ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
LÊ THỊ HỒNG NHUNG
NGHỆ THUẬT SÁNG TẠO CỦA TONI MORRISON
TRONG TIỂU THUYẾT
MẮT BIẾC, NGƯỜI YÊU DẤU VÀ SULA
Chuyên ngành: Văn học nước ngoài
Mã số: 602230
LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS. TS. ĐÀO NGỌC CHƯƠNG
Thành phố Hồ Chí Minh - 2011
LỜI CẢM ƠN
Trong suốt quá trình thực hiện luận văn, ngồi sự cố gắng của bản thân, tơi
đã nhận được rất nhiều sự giúp đỡ.
Tôi xin chân thành cảm ơn thầy Đào Ngọc Chương, đã tận tình hướng dẫn,
góp ý, sửa chữa những thiếu sót của tơi khi làm luận văn.
Tôi xin gửi lời cảm ơn đến các thầy cô Khoa Văn học và Ngôn ngữ đã trao
cho tôi tri thức trong những năm học tập tại trường.
Tôi xin cảm ơn Phòng Sau Đại học đã hỗ trợ trong thời gian tôi học Cao học
tại trường.
Cuối cùng nhưng không kém phần quan trọng, tơi xin tri ân gia đình và bạn
bè đã ln ở bên tơi, động viên, khuyến khích tơi.
Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 12 tháng 10 năm 2011
Lê Thị Hồng Nhung
MỤC LỤC
PHẦN DẪN NHẬP.......................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài .................................................................................................... 1
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ........................................................................... 2
3. Lịch sử vấn đề ........................................................................................................ 3
4. Vấn đề xử lý văn bản tác phẩm ............................................................................... 6
5. Phương pháp nghiên cứu......................................................................................... 6
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài ................................................................. 7
7. Đóng góp của luận văn ........................................................................................... 7
8. Kết cấu luận văn ..................................................................................................... 7
CHƯƠNG 1: TONI MORRISON VÀ CỘI NGUỒN SÁNG TẠO................................ 9
1.1 Về Toni Morrison và tiểu thuyết Mắt biếc, Người yêu dấu và Sula ...................... 9
1.1.1
Đôi nét về Toni Morrison ............................................................................. 9
1.1.2
Đôi nét về tiểu thuyết “Mắt biếc”, “Người yêu dấu” và “Sula” ................. 14
1.1.3
Tóm tắt tiểu thuyết “Mắt biếc”, “Người yêu dấu” và “Sula” ..................... 15
1.2 Cội nguồn sáng tạo của Toni Morrison .............................................................. 24
1.2.1
Nền văn hóa đa sắc tộc và vấn đề kỳ thị chủng tộc tại Mỹ........................... 24
1.2.2
Văn hóa người Mỹ gốc Phi trong tiểu thuyết Toni Morrison (“Mắt biếc”,
“Người yêu dấu” và “Sula”) ................................................................................... 29
1.2.3
Dấu ấn của khuynh hướng hiện đại và hậu hiện đại trong tiểu thuyết Toni
Morrison (“Mắt biếc”, “Người yêu dấu” và “Sula”)............................................... 33
CHƯƠNG 2 : NGHỆ THUẬT XÂY DỰNG NHÂN VẬT TRONG MẮT BIẾC,
NGƯỜI YÊU DẤU VÀ SULA ........................................................................................ 36
2.1 Nghệ thuật bi kịch hóa nhân vật ........................................................................ 37
2.1.1
Bi kịch giống nòi ........................................................................................ 37
2.1.2
Bi kịch trong các mối quan hệ xã hội .......................................................... 49
2.2 Nhân vật gắn liền với hình ảnh biểu trưng ......................................................... 67
2.2.1
Pecola và hình ảnh mắt biếc....................................................................... 68
2.2.2
Sula và vết bớt hình hoa hồng có cuống...................................................... 72
2.2.3
Sethe và cây anh đào trên lưng ................................................................... 75
2.3 Độc thoại nội tâm .............................................................................................. 77
2.3.1
Độc thoại nội tâm trong “Người yêu dấu” ................................................. 78
2.3.2
Độc thoại nội tâm trong “Sula” ................................................................. 81
2.3.3
Độc thoại nội tâm trong “Mắt biếc”........................................................... 85
CHƯƠNG 3: NHỮNG ĐẶC ĐIỂM CHUNG TRONG NGHỆ THUẬT XÂY DỰNG
TIỂU THUYẾT MẮT BIẾC, NGƯỜI YÊU DẤU VÀ SULA ........................................ 90
3.1 Thi pháp huyền thoại: motif hiến tế, motif tái sinh ............................................. 90
3.1.1
Motif hiến tế ............................................................................................... 90
3.1.2
Motif tái sinh .............................................................................................. 98
3.2 Kết cấu đồng hiện............................................................................................ 106
3.3 Nghệ thuật đa điểm nhìn trần thuật .................................................................. 114
KẾT LUẬN.................................................................................................................. 122
TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................................... 125
1
PHẦN DẪN NHẬP
1. Lý do chọn đề tài
Toni Morrison không phải là một cái tên xa lạ đối với văn chương học thuật
thế giới. Tại Việt Nam, với sự xuất hiện của hai quyển tiểu thuyết Mắt Biếc và
Người yêu dấu (bản dịch khác là Thương), sự quan tâm đến nhà văn nữ da màu đầu
tiên đạt giải Nobel vào năm 1993 càng tăng.
Chúng tơi tìm thấy trong tác phẩm của Toni Morrison những số phận thê
thảm, bi kịch của người Mỹ gốc Phi, trong đó nổi bật lên là vấn đề của những người
phụ nữ (phụ nữ là đề tài chính trở đi trở lại trong những sáng tác của nhà văn, với
tất cả nỗi đau từ giới tính, từ số phận mà họ phải hứng chịu, những quyết định khó
khăn mà họ phải đương đầu cũng như những hồn cảnh đặc biệt ối ăm mà họ phải
trải qua); mối xung đột và sự phân biệt kỳ thị chủng tộc gay gắt, đẫm máu; quá khứ
nô lệ đầy bi thương và những nỗ lực của người Mỹ gốc Phi trong việc cố gắng vượt
thoát những ám ảnh, định kiến để đem lại cho mình sự tự do, quên quá khứ, chôn
niềm đau (nhưng sự thật hiện tồn vẫn hằng đeo bám, nhắc nhở cho họ về một quá
khứ đã kéo dài quá lâu và không thể nào quên)... Những vấn đề ấy được thể hiện
một cách sâu sắc, hấp dẫn và làm lay động trái tim con người.
Toni Morrison là người Mỹ gốc Phi. Từ thuở thiếu thời, bà đã được sống
trong bầu khơng khí của nền văn hóa của tổ tiên. Bản thân nhà văn là một người cầu
tiến, hấp thu nền giáo dục của nền văn hóa da trắng, có ý thức về cội nguồn, ln
đắm chìm trong những trăn trở về quá khứ và có khát vọng viết nên những câu
chuyện về dân tộc mình, phơi bày ra những góc nhìn tăm tối nhất của những năm
tháng nô lệ không thể nào quên của một cộng đồng với biết bao con người đã bị
thiêu đốt trên giàn hỏa của chế độ nô lệ và tiếp sau là những định kiến thù hằn của
nạn phân biệt chủng tộc. Đứng từ bên trong nhìn ra bên ngồi và soi chiếu trở vào
2
bên trong, sự phản ánh của Toni Morrison là tiếng nói có sức nặng và mang chứa
một chiều sâu đáng kể.
