mỹ thực hiện ở Việt Nam qua những giai đoạn cụ thể, chính quyền
Sài Gịn là một trong những cơng cụ của các chiến lược ấy.
Nhìn chung, chính quyền Sài Gòn được đề cập đến trong các tác
phẩm vẫn cịn rất hạn chế. Nó chỉ được ghi nhận như là một bộ phận
có liên quan đến các chủ thể chính trong tác phẩm. Các vấn đề về âm
mưu, thủ đoạn, về chính sách cai trị trên tất các các lĩnh vực chính trị,
quân sự, kinh tế, xã hội,… của chính quyền Sài Gịn được các cơng
trình nghiên cứu khá tỉ mỉ. Nhưng những vấn đề về nội tại của chính
quyền Sài Gịn ở những năm 1965-1975 như về tổ chức của chính
quyền trung ương, của chính phủ trong giai đoạn này có những cải tổ,
điều chỉnh như thế nào; mối quan hệ giữa những cơ quan, giữa những
nhân sự chủ chốt trong bộ máy vận hành ra sao,… vẫn cịn bỏ ngỏ. Có
thể nói, cho đến nay, vẫn chưa có cơng trình nào tập trung nghiên cứu
một cách tồn diện và hệ thống về “Q trình hình phát triển của chính
quyền Sài Gịn 1965-1975”. Chế độ tổng thống đã xuất hiện ở miền
Nam Việt Nam sau năm 1954 nhằm thực hiện mưu đồ thực dân kiểu
mới của đế quốc Mỹ. Kể từ khi hình thành cho đến ngày sụp đổ, chế
độ ấy đã tồn tại ở miền Nam gần 20 năm với bốn đời Tổng thống. Sau
8
những khủng hoảng, rối ren trong nội bộ, từ năm 1965 trở đi, “chính
phủ Sài Gịn” có thời gian ổn định để tiến hành xây dựng và củng cố
lại chính quyền. Theo đó, “chính phủ Sài Gịn” đã điều chỉnh lại một
số cơ cấu bên trong, đặc biệt là thiết lập lại sự tương quan quyền lực
của các cơ quan hành pháp nhằm hướng đến một chính quyền mạnh,
đáp ứng được yêu cầu tình hình mới. Vì thế, nghiên cứu về “Q trình
phát triển của “chính phủ Sài Gịn” giai đoạn 1965-1975” là cần thiết,
có ý nghĩa về khoa học và thực tiễn.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu chính của luận văn là sự phát triển của
“chính phủ Sài Gịn” giai đoạn 1965-1975. Trong đó, luận văn tập
trung tìm hiểu về vai trị của tổng thống, người đứng đầu chính phủ và
đồng thời cũng là người đứng đầu cơ quan hành chính, về mối quan hệ
giữa tổng thống với các thành viên khác của chính phủ và mở rộng
hơn nữa qua các mối quan hệ giữa tổng thống với các cơ quan khác.
Ngoài ra, luận văn giới thiệu những chính sách cơ bản về kinh tế,
chính trị, xã hội, qn sự và văn hóa tư tưởng của “chính phủ Sài
Gịn” trong giai đoạn này ở miền Nam Việt Nam.
Phạm vi nghiên cứu của luận văn giới hạn tìm hiểu từ khi những
khủng hoảng trong nội bộ của chính phủ tạm lắng xuống nhường chỗ
cho sự thắng thế của quân đội trong chính quyền từ năm 1965 đến khi
đại thắng mùa Xuân năm 1975 diễn ra, làm sụp đổ hoàn toàn hệ thống
ngụy quyền ở miền Nam Việt Nam.
4. Phương pháp nghiên cứu và nguồn sử liệu
Luận văn sử dụng các phương pháp cơ bản là phương pháp lịch
sử, phương pháp logic kết hợp với phương pháp thống kê, so sánh đối
chiếu để xác minh và chọn lọc tư liệu đáng tin cậy.
9
Nguồn tư liệu tham khảo chủ yếu của luận văn chủ yếu sưu tầm
tại các cơ quan như: Trung tâm Lưu trữ Quốc gia II tại Thành phố Hồ
Chí Minh, Thư viện Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh; Thư viện Khoa
học Xã hội Thành phố Hồ Chí Minh; Phịng tư liệu Qn khu 7. Ngồi
ra, luận văn cịn tham khảo các nguồn tư liệu khác từ các văn kiện
Đảng và Nhà nước đến các sách, báo, tạp chí chuyên ngành có liên
quan đến chủ đề nghiên cứu của luận văn.
