Tải bản đầy đủ (.pdf) (66 trang)

Phong cách nghệ thuật của tô hoài qua cỏ dại và tự truyện

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (849.75 KB, 66 trang )

ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
KHOA NGỮ VĂN
----------------

NGUYỄN VĂN ĐỨC

PHONG CÁCH NGHỆ THUẬT
CỦA TƠ HỒI QUA CỎ DẠI VÀ TỰ TRUYỆN

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
NGÀNH CỬ NHÂN VĂN HỌC

Đà Nẵng, tháng 05/2014


ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
KHOA NGỮ VĂN
----------------

PHONG CÁCH NGHỆ THUẬT
CỦA TƠ HỒI QUA CỎ DẠI VÀ TỰ TRUYỆN

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
NGÀNH CỬ NHÂN VĂN HỌC

Người hướng dẫn khoa học:
PGS.TS. Nguyễn Phong Nam

Người thực hiện


NGUYỄN VĂN ĐỨC

Đà Nẵng, tháng 05/2014


LỜI CAM ĐOAN

Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tôi dưới sự
hướng dẫn của PGS.TS. Nguyễn Phong Nam. Tôi xin chịu trách nhiệm về nội
dung khoa học của khóa luận này.
Đà Nẵng, tháng 05 năm 2014
Sinh viên thực hiện

Nguyễn Văn Đức


LỜI CẢM ƠN
Tơi xin trân trọng bày tỏ lịng cảm ơn chân thành đến
thầy giáo Nguyễn Phong Nam - người đã nhiệt tình, chu đáo
hướng dẫn tơi hồn thành khóa luận này. Tôi xin cảm ơn
các thầy cô giáo trong khoa Ngữ văn Trường Đại học Sư
phạm Đà Nẵng đã chỉ bảo giúp đỡ tơi trong q trình thực
hiện đề tài. Nhân dịp này, tôi xin chân thành cảm ơn bạn bè
và người thân đã ủng hộ, giúp đỡ tôi hồn thành khóa luận
này.
Mặc dù có nhiều cố gắng, song do trình độ cịn hạn
chế nên khơng tránh khỏi những thiếu sót, rất mong được sự
đóng góp chân thành của thầy cơ, bạn bè để đề tài được
hồn thiện hơn.
Đà Nẵng, tháng 05 năm 2014

Sinh viên thực hiện
Nguyễn Văn Đức


MỤC LỤC

MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
1. Lí do chọn đề tài ............................................................................................ 1
2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu ............................................................................ 1
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu................................................................. 4
4. Giới thuyết thuật ngữ .................................................................................... 5
5. Phương pháp nghiên cứu............................................................................... 5
6. Bố cục của khóa luận .................................................................................... 6
Chương 1. NHÀ VĂN TƠ HỒI VÀ THỂ LOẠI HỒI KÍ........................ 7
1.1. Tơ Hồi – đời người, đời văn .................................................................... 7
1.1.1. Tơ Hồi - “ cuộc phiêu lưu giữa trần ai cát bụi” .................................... 7
1.1.2. Tơ Hồi - “người sở hữu một gia tài văn chương lớn” .......................... 8
1.2. Hồi kí – mảnh đất khẳng định phong cách Tơ Hồi ................................ 10
1.2.1. Tơ Hồi - “nhà văn gặt hái những bông hoa đầu mùa” cho thể loại hồi
kí” .................................................................................................................... 12
1.2.2. Cỏ dại và Tự truyện – hai tập hồi kí mang đậm dấu ấn Tơ Hoài.......... 14
Chương 2. HIỆN THỰC CUỘC SỐNG VÀ CHÂN DUNG TỰ HỌA
CỦA TƠ HỒI TRONG CỎ DẠI VÀ TỰ TRUYỆN ................................. 18
2.1. Cái nhìn độc đáo về hiện thực cuộc sống trong Cỏ dại và Tự truyện...... 18
2.1.1. Hiện thực “bất ngờ”, “tình cờ” và “ngẫu nhiên”. ................................. 18
2.1.2. Dịng đời hiện lên qua bức tranh sinh động về làng Bưởi .................... 22
2.1.3. Dòng đời gắn với những trang “thời sự đất nước” và “thời sự văn
chương” ........................................................................................................... 24
2.2. Cỏ dại và Tự truyện - bức chân dung tự họa của nhà văn Tơ Hồi ......... 29
2.2.1. Tơ Hồi – con người của “hồi niệm” ................................................. 29