Tiếng nói ấy, cùng với những biện pháp nghệ thuật được vận dụng và sáng
tạo bằng một phong cách rất riêng đã khiến cho những tác phẩm của bà trở thành
những hành trình khám phá khơng thể nào qn với độc giả.
Toni Morrison đã làm điều đó như thế nào? Đây cũng chính là lý do chúng
tơi thực hiện đề tài này, trước tiên là nghiên cứu ba trong số chín tiểu thuyết đã
được xuất bản của bà gồm Mắt Biếc, Người yêu dấu và Sula.
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Sau một thời gian tìm hiểu, chúng tơi nhận thấy có một số điểm tương đồng
về nội dung phản ánh đáng chú ý trong ba tiểu thuyết Mắt Biếc, Người yêu dấu và
Sula. Điều này dẫn đến việc bước đầu khái quát những điểm chung trong phong
cách nghệ thuật của Toni Morrison.
Những điểm chung đó có thể kể ra như sau : (1) nhân vật chính đều thuộc
giới nữ - điều này có thể xác định được một đề tài quan trọng của Toni Morrison là
viết về thân phận người phụ nữ; (2) mối quan hệ mẹ con và những bi kịch từ mối
quan hệ ấy ; (3) những di chứng nặng nề và những ám ảnh từ quá khứ ; (4) xung đột
trắng – đen.
Trùng lặp ở đề tài và một số nội dung phản ánh như vậy, tại sao những tiểu
thuyết của Toni Morrison vẫn chiếm lấy trái tim người đọc ? Như vậy, có thể nói
theo logic thơng thường rằng bà ắt hẳn phải có sự thể hiện sáng tạo đa dạng ở từng
tiểu thuyết mà vẫn nhất quán trong cái chung mà ta gọi là phong cách (vì phong
cách là một điều có tính nhất quán và bền vững trong cá tính sáng tạo của nhà văn,
vì mỗi tác giả lớn đều có dấu ấn riêng về phong cách, và Toni Morrison là một nhà
văn đã được tôn vinh bằng giải Nobel danh giá).
3
Như vậy, thực hiện đề tài này, đối tượng của chúng tôi là những phương thức
nghệ thuật tương đồng trong phạm vi khảo sát là ba tiểu thuyết Mắt Biếc, Người yêu
dấu và Sula. Trong khuôn khổ luận văn, chúng tôi đi sâu vào nghiên cứu những vấn
đề sau:
-
Nghệ thuật xây dựng nhân vật, gồm ba vấn đề: nhân vật được bi kịch hóa,
nhân vật được gắn với những hình ảnh biểu trưng, và yếu tố độc thoại nội
tâm;
-
Yếu tố huyền thoại: Motif hiến tế, Motif tái sinh và một vài yếu tố khác;
-
Kết cấu đồng hiện;
-
Sự đa dạng và chuyển hóa linh hoạt giữa các điểm nhìn trần thuật.
3. Lịch sử vấn đề
Toni Morrison là một tác gia lớn. Các tác phẩm của bà thu hút được sự quan
tâm rộng rãi của các nhà nghiên cứu. Với khả năng hiện có, chúng tơi khó có thể
bao qt hết được những tài liệu về tác phẩm của Toni Morrison (hiện nay bà đã
xuất bản tổng cộng chín tiểu thuyết).
Trong phần này, chúng tôi chỉ nêu ra lịch sử vấn đề trong phạm vi nghiên
cứu ở Việt Nam và một số bài nghiên cứu bằng tiếng Anh của các tác giả nước
ngồi.
3.1 Tài liệu tiếng Việt
Cho đến nay chỉ có hai trong số chín tiểu thuyết của Toni Morrison được
dịch sang tiếng Việt: The Bluest Eye dưới tên Mắt Biếc và Beloved dưới tên Người
yêu dấu (một bản dịch khác tựa đề là Thương). Chính vì vậy, các cơng trình nghiên
cứu về bà cũng chỉ giới hạn trong một số lượng rất khiêm tốn, chủ yếu xoay quanh
hai tiểu thuyết trên.
4
Năm 2003, luận văn Thạc sĩ Ngữ văn với đề tài “Con đường tới tự do của
người Mỹ da đen trong nghệ thuật tiểu thuyết Toni Morrison” của Nguyễn Thị Hiếu
Thiện (trường Đại học Sư phạm thành phố Hồ Chí Minh) có lẽ là cơng trình đầu
tiên nghiên cứu về Toni Morrison, xoay quanh ba tác phẩm Mắt Biếc, Người u
dấu, Bài ca Solomon (Song of Solomon). Trong cơng trình này, tác giả đã đi sâu
phân tích vấn đề “con đường đấu tranh để vươn lên từ thân phận nô lệ tới tự do đích
thực của người Mỹ da đen, từ những năm tháng trước khi xảy ra nội chiến Nam Bắc
cho tới nay”, mà theo nhận xét riêng của tác giả “vốn là một chủ đề trung tâm xuyên
suốt bảy cuốn tiểu thuyết của Toni Morrison”.
Năm 2009, luận văn Thạc sĩ Văn học đề tài “Người yêu dấu (Beloved) của
Toni Morrison dưới góc nhìn huyền thoại” của Đường Thị Thùy Trâm (trường Đại
học Sư phạm thành phố Hồ Chí Minh) đã dùng những cổ mẫu, motif huyền thoại
soi chiếu vào tác phẩm này, với hai nội dung chính: “hình ảnh người mẹ vĩ đại và
những khổ nạn” qua nhân vật Sethe và Baby Suggs; motif hiến tế và tái sinh.
Chúng tơi được biết có Luận văn Thạc sĩ Ngữ văn đề tài “Chủ nghĩa hiện
thực huyền ảo trong tiểu thuyết Người yêu dấu của Toni Morrison” của tác giả
Nguyễn Phương Khánh (trường Đại học Sư phạm Hà Nội) nhưng chưa có điều kiện
tiếp cận được cơng trình này.
Ngồi ra là những bài viết có đề cập đến Toni Morrison một cách chung
chung về tác giả tác phẩm, hoặc dưới dạng những tin tức, sự kiện cập nhật về bà
hoặc những bài phỏng vấn dịch từ báo nước ngồi, ví dụ như “Toni Morrison của
30
năm
trước”
(Yardley
Johnathan,
Hà
Linh
dịch,
đăng
trên
ngày 14-03-2006) ghi lại những ấn tượng của Y.
Johnathan về Toni Morrison, “Toni Morrison – nhà văn của người Mỹ da đen”
(Nguyễn Thị Hiếu Thiện, Tạp chí Văn học số 9 tháng 9-2004)…
Một số bài nghiên cứu mang tính chất học thuật mà chúng tơi được tiếp cận
cho đến nay là viết về Người yêu dấu: “Cấu trúc xoay vòng trong tiểu thuyết
Người yêu dấu của Toni Morrison” (Nguyễn Thị Phương Khánh), “Bí ẩn của
5
những con số trong tiểu thuyết Người yêu dấu của Toni Morrison” (Nguyễn Thị
Hiếu Thiện).