5. Những đóng góp của luận văn
Luận văn tái hiện lại bức tranh tổng thể toàn diện về bộ máy vận
hành của “chính phủ Sài Gịn” giai đoạn 1965-1975. Trong đó, luận
văn tập trung khai thác những mối tương quan giữa các cơ quan trong
nội bộ chính phủ, giữa hành pháp với các cơ quan khác của kết cấu
công quyền trung ương. Thơng qua việc tìm hiểu về các cơ cấu tổ chức
của chính phủ, luận văn làm sáng tỏ hơn q trình phát triển của
“chính phủ Sài Gịn”. Từ đó, luận văn mong muốn góp thêm phần tư
liệu, bổ sung những cứ liệu xác đáng, những nhận định khách quan về
một mơ hình chính phủ tay sai cụ thể của chủ nghĩa thực dân mới của
Mỹ ở miền Nam Việt Nam.
6. Bố cục của Luận văn
Ngoài phần dẫn luận, kết luận, phụ lục và tài liệu tham khảo,
luận văn gồm 3 chương:
Chương I: Tình hình chính trị - xã hội ở miền Nam trước năm 1965.
Chương II: Quá trình phát triển của “chính phủ Sài Gịn” 1965-1975
Chương III: Hoạt động của “chính phủ Sài Gịn” 1965-1975
10
CHƯƠNG 1
TÌNH HÌNH CHÍNH TRỊ - XÃ HỘI Ở MIỀN NAM TRƯỚC NĂM 1965
1.1. Tác động của tình hình quốc tế đến chiến lược toàn cầu
của Mỹ
Từ sau chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, tình hình quốc tế có nhiều
biến đổi ảnh hưởng sâu sắc đến cục diện đấu tranh giữa hai thế lực, cách
mạng và phản cách mạng của các nước. Đặc điểm nổi bật nhất của những biến
đổi này chính là sự ra đời và phát triển của hệ thống các nước xã hội chủ
nghĩa cùng với sự lớn mạnh và bành trướng mở rộng ảnh hưởng của đế quốc
Mỹ.
Hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa được hình thành và nhanh chóng
phát triển, lan rộng sang nhiều quốc gia, khu vực trên thế giới từ năm 1945 trở
đi. Đây là cơ sở, là nền tảng, là chỗ dựa vững chắc đưa phong trào giải phóng
dân tộc giành thắng lợi ở các quốc gia Á – Phi – Mỹ La Tinh. Ở châu Á, hàng
loạt các quốc gia đã tiến hành thành công cao trào giải phóng dân tộc, trong
đó, có khơng ít quốc gia đã giành được độc lập như: Trung Quốc (1949); Việt
Nam (1945); Lào (1945); Indonêxia (1945),… Ngoài ra, dù chưa giành được
thắng lợi hồn tồn nhưng phong trào giải phóng dân tộc ở các quốc gia cũng
gây nhiều tổn thất, góp phần làm suy yếu chủ nghĩa thực dân cũ như: Triều
Tiên, Ấn Độ, Syria, Iraq, Ả Rập… Sự lớn mạnh của phong trào giải phóng
dân tộc khơng chỉ diễn ra ở châu Á mà nó cịn liên tiếp bùng nổ và giành
thắng lợi ở châu Phi và châu Mỹ La Tinh. Phong trào giải phóng dân tộc phát
triển mạnh chưa từng có, gặt hái được thành cơng lớn trong lịch sử các nước
Bắc Phi và Tây Phi. Đáng kể nhất là thắng lợi của các quốc gia Ai Cập,
Sudan, Algieri, Ma Rốc v.v… Khí thế cách mạng ở châu Mỹ La Tinh cũng
diễn ra sôi nổi với những thắng lợi tiêu biểu của các nước Panama, Bolivia,
Cuba. Phần lớn phong trào giải phóng dân tộc ở các quốc gia này, đặc biệt là
ở châu Á và châu Mỹ La Tinh đều chịu ảnh hưởng và gắn bó với chủ nghĩa xã
11
hội. Nói cách khác, hệ thống chủ nghĩa xã hội khơng chỉ phát triển ở Đơng Âu
mà nó bắt đầu lan tỏa hình thành và phát triển mạnh mẽ ở các nước châu Á và
châu Mỹ La Tinh.