2.2.2. Tơ Hồi – nhà văn giàu trải nghiệm..................................................... 32


2.2.3. Tơ Hồi - con người “sống thật với chính mình” ................................. 35
Chương 3. CỎ DẠI VÀ TỰ TRUYỆN - SỰ ĐỘC ĐÁO TRONG NGHỆ
THUẬT THỂ HIỆN ...................................................................................... 39
3.1. Nghệ thuật miêu tả trong Cỏ dại và Tự truyện ........................................ 39
3.1.1. Nghệ thuật miêu tả thiên nhiên ............................................................. 39
3.1.2. Nghệ thuật khắc họa chân dung nhân vật ............................................. 42
3.2. Ngôn ngữ mang đậm cá tính trong Cỏ dại và Tự truyện ......................... 45
3.2.1. Ngôn ngữ dung dị, đời thường và giàu gợi cảm ................................... 46
3.2.2. Ngôn ngữ giàu chất thơ ......................................................................... 49
3.3. Giọng điệu đa thanh trong Cỏ dại và Tự truyện ...................................... 51
3.3.1. Giọng điệu hài hước, dí dỏm................................................................. 52
3.3.2. Giọng điệu ngậm ngùi, xót xa ............................................................... 54
KẾT LUẬN .................................................................................................... 57
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 59


1
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Với hơn chín mươi tuổi đời và sáu mươi năm cống hiến cho sáng tạo nghệ
thuật, Tơ Hồi đã có một sự nghiệp văn chương đồ sộ với nhiều thể loại và đề tài
khác nhau, từ đề tài miền xuôi đến đề tài miền núi, từ truyện ngắn, tiểu thuyết, đến
kịch, hồi kí, tản văn… hầu như ở thể loại và đề tài nào nhà văn đều cũng chọn cho
mình một lối đi riêng đầy sáng tạo. Vì thế, ơng ln dành được vị trí trang trọng
trong lịng cơng chúng mến mộ.
Là một nhà văn thử sức và trổ tài ở nhiều thể loại khác nhau nhưng ở địa hạt
hồi kí, Tơ Hồi gặt hái nhiều thành công hơn cả. Bạn đọc cũng như giới phê bình,

nghiên cứu văn học khi nhắc đến tên tuổi Tơ Hồi thường gắn với thể loại này.
Tìm hiểu Cỏ dại và Tự truyện của Tơ Hồi người đọc thấy nhà văn - một con
người sống thực với chính mình, một cây bút “nhập cuộc”. Tất cả đều được ông ghi
lại qua từng trang “thời sự văn chương” và “thời sự đất nước”.
Tác phẩm cuốn hút người đọc bởi lối hành văn tự nhiên, một văn phong rất
dung dị, một giọng văn thoải mái. Qua đó, người đọc nhận ra chân dung Tơ Hồi nhà văn khơng lẫn với bất kì ai trên văn đàn với một cái tơi hóm hỉnh, thơng minh,
ln sống hết mình với nghề văn, nghiệp văn.
Đi sâu tìm hiểu phong cách nghệ thuật của Tơ Hồi qua Cỏ dại và Tự truyện,
chúng tơi có cơ hội tiếp cận các tác phẩm dưới góc độ lí luận ứng dụng, hơn nữa cịn
thấy được nhiều điều mới lạ và độc đáo cũng như những nét nổi bật trong phong
cách hồi kí của ơng so với các bạn văn cùng thời.
Với tất cả lý do trên, chúng tôi lựa chọn nghiên cứu đề tài “Phong cách nghệ
thuật của Tơ Hồi qua Cỏ dại và Tự truyện”.
2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu
Từ lâu nền văn học Việt Nam với biết bao tác giả, tác phẩm tiêu biểu là mảnh
đất màu mỡ cho các nhà nghiên cứu, phê bình khơng ngừng đào xới, khám phá tìm
tịi. Trong đó, Tơ Hồi, được đánh giá: “một cây bút văn xi sắc sảo và đa dạng”
(Vương Trí Nhàn).