3.2 Tài liệu tiếng Anh
Tài liệu tiếng Anh chúng tơi có được chủ yếu từ Internet, đặc biệt là trang
web của Cục Thông tin Khoa học và Công nghệ Quốc gia, và
một số trang web mà chúng tơi cảm thấy có thể tin cậy được, có cung cấp đầy đủ
những thơng tin về bài viết liên quan đến các tác phẩm mà chúng tơi tìm hiểu (tác
giả, nơi xuất bản…), ví dụ như các trang ,
trang , trang , trang
/>Chúng tôi nhận thấy việc nghiên cứu về Toni Morrison có nội dung rất đa
dạng: nghiên cứu tiểu sử (hoàn cảnh, tư tưởng, quan niệm…) và/hoặc mối liên quan
của nó đối với những nội dung được phản ánh trong tiểu thuyết (Ghosts in the
House Profiles [45]), dùng các lý thuyết phê bình cũng như những phương thức
nghệ thuật có sẵn để soi chiếu vào một hoặc nhiều tác phẩm/một hoặc nhiều khía
cạnh trong một tác phẩm, phân tích nghệ thuật (Missing peace in Toni Morrison's
Sula and Beloved [49]), phân tích nội dung (Violence, home, and community in
Toni Morrison's Beloved [47]); Morrison brings us face to face with the blood
[46]), so sánh với những tác giả và/hoặc tác phẩm khác, tìm hiểu tác phẩm từ lăng
kính của văn hóa da đen hay tơn giáo (The fourth face: The image of God in Toni
Morrison's The Bluest Eye [44])…
Sự quan tâm dành cho tác phẩm Beloved là rất lớn trong số lượng những bài
nghiên cứu mà chúng tơi có được. Tuy nhiên, sự khái quát về phong cách nghệ
thuật chung của tác giả này thì có vẻ như là một vấn đề còn bỏ ngỏ. Cho đến nay,
trong khả năng có hạn, chúng tơi chưa được tiếp cận một bài viết nào nghiên cứu
tập trung vào những điểm nghệ thuật tương đồng trong ba tác phẩm Mắt Biếc,
Người yêu dấu và Sula.
6
4. Vấn đề xử lý văn bản tác phẩm
Trong khi thực hiện luận văn, chúng tôi đã tham khảo thêm bản tiếng Anh
của hai tác phẩm Mắt Biếc và Người yêu dấu để có sự soi chiếu khi cần thiết. Đối
với tiểu thuyết Sula, vì chưa có bản dịch tiếng Việt nên chúng tơi sẽ tóm tắt những
sự kiện theo trình tự từng năm theo đúng nguyên tác. Phần tiếng Việt dẫn chứng của
tác phẩm này cũng do chúng tôi tạm dịch.
5. Phương pháp nghiên cứu
Chúng tôi sử dụng nhiều phương pháp nghiên cứu để có được cái nhìn tồn
diện hơn, thuyết phục hơn trong đề tài luận văn này.
Phương pháp lịch sử: tìm hiểu về lịch sử xã hội, văn hóa Mỹ (đặc biệt là
người Mỹ gốc Phi) cũng như tiến trình văn học của đất nước này để có thể tiếp cận
tốt hơn, sâu hơn đối với bối cảnh mà tác phẩm được đặt vào. Ba tiểu thuyết được
xây dựng ở ba giai đoạn khác nhau, chính vì vậy, chúng ta sẽ phần nào vẽ nên được
một bức tranh khá hoàn chỉnh bằng văn học của Toni Morrison trên nền lịch sử ấy.
Phương pháp thống kê phân loại: phân loại các yếu tố, các chi tiết theo
những tiêu chí nhất định, sau đó khảo sát tần suất xuất hiện của các yếu tố, các chi
tiết đáng chú ý này, từ đó đi tìm những ý nghĩa về mặt nội dung cũng như nghệ
thuật. Phương pháp này giúp ích rất nhiều trong việc tìm hiểu những biểu trưng
nghệ thuật trong tác phẩm.
Phương pháp so sánh: đối chiếu, liên hệ, so sánh những vấn đề xuất hiện
trong ba tiểu thuyết của Toni Morrison, từ đó tìm ra những điểm tương đồng trong
nghệ thuật xây dựng ba tác phẩm; phân tích những cách thể hiện đặc sắc riêng của
nghệ thuật ấy trong từng tác phẩm cùng với mẫu số chung tiêu biểu nhất cho phong
cách nghệ thuật của tác giả thể hiện ở cả ba tác phẩm. Phương pháp này đã gợi ý lên
kiểu đọc liên văn bản rất thú vị trong những sáng tác của nữ văn sĩ người Mỹ gốc
Phi.
7
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
Về khoa học, luận văn góp phần làm rõ sự ảnh hưởng của văn hóa, chủng tộc
thể hiện trong tiểu thuyết của Toni Morrison, những sáng tạo của tác giả trong nghệ
nội dung phản ánh và nghệ thuật, đặc biệt là nghệ thuật bi kịch hóa nhân vật.
Về thực tiễn, đề tài được thực hiện sẽ là một tư liệu nhỏ phần nào giúp người
đọc hiểu thêm về một tác giả đặc biệt của thế giới đang theo đuổi những vấn đề xảy
ra trong lịch sử người Mỹ gốc Phi (vẫn nóng hổi vì những vấn đề đó vẫn cịn tồn tại,
như sự phân biệt chủng tộc, di chứng của chế độ nơ lệ…).
7. Đóng góp của luận văn
Trong phạm vi của đề tài này, chúng tôi cố gắng đưa lại một cách nhìn hệ
thống ban đầu về nghệ thuật tiểu thuyết Toni Morrison, đặc biệt là cách thức xây
dựng nhân vật thông qua nội dung tác phẩm (đặt nhân vật trong tầng tầng lớp bi
kịch, cách thức họ phản ứng lại với bi kịch…), đem lại cho người đọc sự tiếp cận
đối với vấn đề lịch sử mang tính chất bi thảm của nhiều thời kỳ – nạn phân biệt
chủng tộc dưới cách kể chuyện đầy biến hóa, hấp dẫn và cũng không phải là dễ đọc
đối với một tác giả như Toni Morrison.
8. Kết cấu luận văn
Luận văn của chúng tơi gồm có: phần Dẫn nhập, gồm có 8 mục như đã trình
bày ở trên; phần nội dung chính gồm ba chương, phần Kết luận và Tài liệu tham
khảo.
Chương 1 – Toni Morrison và cội nguồn sáng tạo – sẽ xoay quanh việc
giới thiệu Toni Morrison, những quan niệm về sáng tác nghệ thuật; nguồn gốc lịch
sử, xã hội, văn hóa, văn học… trong cảm hứng của Toni Morrison thể hiện qua
những tác phẩm mà chúng tôi phân tích. Phần tóm tắt tác phẩm chúng tơi cũng đưa
8
vào đây nhằm tiện cho việc theo dõi, nhất là đối với tác phẩm chưa dịch ra tiếng
Việt như Sula.