Bên cạnh đó, sau chiến tranh thế giới thứ hai, phong trào đấu tranh của
giai cấp công nhân ngày càng lớn mạnh ngay trong các nước tư bản chủ
nghĩa. Ý thức và trình độ giác ngộ cánh mạng của công nhân được nâng cao
rõ rệt. Cơng nhân khơng chỉ đấu tranh vì quyền lợi kinh tế của bản thân mà họ
còn đấu tranh vì hồ bình, dân chủ trên thế giới. Họ đấu tranh chính trị phê
phán các chính sách xâm lược của chủ nghĩa đế quốc, lên án chiến tranh xâm
lược của Mỹ tại Triều Tiên và Đơng Dương,.. Có thể nói, phong trào đấu
tranh của giai cấp công nhân ở các nước tư bản chủ nghĩa phát triển đã trở
thành rào cản chính trị đối với chính sách bành trướng của chủ nghĩa đế quốc.
Đồng thời, đây cũng chính là nguồn cổ vũ, động viên cho phong trào giải
phóng dân tộc của các nước trên thế giới. Sự kết hợp của hai phong trào này
đã thực sự uy hiếp vị trí của chủ nghĩa đế quốc và chủ nghĩa tư bản ở nhiều
nơi.
Cùng với sự phát triển của phong trào giải phóng dân tộc ở các nước
thuộc địa và phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân ở các nước Tư bản
chủ nghĩa là sự suy yếu dần dẫn đến sụp đổ của chủ nghĩa thực dân cũ. Hệ
thống thuộc địa của chủ nghĩa thực dân cũ tan rã, phạm vi ảnh hưởng của
chúng với các nước thuộc địa ngày càng bị thu hẹp dần và vì thế của chúng
trên vũ đài chính trị thế giới bị suy giảm nghiêm trọng chính trong bối cảnh
đó, đế quốc Mỹ đã khẳng định vai trò sen đầm quốc tế và bộc lộ rõ mưu đồ bá
chủ toàn cầu. Để thực hiện được mưu đồ đó, đế quốc Mỹ tận dụng mọi thủ
đoạn kể cả cấu kết và khống chế đối với các nước đế quốc khác ở Tây Âu và
Nhật Bản. Sau chiến tranh thế giới thứ hai, chủ nghĩa đế quốc suy yếu, chủ
nghĩa thực dân cũ khơng cịn cơ sở tồn tại. Trong khi đó, Mỹ lại giàu lên, tiềm
lực về quân sự và kinh tế vươn lên đứng đầu thế giới với thực lực đó. Mỹ là
12
nước có khả năng hỗ trợ các nước ở Tây Âu và Nhật Bản khôi phục lại nền
kinh tế. Dù có những mâu thuẫn bất đồng giữa các nước này với đế quốc Mỹ,
nhưng trên thực tế chúng có chung một mục đích là tiêu diệt chủ nghĩa xã hội,
do vậy, giữa chúng vẫn ln có sự cấu kết với nhau. Mỹ tích cực thực hiện
“chiến lược tồn cầu” của mình trên khắp châu Âu, Trung Cận Đơng và châu
Á, thiết lập các vành đai quân sự ở Viễn Đông.
Tuy nhiên, từ năm 1945 trở đi, cách mạng ở châu Á gặt hái được những
thắng lợi liên tiếp, nhiều quốc gia đã giành được độc lập và có khuynh hướng
ngày càng gắn bó với chủ nghĩa xã hội. Tình hình này càng khiến Mỹ thấy bất
an, chiến lược toàn cầu của Mỹ ở khu vực Tây Thái Bình Dương bị uy hiếp
nhất là ở khu vực Đông Nam Á. Do vậy, từ chỗ nhận thấy được nguy cơ của
chủ nghĩa cộng sản có thể lan nhanh ở Đơng Nam Á, Mỹ hơn lúc nào hết tập
trung sự chú ý vào khu vực này. Mỹ đã ký hàng loạt các hiệp ước phòng thủ
và lập các khối quân sự ở quanh vùng Tây Thái Bình Dương và khu vực
Đơng Nam Á. Cùng lúc này, trong nội bộ các nước xã hội chủ nghĩa cũng
xuất hiện những biểu hiện tiêu cực như chủ nghĩa xét lại hiện đại và những
chủ trương phản cách mạng của tập đoàn lãnh đạo Bắc Kinh xoay quanh vấn
đề Hội nghị Geneve 1954. Những mâu thuẫn, bất đồng này chính là điều kiện
thuận lợi để Mỹ tăng thêm khả năng thực hiện mưu đồ bá chủ của mình ở khu
vực Đơng Nam Á.
