Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (297.63 KB, 30 trang )
<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>
Cho đến nay, chủ yếu có hai phương pháp phổ biến để phân định từ loại: phân chia từ
vựng của một ngôn ngữ thành hai lớp khái quát là thực từ và hư từ; hoặc phân chia từ
vựng thành nhiều lớp cụ thể hơn với các đặc trưng xác định hơn. Đây là các cách phân
chia của ngữ pháp truyền thống châu Âu. Lịch sử nghiên cứu ngữ pháp tiếng Việt có hai
xu hướng: một xu hướng cho rằng từ vựng tiếng Việt khơng được định loại vì chúng
khơng có một dấu hiệu hình thức nào cả, nói cách khác là khơng tồn tại từ loại trong tiếng
Việt. Tuy nhiên số đông các nhà nghiên cứu tiếng Việt vẫn cho rằng tiếng Việt vẫn có từ
loại và tồn tại những dấu hiệu khách quan để định loại. Và việc phân loại cũng theo hai
cách: phân biệt thực từ và hư từ; phân biệt thành những lớp ngữ pháp cụ thể. Hiện nay
trong tiếng Việt có thể phối hợp hai cách phân loại này.
Việc phân định từ loại tiếng Việt theo cách thứ hai thành những lớp từ cụ thể chủ yếu
căn cứ vào ba tiêu chuẩn:
1. Ý nghĩa khái quát: có tác dụng tập hợp các từ có cùng kiểu ý nghĩa khái quát thành
các lớp (và lớp con); ví dụ như ý nghĩa về sự vật, về hành động, về trạng thái, về
tính chất, về quan hệ,...; đến lượt ý nghĩa khái quát về sự vật lại được chia nhỏ thành
ý nghĩa khái quát về vật thể (ví dụ các từ nhà, cửa, cây...), về chất thể (ví dụ nước,
<i>khí, muối...), v.v...</i>
2. Khả năng kết hợp, được hiểu ở ba mức độ như sau:
1. Khả năng kết hợp của từ đang xét với với một hay một số hư từ, từ đó nói
được bản tính từ loại của từ đang xét. Những hư từ trong trường hợp này
được gọi là các chứng tố. Và với chứng tố, thường chỉ xác định được ba lớp
từ chính trong tiếng Việt là: lớp danh từ, lớp động từ và lớp tính từ. Ví dụ:
2. Khả năng kết hợp của từ đang xét được đặt trên cơ sở cách cấu tạo của cụm từ
chính phụ. Với cách này, có thể xác định thêm lớp các phó từ của động từ (có
nét gần gụi với các phụ từ và một số trạng từ adverd ngôn ngữ châu Âu).
3. Khả năng kết hợp từ với từ, không chỉ tính đến các yếu tố khơng nằm trong
cụm từ, thông qua các tiêu chuẩn sau: khả năng làm đầu tố trong cụm từ
chính phụ; khả năng làm yếu tố mở rộng trong cụm từ chính phụ; khơng tham
gia vào cụm từ chính phụ, chỉ xuất hiện ở bậc câu nhưng có thể có quan hệ
với cụm từ chính phụ trong các trường hợp cụ thể.
3. Chức vụ ngữ pháp: Khả năng giữ chức vụ ngữ pháp trong một câu thường được
dùng như một tiêu chuẩn hỗ trợ cho việc phân định từ loại.
Động từ độc lập là động từ có ý nghĩa đầy đủ, có thể một mình đảm đương chức năng ngữ
pháp trong cụm từ hoặc câu. Ví dụ: đi, làm, chạy, nhảy, múa.
Động từ độc lập có thể được phân loại thành những nhóm nhỏ hơn như: động từ biểu thị
hành động/hoạt động, động từ biểu thị trạng thái, động từ biểu thị tư thế, động từ biểu thị
q trình…
Sự phân biệt các nhóm động từ thường dựa trên hai tiêu chí: tiêu chí ngữ nghĩa và tiêu chí
ngữ pháp. Ví dụ, xét về mặt thể hiện ý nghĩa ngữ pháp, trước hết cần phân biệt hai nhóm
động từ quan trọng, đó là:
- Động từ biểu thị hành động/ hoạt động vật lý như: ăn, uống, đánh, đẩy, cắt, kéo, chạy,
<i>nhảy, leo, trèo.</i>
- Động từ biểu thị hoạt động hoặc trạng thái tâm lí như: thích thú, biết, hiểu, cảm thấy,
<i>lo lắng, sợ, tôn trọng, do dự, hồi hộp, mong ước, mơ ước, kính nể.</i>
Sự phân biệt các loại động từ có liên quan đến khả năng kết hợp của chúng. Các động từ
biểu thị hoạt động vật lí có thể kết hợp với các từ biểu thị kết quả của hành động, hoạt
động như: xong, rồi, nhưng phần lớn các động từ biểu thị hoạt động hoặc trạng thái tâm lí
thường khơng thể kết hợp với các từ đó, hoặc chỉ có thể kết hợp rất hạn chế và sẽ cho một
ý nghĩa khác. Ví dụ: Có thể nói: Tơi ăn xong rồi, nhưng khơng thể nói: Tơi tơn trọng xong
<i>rồi. Khi nói: “Tơi sợ anh rồi.” thì rồi mang một ý nghĩa khác: bắt đầu. (Sẽ nói rõ thêm ở </i>
chương sau)
Trong cả hai loại động từ này, ta có thể phân biệt nội động từ và ngoại động từ.
+ Nội động từ biểu thị hành động, hoạt động hoặc trạng thái không thể tác động trực tiếp
tới một đối tượng khác, ví dụ: ngủ, nằm, đi, đứng, suy nghĩ.
+ Ngoại động từ biểu thị hành động, hoạt động hoặc trạng thái có thể tác động trực tiếp lên
một đối tượng khác hoặc tạo ra một đối tượng khác, ví dụ: đào, tìm, bắt, xây, viết, mua,
<i>sản xuất.</i>
Khi tạo ra lối nói bị động, ta chỉ có thể sử dụng ngoại động từ. Ví dụ: Họ đang đào đường
→ Đường đang bị họ đào.
Tuy nhiên, trong tiếng Việt, một số động từ có thể vừa mang tính chất nội động vừa mang
tính chất ngoại động. Ví dụ: Động từ đi, chạy về nguyên tắc không phải là ngoại động từ
nhưng người Việt vẫn sử dụng như là một ngoại động từ (ví dụ: “Nó đi qn mã để ra xe
<i>cho nhanh.”, hoặc: “Hai vợ chồng đang bận chạy trường tốt cho con.“</i>
<b>2. Động từ không độc lập</b>
Động từ không độc lập là động từ không biểu thị một nội dung ý nghĩa hoàn chỉnh (ý
nghĩa hành động, hoạt động hay trạng thái) do đó, về nguyên tắc, khơng thể đứng một
mình để đảm đương một chức năng ngữ pháp mà địi hỏi phải có một từ khác (ví dụ: danh
từ, động từ …) đi theo sau để bổ sung ý nghĩa.
- Động từ tình thái: Là những động từ biểu thị quan hệ chủ quan (thái độ, sự đánh giá, ý
muốn, ý chí…) của người nói đối với nội dung của câu nói hoặc với hiện thực khách quan.
Có thể phân biệt những nhóm động từ tình thái sau đây:
+ Động từ biểu thị sự đánh giá về mức độ cần thiết: nên, cần, phải, cần phải.
+ Động từ biểu thị sự đánh giá về khả năng: có thể, khơng thể/chưa thể.
+ Động từ biểu thị sự đánh giá về may rủi: bị (tai nạn), được (nhà), mắc, phải (ví dụ: mắc
<i>căn bệnh nhà giàu, phải một trận đòn).</i>
+ Động từ biểu thị thái độ mong mỏi: trông, mong, chúc, ước, cầu, muốn.
+ Động từ biểu thị mức độ của ý chí, ý muốn: dám, định, nỡ, buồn (thường dùng nhiều
hơn với nghĩa phủ định), thôi, đành.
- Động từ biểu thị sự tồn tại: Là những động từ biểu thị tình trạng tồn tại thực tế của sự
vật hay hiện tượng. Thuộc nhóm này có 3 động từ, đó là:
+ Động từ biểu thị sự tồn tại bổ sung hoặc hoặc tiếp tục tồn tại của sự vật, hiện tượng: cịn.
Ví dụ:
- Trong nhà cịn hai người nữa.
- Trong túi tơi cịn tiền.
+ Động từ biểu thị sự tồn tại: có. Ví dụ:
- Trên đỉnh núi có một ngơi chùa.
- Trong nhà có tiếng khóc.
+ Động từ biểu thị sự kết thúc tồn tại của sự vật, hiện tượng: hết. Ví dụ:
- Trong nhà hết sạch tiền rồi.
- Động từ quan hệ: Là những động từ dùng để biểu thị quan hệ giữa sự vật và bản chất
hay chức năng của sự vật: là, làm. Ví dụ:
- Im lặng là vàng.
- Hồi làm giám đốc, ông ấy đã từng mắc tội tham nhũng.
Cần nói thêm rằng, sự phân biệt trên đây nhiều khi chỉ mang tính chất tương đối, vì trong
thực tế một số động từ tiếng Việt có thể vừa là động từ độc lập vừa là động từ khơng độc
lập, ví dụ như động từ có hay động từ làm.
<b>3. Cấu tạo động từ mới</b>
Để tạo ra các động từ mới, tiếng Việt chủ yếu ghép các động từ với nhau hoặc ghép động
từ với một danh từ, tính từ hay một hình vị trống nghĩa theo những loại quan hệ nhất định.
Ví dụ:
- Ghép động từ với động từ: học tập, buôn bán, chạy nhảy, mua sắm, gào thét, vay mượn,
<i>ăn uống, thay đổi, ăn chơi.</i>
- Ghép động từ với danh từ: ra lệnh, trả lời, đánh gió, ăn giá ,ăn sương, làm dáng, làm
<i>khách, nói chuyện, đánh thuế.</i>
- Ghép động từ với một hình vị trống nghĩa (hoặc được coi là trống nghĩa): viết lách,
<i>chạy chọt, rửa ráy, nói năng, sửa sang.</i>
Ngồi ra, cịn có thể ghép danh từ hoặc tính từ với động từ để tạo ra động từ, ví dụ: cơng
<i>nghiệp hóa, bình thường hóa, chính trị hóa, mưu toan, mưu sát, buồn ngủ, nóng chảy, </i>
<i>nóng ăn.</i>
Động từ là từ loại chỉ một hành động, cử chỉ, hành vi nào đó của chủ thể. Ví dụ: ăn, đi,
ngủ, bơi...