Chương 2 - Nghệ thuật xây dựng nhân vật trong Mắt biếc, Người yêu dấu
và Sula – khảo sát những đặc điểm chung trong nghệ thuật xây dựng nhân vật ở ba
tác phẩm. Chúng tôi nhận thấy rằng một phần nội dung trong những sáng tác của
Toni Morrison đã chuyển hóa thành một đặc trưng nghệ thuật, đó là nghệ thuật bi
kịch hóa nhân vật. Ngồi ra, là việc gắn nhãn những nhân vật cũng đem lại những
hiệu quả nghệ thuật nhất định bên dòng độc thoại nội tâm.
Chương 3 - Những đặc điểm chung trong nghệ thuật xây dựng tiểu
thuyết Mắt biếc, Người yêu dấu và Sula – đề cập đến những thủ pháp chung cịn
lại sau khi đã tìm hiểu về nghệ thuật xây dựng nhân vật trong chương 2. Đối tượng
tìm hiểu của chúng tơi là motif hiến tế và motif tái sinh như những nhân tố chính
góp mặt trong việc xây dựng nên cấu trúc các tác phẩm, dù độ đậm nhạt khác nhau.
Kết cấu đồng hiện và sự đa điểm nhìn trần thuật – những thành tựu nghệ thuật mang
dấu ấn của khuynh hướng hiện đại và sự thể nghiệm cũng được xem xét trong
chương này.
9
CHƯƠNG 1
TONI MORRISON VÀ CỘI NGUỒN SÁNG TẠO
1.1 Về Toni Morrison và tiểu thuyết Mắt biếc, Người yêu dấu và Sula
1.1.1 Đôi nét về Toni Morrison
Toni Morrison, sinh ngày 18 – 02 – 1931 tại Lorain – Ohio, với tên khai sinh
là Chloe Anthony Wofford. Vì khó đọc nên tên họ này đã gây khơng ít phiền tối
cho bà, đó cũng là lý do sau này bà đã thu ngắn tên của mình lại chỉ cịn chữ lót
“Anthony”, và sau này là “Toni”. Morrison là họ của chồng bà.
Cha là một người thợ hàn trong xưởng đóng tàu. Theo bà, cha là một người
“không bao giờ tin một người da trắng nào cả và chẳng để họ bước vào nhà mình”,
nhưng bà lại may mắn có một người mẹ, có tư tưởng sống cởi mở hơn (“My father
never trusted any white person at all, would not let them in his house. Luckily my
mother was entirely different”) [Susanna Rustin (1 November 2008), Predicting the
past
Interview,
The
Guardian
Saturday
-
Bên cạnh đó phải kể
đến bà nội của Morrison, người phụ nữ giàu ý chí - người đã quyết định đưa những
đứa con của mình đến một vùng đất mới để tránh nạn bạo lực tình dục của người da
trắng đối với người da đen, tìm kiếm những cơ hội giáo dục và việc làm.
Tuy phải đối mặt với nạn phân biệt chủng tộc luôn hiện diện nhưng Toni
Morrison vẫn liên tục nỗ lực để thành công, thể hiện được giá trị bản thân mình. Bà
tốt nghiệp trung học loại xuất sắc và theo học chuyên ngành tiếng Anh trường Đại
học Howard tại thủ đô Washington D.C, một trường có truyền thống lâu năm và
nhiều uy tín. Trong suốt thời học sinh, sinh viên, bà rất tích cực tham gia vào các
hoạt động ngoại khóa và xã hội.
10
Sau khi tốt nghiệp Howard, năm 1955 bà nhận bằng Thạc sĩ tiếng Anh của
trường Đại học Cornell và bắt đầu giảng dạy tại Đại học Tây Texas ở Houston.
Năm 1957, Toni Morrison về công tác tại Đại học Howard. Cũng trong thời
gian này, bà gặp và yêu Harold Morrison, một kiến trúc sư đến từ Jamaica. Năm
1958 họ cưới nhau và ba năm sau họ có đứa con trai đầu lịng.
Năm 1964, gia đình Toni Morrison chuyển sang Châu Âu và bà có thai đứa
con thứ hai. Tuy nhiên, khi trở về từ Châu Âu, cuộc hôn nhân của họ kết thúc. Toni
Morrison làm việc cho Nhà xuất bản Random House, New York. Ban đêm, khi trở
về nhà, bà lại say sưa sáng tác.
Năm 1970, tác phẩm đầu tay của Toni Morrison The Bluest Eye ra mắt độc
giả và rất được hoan nghênh.
Năm 1984, Toni Morrison trở thành Giáo sư giảng dạy tại trường Đại học
State của New York ở Albany. Bà dạy ở đó 5 năm.
Năm 1988, tác phẩm Beloved mang về cho bà giải Putitzer.
Năm 1993, Toni Morrison được trao giải thưởng Nobel danh giá vì những
đóng góp của mình. Và hiện tại bà vẫn khơng ngừng sáng tác, viết phê bình và tham
gia nhiều hoạt động xã hội.
Ngày 3/11/2010, Toni Morrison vinh dự nhận Bắc Đẩu Bội tinh do chính
phủ Pháp trao tặng. “Tơi muốn nói với bà rằng đối với chúng tôi, bà là hiện thân
cho phần đẹp nhất của nước Mỹ, phần đã tạo nên lòng yêu tự do từ những ước mơ
mãnh liệt, phần đã tặng cho đứa trẻ da đen sinh ra trong một gia đình khiêm tốn,
hồn tồn tách biệt, tại một thị trấn nhỏ ở bang Ohio một số phận vinh quang là trở
thành tiểu thuyết gia Mỹ vĩ đại nhất của thời đại mình. Bà là nữ văn sĩ đầu tiên đã
tái hiện lịch sử đầy thống khổ của người Mỹ gốc Phi” [Công Khanh (Theo AFP)
(05/11/2010), Nhà văn Toni Morrison nhận Bắc đẩu bội tinh, />
11
đó chính là lời nhận xét của Bộ trưởng Bộ Văn hóa Pháp Frédéric Mitterrand tại Lễ
trao Huân chương.
Các tiểu thuyết của Toni Morrison:
•
The Bluest Eye (bản dịch tiếng Việt: Mắt biếc), 1970
•
Sula, 1973
•
Song of Solomon, 1977
•
Tar Baby, 1981
•
Beloved (bản dịch tiếng Việt: Người yêu dấu, Thương), 1987 (Giải
Putitzer 1988)
•
Jazz, 1992
•
Paradise, 1998
•
Love, 2003
•
A Mercy, 2008
Ngồi tiểu thuyết, bà cịn viết kịch, tiểu luận, truyện thiếu nhi…
Trong những sáng tác của Toni Morrison, người ta dễ dàng nhận ra chế độ
nô lệ đã ghi dấu ấn quá khủng khiếp trên cuộc sống của biết bao người Mỹ gốc Phi.
Cùng với sự thay đổi và xoa dịu của thời gian, nỗi đau ấy ngày một mờ phai nhưng
vẫn cịn đâu đó. Chính vì như thế, Toni Morrison đã phải vận dụng hết khả năng,
tìm kiếm những phương thức thể hiện mới để cho quá khứ đau thương của chủng
tộc mình trên đất Mỹ sẽ còn sống mãi trong lòng người dân của bà, cũng như nhắc
cho người da trắng những thế hệ sau này thấy được sự bất công mà cha ông họ đã
từng gây ra cho biết bao số phận người da đen. Cũng như nói với cả thế giới về
những thảm cảnh đã, đang và sẽ xảy ra nếu vẫn duy trì sự phân biệt kỳ thị chủng
tộc.