Từ cuối tháng 3 đến cuối tháng 4/1954, vấn đề Mỹ can thiệp vào
cuộc chiến ở Đông Dương, nhất là tại Điện Biên Phủ đã được chính
phủ Mỹ đưa ra bàn luận. Theo đó, sự can thiệp có thể diễn ra theo 2
khuynh hướng:
Thứ nhất, Mỹ có thể can thiệp bằng hình thức trá hình, nghĩa là
chính phủ Hoa Kỳ tham gia vào cuộc chiến một cách khơng cơng khai,
đưa phương tiện, vũ khí oanh tạc một căn cứ nào đó rồi bay về mà
khơng phải chịu trách nhiệm nào cả. Cách thức này được các tướng
13
lĩnh quân đội hưởng ứng. Tuy nhiên, phần lớn cũng rất quan ngại sự
chỉ trích của dư luận khi sự việc bị đưa ra ánh sáng. Do vậy, hình thức
này không được thông qua.
Thứ hai, Mỹ sẽ tham chiến với hình thức cơng khai với sự hỗ
trợ, liên minh của một số quốc gia khác như Anh và các nước châu Á
nếu có thể được. Khuynh hướng này được tổng thống Eisenhower tích
cực thực hiện, thương lượng với các nhà lãnh đạo Anh quốc để tìm
đồng minh. Từ ngày 10 đến ngày 13/4/1954, ngoại trưởng Mỹ Dulles
đã gặp chính thức ngoại trưởng Anh Eden tại Luân Đôn để bàn về vấn
đề này nhưng kết quả mang lại không như mong đợi. Mỹ đã khơng tìm
được tiếng nói chung với đồng minh Anh. Ngày 27/4/1954, thủ tướng
Churehill đã tuyên bố trước quốc hội Anh rằng nước Anh sẽ khơng có
hành động chính trị hoặc qn sự liên quan đến Đơng Dương khi Hội
nghị Geneve chưa có kết quả.
Do khơng tìm thấy sự tán đồng từ phía Anh, Mỹ đã chọn cho
mình một “tư cách” khác khi đến với Hội nghị Geneve. Trong vai trò
trợ giúp ngoại giao trên bàn hội nghị, Mỹ cho đó là đường lối can
thiệp ít vụng về nhất.
1.2. Tình hình Việt Nam sau hiệp định Geneve
1.2.1. Miền Bắc tiến lên xây dựng cách mạng xã hội chủ nghĩa
Sau thất bại nặng nề ở Điện Biên Phủ, thực dân Pháp buộc phải ký hiệp
định Geneve về Đông Dương 1954. Với hiệp định này, Pháp hồn tồn khơng
cịn chỗ đứng ở Việt Nam và Đông Dương và phải rút quân ra khỏi lãnh thổ
của các nước này. Thắng lợi của ta trên chiến trường cũng như trong hội nghị
Geneve là đã đánh đuổi được thực dân Pháp ra khỏi lãnh thổ Việt Nam và
Đông Dương. Tuy nhiên, cũng từ hội nghị Geneve, Việt Nam bị chia cắt
thành hai miền Nam, Bắc, lấy vĩ tuyến 17 làm ranh giới phân chia hai miền.
Mỗi miền thực hiện một nhiệm vụ cách mạng khác nhau. Miền Bắc, dưới sự
14
lãnh đạo của Đảng và chính phủ tiếp tục tiến lên cách mạng xã hội chủ nghĩa,
ra sức khôi phục và phát triển kinh tế, khắc phục hậu quả chiến tranh. Trong
khi đó, miền Nam lúc này vẫn chưa độc lập, vẫn tạm thời do Pháp quản lý
chờ đến khi cả nước thực hiện tổng tuyển cử thống nhất đất nước.