<b>1.1. Khái niệm Danh từ riêng </b>
- Danh từ riêng trong tiếng Việt là từ chỉ tên người, tên đất, tên cơ quan, tổ chức, tôn giáo,
<i>phong trào, tên gọi các thời đại, tên các loại sách báo và tên gọi những ngày lễ, tết trong </i>
<i>năm. </i>
- Danh từ riêng có thể là từ thuần Việt, như: Bông, Cám, Tèo, Bột…, nhưng cũng có thể là
tên Hán-Việt, như: Nguyệt, Trường, Dũng, Đơng Kinh, Kinh Bắc…, hoặc là tên phiên âm
từ các thứ tiếng Ấn-Âu, như: Hêlêna, Giôn, Ađam, Pari, Béclin.
- Trước đây, các danh từ riêng Ấn-Âu thường được phiên âm qua tiếng Hán nhưng ngày
nay, tiếng Việt áp dụng cách phiên âm trực tiếp từ nguyên ngữ hoặc từ một ngôn ngữ
Ấn-Âu khác được sử dụng rộng rãi trên thế giới (ví dụ: tiếng Anh, tiếng Pháp).
<b>1.2 Cách viết danh từ riêng</b>
<i>- Cách viết tên người:</i>
+ Tên người Việt Nam, Trung Quốc (đọc theo âm Hán-Việt) hoặc tên người nước khác
được phiên âm qua tiếng Hán: Viết hoa tất cả các chữ đầu của âm tiết và khơng dùng dấu
nối, Ví dụ: Trần Văn Tạo; Đinh Tiên Hoàng; Lý Bạch; Lỗ Tấn; Thành Cát Tư Hãn.
+ Tên người nước ngoài được phiên âm trực tiếp hoặc thông qua một ngôn ngữ Ấn-Âu
khác:
Hiện vẫn được viết theo hai cách:
1) Viết hoa chữ cái đầu của tên gọi, các âm tiết viết liền nhau và khơng có gạch nối, ví dụ:
<i>Frăngxoa; Ivan; Napơlêơng, Ađam;</i>
2) Viết hoa chữ cái đầu của tên gọi, các âm tiết viết cách nhau và giữa các âm tiết có gạch
nối, ví dụ: Na-pơ-lê-ơng, Frăng-xoa, Oa-sinh-tơn, Huy-gơ.
Tuy nhiên, để có thể đạt được sự thống nhất trong việc dạy viết trong các trường học, Bộ
Giáo dục và Đào tạo đã có quy định tạm thời về việc viết tên riêng trong sách giáo khoa,
theo đó cách viết thứ hai được chọn sử dụng (tạm thời) làm cách viết chuẩn.
<i>- Cách viết tên địa lí:</i>
+ Tên địa lí đọc theo âm Việt hoặc âm Hán-Việt có kèm theo từ chỉ phương hướng hay vị
trí đã trở thành một bộ phận của tên gọi: Viết hoa tất cả các chữ cái đầu âm tiết, ví dụ:
Đông Nam Á, Tây Âu, Bắc Mỹ, Bắc Triều Tiên, Đông Âu.
+ Tên các nước hoặc các vùng lãnh thổ và tên địa lí của các nước khác được phiên âm trực
tiếp hoặc phiên âm qua một thứ tiếng Ấn-Âu khác:
Hiện vẫn tồn tại hai cách viết:
1) Viết hoa chữ cái đầu và viết liền các âm tiết, giữa các âm tiết khơng có dấu gạch nối, ví
dụ: Chilê, Braxin, Oasinhtơn, Mátxcơva, Tôkyô (Tokyo), và
2) Viết hoa chữ cái đầu và viết cách các âm tiết, giữa các âm tiết có dùng dấu gạch nối, ví
dụ: Béc-lin, Pa-ri, Mát-xcơ-va, Tô-ky-ô.
Cách viết thứ hai phù hợp với quy định tạm thời của Bộ Giáo dục và Đào tạo.
<i>- Cách viết quốc hiệu, tên cơ quan, tổ chức, phong trào:</i>
Hiện vẫn tồn tại hai cách viết:
+ Viết hoa chữ cái đầu của âm tiết đầu. Nếu trong quốc hiệu hoặc tên tổ chức hay cơ quan
bao gồm tên riêng khác thì viết hoa tên riêng đó theo ngun tắc đã nêu trên. Ví dụ: Cộng
<i>hịa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Chính phủ Việt Nam; Quốc hội Hoa Kỳ; Đại học bách </i>
<i>khoa.</i>
+ Viết hoa chữ cái đầu của tất cả các từ tạo nên tên gọi, ví dụ: Cộng hịa Xã hội Chủ nghĩa
<i>Việt Nam; Trường Đại học Bách khoa Hà Nội; Bộ Giao thông Vận tải. </i>
Cách viết thứ hai phù hợp với quy định tạm thời của Bộ Giáo dục và Đào tạo.
<i>- Cách viết tên các sách báo:</i>
Viết hoa chữ đầu của âm tiết thứ nhất, nếu có tên riêng thì viết hoa theo những nguyên tắc
nêu trên, ví dụ: Việt sử học, báo Nhân dân, tạp chí Khảo cổ học, Hồ Chí Minh tồn tập.
<i>- Cách viết tên các ngày lễ, tết trong năm:</i>
Hiện vẫn được viết theo nguyên tắc sau: Viết hoa chữ cái đầu của âm tiết thứ nhất, ví dụ:
tết Nguyên đán, tết Trung thu, tiết Đại hàn, tiết Lập xuân. Tuy nhiên, trong thực tế, cũng
có nhiều người viết hoa chữ cái đầu của tất cả các âm tiết.
<i>(Ban hành kèm theo Quyết định số 07/2003/QĐ-BGDĐT ngày </i>
<i>13/3/2003 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo)</i>
<b>I. Cách viết tên riêng Việt Nam</b>
<b>1. Tên người: Viết hoa chữ cái đầu của tất cả các âm tiết.</b>
<i>Ví dụ</i>:
- Đinh Tiên Hồng, Trần Hưng Đạo.
- Tố Hữu, Thép Mới.
- Vừ A Dính, Bàn Tài Đồn.
<i>* Chú ý</i>: Tên danh nhân, nhân vật lịch sử được cấu tạo bằng cách kết
hợp bộ phận vốn là danh từ chung với bộ phận tên gọi cụ thể cũng được
coi là tên riêng và viết hoa theo quy tắc viết hoa tên người.
<i>Ví dụ</i>:
-Ơng Gióng, Bà Trưng.
- Đồ Chiểu, Đề Thám.
<b>2. Tên địa lí: Viết hoa chữ cái đầu của tất cả các âm tiết.</b>
<i>Ví dụ</i>:
- Thái Bình, Trà Vinh, Cần Thơ.
- Thừa Thiên - Huế, Bà Rịa - Vũng Tàu.
- Sa Pa, Mù Cang Chải, Pác Bó.
<i>* Chú ý</i>: Tên địa lí được cấu tạo bởi danh từ chỉ hướng hoặc bằng cách
kết hợp bộ phận vốn là danh từ chung, danh từ chỉ hướng với bộ phận
tên gọi cụ thể cũng được coi là danh từ riêng chỉ tên địa lí và viết hoa
theo quy tắc viết hoa tên địa lí.
<i>Ví dụ</i>:
- Bắc Bộ, Nam Bộ, Tây Bắc, Đông Bắc.
- Vàm Cỏ Đông, Trường Sơn Tây.
- Hồ Gươm, Cầu Giấy, Bến Thuỷ, Cửa Việt, Đèo Ngang, Vũng Tàu.
<b>3. Tên dân tộc: Viết hoa chữ cái đầu của tất cả các âm tiết.</b>
<i>Ví dụ</i>:
Kinh, Tày, Sán Dìu, Lơ Lơ, Phù Lá, Hà Nhì.
<b>4. Tên người, tên địa lí và tên các dân tộc Việt Nam thuộc các </b>
<b>dân tộc thiểu số anh em có cấu tạo từ đa âm tiết (các âm tiết đọc </b>
liền nhau): Đối với mỗi bộ phận tạo thành tên riêng, viết hoa chữ cái
đầu và có gạch nối giữa các âm tiết.
<i>Ví dụ</i>:
<b>5. Tên cơ quan, tổ chức, đoàn thể: Viết hoa chữ cái đầu của âm tiết </b>
đầu tiên và các âm tiết đầu của các bộ phận tạo thành tên riêng.
<i>Ví dụ</i>:
- Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam;
- Uỷ ban Thường vụ Quốc hội;
- Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam;
- Bộ Giáo dục và Đào tạo;
- Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội;
- Bộ Nông nghiệp và Phát triển nơng thơn;
- Trung ương Đồn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh;
- Trường Đại học Sư phạm Hà Nội I;
- Trường Tiểu học Kim Đồng;
- Nhà máy Cơ khí Nơng nghiệp I.
<b>6. Từ và cụm từ chỉ các con vật, đồ vật, sự vật được dùng làm </b>
<b>tên riêng của nhân vật: Viết hoa chữ cái đầu của âm tiết tạo thành </b>
tên riêng.
<i>Ví dụ</i>:
- (chú) Chuột, (bác) Gấu, (cô) Chào Mào, (chị) Sáo Sậu;
- (bác) Nồi Đồng, (cô) Chổi Rơm, (anh) Cần Cẩu;
- (ông) Mặt Trời, (chị) Mây Trắng.
<b>II. Cách viết tên riêng nước ngồi</b>
<b>1. Tên người, tên địa lí:</b>
<i>1.1. Trường hợp phiên âm qua âm Hán - Việt</i>: Viết theo quy tắc viết tên
người, tên địa lí Việt Nam.
<i>Ví dụ</i>:
- Mao Trạch Đông, Kim Nhật Thành.
- Đức, Nhật Bản, Bồ Đào Nha, Triều Tiên.
<i>1.2. Trường hợp phiên âm không qua âm Hán - Việt</i> (phiên âm trực
tiếp, viết sát theo cách đọc): Đối với mỗi bộ phận tạo thành tên riêng,
viết hoa chữ cái đầu và có gạch nối giữa các âm tiết.
<i>Ví dụ</i>:
- Phơ-ri-đơ-rích ăng-ghen, Vơ-la-đi-mia I-lích Lê-nin.
- Mát-xcơ-va, I-ta-li-a, An-giê-ri.
<i>2.1. Trường hợp dịch nghĩa</i>: Viết theo quy tắc viết tên cơ quan, tổ chức,
đồn thể Việt Nam.
<i>Ví dụ</i>:
- Trường Đại học Tổng hợp Quốc gia Mát-xcơ-va mang tên
Lô-mô-nô-xốp.
- Viện Khoa học Giáo dục Bắc Kinh.