Nói về q khứ, khơng đồng nghĩa với việc kích động. Q khứ giúp ta nhận
ra mình đã tốt lên thế nào hay xấu đi ra sao. Nó ln là một cột mốc để ta so sánh.
12
Hãy để một nơi nào đó trong trái tim bạn đọc, cùng nhau, từ quá khứ trăn trở về
những vấn đề hiện tại, và từ những nỗi đau trong hiện tại soi chiếu lại điểm xuất
phát của chúng trong quá khứ.
Vấn đề nô lệ, vấn đề phân biệt và kỳ thị chủng tộc chưa bao giờ cũ. Trong sự
đổi thay của thời đại, những dạng thức của chúng có thể biến đổi khác đi nhưng bản
chất sẽ không bao giờ khác. Song song đó là số phận những con người. Và Toni
Morrison chính là một nhà văn viết cho những nỗi đau của chủng tộc mình trên đất
Mỹ.
"Tơi từng nghĩ là mình đã rất hiểu về chế độ nơ lệ. Nhưng cho đến khi
cầm bút viết, tôi vẫn không ngừng ngạc nhiên: Cái gì? Họ đã làm cái gì
chứ? Thật là kinh khủng. Và rồi bạn sẽ hiểu ra, tại sao bố mẹ, ông bà và
mọi người xung quanh không nói cho bạn biết những điều đó. Vì họ sợ
bạn sẽ không chịu nổi. Họ sợ, những câu chuyện sẽ làm bạn đau đớn".
[Mai Hiền (04/08/2009), Nhà văn Mỹ Toni Morrison: Vượt lên nỗi đau
nguồn cội, />Điều này khiến tác giả quyết tâm trên con đường văn nghiệp đầy khó khăn.
Và vì thế, Toni Morrison khơng ngần ngại khẳng định, và đó cũng là một quan điểm
nghệ thuật của bà, nghệ thuật khơng tách rời chính trị (ví dụ như trong lời phát biểu
tại Hội chợ xuất bản quốc tế Vintage 2004, Morrison giải thích Sula là một tác
phẩm đậm màu sắc chính trị; bà cũng từng nói “Tơi khơng quan tâm đến việc nng
mình trong những tưởng tượng riêng tư... Vâng, một tác phẩm nghệ thuật phải có ý
nghĩa chính trị” [22, 356]). Sự bi thảm từ chế độ nô lệ và những di chứng để lại, lời
tố cáo đanh thép qua những số phận đau thương là như thế!
Từ tác phẩm đầu tay The Bluest Eye cho đến tiểu thuyết gần đây nhất, A
Mercy, một dòng cảm hứng về cuộc sống của người da đen trên đất Mỹ không
ngừng tuôn chảy, là niềm thương cảm chẳng bao giờ nguôi. Toni Morrison xây
dựng nên những cộng đồng, những nhân vật, những số phận trên nền những giai
đoạn lịch sử nhất định của Hoa Kỳ có liên quan đến chủng tộc của bà.
13
Trả lời trong một cuộc phỏng vấn, bà tâm sự “khi bạn cầm bút viết, khơng
phải vì bạn có các câu trả lời… mà bởi vì bạn khơng có", và "câu trả lời duy nhất
mà bạn thực sự có, đó là cơng trình mà bạn đang làm" [Mai Hiền (04/08/2009),
Nhà
văn
Mỹ
Toni
Morrison:
Vượt
lên
nỗi
đau
nguồn
cội,
Bà cũng chia sẻ khi viết
Người yêu dấu: “Vậy nên hành động trung tâm của Người yêu dấu lúng túng trong
tình thế tiến thối cực kỳ lưỡng nan, vì tơi, với tư cách là một nhà văn, qua đó,
nhằm khám phá những điều tôi muốn hiểu về giai đoạn nô lệ ấy và về những người
phụ nữ yêu những gì là quan trọng với họ” [3, 237]. Những chia sẻ ấy có nghĩa
rằng, bản thân nhà văn trong hành trình sáng tạo đã khơng lường trước được những
gì tác phẩm đem lại cho mình, viết văn như một nhu cầu để bà soi lại q khứ của
chủng tộc mình.
Có thể một câu hỏi sẽ được đặt ra là liệu việc sáng tác những tiểu thuyết về
quá khứ như thế có khi nào là một hình thức “đổ thêm dầu vào lửa” bởi vấn đề được
đề cập đến vẫn khá nhạy cảm. Câu trả lời là không.
Trong từng tác phẩm, vấn đề người đọc nhận ra chính là sự lựa chọn của
người Mỹ gốc Phi. Đồng ý rằng chế độ nô lệ là một thảm họa, một bi kịch lớn cho
người da đen nhưng có vẻ như Toni Morrison khơng khai thác sâu vào vấn đề đó.
Sự bi thảm cùng cực qua những chi tiết, tình tiết cụ thể khơng phải là thứ lấy nước
mắt độc giả mà nó chính là sự lựa chọn của con người. Sethe đã lựa chọn, Sula đã
lựa chọn, Pauline đã lựa chọn, Eva đã lựa chọn… Quá khứ, hiện tại trở thành những
áp lực nặng nề buộc họ phải luôn lựa chọn, nhiều khi dẫn tới những lựa chọn kinh
hoàng. Và sự kinh hoàng ấy khiến độc giả không ngừng trăn trở, không ngừng tự
hỏi tại sao.
Đọc những bài phỏng vấn, lắng nghe những tâm sự của Toni Morrison, ta
nhận ra đây là một nhà văn có thái độ làm việc nghiêm túc, ln có sự tìm tịi trong
từng tác phẩm để đảm bảo rằng những sáng tác của mình gây được tác động theo
14
hướng mà bà mong muốn đến người đọc (lẽ dĩ nhiên, đó là những tiên lượng đầy
tính chủ quan của nhà văn).
1.1.2 Đôi nét về tiểu thuyết “Mắt biếc”, “Người yêu dấu” và “Sula”
Mắt biếc là tiểu thuyết đầu tay viết về cộng đồng người da đen trong xã hội
da trắng ở thị trấn Lorain, trọng tâm xoay quanh số phận bi kịch của cô bé Pecola
Breedlove 13 tuổi, qua đó đề cập đến những vấn đề lớn đã diễn ra trong lịch sử, bối
cảnh những năm của thập niên đầu thế kỷ XX (và cho đến thời đại ngày nay vẫn
còn đang tiếp diễn). Ở nước Mỹ, năm 2000, tiểu thuyết này vẫn nằm trong danh
sách những tác phẩm bán chạy nhất (best – seller).
Sula là tiểu thuyết thứ hai, được xuất bản sau Mắt biếc ba năm. Khi viết,
Toni Morrison đã nghĩ rằng có thể sẽ chỉ một ít người thực sự thích tác phẩm này,
nhưng đối với bà tác phẩm này quá quan trọng (một cách cá nhân) nên khơng thể từ
bỏ nó.