Sau hiệp định Geneve, miền Bắc được giải phóng tiến lên xây
dựng cách mạng chủ nghĩa xã hội. Nhiệm vụ trước mắt của cách mạng
ở miền Bắc là gây dựng miền Bắc vững mạnh toàn diện, làm hậu thuẫn
cho cách mạng ở miền Nam. Nói cách khác, miền Bắc trong giai đoạn
này đóng vai trị là hậu phương lớn, là chỗ dựa căn bản nhất cho miền
Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Vì thế, cách mạng
xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc có ý nghĩa quyết định nhất đối với toàn
bộ sự phát triển cách mạng Việt Nam, cụ thể là sự nghiệp đấu tranh
thống nhất nước nhà.
Ngay khi hịa bình được lập lại, miền Bắc phải bắt tay ngay vào
công cuộc khôi phục kinh tế và cải tạo xã hội. Đồng thời, cũng trong
thời gian này, miền Bắc còn đấu tranh đòi Pháp thi hành hiệp định
Geneve về việc trao trả tù binh và thường dân bị giam giữ trong chiến
tranh. Hàng loạt các chính sách đã được Đảng và Chính phủ Việt Nam
Dân chủ Cộng hịa ban hành để thực hiện cơng cuộc xây dựng và cải
tạo xã hội chủ nghĩa như: chính sách khoan hồng nhân đạo đối với
những người đã từng phục vụ trong chính quyền thuộc Pháp; bổ sung
chính sách cải cách ruộng đất trong giai đoạn mới. Nghị quyết của Bộ
Chính trị vạch rõ nhiệm vụ trước mắt là ổn định trật tự xã hội, ổn định
vật giá, ổn định thị trường, phục hồi và nâng cao sản xuất, nhất là
trong lĩnh vực nông nghiệp,… Sau 3 năm tiến hành khôi phục kinh tế,
miền Bắc tiếp tục bước vào thời kỳ cải tạo xã hội từ năm 1958. Giữa
lúc kế hoạch ba năm cải tạo xã hội chủ nghĩa, phát triển kinh tế và văn
hóa ở miền Bắc sắp hồn thành thì tình hình cách mạng ở miền Nam
15
có những chuyển biến mới. Do vậy, Đại hội Đại biểu Toàn quốc lần
thứ III của Đảng đã họp tại Hà Nội từ ngày 05 đến ngày 10/9/1960.
Đại hội xác định nhiệm vụ của toàn thể nhân dân ta trong giai đoạn
cách mạng mới là tăng cường đoàn kết toàn dân, kiên quyết đấu tranh
giữ vững hịa bình, đẩy mạnh cách mạng xã hội chủ nghĩa miền Bắc,
đồng thời đẩy mạng cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam,
thực hiện thống nhất nước nhà… [101, tr. 979].
Sau khi hiệp định Geneve, trải dài từ vĩ tuyến 17 đến mũi Cà
Mau, miền Nam Việt Nam có diện tích rộng 170.000 km 2 , với khoảng
14 triệu người (so với 160.000 km 2 và 16 triệu dân ở miền Bắc) vẫn
trong tầm kiểm soát của Pháp [148, tr.15]. Mặc dù các hiệp định chiến
đã được ký kết tại Geneve giữa Pháp và chính phủ Việt Nam Dân chủ
cộng hịa, nhưng vẫn có một thế lực thứ ba sắp sửa nhúng tay can
thiệp một cách quyết định vào những diễn biến của nội tình miền Nam
Việt Nam.
1.2.2. Tình hình cách mạng miền Nam từ năm 1954 đến năm
1965
Sau hiệp định Geneve, lực lượng quân đội, cán bộ, đảng viên
phải tập kết ra miền Bắc. Bởi thế, so sánh tương quan lực lượng cách
mạng và phản cách mạng ở miền Nam thay đổi theo hướng bất lợi cho
cách mạng. Lực lượng cách mạng đang phát triển trên phạm vi toàn
cục, nay tập trung ra miền Bắc. Trong khi đó, lực lượng thân Pháp và
phản động thì lại dồn cả về miền Nam tìm chỗ dựa mới là chính quyền
Sài Gịn.