<i>2.2. Trường hợp viết tắt</i>: Viết nguyên dạng viết tắt. Tuỳ từng trường
hợp, có thể ghi thêm tên dịch nghĩa hoặc ghi thêm tên nguyên dạng
khơng viết tắt
<i>Ví dụ</i>:
WB (Ngân hàng Thế giới), hoặc WB (World Bank).
Đại từ chỉ ngôi (hay đại từ nhân xưng) trong tiếng Việt khá phức tạp, do chúng khơng
chỉ được dùng để chỉ ngơi mà cịn được dùng để biểu thị những thái độ, tình cảm khác
nhau của người nói. Đại từ chỉ ngơi tiếng Việt thường có tính bắt buộc; khi khơng dùng
chúng, quan hệ giữa các vai giao tiếp có thể thay đổi theo hướng xấu hoặc theo hướng
suồng sã, thân mật. Ví dụ: Câu “Chị ngồi xuống!” là câu nói lịch sự hơn câu “Ngồi
xuống!”. Tùy theo hoàn cảnh, câu thứ hai có thể được tiếp nhận một cách tiêu cực (thiếu lễ
độ) hoặc tích cực (thân mật).
Đại từ chỉ ngôi tiếng Việt được chia làm hai loại:
<b>1. Đại từ chỉ ngôi chuyên dùng: Là những đại từ chỉ được sử dụng để chỉ ngôi, không </b>
dùng trong chức năng của từ loại khác. Hệ thống đại từ chỉ ngơi chun dùng có thể trình
bày như sau:
<b>Ngơi I Số ít: tơi/tao/tớ/ta</b>
<b>Ngơi I Số nhiều: chúng tơi/chúng tao/chúng tớ </b>
<b>Ngơi II Số ít: mày/mi/ngươi</b>
<b>Ngơi II Số nhiều: chúng mày/ bay/chúng bay/chúng mi </b>
<b>Ngôi gộp (ngôi I + II): Chúng ta/ta </b>
<b>Ngơi III Số ít: nó/hắn/y/va</b>
<b>Ngơi III Số nhiều: chúng nó/chúng hắn/họ/chúng </b>
<b>2. Đại từ chỉ ngơi lâm thời: Là những từ thuộc các nhóm từ loại khác nhưng được sử </b>
dụng như đại từ chỉ ngôi. Đó có thể là:
* Các danh từ chỉ quan hệ thân thuộc: cụ, ơng, bà, bố, mẹ, chú, bác, thím, cơ, cậu, mợ, dì,
<i>anh, chị, em, con, cháu, chắt.</i>
Ngun tắc chung để sử dụng các danh-đại từ này là căn cứ vào vai giao tiếp (vị thế của
các vai giao tiếp): Người đóng vai giao tiếp có quan hệ với nhau như thế nào thì sử dụng
danh từ chỉ ngơi như thế. Ví dụ: Nếu vai giao tiếp là ơng và cháu (hiểu theo nghĩa chính
xác), hoặc có thể là ơng và cháu xét về mặt tuổi tác (hiểu theo nghĩa mở rộng), thì ta sử
dụng ‘ông’ và ‘cháu’ làm đại từ thay cho ‘tôi’, ‘mày’ ở ngôi thứ nhất và thứ hai. Như vậy,
các danh-đại từ chỉ ngơi có thể được sử dụng để xưng hơ trong gia đình, gia tộc nhưng
cũng có thể sử dụng để xưng hơ trong xã hội. Trong giao tiếp xã hội, tùy theo vị thế xã hội
và mức độ thân mật giữa các vai giao tiếp mà lựa chọn những từ thich hợp. Chẳng hạn,
một cơ gái có thể xưng hơ với một người ở tuổi bố mình là ‘ơng-cháu’ để biểu thị sự kính
trọng hoặc khiêm nhường; bạn bè thân với nhau có thể dùng cặp đại từ ‘bác-tôi’ hay
‘ông-tôi’ để thể hiện sự thân mật…
* Danh từ mình: Đây vốn là từ dùng để chỉ cơ thể người hoặc động vật nhưng thường
được dùng làm đại từ chỉ ngôi trong trường hợp người nói muốn thể hiện mối quan hệ thân
1) Mình đi ăn đi.
2) Cậu quên mình rồi à?
3) Mình đi đâu đấy mình?
4) Chúng mình cứ vào xem thế nào rồi quyết định sau!
* Một số danh từ dùng để xưng hô một cách chính thức, như bạn, đồng chí, ngài, vị, và
những danh từ chỉ chức vụ, nghề nghiệp, học hàm, học vị, như giám đốc, thủ trưởng, bộ
<i>trưởng, thủ tướng, tổng thống, thày giáo, cô giáo, bác sĩ, giáo sư, tiến sĩ, cũng được dùng </i>
làm đại từ chỉ ngơi (ngơi II).
* Trong khẩu ngữ, có thể kết hợp một danh từ chỉ quan hệ thân thuộc hàng trên (ví dụ:
<i>ơng, bà, bố, mẹ, chú, cơ, bác…) với một danh từ chỉ quan hệ thân thuộc hàng dưới (ví dụ: </i>
<i>cháu, chị, anh, em) để tạo ra đại từ nhân xưng ngơi II, ví dụ:</i>
1) Ơng cháu đi đâu đấy?
2) Xin chào bà chị!
3) Chú em hôm nay diện q nhỉ!
4) Ơng anh địi cao thế thì em biết trả thế nào!
5) Sao cơ em nóng tính thế?
Ngồi ra, cũng có thể kết hợp các từ chỉ quan hệ thân thuộc với các đại từ mày, nó và mình
để tạo đại từ chỉ ngơi II. Ví dụ:
1) Chú mày định chuồn à?
2) Bố nó hơm nay bị ốm à?
3) Cơ mình có đi với bọn anh khơng?
4) Mẹ nó vào ăn cơm.
1) Anh ta chẳng thích ai ở cơ quan mình.
2) Anh ấy chẳng thích ai ở cơ quan mình.
Cần nhớ rằng, từ ta chỉ có thể kết hợp với những từ chỉ người lớn tuổi hơn (anh, chị, chú,
<i>cô, ông, bà…), chứ không thể kết hợp với những từ chỉ người ít tuổi hơn (em, cháu, </i>
<i>con…), ví dụ: Khơng thể nói ‘em ta’ hay ‘cháu ta’ với ý nghĩa là ‘nó’ mà chỉ dùng với ý </i>
nghĩa: ‘em của chúng ta’ hay ‘cháu của chúng ta’.
* Ngoài ra, từ ‘ta’ và ‘ấy’ cịn có thể được kết hợp với một số danh từ chỉ người theo độ
tuổi và giới tính (lão, mụ) để chỉ ngơi III. Thường thì dạng thức này mang thêm ý nghĩa
tiêu cực hoặc thân mật, tuỳ theo ngữ cảnh. Ví dụ:
1) Lão ta về vườn rồi.
2) Mụ ấy có tới năm cái nhà cho th.
Cuối cùng, trong tiếng Việt cịn có một số đại từ nhân xưng đặc biệt dùng để thể hiện
những tình cảm, thái độ đặc biệt kính trọng hoặc suồng sã: Người; ơng cụ/bà cụ (= mẹ/bố,
ví dụ: bà cụ tôi = mẹ tôi).
<b>Câu hỏi và bài tập</b>
1/ Đại từ chỉ ngơi chun dùng là gì? Đại từ chỉ ngơi chun dùng tiếng Việt có gì đặc
2/ Đại từ chỉ ngơi lâm thời là gì? Những từ nào có thể được sử dụng làm đại từ chỉ ngôi
lâm thời?
3/ Hãy mô tả các đại từ chỉ ngơi II số ít và số nhiều và cho ví dụ minh họa.
4/ Hãy mơ tả các đại từ chỉ ngơi III số ít và số nhiều và cho ví dụ minh họa.
5/ Nêu sự khác biệt giữa các đại từ chỉ ngơi trong các ví dụ sau:
- Anh đi đâu đấy?/ Ông anh đi đâu đấy?
<i>- Chị cho em hỏi, xe này có đi Mai Động khơng?/ Bà chị cho em hỏi, xe này có đi Mai </i>
<i>Động khơng?</i>
<i>- Bố nó ăn cơm đi!/ Bố nó đi ăn cơm.</i>
<i>- Bà ấy luôn luôn làm việc thiện./ Bà ta luôn luôn làm việc thiện!</i>
<i>- Hôm nay ông ấy không tiếp ai cả./ Hôm nay lão ta không tiếp ai cả. </i>
<b>1. Số từ chỉ số lượng</b>
<i><b>1.1 Số từ chỉ số lượng chính xác: Hệ thống số từ chỉ số lượng chính xác trong tiếng Việt </b></i>
có phần phức tạp vì tiếng Việt có sử dụng hai hệ thống số đếm chính xác: số đếm thuần
<i>Việt và số đếm Hán-Việt. </i>
- Hệ thống số đếm chính xác thuần Việt được phân ra thành hai hệ thống nhỏ: số đếm
<i>chẵn và số đếm lẻ.</i>
được thiết lập bằng cách phối hợp 10 số cơ bản với các đơn vị trăm, nghìn, triệu, tỉ, ví dụ:
<i>hai trăm; một nghìn chín trăm; ba triệu hai trăm nghìn; bốn tỉ hai trăm năm mươi triệu </i>
<i>bốn trăm năm muơi sáu nghìn (4.250.456.000). </i>
Ngồi ra, để đếm các số từ một trăm trở lên, tiếng Việt còn dùng các danh từ lẻ hoặc linh
để thay cho chữ ‘khơng’ ở hàng chục, ví dụ: một trăm lẻ một (=101), một nghìn khơng
<i>trăm linh một (=1001). Khi viết các số đếm, ta dùng các dấu chấm để ngăn cách các chữ </i>
số hàng nghìn, hàng triệu…
+ Tuy nhiên, tiếng Việt có sự biến đổi âm của các số lớn hơn 10 có hàng đơn vị là năm
(=lăm), mười (=mươi), ví dụ: mười lăm, hai lăm, hai mươi, năm mươi, và ở các số 21 và
31, một được đổi thành mốt, ví dụ: hai mốt, ba mốt.
+ Đối với các chữ số hàng chục đầu 2 và đầu 3, có thể rút gọn chữ số mươi thành [m] và
đọc nối với chữ số chỉ hàng chục, ví dụ: hăm hai (22), băm lăm (35).