Thành cơng nhất trong sự nghiệp văn chương của Toni Morrison cho đến nay
vẫn là Người yêu dấu. Tác phẩm này đã đem lại cho bà giải Pulitzer năm 1988, và
gần đây nhất (2006) đã dẫn đầu trong cuộc bình chọn, trở thành “tiểu thuyết Mỹ hay
nhất trong vòng 25 năm qua” (“the best American fiction of the last 25 years”)
[The NewYork Times (May 21, 2006), What Is the Best Work of American Fiction
of the Last 25 Years?, Đây là một tác phẩm dựa trên một sự kiện có thật xảy ra từng làm chấn
động nước Mỹ, khi một người mẹ da màu tự tay giết chết đứa con của mình.
Toni Morrison cho biết: "Với cuốn tiểu thuyết này, tôi hướng độc giả đến câu
chuyện ma và giúp họ hiểu chặng đường dài về chế độ nô lệ. Thực tế, Người yêu
dấu đã thay đổi cách nhìn nhận của tơi về chế độ nơ lệ. Ở đó có sự hãm hiếp tàn
bạo, có những đứa trẻ khóc nấc lên bên những núm vú sưng phồng. Họ sống một
cuộc sống chỉ ngang hàng với loài vật và chỉ kiếm đủ thức ăn để tồn tại qua cơn
đói. Hàng trăm nghìn người đã nhảy xuống biển để gột sạch nhơ nhớp của những
15
trị ác dâm. Hàng trăm nghìn người khác đã lao xuống nước tự vẫn. Nhưng cũng
có rất nhiều người trong số họ đã sống sót qua tấn bi kịch với một tâm hồn còn
nguyên vẹn...".
Khi đọc ba tác phẩm này, ta như thấy được một bức tranh về lịch sử gần như
hoàn chỉnh của người Mỹ gốc Phi: (1) Người yêu dấu : chế độ nô lệ, sự mua bán,
ngược đãi nô lệ và những manh nha ban đầu của việc giải phóng nơ lệ, cuộc sống
của những người nơ lệ được giải phóng hoặc trốn thốt, sự đồn kết của cộng đồng
da đen ; (2) Mắt biếc : những nỗ lực hịa nhập vào cuộc sống mới, hành trình Bắc
tiến tìm kiếm cơ hội phát triển, sự tiêm nhiễm của lối sống vật chất và những chuẩn
mực về cái đẹp từ xã hội da trắng, sự tha hóa, những định kiến phân biệt chủng tộc ;
(3) Sula : định cư, sự tốt đẹp của lối sống cộng đồng, người da đen tham gia vào
những sự kiện lịch sử lớn (Thế chiến I, thế chiến II), đấu tranh chống lại sự phân
biệt chủng tộc.
1.1.3 Tóm tắt tiểu thuyết “Mắt biếc”, “Người yêu dấu” và “Sula”
Người yêu dấu (Beloved) và Mắt biếc (The Bluest Eye) là hai tác phẩm đã
được dịch sang tiếng Việt, vì vậy, chúng tơi chỉ tóm tắt ngắn. Riêng Sula chưa có
bản dịch nên chúng tơi sẽ tóm tắt chi tiết hơn.
1.1.3.1 Tóm tắt Mắt biếc
Tiểu thuyết Mắt biếc không chia theo chương mà chia thành từng mùa, mở
đầu bằng mùa thu, theo vòng quay của tự nhiên, kết thúc ở mùa hạ, xoay quanh
nhân vật chính là cô bé Pecola Breedlove, mười ba tuổi, con của Cholly và Pauline,
anh trai của Pecola là Sammy, mười bốn tuổi.
Sau một thời gian đầu hạnh phúc thì vợ chồng Pauline xảy ra lục đục,
ngun nhân chính vì Pauline chỉ ở nhà nội trợ, tiền bạc bắt đầu thiếu. Pauline xin
giúp việc cho người da trắng, Cholly liên tục say xỉn. Sammy và Pecola ra đời, gánh
nặng trút lên vai Pauline. Tuy nhiên, sự tiêm nhiễm của phim ảnh khiến cho Pauline
16
chối bỏ cuộc sống gia đình ngột ngạt, đem sự tận tụy của mình phục vụ cho những
người chủ da trắng ở thị trấn Lorain. Cả gia đình đều mang mặc cảm mình là người
xấu xí. Sammy thường xun bỏ nhà ra đi.
Pecola luôn bị bọn trẻ da đen ăn hiếp. Nhưng bi kịch hơn, cơ bé bị cha mình
cưỡng đoạt và thụ thai. Pecola nghĩ nếu mình có được đơi mắt màu xanh, xanh biếc
nhất thì cơ bé sẽ trở nên xinh đẹp, lúc đó mẹ sẽ thương cơ bé, mọi người cũng sẽ
không xa lánh cô.
Đứa con trong bụng đã làm cho Pecola bị mẹ mình đánh thừa sống thiếu
chết, cả thị trấn Lorain tẩy chay. Cô bé tìm đến người giải điềm đốn mộng Soap
Head Church, cầu xin ban cho cô đôi mắt xanh biếc. Lão ta đưa cho cơ bé bả chó để
cơ bé cho con chó già ăn, nếu con chó có phản ứng, nghĩa là Chúa đã nghe thấy.
Con chó co giật, sùi bọt mép. Pecola nghĩ là Chúa nghe thấy lời mình, và từ đó
Pecola thui thủi một mình trong tình trạng gần như điên loạn, với ảo tưởng về đôi
mắt xanh biếc nhất trên đời.
1.1.3.2 Tóm tắt Người yêu dấu
Câu chuyện xoay xung quanh người đàn bà nô lệ bỏ trốn: Sethe. Ở trang trại
Sweet Home, chị đã có ba con với Halle (hai trai, một gái) và mang bầu đứa thứ tư.
Cuộc sống ở đây trơi qua bình lặng, Sethe cùng năm chàng trai nô lệ khác được ông
bà chủ Garner đối xử tốt. Halle còn được đi làm thuê vào chủ nhật để chuộc mẹ là
Baby Suggs. Đến khi ông Garner qua đời, bà chủ bệnh nên đã nhờ người bà con là
Thầy giáo đến giúp trông coi trang trại. Cách đối xử của Thầy giáo đã khiến họ phải
lên kế hoạch bỏ trốn. Kế hoạch thất bại nhưng các con Sethe đã được gửi đi trước
tới nhà bà nội.
Sethe bị hai đứa học trò của lão thầy giáo đè xuống cưỡng đoạt ở chuồng
ngựa. Chúng biết chị mách bà chủ liền đánh đập tan nát cả lưng Sethe. Chị bỏ trốn
với cái thai sáu tháng trong bụng. Khi đã kiệt sức cũng là lúc chị đến được bờ sông
Ohio và đã được cô gái da trắng tên Amy cứu. Chị sinh Denver trên thuyền. Sau đó
17
được Stamp Paid cứu, đưa về nhà số 124 trên đường Bluestone – nơi mẹ chồng chị
đang sống.
Sống được 28 ngày trong cảnh sum họp thì lão thầy giáo tìm đến. Không kịp
trốn chạy, Sethe đã dùng cưa giết đứa con gái của mình, làm bị thương hai đứa con
trai, may mắn đứa bé mới sinh chưa bị gì. Chị bị ở tù, nhưng cả mẹ lẫn con thốt
kiếp nơ lệ.