Ở miền Nam, sau cuộc chuyển quân tập kết, theo tinh thần của
Bộ Chính trị thì chỉ để lại những đảng viên hoạt động bí mật làm cho
tổ chức gọn nhẹ, bí mật, lực lượng cách mạng ở miền Nam chủ yếu rút
vào hoạt động bí mật. Những cán bộ bị lộ thì được điều sang các địa
16
phương khác hoặc tạm ngừng hoạt động để che giấu lực lượng. Những
chỉ đạo này của Bộ Chính trị cho thấy Đảng và chính phủ Việt Nam
Dân chủ cộng hịa đã nghiêm túc chấp hành các điều khoản của hiệp
định Geneve.
Ngược lại, sau hiệp định Geneve, đế quốc Mỹ nhảy vào miền
Nam ra sức phá hoại hiệp định, dùng viện trợ quân sự và kinh tế để
xây dựng chế độ tay sai phản động và đội quân ngụy làm công cụ tiến
hành cuộc chiến tranh xâm lược thực dân kiểu mới của Mỹ. Khối quân
sự SEATO do Mỹ thành lập tháng 9/1954 thực chất là một liên minh
quân sự xâm lược của Mỹ ở khu vực này. Âm mưu cơ bản của Mỹ
trong cuộc chiến tranh xâm lược này là thủ tiêu cách mạng miền Nam
Việt Nam, chia cắt lâu dài đất nước Việt Nam, biến miền Nam thành
thuộc địa kiểu mới và căn cứ quân sự của chúng, làm bàn đạp tấn công
miền Bắc, bao vây ngăn chặn và tiến tới đẩy lùi phong trào cách mạng
ở Đông Nam Á.
Do không ký vào tuyên bố cuối cùng của Hội nghị Geneve, bắt
đầu từ tháng 7/1954, Mỹ dựa vào đó để ngang nhiên không chấp hành
các điều khoản của hiệp định. Hơn thế nữa, Mỹ nhanh chóng xúc tiến
kế hoạch xâm nhập vào miền Nam. Mỹ và chính quyền tay sai Ngơ
Đình Diệm đã ra sức phá hoại hiệp định bằng mọi biện pháp, thủ đoạn
tàn ác và thâm hiểm: Ngày 17/7/1955, Ngơ Đình Diệm tun bố khơng
có hiệp thương tổng tuyển cử. Tiếp sau đó, Mỹ - Diệm thi hành cái gọi
là “quốc sách tố cộng, diệt cộng” với khẩu hiệu “thà giết nhầm cịn
hơn bỏ sót” nhằm tàn sát bất cứ ai chống lại chế độ Sài Gòn và tiêu
diệt cơ sở cách mạng miền Nam với chính sách tàn bạo đó của Mỹ Diệm, cách mạng miền Nam vốn non yếu do tập kết lực lượng ra miền
Bắc, lại phải chịu những tổn thất nặng nề do bị khủng bố và càn quét.
17
Thực tế này đã đặt ra cho cách mạng miền Nam mn vàn khó
khăn khi tương quan so sánh lực lượng ưu thế nghiêng về phía Mỹ và
chính quyền Sài Gòn. Mặc dù bị chia cắt nhưng Đảng ta vẫn ln có
sự chỉ đạo xun suốt và kịp thời cho cách mạng miền Nam. Song,
những khó khăn tổn thất của cách mạng miền Nam từ năm 1954 đến
năm 1958 cho thấy, Đảng ta vẫn chưa tìm ra được phương pháp và
hình thức đấu tranh thích hợp để quần chúng chủ động chống trả một
cách có hiệu quả. Phong trào đấu tranh chính trị đã diễn ra rộng khắp
các tỉnh Nam Trung bộ từ tháng 8/1954. Nhưng đến giữa năm 1957,
khi Diệm ban hành đạo luật đặt cộng sản ra ngoài vịng pháp luật thì
hình thức đấu tranh chính trị đã tỏ ra khơng thể mạnh để đối phó hiệu
quả và tạo chuyển biến cơ bản cho tình hình miền Nam. Trước hành
động khủng bố ngày càng tàn bạo của chính quyền Ngơ Đình Diệm,
đảng viên và quần chúng cách mạng ở nhiều địa phương miền Nam
phải vũ trang để chống lại kẻ thù. Hoạt động vũ trang bắt đầu rộ lên ở
một số nơi, nhất là các tỉnh đồng bằng Sơng Cửu Long, tiến tới tập
kích tiêu diệt các đồn bót của Mỹ - Diệm. Chính hoạt động vũ trang
của quân cách mạng đã thúc đẩy mạnh mẽ phong trào đấu tranh chính
trị của quần chúng. Năm 1957 có 2 triêu lượt người tham gia đấu tranh
chính trị, năm 1958 tăng lên 3,7 triệu người, năm 1959 có 5 triệu lượt
người [101, tr.989].