+ Riêng số bốn cịn có thêm dạng ‘tư’ nhưng thường khơng được sử dụng làm số đếm cơ
bản mà chỉ sử dụng cho hàng đơn vị của các số đếm lớn hơn 20, ví dụ: ba tư (34), bốn tư
(44), hoặc sử dụng kèm theo các từ khác để chỉ cách thức hay số thứ tự, ví dụ: chẻ tư, thứ
<i>tư, hàng tư. </i>
+ Các số lẻ dưới 1 (gọi là số thập phân) có cách đọc: Số đếm chẵn + số thập phân, ví dụ:
(một) phần hai (ẵ), (ba) phn t (ắ), (sỏu) phn nghỡn (6/1000), hoặc: Số đếm cơ bản
(không) + phảy + số lẻ, ví dụ: khơng phảy năm (=0,5), khơng phảy bảy lăm (=0,75). Riêng
trường hợp 0,5 cịn có cách đọc thơng thường là (một) nửa, khi dùng với các danh từ, ví
dụ: (một) nửa tài sản. Trong khẩu ngữ, người ta có thể đọc các số lẻ theo cách: chữ số
thập phân + phảy, ví dụ: năm phảy (=0,5), ba phảy (=0,3).
Các số lẻ lớn hơn 1 có cách đếm: số đếm chẵn + rưỡi hoặc số thập phân, ví dụ: hai rưỡi
(2,5), năm một phần ba (5⅓), hoặc: Số đếm chẵn + phảy + số lẻ, ví dụ: một phảy hai
- Số đếm Hán -Việt (nhất, nhị, tam, tứ, ngũ, lục, thất, bát, cửu, thập) chỉ được sử dụng hạn
chế trong những trường hợp cần phải biểu thị sự trang trọng, trong một số thuật ngữ hay
trong một số thành ngữ, quán ngữ, ví dụ: thơ song thất lục bát, ốm thập tử nhất sinh,
<i>nhóm Tam ca, hình tứ giác, hình tam giác, đàn tam thập lục, tam thập nhi lập, xe song </i>
<i>mã, mâm ngũ quả, tam sao thất bản, bách bệnh, thiên binh vạn mã, thiên niên kỉ. </i>
<i><b>1.2 Số từ chỉ số lượng áng chừng: Đây là loại số từ dùng để chỉ những số lượng khơng </b></i>
chính xác.
- Tiếng Việt sử dụng 3 số từ áng chừng cơ bản: vài, dăm, mươi.
- Gần với số đếm áng chừng, cịn có 2 số đếm gộp là: chục (10), tá (12). Những số đếm
này có thể khác nhau ở các địa phương, ví dụ: ở Nam Bộ một chục có thể là 12, thậm chí
14. Ta cũng có thể kết hợp các số đếm áng chừng với các số đếm gộp này, ví dụ: dăm
<i>chục ngàn người, vài tá bút, vài chục triệu đồng. Hiện nay, tá càng ngày càng ít được sử </i>
dụng.
<b>2. Số thứ tự</b>
- Tiếng Việt khơng có hệ thống số thứ tự riêng như ở nhiều ngôn ngữ khác. Số thứ tự trong
tiếng Việt được tạo ra bằng cách thêm từ ‘thứ’ vào trước các số đếm, ví dụ: thứ hai, thứ
<i>năm, thứ mười bảy. Riêng đối với số thứ tự đầu tiên, người ta thường thay số ‘một’ thuần </i>
Việt bằng nhất Hán-Việt thành thứ nhất; đối với số thứ tự thứ hai, có thể thay số hai bằng
nhì thành thứ nhì; đối với số thứ tự thứ bốn, có thể thay số bốn bằng tư thành thứ tư.
- Khi đi với một số danh từ và động từ, ta có thể bỏ ‘thứ’ mà vẫn thể hiện được số thứ tự,
ví dụ: bàn một, hàng hai, dịng bốn, đứng nhất lớp, về nhì, nhưng khơng nói: con hai thay
cho con thứ hai, hay bữa hai thay cho bữa thứ hai…
Cần lưu ý rằng, trong những trường hợp cần phân biệt số đếm và số thứ tự, người ta đặt số
từ chỉ thứ tự sau danh từ (hoặc động từ). So sánh: hai lớp/ lớp hai; năm bàn/bàn năm; chín
<i>ngày/ ngày chín; về nhì. </i>
<b>Lượng từ</b>
Từ dùng để đếm lượng độ. Thí dụ: cái, chiếc, căn, người, con, từ, v.v.,
<b>Cụm từ</b>
<b>Cụm danh từ</b>
<b>Cụm động từ</b>
<b>Cụm tính từ</b>
<b>Giới ngữ</b>
<b>CÁC KIỂU CẤU TẠO TỪ TIẾNG VIỆT </b>
1. Từ đơn: là những từ được cấu tạo bằng một tiếng độc lập. Thí dụ: Nhà, xe, tập, viết,
xanh,đỏ, vàng, tím,...
- Xét về mặt lịch sử, hầu hết từ đơn là những từ đã có từ lâu đời. Một số từ có nguồn
gốc thuần Việt, một số từ vay mượn từ các ngơn ngữ nước ngồi như tiếng Hán, tiếng
Pháp, Anh, Nga,...
- Xét về mặt ý nghĩa , từ đơn biểu thị những khái niệm cơ bản trong sinh hoạt của đời
sống hàng ngày của người Việt, biểu thị các hiện tượng thiên nhiên, các quan hệ gia
đình, xã hội , các số đếm,...
bản nhất, giữ vai trò quan trọng nhất trong việc biểu thị các khái niệm có liên quan đến
đời sống và cấu tạo từ mới cho tiếng Việt.
2. Từ ghép: là những từ có hai hoặc hơn hai tiếng được ghép lại với nhau dựa trên quan
hệ ý nghĩa.
Dựa vào quan hệ ngữ pháp giữa các yếu tố, có thể phân từ ghép ra làm 2 loại chính:
2.1. Từ ghép đẳng lập:
Từ ghép đẳng lập có những đặc trưng chung là:
- Quan hệ ngữ pháp giữa các thành tố trong từ là quan hệ bình đẳng.
- Xét về mặt quan hệ ý nghĩa giữa các thành tố có thể thấy:
+ Hoặc các thành tố đồng nghĩa nhau, trong đó:
* Có thể có một yếu tố thuần Việt và một yếu tố Hán Việt. Ví dụ: bạn hữu, bụng dạ,
máu huyết,...
* Có thể cả hai yếu tố đều là Hán Việt. Ví dụ: tư duy, thổ địa, tiên lợi, cốt nhục,...
* Có thể cả hai yếu tố đều là thuần Việt. Ví dụ: đợi chờ, máu mủ, xinh đẹp,...
* Có thể có một yếu tố tồn dân và một yếu tố vố là từ địa phương. Ví dụ:Chân cẳng,
bát đọi, chợ búa,...
+ Hoặc các thành tố gần nghĩa nhau. Thí dụ: thương nhớ, nhà cửa, áo quần, ăn uống,
đi đứng,...
+ Hoặc các thành tố trái nghĩa nhau. Thí dụ: đầu đi, sống chết, già trẻ, gần xa, trong
ngoài,...
- Xét về mặt nội dung, nói chung, từ ghép đẳng lập thường gợi lên những phạm vi sự
- Tuy có quan hệ bình đẳng về mặt ngữ pháp, nhưng không đưa đến hệ quả là ý nghĩa
từ vựng của các thành tố trong từ đều có giá trị ngang nhau trong mọi trường hợp. Như
ta sẽ thấy, những trường hợp một trong hai thành tố phai mờ nghĩa xảy ra phổ biến
trong từ ghép đẳng lập.
- Căn cứ vào vai trò của các thành tố trong việc tạo nghĩa và phạm vi biểu đạt của từ
ghép, có thể phân từ ghép đẳng lập thành ba loại nhỏ là từ ghép đẳng lập gộp nghĩa, từ
ghép đẳng lập đơn nghĩa và từ ghép đẳng lập hợp nghĩa.
Chẳng hạn, từ quần áo chỉ đồ mặc nói chung, trong đó có cả quần lẫn áo.
Một số ví dụ về từ ghép gộp nghĩa: điện nước, xăng dầu, tàu xe, xưa nay, chạy nhảy,
học tập, nghe nhìn, thu phát, ăn uống, tốt đẹp, may rủi, hèn mọn,thầy trò, vợ con...
+ Từ ghép đẳng lập đơn nghĩa: bao gồm từ ghép thuộc mơ hình ngữ nghĩa AB = A hoặc
B. Tức là loại mà nghĩa khái quát chung của cả từ ghép tương ứng với ý nghĩa của một
thành tố có mặt trong từ. Ví dụ: núi non, binh lính, thay đổi, tìm kiếm,...
Do nghĩa của cả từ ghép tương đương với nghĩa của một thành tố nên thành tố cịn lại
có xu hướng bị mờ nghĩa hoặc bị mất nghĩa. Yếu tố này sẽ làm chỗ dựa cho ý nghĩa của
cả từ ghép. Có thể nói sự mờ nghĩa của núc (bếp núc), búa ( chợ búa), pheo ( tre pheo)
... chính là kết quả cực đoan của mơ hình đơn nghĩa này.
Một số ví dụ về từ ghép đẳng lập đơn nghĩa: bếp núc, chợ búa, đường sá, heo cúi, áo
xống, ăn mặc, ăn nói, viết lách, ...
+ Từ ghép đẳng lập hợp nghĩa: bao gồm những từ ghép nằm trong mô hình ngữ nghĩa
AB > A+B . Tức là loại mà ở đó nghĩa của cả từ khơng phải chỉ là phép cộng đơn thuần
Chú ý về trật tự các thành tố trong từ ghép đẳng lập.
Bàn về từ ghép đẳng lập, người ta thường bàn đến khả năng hoán vị giữa các thành tố.
Tuy nhiên cần chú ý là khả năng ấy không xảy ra phổ biến đối với toàn bộ lớp từ ghép
đẳng lập, và không phải xảy ra vô điều kiện trong mọi trường hợp. Về hiện tượng này
có thể nêu mấy nhận xét chung như sau:
+ Có thể hốn vị được đối với một số từ ghép gộp nghĩa trường hợp khơng có yếu tố
Hán - Việt. Thí dụ: quần áo - áo quần, rủi may - may rủi, tươi tốt - tốt tươi,...
+ Khả năng hốn vị ít xảy ra giữa các thành tố trong từ ghép đơn nghĩa, đặc biệt đối với
trường hợp từ ghép có yếu tố mờ nghĩa, mất nghĩa.
+ Khả năng hoán vị bị sự khống chế của một số yêu cầu:
* Không được phép làm thay đổi ý nghĩa của từ ghép ban đầu. Ví dụ: đi lại - lại đi ; cơm
nước - nước cơm khác nghĩa.
* Không đi ngược lại tập quán cổ truyền của dân tộc. Ví dụ: nam nữ nữ nam; ông bà
-bà ông, anh em - em anh, vua quan - quan vua,... khơng hốn vị được.