2
Dõi theo cuộc đời và những sáng tác của Tô Hồi, người đọc vẫn ln nhìn
thấy ở ơng một ngịi bút tươi mới và không bị phai nhạt bởi thời gian, “khơng tự
giới hạn mình trong một khn khổ, phạm vi, hình thức nào, khơng tự thu mình lại
theo một giọng điệu văn chương nào” [10, tr.455].
Do thời gian cũng như yêu cầu của luận văn, chúng tôi xin được điểm qua
những cơng trình nghiên cứu và những bài viết về cuộc đời và sự nghiệp văn
chương của Tơ Hồi.
Những nghiên cứu về phong cách nghệ thuật Tơ Hồi
Tác giả Mai Thị Nhung trong luận án Tiến sĩ Phong cách nghệ thuật Tơ Hồi

đã đề cập đến một số yếu tố chi phối tạo nên phong cách của nhà văn như cảm quan
về hiện thực, thế giới nhân vật đa dạng và bình dị cùng giọng điệu dí dỏm, suồng sã
trữ tình, một ngơn từ dung dị, tự nhiên, đậm tính khẩu ngữ. Qua đó, người viết đi
đến kết luận: “Tơ Hồi, một nhà văn thơng minh, tinh tế, sắc sảo; nhà văn của con
người và cuộc sống sinh hoạt bình dị đời thường, ln tin vào "thiện căn" bền vững
tiềm tàng trong mỗi con người. Phong cách nghệ thuật Tơ Hồi làm nên một hương
sắc riêng trong nền văn học hiện đại nước nhà, đồng thời tạo thế cân bằng cho tiến
trình phát triển nền văn học hiện đại” [22, tr.114]. Cơng trình nghiên cứu cịn khẳng
định: “Với gia tài văn chương đồ sộ của ông, chúng tôi nghĩ rằng sáng tác của Tơ
Hồi vẫn là mảnh đất màu mỡ cho giới nghiên cứu và phê bình tiếp tục khai phá”
[22, tr.114]. Cũng chính kết luận có hướng gợi mở này như đã tiếp thêm nguồn động
lực để những người nghiên cứu văn chương đều muốn “đặt chân” lên từng mảnh đất
mà nhà văn đã canh tác để khám phá cái hay, cái đẹp mà ông đã “chăm chút” kĩ
lưỡng cho mỗi đứa con tinh thần của mình.
Một mảng sáng tác không thể không nhắc đến là tiểu thuyết. Với hàng loạt
các kiệt tác được nhào nặn từ bàn tay Tơ Hồi - mỗi tác phẩm như “một hạt ngọc đã
được mài dũa sáng bóng”, mang một “giai điệu riêng”. Đến với Miền Tây - tiểu
thuyết giành được giải thưởng Hoa Sen của Hội nhà văn Á Phi luận văn tốt nghiệp:
“Phong cách nghệ thuật Tơ Hồi qua tiểu thuyết Miền Tây” của Văn Thị Tường
Vân đã chỉ ra được sự hịa quyện khăng khít giữa các nét phong cách nghệ thuật của


3
nhà văn: “cảm hứng về sự hồi sinh của cuộc sống và con người miền Tây, sử dụng
các bút pháp nghệ thuật một cách hài hòa tinh tế và nghệ thuật ngơn từ phong phú,
đặc sắc”.... “Miền Tây góp phần không nhỏ vào việc khẳng định phong cách nghệ
thuật của Tơ Hồi ở thể loại tiểu thuyết” [29, tr.56].
Với đề tài “Phong cách nghệ thuật của Tơ Hồi qua hồi kí Cát bụi chân ai và
Chiều chiều”, Phan Thị Lan Anh, nhận định: “Qua chân dung của Tơ Hồi trong
Cát bụi chân ai và Chiều chiều, người đọc phần nào hiểu được phong cách, cá tính,