Những diễn biến của tình hình cách mạng miền Nam luôn được
Đảng quan tâm và chỉ đạo sâu sát. Sau hai năm chuẩn bị, tháng
01/1959, Hội nghị lần thứ 15 của Ban Chấp hành trung ương Đảng
được tiến hành tại Hà Nội. Hội nghị đã phân tích đặc điểm tình hình,
mâu thuẫn cơ bản và chủ yếu của xã hội miền Nam từ sau khi kháng
chiến chống thực Pháp kết thúc. Từ đó, vạch ra đường lối, nhiệm vụ,
phương hướng cho cách mạng miền Nam là “khởi nghĩa giành chính
18
quyền về tay nhân dân. Theo tinh thần cụ thể và tình hình hiện nay của
cách mạng thì con đường đó là lấy sức mạnh của quần chúng, dựa vào
lực lượng chính trị của quần chúng là chủ yếu, kết hợp với lực lượng
vũ trang để đánh đổ chính quyền thống trị của đế quốc và phong kiến,
dựng lên chính quyền cách mạng của nhân dân” [163, tr.117]. Ngoài
ra, Hội nghị cũng dự kiến “cuộc khởi nghĩa của nhân dân miền Nam
cũng có khả năng chuyển thành cuộc đấu tranh vụ trang trường kỳ”,
đồng thời đề ra sách lược “triệt để lợi dụng mâu thuẫn nội bộ của chế
độ Mỹ- Diệm” [163, tr.117]. Tuy nhiên, do nhiệm vụ cơ bản của mỗi
miền khác nhau, Hội nghị của Ban Chấp hành trung ương Đảng chủ
trương phải thành lập ở miền Nam một mặt trận riêng, nhằm tập hợp
tất cả các lực lượng chống đế quốc, phong kiến. Đây là một trong
những giải pháp cơ bản tối ưu đưa cách mạng miền Nam tiến lên. Có
thể nói, Nghị quyết 15 ra đời có ý nghĩa vơ cùng to lớn, đã phản ánh
đúng nhu cầu lịch sử, giải quyết kịp thời yêu cầu phát triển của cách
mạng miền Nam trong tình thế thực sự chín mùi, đáp ứng nguyện vọng
của nhân dân miền Nam. Nghị quyết 15 là ngọn cờ dấy lên cao trào
Đồng Khởi làm xoay chuyển tình thế cách mạng miền Nam.
Nghị quyết 15 đến với cách mạng miền Nam giữa lúc nhân dân
“không thể sống như cũ được nữa”. Cho nên, dù về đến các tỉnh, thành
không cùng một thời gian nhưng đến đâu khí thế đấu tranh của quần
chúng cũng nhanh chóng được thổi bùng lên. Đặc biệt, từ tháng 3 đến
tháng 5/1959, quá trình khởi nghĩa từng phần đã lan tỏa ở khắp miền
Nam để chống lại sự khủng bố dã man của chính quyền Ngơ Đình
Diệm đã đặt miền Nam trong tình trạng chiến tranh và lê máy chém đi
khắp nơi nhằm tàn sát những người chống đối. Bằng nhiều hình thức
phong phú, sáng tạo, những cuộc khởi nghĩa ở miền núi khu V, cực
Nam Trung bộ, miền Tây Nam bộ đã nổ ra. Trong đó, cuộc khởi nghĩa
19
Trà Bơng và miền Tây Quảng Ngãi là điển hình. Thắng lợi của hai
cuộc khởi nghĩa này chẳng những thúc đẩy phong trào cách mạng ở
khu V mà cịn góp phần thúc đẩy phong trào trên toàn miền Nam.
Từ cuối năm 1959 đầu năm 1960, Đảng bộ miền Nam đã lãnh
đạo nhân dân thực hiện đấu tranh chính trị kết hợp với đấu tranh vũ
trang từ thấp đến cao, dẫn đến cao trào Đồng Khởi trên toàn miền
Nam. Phong trào Đồng Khởi ở Bến Tre (17/1/1960) mở đầu cho cao
trào đồng khởi, đánh dấu một bước ngoặt căn bản trong sự nghiệp đấu
tranh giải phóng của nhân dân miền Nam. Từ Bến Tre, phong trào
đồng khởi nhanh chóng lan ra các tỉnh đồng bằng Sông Cửu Long và
miền Đông Nam Bộ, miền Trung và miền Nam Trung bộ, Tây Nguyên.