2.2 Từ ghép chính phụ: Là những từ ghép mà ở đó có ít nhất một thành tố cấu tạo nằm
ở vị trí phụ thuộc vào một thành tố cấu tạo khác, tức trong kiểu từ ghép này thường có
một yếu tố chính và một yếu tố phụ về mặt ngữ pháp. Loại này có những đặc điểm sau:
- Xét về mặt ý nghĩa, nếu từ ghép đẳng lập có khuynh hướng gợi lên các sự vật, tính
chất có ý nghĩa khái quát, tổng hợp, thì kiểu cấu tạo từ này có khuynh hướng nêu lên
các sự vật theo mang ý nghĩa cụ thể.
- Trong từ ghép chính phụ, yếu tố chính thường giữ vai trị chỉ loại sự vật, đặc trưng
hoặc hoạt động lớn, yếu tố phụ tường được dùng để cụ thể hóa loại sự vật, hoạt động
hoặc đặc trưng đó.
- Căn cứ vào vai trò của các thành tố trong việc tạo nghĩa, có thể chia từ ghép chính
phụ thành hai tiểu loại:
+ Từ ghép chính phụ dị biệt: là từ ghép trong đó yếu tố phụ có tác dụng phân chia loại
sự vật, hoạt động, đặc trưng lớn thành những loại sự vật , hoạt động, đặc trưng, cụ
thể. Vì vậy có thể nói tác dụng của yếu tố phụ ở hiện tượng này là tác dụng phân loại.
Thí dụ :
• máy may, máy bay, máy bơm, máy nổ, máy tiện,...
• làm việc, làm thợ , làm dun, làm ruộng, làm dâu,...
• vui tính, vui tai, vui mắt, vui miệng,...
Chú ý, ở kiểu từ ghép này trật tự của các yếu tố trong từ ghép thuần Việt, hoặc Hán -
Việt Việt hoá khác từ ghép Hán - Việt. ở hai trường hợp đầu, yếu tố chính thường đứng
trước, ở trường hợp cuối, yếu tố phụ thường đứng trước. Ví dụ:
• vùng biển, vùng trời, xe lửa, nhà thơ,...
• hải phận, khơng phận, hỏa xa, thi sĩ,...
+ Từ ghép chính phụ sắc thái hóa: là những từ ghép trong đó thành tố phụ có tác bổ
sung một sắc thái ý nghĩa nào đó khiến cho cả từ ghép này khác với thành tố chính khi
nó đứng một mình như một từ rời, hoặc khiến cho từ ghép sắc thái hóa này khác với từ
ghép sắc thái hóa khác về ý nghĩa. Thí dụ , so sánh xanh lè với xanh và xanh biếc, ...
3. Từ láy:
ngữ mới nhằm định danh sự vật mới một cách tiết kiệm mà lại có khả năng miêu tả sinh
động, biểu cảm nhất. Có thể nói ý kiến thứ nhất đã nêu ra được những từ láy chân
chính trong tiếng Việt. Tuy nhiên cần nhận thức được rằng ngôn ngữ không đứng yên
mà luôn vận động, thay đổi theo sự phát triển của xã hội. Trong q trình đó, những từ
ghép có dạng láy và những từ láy chân chính đã hịa lẫn vào nhau mà ngay cả những
nhà ngôn ngữ học cũng khó phát hiện và phân biệt được chúng trong nhiều trường hợp.
Gần đây trong nhiều bài viết, các tác giả đã khơi phục được nghĩa của nhiều từ ghép có
dạng láy bị mất nghĩa. Dẫu sao những từ này hiện nay cũng đã mang nhiều đặc điểm
của từ láy ( về mặt ngữ nghĩa cũng như ngữ âm). Trong khi chờ đợi những cứ liệu lịch
sử đầy đủ hơn nữa, có thể xem chúng là từ láy. Do vậy, đứng tên quan điểm đồng đại
có thể nói từ láy là những từ gồm nhiều tiếng, giữa các tiếng có quan hệ ngữ âm có tác
dụng tạo nghĩa.
3.1. Ðặc điểm của từ láy:
- Giữa các tiếng trong từ láy có quan hệ với nhau về mặt ngữ âm, biểu hiện ở một trong
các dạng sau :
+ Hoặc giống nhau ở phần phụ âm đầu. Thí dụ: vắng vẻ, vui vẻ,...
+ Hoặc giống nhau ở phần vần. Thí dụ: co ro, lác đác, lung túng,...
+ Hoặc giống nhau ở cả phần phụ âm đầu lẫn phần vần. Thí dụ: đo đỏ, hao hao,...
+ Riêng thanh điệu, ở từ láy đôi thường tuân theo quy tắc biến thanh sau:
Cao _ / ?
Thấp \ . ~
- Mối quan hệ về mặt ngữ âm trong từ láy tạo nên sự hòa phối ngữ âm có tác dụng biểu
trưng hóa ( Hồng Văn Hành), tức là tạo ra một thứ ý nghĩa biểu trưng, ý nghĩa ấn
tượng mà người bản ngữ tỏ ra nhạy cảm với nó hơn so với người khơng phải thuộc bản
ngữ. Ðó là lí do giải thích vì sao trong tiếng Việt tồn tại nhiều từ láy rất khó lịng giải
nghĩa, nhưng người bản ngữ nói chung vẫn cảm nhận được cái hay, vẫn dùng đúng và
hiểu đúng, nhưng khó có thể giải thích tính đúng, tính hay đó cho người ngoại quốc học
tiếng Việt. Chính vì vậy ở những từ ghép có các thành tố cịn rõ nghĩa và có hiện tượng
lặp âm ngẫu nhiên như tươi tốt, nam nữ, mặt mũi, hầm hố,...nhưng người bản ngữ
không hề nghĩ đến chúng như là từ láy. ở đây ý nghĩa của từng thành tố trong từ còn
quá rõ, chúng đã cản trở việc tạo ra một thứ ý nghĩa vốn mơ hồ, yếu ớt, mặc dù khá ổn
định. Và ngược lại, khi trong từ ghép đẳng lập có xuất hiện yếu tố mờ nghĩa, người ta
dễ cảm thụ chúng như là từ láy. Ðó là lí do giải thích tại sao những từ chùa chiền, hỏi
han, đất đai, chim chóc, tuổi tác được nhiều người lĩnh hội như là từ láy.
- Từ đó dẫn đến đặc điểm thứ ba, trong từ láy phải có ít nhất một yếu tố không độc
(mờ nghĩa hay mất nghĩa). Như vậy, từ láy trong tiếng Việt có thể xảy ra hai trường
hợp: a - Từ láy có một yếu tố độc lập ( hay tiếng gốc) và một yếu tố không độc lập
( hay tiếng láy); b - Từ láy có cả hai yếu tố đều khơng độc lập ( hay từ láy khơng có
tiếng gốc).
Kết hợp tiêu chí số lượng tiếng với các bộ phận giống nhau trong từ, có thể phân từ láy
thành các loại sau:
- Từ láy đôi là từ láy gồm có 2 tiếng. Có các dạng cấu tạo láy đôi sau:
+ Từ láy bộ phận: Từ giống nhau ở phần vần hoặc phụ âm đầu.
* Giống nhau ở phụ âm đầu gọi là từ láy âm => thí dụ: sạch sẽ, dễ dàng, dễ dãi, đông
* Giống nhau ở phần vần gọi là từ láy vần => thí dụ: chói lọi, khéo léo, co ro, lanh
chanh, ...)
+ Từ láy hoàn toàn: Ngoại trừ những từ láy bộ phận, còn lại là các từ láy hoàn toàn. Cụ
thể gồm các dạng sau:
* Giống cả phần vần, phụ âm đầu và thanh điệu.
Thí dụ: đùng đùng, lù lù, vàng vàng,...
* Giống phần vần, phụ âm đầu, khác nhau thanh điệu.
Thí dụ: đu đủ, cỏn con, đo đỏ, tím tím,...
* Giống nhau phụ âm đầu và âm chính, khác nhau ở thanh điệu và phụ âm cuối do sự
chi phối của quy luật dị hóa.
Thí dụ: đèm đẹp, bàng bạc,sành sạch, tôn tốt,...
Dạng biến đổi này xảy ra trong các trường hợp các tiếng gốc có phụ âm cuối là -p, -t, -k
( thể hiện trên chữ viết là c và ch ). Trong trường hợp này, thanh điệu cũng biến đổi
theo quy luật vừa nói trên. Cịn phụ âm cuối biến đổi theo quy luật là tiếng gốc tận cùng
bằng các phụ âm tắc-vô thanh sẽ được chuyển thành các phụ âm mũi-hữu thanh ở
tiếng láy. Cụ thể:
Tiếng gốc Tiếng láy
( Âm tắc, vô thanh) ( Âm mũi - hữu thanh)
ăm ấp - p - m
phơn phớt - t - n
bàng bạc, sành sạch - k - ng ( thể hiện trên chữ ng và nh)
- Từ láy ba và láy tư:
Từ láy ba: chủ yếu dựa trên cơ chế láy hồn tồn.
Thí dụ: nhũn => nhũn nhùn nhùn, dưng => dửng dừng dưng,
khỏe => khỏe khoè khoe, con => cỏn còn con.
-Tiếng thứ hai mang thanh bằng (thường xuất hiện thanh huyền hơn thanh ngang).
-Tiếng thứ nhất và tiếng thứ ba đối lập nhau về bằng / trắc hoặc về âm vực cao / thấp.
Ví dụ cho trường hợp thứ nhất: dửng dừng dưng, cỏn còn con, sạch sành sanh, khỏe
khịe khoe,...
Ví dụ cho trường hợp thứ hai: khít khìn khịt, sát sàn sạt, xốp xồm xộp,...
Từ láy ba dạng láy bộ phận chiếm số lượng rất ít. Ví dụ: tơ lơ mơ, tù lù mù,...
Từ láy tư: Phần lớn từ láy dựa trên cơ sở từ láy đơi, một số ít có phần gốc là từ ghép.
So với từ láy ba, từ láy tư khá đa dạng về kiểu cấu tạo. Sau đây là một số kiểu thường
gặp:
+ Láy bộ phận kết hợp với đổi vần -a, -à hay -ơ.
Ví dụ: ấm ớ --- ấm a ấm ớ
hì hục --- hì hà hì hục
sớn sát --- sớn sơ sớn sát
+ Láy toàn bộ kết hợp với biến thanh.
Ví dụ: bồi hồi --- bổi hổi bồi hồi
lảm nhảm --- lảm nhảm làm nhàm
+ Láy bộ phận kết hợp với tách, xen .
Ví dụ: thơ thẩn --- lơ thơ lẩn thẩn
nhồm nhoàm --- lồm nhồm loàm nhoàm
+ Láy toàn bộ kết hợp với tách, xen
Ví dụ: hăm hở --- hăm hăm hở hở
vội vàng --- vội vội vàng vàng
3 3. ý nghĩa của từ láy.