Sau khi ra tù, Sethe trở về và không giao tiếp với cộng đồng. Căn nhà 124
Bluestone bị con ma trẻ con ám. Hai đứa con trai chị lần lượt bỏ nhà ra đi. Baby
Suggs qua đời.
Mười tám năm kể từ khi chị bỏ trốn khỏi Sweet Home, chị gặp lại Paul D
trước cửa nhà mình, và đã chấp nhận để anh ở lại cùng chị và Denver (cô bé khơng
thích mấy bởi mặc cảm mình là người thừa trong ký ức về Sweet Home, về bố).
Beloved xuất hiện trước nhà chị, kiệt sức. Chị và Denver đã chăm sóc cơ.
Denver nhận ra cơ ấy chính là người chị đã chết của mình trở về. Từ khi Beloved
xuất hiện, mối quan hệ giữa Sethe và Paul D ngày càng xấu đi. Đến khi Stamp Paid
cho anh biết sự việc khủng khiếp mà Sethe đã làm, Paul D đã bỏ đi đến xin ngủ nhờ
ở nhà thờ.
Sethe nhận ra Beloved là con của mình trở về từ cõi chết. Chị đã mặc kệ tất
cả để chăm sóc con, với niềm hạnh phúc khơng gì có thể sánh được là đứa con gái
bị chị lấy đi sinh mạng đã khơng (cịn) ốn hận chị. Chị tin rằng con biết và hiểu
rằng chỉ vì khơng muốn con phải sống cuộc đời như của mình mà chị phải giết con.
Sự cung phụng khiến chị kiệt quệ về tinh thần lẫn sức lực, rồi cuối cùng bị đuổi việc
trong khi Beloved cứ ngày một béo lên.
Nhà hết lương thực. Khơng cịn cách nào khác, Denver phải ra ngồi tìm sự
giúp đỡ. Cộng đồng người da đen giúp đỡ cô, giúp cô cả việc làm. Tuy nhiên,
những người phụ nữ cũng đã biết việc trong nhà. Trong buổi chiều, lúc Denver ngồi
trước cửa chờ ông chủ đến đón, họ đã tụ tập lại và hát kinh nguyện cầu. Sethe và
Beloved cùng ra trước cửa. Khi trông thấy ông chủ của Denver xuất hiện, tưởng lão
18
thầy giáo đến bắt con, chị lao ra tấn công, Denver đã nhào ra kéo chị lại. Beloved
biến mất.
Cuộc sống trở lại bình thường. Sethe kiệt sức nằm liệt giường. Denver kiếm
thêm việc làm, trưởng thành và chín chắn hơn. Paul D trở về lại để chăm sóc chị.
1.1.3.3 Tóm tắt Sula
Phần Một
Năm 1920
Bà ngoại Cencile đưa Helene Sabat ra khỏi nhà thổ Sundown House – nơi
mẹ cô sống – và nuôi dưỡng cô trưởng thành. Helene cũng được bà ngoại tác hợp
cho lấy người cháu trai lớn của bà là Wiley Wright. Cả hai dọn đến trên ngọn đồi
với cộng đồng người da đen Bottom ở thị trấn Medallion. Hai người có một đứa con
gái tên là Nel.
Tháng 11, nhận được thư báo tin bà ngoại ốm, Helene quyết định đi cùng với
Nel về thăm. Đến nơi thì bà đã mất. Ở đây, Nel gặp bà ngoại mình – người đã sinh
ra Helene – lần đầu tiên.
Sau chuyến đi, Nel thay đổi hẳn về suy nghĩ, và mong một ngày nào đó mình
sẽ đi xa khỏi Medallion.
Năm 1921
Eva – bà ngoại của Sula – và BoyBoy lần lượt có với nhau ba người con
Hannah, Pearl và Ralph (còn gọi là Plum). Cuộc hơn nhân ngắn ngủi. BoyBoy thích
trăng hoa, nhậu nhẹt và hành hạ Eva, cuối cùng bỏ nhà ra đi. Eva với các con phải
sống nhờ vào sự giúp đỡ của hàng xóm, nhưng bà biết họ cũng chỉ là người nghèo
như mình và sự giúp đỡ chỉ có một mức độ giới hạn nào đó thơi.
19
Plum đột ngột bị đau bụng không thể đại tiện và tỏ ra vô cùng đau đớn. Sau
bao nhiêu lo lắng và làm đủ mọi cách nhưng không đỡ, cuối cùng bà cho con uống
thuốc xổ và dùng tay giúp tháo hết ra ngoài.
Bà gửi con lại, bỏ ra đi khơng nói một lời. Mười tám tháng sau, Eva quay trở
về. Có tiền nhưng mất một chân. Bà xây nhà – một căn nhà to có nhiều phịng cho
th.
Năm năm sau ngày bỏ ra đi, BoyBoy trở về thăm bà, sang trọng, với một phụ
nữ đứng đợi, nhưng chỉ nói chuyện phiếm và không yêu cầu gặp gỡ hay nhắc nhở gì
đến những đứa con.
Eva cho thuê nhà và lần lượt nhận nuôi ba đứa trẻ trai mà bà đều gọi chúng
là dewey. Chúng là những đứa trẻ hoàn toàn khác nhau về lứa tuổi, màu da nhưng
sau khi được Eva nhận nuôi tự nhiên trở nên giống một thực thể duy nhất, có cùng
một giọng nói, cùng một suy nghĩ, thậm chí khi đi học chúng cũng cùng vào chung
một lớp.
Người ở trọ khác là Tar Baby – một người da trắng, có tin đồn là người lai
trắng, là giọng hát gây xúc động lòng người trong nhà thờ, hiếm khi nói chuyện và
uống rượu như hũ chìm. Anh ta là người đầu tiên tham gia vào ngày Tự sát Quốc
gia khởi xướng bởi Shadrack – một người trở về từ Chiến tranh thế giới lần thứ nhất
với chấn thương tâm lý sau những gì anh chứng kiến.
Plum trở về sau Thế chiến I, trở thành kẻ nghiện heroin, bắt đầu lấy cắp đồ
trong nhà và dành phần lớn thời gian ở trong phòng.
Một đêm, Eva quyết định rời chiếc xe lăn, sử dụng chiếc nạng từ từ đi xuống
phịng con trai. Ngồi bên cạnh con, ơm chặt đứa con, bà nhớ lại thời thơ ấu, uống
một ngụm nước mà bà nghĩ là soda dâu và chợt nhận ra đó là nước pha máu. Plum
bảo mẹ mình vẫn khỏe và bảo bà đi ngủ. Eva đi. Sau đó Eva trở lại, dội dầu hỏa lên
người và đốt Plum.
Năm 1922
20
Sula và Nel được 12 tuổi, bắt đầu quan tâm đến những chàng trai. Một ngày,
Ajax, chàng đẹp trai 21 tuổi, gọi hai cô là “pig meat”. Điều này khiến hai cơ gái
thích thú.
Những đứa trẻ Ai Len nhập cư, thâm nhiễm và hòa nhập vào cách hành xử
của cư dân da trắng, bắt đầu ăn hiếp trẻ da đen. Một lần đối tượng chúng nhắm tới
là Nel. Nel phải đổi con đường đi về nhà để tránh chúng và Sula đi với cô. Con
đường đi quá dài khiến Sula quyết định phải đi lại đường cũ. Hai cô gái đi và bọn
con trai Ai Len chặn lại. Sula rút ra một con dao tự cắt đầu ngón tay mình làm bọn
chúng hoảng sợ bỏ đi, không dám đụng vào các cơ gái nữa.