Cao trào này đã làm tan rã hàng loạt bộ máy kìm kẹp của ngụy quyền
cơ sở ở các thơn xã, giành quyền tự quản thông xã cho quần chúng,
đẩy ngụy quân, ngụy quyền lâm vào tình thế bị động lúng túng, khủng
hoảng trầm trọng.
Thắng lợi của phong trào Đồng Khởi đánh dấu bước phát triển
mới của cách mạng miền Nam. Quyền làm chủ của nhân dân được xác
lập ở 865 xã của Nam bộ, 3200 thôn ở vùng núi khu V. Lực lượng vũ
trang nhân dân cũng lần lượt ra đời gồm cả bộ đội tập trung của khu,
bộ đội các tỉnh, huyện và dân quân du kích tự vệ [107, tr.184]. Sự phát
triển nhảy vọt này yêu cầu phải có một hình thức tổ chức cơng khai
tập hợp lực lượng u nước tồn miền Nam dưới một ngịn cờ duy
nhất và một chương trình hành động cụ thể để lãnh đạo cách mạng
miền Nam. Yêu cầu bức thiết này hoàn toàn phù hợp với chủ trương
của Nghị quyết trung ương 15. Do vậy, ngày 20/12/1960 tại xã Tân
Lập, huyện Châu Thành, tỉnh Tây Ninh, đại biểu các giai cấp, các dân
tộc, tơn giáo trên tồn miền Nam đã họp, ra quyết định thành lập Mặt
trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam. Mặt trận đã đề ra tuyên
20
ngơn và chương trình hành động 10 điểm với nội dung cơ bản là đánh
đổ chế độ thuộc địa trá hình của đế quốc Mỹ và chế độ độc tài Ngơ
Đình Diệm, xây dựng một miền Nam độc lập, dân chủ, hịa bình, tiến
tới thống nhất nước nhà. Sự ra đời của Mặt trận dân tộc giải phóng
miền Nam Việt Nam đã đánh dấu một bước ngoặc mới trong lịch sử
cách mạng của nhân dân miền Nam. Từ đây, nhân dân miền Nam đã có
người đại diện hợp pháp trong cuộc đối đấu với Mỹ-Ngụy. Cách mạng
miền Nam bước vào thời kỳ mới- thời kỳ dùng chiến tranh cách mạng
chống chiến tranh xâm lược thực dân mới của Mỹ.
Từ năm 1961 đến năm 1965, để đối phó với chiến lược “chiến
tranh đặc biệt” của Mỹ - Ngụy, cách mạng miền Nam cũng ngày càng
trưởng thành, phát triển cả về quy mô, tổ chức lẫn phương thức tác
chiến. Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam đã có những
thành viên tập thể được hình thành ngay từ thời gian đầu thành lập:
Hội Liên hiệp sinh viên học sinh giải phóng (9/1/1961, Quân giải
phóng miền Nam Việt Nam (15/2/1961), Hội Nơng dân giải phóng
(20/1/1961), Hội Liên hiệp phụ nữ giải phóng (8/3/1961), Hội Liên
hiệp thanh niên giải phóng (24/4/1961), phong trào dân tộc tự trị Tây
Nguyên (19/5/1961); Đảng xã hội cấp tiến (01/7/1961), Ủy ban bảo vệ
hịa bình thế giới (15/10/1961, Đảng nhân dân cách mạng Việt Nam
(01/01/1962), Đảng Dân chủ miền Nam (3/1962) cùng nhiều tổ chức,
đoàn thể và giáo pháp khác. Mỗi đoàn thể của Mặt trận đều có tun
ngơn riêng và tỏ rõ thái độ mỗi khi có xảy ra sự kiện quan trọng.
Đặc biệt, ở miền Nam, từ tháng 01/1961 Trung ương miền Nam
được thành lập do đồng chí Nguyễn Văn Linh làm Bí thư. Như vậy, từ
đây cuộc kháng chiến của nhân dân miền Nam đã được kiện toàn và
củng cố dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Đảng Lao động Việt Nam.