ở đây, ta chủ yếu bàn về từ láy đôi.
Xét tác dụng của các tiếng tham gia cấu tạo nghĩa của từ láy, có thể chia từ láy nói
chung thành 3 nhóm :
b. Từ láy sắc thái hóa: là những từ mà trong đó có một yếu tố gốc và một hoặc hơn một
yếu tố láy . Yếu tố gốc chi phối nghĩa của toàn bộ từ láy, yếu tố cịn lại có tác dụng bổ
sung một sắc thái nghĩa nào đó khiến cho từ láy khác với phần gốc khi nó đứng một
mình và khác với từ láy khác có cùng yếu tố gốc. Ví dụ, so sánh bối rối với rối rắc rối, rối
ren, rối rít; dễ dãi với dễ, dễ dàng; xanh xanh với xanh và xanh xao,...Xét về mặt phạm
vi biểu vật của từ láy so với tiếng gốc, cần phân biệt hai trường hợp: thứ nhất là từ láy
phi cá thể hóa - những từ mà ý nghĩa biểu thị phạm vi sự vật rộng hơn so với tiếng gốc;
thứ hai là từ láy cụ thể hóa những từ mà ý nghĩa biểu thị phạm vi sự vật hẹp hơn so với
tiếng gốc. Ví dụ cho trường hợp thứ nhất như: chim chóc, mùa màng, hội hè,...Ví dụ
cho trường hợp thứ hai như: dễ dàng, dễ dãi, bối rối, rắc rối, rối rít, xanh xanh, xanh
xao,...
Có thể nêu ra một số mơ hình ngữ nghĩa tương đối thuần nhất của một số kiểu láy như
sau:
- Kiểu từ láy toàn bộ:
+ Tiếng gốc gốc tính từ, kiểu L( láy).G( gốc).
* L. có thanh bằng: thường diễn đạt tính chất hoặc đặc điểm mang ý nghĩa giảm nhẹ. Ví
dụ: kha khá, đo đỏ, tơn tốt,...
* L. có thanh trắc: thường diễn đạt tính chất hoặc đặc điểm có cường độ gia tăng. Ví
dụ: cỏn con, tẻo teo,...
+ Tiếng gốc gốc động từ: thường diễn đạt các hành động lặp đi lặp lại một cách đều
đặn và kèm với quá trình lặp lại đó, cường độ của hành động mang tính chất giảm nhẹ.
Ví dụ: gật gật, lắc lắc, rung rung,...
+ Tiếng gốc gốc danh từ: thường diễn tả sự lặp đi lặp lại của các sự kiện, hiện tượng. Ví
dụ: ngày ngày, người người, nhà nhà,...
- Kiểu láy âm:
* Kiểu G. L( -ăn): thường diễn tả tính chất hoặc đặc điểm đạt chuẩn mực. Ví dụ: đầy
đặn, vuông vắn, ngay ngắn, thẳng thắn,...
* Kiểu L (-âp). G ( gốc động từ) : thường diễn tả hành động không ổn định tại chỗ hoặc
diễn ra theo tình thế hiện ra biến mất. Ví dụ: lấp ló, thập thị, nhấp nháy,...
4.Từ ngẫu hợp : Ngoại trừ các trường hợp trên, còn lại là các từ ngẫu hợp. Ðấy là
trừơng hợp mà giữa các tiếng khơng có quan hệ ngữ âm hay ngữ nghĩa. Thí dụ: cà phê,
a xít, a pa tít,...cổ hũ, mè nheo, ba láp, ba hoa, bồ hóng,...
• Chú ý:
1. Hiện tượng chuyển di kiểu cẩu tạo từ trong tiếng Việt:
Không kể từ đơn và từ ngẫu hợp, tiếng Việt có 3 kiểu cấu tạo từ cơ bản cùng với các
kiểu nhỏ là:
- Từ ghép đẳng lập: gộp nghĩa, hợp nghĩa, đơn nghĩa.
- Từ ghép chính phụ: dị biệt, sắc thái hố.
- Từ láy: phỏng thanh, sắc thái hóa, cách điệu.
Xét các đơn vị trên trục đồng đại hay lịch đại, ở bình diện ngơn ngữ hay lời nói, việc
nhận thức về kiểu cấu tạo lớn nhỏ của chúng có thể di chuyển khá phức tạp, làm cho
con đường phân giới giữa chúng có thể bị nhịe đi. Trong những trường hợp đó, nếu
thiên về mặt này thì từ đang xét được xếp vào kiểu cấu tạo này, nhưng nếu thiên về
mặt khác thì nó thuộc kiểu cấu tạo khác.
Chẳng hạn từ chùa chiền, đất đai, hỏi han, xét về mặt lịch sử chúng là từ ghép đẳng
lập, tuy nhiên do sự tác động của phương thức cấu tạo từ và mơ hình ngữ nghĩa ( nghĩa
khái quát của A+B = A hoặc B) đã làm cho nghĩa của một trong hai yếu tố bị mờ nghĩa.
Ngoài ra do sự trùng hợp ngẫu nghiên về mặt ngữ âm đã làm cho người bản ngữ hiện
đại nhận diện chúng như là những từ láy. Xuất phát từ đặc điểm vừa nêu, trong tiếng
Việt ngày nay tồn tại nhiều từ có thể có hai hướng nhìn nhận như học hành, hình hài,
nhăn nheo, chăm chú, đền đài,...Như vậy, để biện luận kiểu cấu tạo của một từ, cần
dựa vào một tiêu chí rõ ràng, dứt khốt. Trong khi chờ đợi những phát hiện mới mẻ hơn
nữa của ngôn ngữ học lịch sử, ta có thể dựa vào tiêu chí đồng đại để xác định kiểu cấu
tạo của từ.
Việc nhận thức các tiểu loại trong từ ghép đẳng lập cũng khơng nhất thành bất biến nếu
- Cửa hàng ăn uống ( gộp nghĩa); ở đây ăn uống khá thật ( rất có thể là đơn nghĩa, chỉ
nói về ăn đối với các nhà ăn tập thể).
- Cơm nước đã sẵn sàng ( gộp nghĩa); cơm nước chán quá ( rất có thể đơn nghĩa).
- Ăn ở dơ dáy ( gộp nghĩa); ăn ở với nhau được hai mụn con ( chỉ sự chung sống với
nhau ), ăn ở chí tình sự ( chỉ sự cư xử với nhau trong xã hội). Hai trường hợp sau này
chúng được chuyển nghĩa trên cơ sở nghĩa thứ nhất. Do đó muốn xác định được kiểu
cấu tạo của chúng ta phải dựa vào ngữ cảnh cụ thể và biện luận rõ ràng.
2. Các tiêu chí xác định các kiểu cấu tạo từ trong tiếng Việt.
Tiếng Việt ở bậc phổ thông cơ sở và trung học, nội dung xác định các kiểu cấu tạo từ
rất được những nhà giáo dục quan tâm. Tuy nhiên ở các cấp học này vấn đề tiêu chí
xác định các kiểu cấu tạo từ không phải đã sáng rõ, đặc biệt là ranh giới giữa từ láy và
từ ghép. Ðể có thể xác định các kiểu cấu tạo từ tiếng Việt một cách nhất quán, cần dựa
trên những tiêu chí rõ ràng. Dựa vào những vấn đề có tính chất lí thuyết về các kiểu cấu
tạo từ tiếng Việt đã nêu, ta có thể nêu lên và áp dụng một cách tuần tự các tiêu chí xác
định các kiểu cấu tạo từ tiếng Việt sau dây:
- Về góc nhìn, trong khi chờ đợi những cứ liệu lịch sử đủ rõ, ta có thể xét từ tiếng Việt
dựa trên quan điểm đồng đại, tức dựa vào sự nhận thức chung của người bản ngữ
đương đại về nghĩa của các yếu tố cấu tạo từ.
- Dựa vào số lượng tiếng trong từ. Nếu từ có một tiếng ( dĩ nhiên là tiếng độc lập) thì
đó là từ đơn. Nếu từ có hơn một tiếng thì đó là từ phức.
- ở những từ phức, để xác định cụ thể các kiểu cấu tạo từ, ta lại tiếp tục dựa vào quan
+ Nếu giữa các thành tố trong từ phức có quan hệ với nhau về mặt ngữ âm, đồng thời
trong đó có yếu tố khơng độc lập và khơng mang nghĩa thực thì đó là từ láy ( Ví dụ:
vắng vẻ, dễ dàng, sạch sẽ,...). Tiêu chí này sẽ loại trừ các trường hợp các từ ghép có
quan hệ ngẫu nhiên về mặt ngữ âm ( như hầm hố, máu mủ, tốt tươi,...). ở những từ láy
ta lại tiếp tục dựa vào số lượng tiếng, dựa vào các bộ phận giống nhau trong từ để xác
định các từ láy đôi, láy ba, các từ láy bộ phận hay hoàn toàn, láy âm hay láy vần.
+ Nếu giữa các thành tố trong từ phức có quan hệ với nhau về mật ngữ nghĩa thì đó là
từ ghép. ở từ ghép, ta lại tiếp tục dựa vào các mơ hình ngữ nghĩa cụ thể của từng từ để
xác định các kiểu cấu tạo cụ thể. Nếu một tổ hợp tiếng gợi lên các sự vật mang ý nghĩa
khái qt, tổng loại thì đó là từ ghép đẳng lập. Còn nếu một tổ hợp nêu lên một phạm
vi sự vật mang ý nghĩa cụ thể thì đó là từ ghép chính- phụ.
+ Nếu giữa các thành tố khơng có quan hệ ngữ âm hoặc ngữ nghĩa thì đó là từ ngẫu
hợp.
tiếng Việt, bài viết này tập trung khảo sát các biểu hiện của CTTT qua CTCP của câu đơn
tiếng Việt.
<b>1. CTTT và CTCP của câu đơn tiếng Việt</b>
Trước khi đề cập đến các biểu hiện của CTTT qua CTCP của câu đơn tiếng Việt cần thiết
phải minh định rõ mối quan hệ giữa CTTT và CTCP.
Trong một bài viết trước (Nguyễn Hồng Cổn 2009), chúng tơi đã đồng tình với quan điểm
cho rằng CTCP của câu tiếng Việt là cấu trúc đề – thuyết có chức năng tổ chức và truyền
đạt thơng điệp, trong đó đề là bộ phận biểu thị “cái được nói đến” hay là “xuất phát điểm”
1) Trời // mưa.
2) Hơm qua // (trời) mưa.
3) Nam // là người Huế.
4) Ai // làm việc này?
5) Anh // đi đi!