Sula tình cờ nghe lời mẹ nói chỉ u mình chứ khơng thích mình nên rất đau
đớn. Một điều gì chợt sụp đổ và cơ bé bị mất phương hướng trong suy nghĩ.
Sula và Nel tìm ra bờ sông. Chú bé Chicken Little xuất hiện. Sula đùa với
cậu bé và sơ ý sẩy tay làm cậu rớt xuống sông, chờ mãi không nổi lên. Sula nghĩ
rằng Shadrack nhìn thấy tồn bộ sự việc khơng hay vừa rồi nên dù sợ vẫn đi lên nhà
ơng ta. Shadrack có nhà, và trước một Sula đầy sợ hãi, chỉ nói một từ “luôn luôn”.
Ba ngày sau xác chết của Chicken mới được nhận dạng, sau khi được người
da trắng vớt lên và kéo lê nửa chìm nửa nổi trên dọc đường sơng. Tại đám tang của
cậu bé, Sula khóc khơng thành tiếng, Nel giữ thái độ im lặng.
Năm 1923
Hannah hỏi Eva một số câu, về việc Eva giết Plum. Hôm sau Hannah nói với
Eva về giấc mơ đám cưới với chiếc váy đỏ.
Sula bắt đầu làm phiền lũ dewey và lấy đồ ăn của các cặp mới cưới. Cái bớt
trên mặt Sula ngày càng tối hơn và ra dáng một cây hoa hồng.
Eva tìm chiếc lược nhưng khơng tìm thấy. Khi nhìn xuống sân bà thấy
Hannah đã bị bắt lửa. Bà nhảy ra khỏi cửa sổ tầng cao nhất, cố gắng ném mình vào
người con gái để dập tắt lửa. Hannah đau đớn nên khơng nhìn thấy Eva rơi cạnh
mình, cơ chạy ra ngồi cầu cứu.
21
Xe cứu thương chở hai mẹ con vào bệnh viện. Hannah chết trên đường đi.
Eva sống sót. Bà nhớ lại giấc mơ của Hannah và nhớ lại đám cưới nghĩa là cái chết,
và áo đỏ tượng trưng cho lửa. Cái chết của Hannah, sau khi suy nghĩ lại, dường như
đã có nhiều điềm báo. Bà cũng nhớ rất rõ cảnh Sula đứng ở sân sau, nhìn mẹ mình
bị cháy mà khơng làm gì cả. Bà khơng tin rằng Sula bị điếng người khi chứng kiến
mẹ mình bị cháy, mà đáng lo ngại hơn thế, bà nghĩ Sula thực sự thích thú và muốn
nhìn mẹ mình chết.
Năm 1927
Đám cưới của Nel. Chồng Nel là Jude Greene, một người bồi tại khách sạn.
Sula rất vui vì bạn tỏa sáng. Cơ rời bữa tiệc, từ đó bỏ đi khỏi Bottom.
Phần Hai
Năm 1937
Dịch bệnh làm chim két chết nhiều khi Sula trở về Bottom sau mười năm
vắng bóng. Cơ có ngay một cuộc nói chuyện đầy gay gắt với Eva. Sula đã thấy Eva
giết Plum và cho rằng bà cũng đã tự tìm cách làm cho mình mất cái chân để lấy tiền
bảo hiểm. Eva cũng kết tội Sula dửng dưng đứng nhìn Hannah chết. Sula dọa sẽ làm
cho Eva trở thành đám lửa lớn nhất từ trước đến nay trong nhà.
Sula gặp Nel, hai người bạn thân đã lâu khơng gặp nói chuyện rất vui vẻ. Sau
đó, Nel bắt gặp Sula và Jude đang quan hệ ngay tại phịng ngủ của mình. Sula
khơng có vẻ gì tỏ ra có lỗi. Jude bỏ đi.
Năm 1939
Khi cư dân ở Bottom biết việc Sula ngủ với Jude và sau đó bỏ anh cũng như
việc cơ chuyển Eva vào viện tâm thần, họ gọi cơ là chó cái. Đàn ơng thì cho rằng cơ
phạm vào một tội lỗi không thể tha thứ là ngủ với đàn ông da trắng.
22
Họ tẩy chay Sula, canh chừng cô. Dù vậy, Sula vẫn chẳng mảy may quan
tâm. Vì thế, họ đổ lỗi cho cô, xem cô là người phải chịu trách nhiệm cho tất cả
những chuyện không may xảy ra trong cộng đồng.
Đầu tiên là chuyện xảy ra với Teapot. Một ngày Teapot hỏi xin Sula những
cái chai. Cậu bé đã ra về khi Sula trả lời khơng có nhưng vơ ý trượt chân ngã. Sula
cố gắng giúp cậu. Betty, mẹ cậu bé, đang trong tình trạng say xỉn, tình cờ gặp và
cho rằng Sula đẩy Teapot. Cậu bé bị gãy xương, khi đến khám bác sĩ nêu nguyên
nhân do chế độ ăn uống nghèo nàn. Betty kể về tội của Sula và giấu lời bác sĩ. Từ
một người mẹ bỏ bê con cái, thích đi chơi, Betty trở nên một người mẹ tốt, bỏ uống
rượu, chăm lo cho cậu con trai năm tuổi.
Sula cũng bị cho là thủ phạm gây ra cái chết của ơng Finley - bị hóc xương
gà sau khi nhìn vào cơ. Cái bớt trên mặt cơ vì thế bị soi mói và bị cho rằng đó
khơng phải là hoa hồng có cuống hay hình con rắn, nó chính là tro của Hannah đánh
dấu lên Sula. Những người đàn bà, vì căm tức Sula ngủ với chồng mình, càng yêu
mến những người đàn ông của họ nhiều hơn.
Cả thị trấn tiếp tục tìm kiếm những bằng chứng kết tội Sula.
Một phụ nữ tên Dessie nhớ lại chuyện một ngày Shadrack đang hành động
điên khùng bỗng nhiên bình thường trở lại khi đi ngang qua Sula và có ý chạm tay
vào chiếc mũ tưởng tượng trên đầu để chào cơ. Vì Shadrack thường xun nguyền
rủa và qt vào mặt mọi người, họ cho rằng việc ông ta chào thân thiện Sula xuất
phát từ lý do cả hai là đồng bọn, là những con quỷ gieo rắc điều xấu xa. Để nhấn
mạnh thêm, Dessie cam đoan mình đã bị lẹo ở mắt trái sau khi thấy cảnh trên. Một
phụ nữ khác thì cam đoan đã thấy hai con quỷ.
Sula, trong cuộc sống tách biệt với thị trấn, nhớ Nel, nhớ ngày xưa hai cô
thường hôn một cậu bé và so sánh với nhau những ghi chú về cách mà cậu bé hôn
mỗi người. Họ chia sẻ với nhau tất cả, vì thế Sula khơng nghĩ rằng mình làm Nel
đau đớn vì ngủ với Jude, và buồn khi Nel cư xử như những người trong thị trấn.