6) Ở đây // nhiều muỗi quá! (Ghi chú: Đề // Thuyết)
Khác với CTCP đề – thuyết có chức năng tổ chức thơng điệp, CTTT biểu hiện sự khác biệt
về vị thế thông tin của các thành tố của thông điệp trong các tình huống giao tiếp cụ thể.
Theo sự khác biệt về vị thế thơng tin, CTTT của câu có thể được chia thành hai phần là
tiêu điểm (focus) và cơ sở (background), trong đó tiêu điểm là thành tố bắt buộc, còn cơ sở
là thành tố tuỳ ý (x. Nguyễn Hồng Cổn 2010). Xét trong mối quan hệ giữa CTTT và
CTCP, cấu trúc cơ sở – tiêu điểm có thể trùng hoặc khơng trùng với cấu trúc đề – thuyết
của câu, và do đó tạo nên các phát ngơn khác nhau. Xét ví dụ sau đây:
7) Anh Nam // đi Hải Phịng hơm qua.
Ở câu này, chủ ngữ (anh Nam) của cú được chọn làm đề và vị ngữ mở rộng (đi Hải Phịng
(Anh Nam// đi Hải Phịng bao giờ?)
7c) Anh Nam//đi Hải Phịng hơm qua. (Anh Nam// đâu rồi?)
7d) Anh Nam// đi Hải Phịng hơm qua.
(Anh Nam// đi đâu rồi)
7e) Anh Nam//đi Hải Phịng hơm qua.
(Anh Nam// đi Hải Phịng hơm kia à?)
(Ghi chú: Đề // Thuyết; Cơ sở – Tiêu điểm)
Như vậy là cùng một cấu trúc đề – thuyết nhưng các phát ngôn trên đây khác nhau về giá
trị thông tin tương ứng với sự khác biệt về ngữ cảnh sử dụng (thể hiện qua các câu hỏi
kiểm chứng). Xét tiếp một ví dụ khác:
8 ) Hơm qua, // anh Nam đi Hải Phòng.
Khác với câu 7, ở câu này trạng ngữ thời gian (hơm qua) được chọn làm đề, cịn kết cấu
chủ – vị (anh Nam đi Hải Phòng) là thuyết. Thoạt nhìn, có vẻ như câu này chỉ được dùng
hạn chế cho ngữ cảnh có trạng ngữ (hơm qua) biểu hiện thông tin cũ (Hôm qua, ai đi Hải
<i>Phịng? – Hơm qua, anh Nam đi Hải Phịng), chứ không được dùng trong ngữ cảnh trạng </i>
ngữ này biểu hiện thơng tin mới (Anh Nam đi Hải Phịng bao giờ? – Anh Nam đi Hải
<i>Phịng hơm qua. ; *Hơm qua anh Nam đi Hải Phịng). Và nếu điều này là đúng thì cấu </i>
trúc đề-thuyết của câu trên chỉ có một cấu trúc thơng tin duy nhất, hay nói cách khác đó
chỉ là một biến thể của câu (7) (Anh Nam// đi Hải Phịng hơm qua) trong đó hơm qua được
8a) Hôm qua//, anh Nam đi Hải Phịng
(Hơm qua//, ai đi Hải Phịng)
8b) Hơm qua//, anh Nam đi Hải Phịng
(Hơm qua//, anh Nam làm gì?)
8c) Hơm qua//, anh Nam đi Hải Phịng
(Hơm qua//, anh Nam đi đâu?)
8d) Hôm qua//, anh Nam đi Hải Phịng? (Hơm qua//, anh Nam đi Hải Dương à?)
Tương tự như câu (7), câu (8) cũng có nhiều biến thể xuất hiện trong các ngữ cảnh khác
nhau, mặc dù có chung một đề – thuyết nhưng khác nhau về giá trị thông tin của các thành
tố, tức là có CTTT khác nhau.
được chọn làm đề và sử dụng thành tố còn lại làm thuyết. Còn CTTT của câu là cấu trúc
cơ sở – tiêu điểm, với nhiều hiện dạng khác nhau, phản ánh sự khác biệt về vị thế thông tin
giữa các thành tố cú pháp của câu trong những ngữ cảnh cụ thể theo ý định chủ quan của
người nói. Tất cả các phát ngôn xuất hiện một trong những ngữ cảnh đồng nhất về thành tố
được chọn làm đề đều có chung một cấu trúc đề – thuyết về mặt cú pháp. Nguyên nhân
khiến cho các phát ngôn này khác biệt nhau và trở thành các biến thể của một câu là do sự
khác biệt về CTTT. Việc tìm hiểu kỹ hơn các biểu hiện khác nhau về CTTT của câu tiếng
Việt nói chung và câu đơn tiếng Việt nói riêng, vì vậy, là cần thiết để làm rõ mối quan hệ
giữa CTTT và CTCP của câu.
<b>2. Các kiểu CTTT của câu đơn tiếng Việt</b>
Để góp phần làm rõ mối quan hệ giữa CTTT và CTCP của câu tiếng Việt, chúng tôi sẽ tập
trung khảo sát các kiểu CTTT của câu đơn trong tiếng Việt. Chúng tôi quan niệm câu đơn
là kiểu câu có 1 CTCP đề – thuyết, trong đó có thể có mặt cả đề và thuyết (câu đơn hoàn
chỉnh), hoặc vắng mặt một trong hai thành phần (câu đơn tỉnh lược). Cứ liệu cho thấy, tuỳ
thuộc vào vị trí của tiêu điểm thơng tin (rơi vào thành tố cú pháp nào) mà các câu đơn có
thể có các biến thể cú pháp khác nhau về CTTT như sẽ trình bày dưới đây.
<i><b>2.1. CTTT lưỡng phân cơ sở và tiêu điểm</b></i>
Các CTTT lưỡng phân là các CTTT chỉ có cơ sở và tiêu điểm, được sắp xếp theo trình tự
thuận (cơ sở – tiêu điểm) hoặc nghịch (tiêu điểm – cơ sở) tuỳ thuộc vào vị trí của tiêu
điểm.
<i>2.1.1. CTTT cơ sở – tiêu điểm</i>
Kiểu CTTT có cơ sở đứng trước tiêu điểm này có thể trùng hoặc khơng trùng với CTCP đề
– thuyết của câu. CTTT cơ sở – tiêu điểm sẽ trùng hoàn toàn với CTCP đề – thuyết khi
tiêu điểm thông tin rơi vào phần thuyết của câu (về tiêu chí xác định tiêu điểm thơng tin,
xem Nguyễn Hồng Cổn 2001). Ví dụ:
9) a. Anh // có bận gì khơng?
b. Tơi //chỉ cịn việc về nhà ngủ. (Nam Cao)
10) a. Bẩm cụ lớn, thế cụ lớn bà// độ này vẫn mạnh khoẻ chứ ạ?
b. Ồ ồ! Vợ tôi// yếu lắm. Vợ tơi// cứ muốn địi về nghỉ ở Nice.
(Vũ Trọng Phụng)
11) a. Cậu// còn thức hay đi ngủ rồi?
b. Tôi //chưa ngủ, vẫn đang chờ mợ đây. (Ngô Tất Tố)
Ở diễn ngôn đơn thoại, CTTT cơ sở – tiêu điểm sẽ trùng với CTCP đề – thuyết của câu khi
phần đề biểu hiện thông tin cũ, đã được đề cập trong các câu trước (chẳng hạn, các câu
trong ngoặc ở ví dụ dưới đây), cịn phần thuyết biểu thị thơng tin mới, chưa được nói đến
và trở thành tiêu điểm thơng tin. Ví dụ:
12) (Bây giờ vườn ruộng sao mà quý thế. Ba sào vườn của Thái bỗng nhiên có giá). Nó//
<b>khơng cịn là xương nữa. Nó// là miếng nạc. (Nam Cao)</b>
Tuy nhiên, cũng có trường hợp kiểu CTTT cơ sở – tiêu điểm khơng trùng hồn tồn với
CTCP đề – thuyết, khi tiêu điểm chỉ rơi vào một bộ phận của thuyết, chẳng hạn:
- Tiêu điểm là bổ ngữ:
13) a. Bà// tìm ai, thưa bà?
b. Tơi// tìm người quen. (Nguyễn Công Hoan)
- Tiêu điểm là trạng ngữ:
14) a. Anh// gặp nó bao giờ?
b. Tơi// gặp nó hơm qua.
<i>2.1.2. CTTT tiêu điểm – cơ sở</i>
Khác với kiểu CTTT trên, ở kiểu CTTT này tiêu điểm đứng ở vị trí đầu phát ngôn, trước
phần cơ sở. Các phát ngôn kiểu này có CTCP đề – thuyết nghịch hướng trật tự với CTTT:
đề đóng vai trị là tiêu điểm thơng tin cịn thuyết là cơ sở. Trong diễn ngơn hội thoại, các
câu có đề trùng với tiêu điểm và thuyết trùng với phần cơ sở khi đề được được dùng để
biểu thị tiêu điểm (hỏi, khẳng định hoặc tương phản). Ví dụ:
15) Thầy ơi, thầy! Tại sao//thầy nói thế? (Vũ Trọng Phụng)
b. Ai bảo…! Con chó bảo. (Nam Cao)
17) a. Ai bảo mày//gạ gẫm tao?
b. Ai// gạ gẫm nhà anh. Có anh// quyến rũ tơi thì có. (Nam Cao)
Trong diễn ngơn đơn thoại, các câu có đề trùng với tiêu điểm và thuyết trùng với cơ sở khi
đề biểu thị thông tin mới, cịn thuyết biểu thị là thơng tin cũ, đã được nói đến trong những
câu trước, ví dụ:
18) (Rận khơng phải là tên thật của lang ta. Đó là tên của bà cựu đặt cho anh). Nhưng tại
<b>sao//bà lại đặt cho anh cái tên khổ sở ấy? (Nam Cao)</b>
điền đầu hai thứ tóc, già đời làm đấy tớ cho lý trưởng//, cũng mon men vào gạ gẫm. (Nam
Cao)
<i><b>2.2. CTTT xen kẽ cơ sở và tiêu điểm</b></i>
Các CTTT xen kẽ cơ sở và tiêu điểm có tiêu điểm đứng xen vào bộ phận cơ sở, hoặc
ngược lại, có bộ phận cơ sở đứng xen vào giữa các tiêu điểm, tạo thành kiểu CTTT sau
đây:
<i>2.2.1. CTTT cơ sở – tiêu điểm – cơ sở</i>
Trong CTTT của câu, tiêu điểm có thể đứng trước hoặc sau bộ phận cơ sở như trên đã
thấy, nhưng cũng có trường hợp tiêu điểm thơng tin xen vào giữa cơ sở thông tin, tạo nên
kiểu CTTT cơ sở – tiêu điểm – cơ sở. Trường hợp này xảy ra khi:
- Tiêu điểm thơng tin khơng trùng hồn tồn với đề mà chỉ trùng với một bộ phận của đề,
20) a. Thế xe của ai //để ở ngoài kia?
b. Xe anh Nam// đấy
21) Anh nghi cho ai lấy tiền của anh? (Nguyễn Công Hoan)
- Tiêu điểm thông tin chỉ trùng với một bộ phận của phần thuyết, chẳng hạn, trùng với vị
từ trung tâm:
22) a. (Xe của anh đâu)?
b. Tơi//bán nó rồi.
<i>2.2.2. CTTT tiêu điểm – cơ sở – tiêu điểm</i>
Ở kiểu CTTT này, bộ phận cơ sở xen vào giữa 2 tiêu điểm thông tin của câu. Đây là kiểu
CTTT thường gặp của các câu hỏi có hai tiêu điểm hỏi ở đầu và cuối câu và các câu trả lời
tương ứng. Ví dụ:
23) a. Ai// hỏi gì đấy?
b. Bác ấy// hỏi tiền nong gì chả biết. (Nam Cao)
24) a. Ai// mắng ai thế?
b. Bà ngoại// mắng dì Tư.
<i><b>2.3 CTTT chỉ có tiêu điểm</b></i>
<i>2.3.1 CTTT có tiêu điểm là đề</i>
25) a. (Ai nói với con thế? Chị Nghĩa à?)
b. Không!… Cô Minh trong trại đấy (Phạm Hổ)
26) a. (Cái gì mà chạy bình bịch thế?)
b. Xe cậu phán. (Nam Cao)
27) a. (Bao giờ anh về lại Hà Nội?)
b. Tuần tới.
<i>2.3.2. CTTT có tiêu điểm là thuyết</i>
Khác với kiểu CTTT trên, ở kiểu này phần đề là cơ sở thông tin bị tỉnh lược, chỉ còn lại
phần thuyết (28, 29b) hoặc bộ phận của phần thuyết (30b, 31b) trùng với tiêu điểm, ví dụ:
28) Đi mà làm ăn! Đừng lười thế. (Nguyễn Cơng Hoan)
29) a. (Xích nó nghiến rách áo hả?)
b. Nhảy qua hàng rào bùng nhùng. (Nguyễn Khải)
30) a. (Anh ta cưới vợ rồi à?). Lấy ai?
b. Cái Thửa, con nhà chú Thuận lùn ấy mà. (Nam Cao)
31) a. (Thật ư? Cô trông thấy bao giờ?)
b. Vừa lúc nãy. (Nam Cao)
<i>2.3.3. CTTT có tiêu điểm là cấu trúc đề – thuyết</i>
Các CTTT có tiêu điểm đề – thuyết có tiêu điểm trùng hồn tồn với câu (cấu trúc đề-
thuyết) không thể phân chiết ra được bất kỳ một bộ phận nào trong đó quan trọng hơn về
mặt thơng tin. Người nói tạo lập và người nghe tiếp nhận toàn bộ cấu trúc đề – thuyết như
là một thơng điệp mang thơng tin mới hồn chỉnh. Trong diễn ngơn hội thoại, các câu có
32) a. (Gì vậy? Có chuyện gì thế, anh Mạc?)
<i><b>b. Tiểu đồn//vừa cho biết có tiếng súng AK nổ ở dốc đá bạc. (Mai Ngữ)</b></i>
Hoặc thông tin về một sự kiện được tiền giả định sai hồn tồn trong tham thoại trước đó:
33) a. (Con làm vỡ ly rồi hả?)
b. Dạ khơng, quả bóng bay//nổ ạ.
34) a. (Việc chi đó mình? – Bà Khê hỏi)
b. Chẳng rõ nữa, có vị trưởng khối nào đó// mời ra bàn việc thầu ghế bố. (Mai Ngữ)
Hay để nhấn mạnh tính biểu cảm với một trật tự đảo đề – thuyết thành thuyết đề:
35) Đẹp vô cùng tổ quốc ta ơi. (Tố Hữu)
Trong ngôn ngữ đơn thoại, câu có tiêu điểm thơng tin trùng với cấu trúc đề – thuyết khi
thơng tin mà nó biểu thị chưa được nói đến trong các câu đi trước, và vì vậy hồn tồn mới
với người nghe, ví dụ:
36) Pháp// chạy. Nhật// hàng. Vua Bảo đại//thối vị (Hồ Chí Minh)
37) Thấy nó, bà bán hàng rau// đứng dậy, quẩy gánh lên vai đi chỗ khác. Bà hàng thịt// sờ
lại ruột tượng. Bà hàng bún riêu// nắn lại tiền. Bà hàng lê// bấm cô hàng bánh đúc. Chị bán
bánh rán// đưa mắt cho bác bán khoai. (Nguyễn Công Hoan)
Trên đây, chúng tơi đã sơ bộ trình bày kết quả khảo sát các kiểu CTTT của câu đơn tiếng
Việt trong mối quan hệ với CTCP là cấu trúc đề – thuyết. Kết quả cho thấy CTCP của câu
<b>Câu chủ động là câu có chủ ngữ và vị ngữ mà trong đó chủ ngữ là người hay vật hay một </b>
hiện tượng làm chủ hành động.
<b>Câu chủ động và câu bị động là hai hình thức câu chủ yếu của mọi ngơn ngữ trong văn </b>
nói cũng như văn viết.
Hồn tồn ngược với câu bị động, câu chủ động có một chất giọng chủ động thường được
sử dụng nhiều trong văn nói hay giao tiếp. Câu chủ động cũng xuất hiện trong các loại văn
bản, tiểu thuyết, truyện ngắn, ký... nhưng sẽ khơng hay bằng câu bị động. Bạn cũng có thể
sử dụng loại câu này tùy ý trong văn nói hay văn viết.
<b>Câu bị động là câu cũng có chủ ngữ và vị ngữ mà trong đó chủ ngữ nhận hay chịu ảnh </b>
hưởng của hành động.
văn tiểu thuyết sử dụng những câu này rất hay và rất linh hoạt (dùng các phép ẩn dụ, biền
ngẫu...). Tuy nhiên, một số loại câu bị động lại được dùng trong văn để viết các bài viết về
khoa học và công nghệ. Những bài bào viết về thơng tin khoa học thường có chứa nhiều
thể loại câu bị động hơn các loại câu khác.
Bạn không nên sử dụng những câu bị động này trong lời ăn tiếng nói khi giao tiếp với
người khác sẽ làm mất lịng người khác, trừ khi bạn có một lý đúng và chính đáng.
Câu có chứa động từ chủ động (active verb) là một vấn đề hay chủ đề (chủ ngữ) của động
<b>từ bị động (passive verb)(trong các ví dụ dưới đây). Do đó, động từ có thể khơng theo sau</b>
các đối tượng hay vấn đề (chủ ngữ) (nội động từ) có thể khơng được sử dụng trong câu bị
động.
Đây là một trong số những nội động từ phổ biến nhất: xuất hiện, đến nơi, đến, khóc,
<b>chết, đi, xảy ra, xảy đến, giấc ngủ, lưu lại, đi bộ. Những động từ này có thể khơng được </b>
sử dụng trong câu bị động.
Câu bị động ln ln có chứa một hình thức của trợ động từ be (được - trong tiếng Anh).
Các hình thức của động từ be trong cụm động từ bị động (passive verb phrase) tương ứng
với hình thức của động từ chính (main verb) trong cụm động từ chủ động (active verb
phrase)(là những từ được in đậm trong các ví dụ dưới đây).
Động từ chính trong cụm động từ vị ngữ ở thể bị động (passive predicate verb phrase)
thì ln ở hình thức quá khứ phân từ.
M t s ví d các câu ch ộ ố ụ ở ủ động v b à ị động:
<b>Câu chủ động</b>
Họ (đã) từng
<b>nói tiếng Anh.</b>
Họ nói tiếng
Anh.
Họ đang nói
tiếng Anh.
Họ dự định nói
tiếng Anh.
Họ sẽ nói được
tiếng Anh.
→
→
→
→
→
→
<b>Câu bị động</b>
Tiếng Anh (đã)
<b>từng được họ </b>
<b>nói.</b>
Tiếng Anh được
họ nói.
Tiếng Anh đang
<b>được họ nói.</b>
Tiếng Anh dự
<b>định được họ </b>
Tiếng Anh sẽ
<b>được họ nói.</b>
Bạn khơng nên sử dụng câu bị động trong văn nói trừ khi bạn có một lý do chính đáng và
hợp lý. Câu bị động thường được sử dũng khi các đại lý (người thực hiện hành động; chủ
ngữ của động từ chủ động) là rõ ràng, chưa biết, hoặc khơng cần thiết. Ví dụ:
Câu bị động thường được sử dụng khi chủ ngữ được biết, nhưng người nói/người viết
<b>khơng muốn nói đến nó.</b>
Cơ ấy đã được khuyên một lời khuyên xấu.
Một lỗi sai lầm đã được thực hiện.
Câu bị động thường được sử dụng khi người nói/người viết muốn nhấn mạnh một kết
<b>quả: Hàng nghìn người đã bị giết bởi trận động đất.</b>
Câu bị động thường được sử dụng khi người nói/người viết muốn giữ cùng một chủ ngữ
cho hai hoặc nhiều động từ nhưng trường hợp này sẽ không thực hiện được nếu cả hai
động từ cùng ở một thể (chủ động hay bị động).
Ví dụ, trong một cuộc trị chuyện về George, người nói sẽ sử dụng câu a chứ khơng phải là
câu b (cả hai câu đều chính xác).
<b>a. George đã có một cuộc phỏng vấn trước khi ơng được thuê bởi một công ty phần mềm.</b>
<b>b. George đã có một cuộc phỏng vấn trước khi một cơng ty phần mềm đã thuê ông.</b>
Hầu hết các câu thụ động khơng có chứa một đại lý (đại diện); tất cả các câu chủ động đều
có chứa một đại lý (đại diện).
<b>Một đại lý (đại diện) là một chủ ngữ của động từ chủ động. Trong các ví dụ ở câu trên, </b>
các đại lý là "họ" đều có mặt trong tất cả các câu chủ động, còn các câu thụ động thì khơng
có chứa một đại lý.
Khi một câu có chứa một đại lý, nó nằm trong một cụm tính từ (prepositional phrase) sau
động từ. Ví dụ:
Tiếng Anh được nói bởi họ.
Trong những câu sau đây, các danh từ "Những giáo viên" là các đại lý trong cả hai câu.
"Những giáo viên" cũng là chủ ngữ của câu chủ động. Nhưng "kỳ thi" là chủ ngữ của câu
bị động.