tư duy nghệ thuật của nhà văn ở thể loại hồi kí. Tác giả đã khái quát những đặc điểm
tạo nên phong cách nghệ thuật của ông là: “Yếu tố ngôn ngữ, giọng điệu và hệ
thống nhân vật, sở hữu một “Vốn từ rộng, cách sử dụng từ ngữ sáng tạo và sở
trường miêu tả”, một giọng điệu đa thanh “vừa có sự dí dỏm, hài hước vừa ngậm
ngùi xót xa mang lại sự dửng dưng, lạnh lùng nhưng vẫn trữ tình hồi niệm, cùng
một hệ thống nhân vật độc đáo, chân thực” [1, tr.68].
Quả thật Tơ Hồi đã làm người khác phải ngạc nhiên, trầm trồ và thán phục
tài năng của nhà văn. Đúng như đánh giá của nhà nghiên cứu Vương Trí Nhàn:
“Vừa vào nghề sớm lại vừa kéo theo tuổi nghề - một sự kéo dài đàng hồng chứ
khơng phải lê lết trong tẻ nhạt”.
Những bài viết về hai tác phẩm Cỏ dại và Tự truyện
Vũ Ngọc Phan - người đỡ đầu Tơ Hồi khi bước vào nghề văn đã nhận ra
được những đặc sắc, những mạnh, yếu trong cách hành văn của Tơ Hồi. Ơng nhận
định “cùng với năng lực miêu tả tinh tế thế giới lồi vật, Tơ Hồi có biệt tài về
những cảnh nghèo của dân quê. Nhà nghiên cứu cũng sớm phát hiện chất giọng
“trào lộng và khinh bạc” ở ngịi bút ấy” [10, tr.21].
Trên Tạp chí Văn học số 6 -1980, Vân Thanh đã nhận xét về giọng điệu - âm
hưởng chung của hồi kí Tơ Hồi: “Cỏ dại với giọng điệu trầm buồn, đôi khi pha
chút vị chua xót kể lại quãng đời thơ ấu của thằng cu Bưởi là hình bóng xa gần của
tác giả. Đến Tự truyện những trang hồi ức của Tơ Hồi cũng một màu xám, một
điệu buồn như vậy. Một cái buồn thấm vào tất cả những chân lông của cơ thể xã
hội” [10, tr.382 – 383].


4
Ở bài viết Ngôn ngữ vùng quê trong sáng tác của Tơ Hồi , Võ Xn Quế
cho rằng: “Mặc dù còn một vài hạn chế nhất định về tư tưởng song nó đã vẽ lên
được một bức tranh chân thực về một vùng quê ngoại thành Hà Nội. Đó là cảnh
sống nghèo khó, khốn khổ cùng cực, những phong tục, tập quán cổ hủ với những
tâm tình u uất của người thợ thủ cơng Nghĩa Đơ. Tơ Hồi miêu tả thành cơng các

mối quan hệ gia đình, bạn bè, trai gái, làng xóm thơn q...chính vì lẽ đó trong tác
phẩm của ông sử dụng rất thành công nhiều từ ngữ, nhiều lối nói của địa phương”
[10, tr.408 - 409].
Trong tuyển tập Tơ Hồi về tác gia và tác phẩm do Phong Lê tuyển chọn, ở
phần thứ ba với tựa đề “Trở về những miền thân thuộc” Vương Trí Nhàn khẳng
định: “Ở mảng hồi ức này, bên cạnh Những ngày thơ ấu của Nguyên Hồng, Sống
nhờ của Mạnh Phú Tứ, Tô Hồi cũng có những đóng góp một áng văn hay và cảm
động là Cỏ dại”. Bài viết chỉ rõ “Đọc Tơ Hồi tơi bỗng sống ngạc nhiên khơng hiểu
sao người ta có thể viết hay đến thế về mình, để qua mình hiểu người, hiểu đời, hơn
thế, hiểu cả một thời - nó là bầu khí quyển chung cho biết bao là thế hệ” [10, tr.42 43].
Tóm lại, đã có nhiều cơng trình, nhiều bài viết nghiên cứu về phong cách
nghệ thuật của Tơ Hồi cũng như một số bài viết đề cập đến hai tác phẩm Cỏ dại và
Tự truyện, tuy nhiên tất cả mới chỉ là những nhận định còn chung chung, sơ lược
chứ chưa đi sâu vào phân tích cụ thể, chưa thể hiện hết được những dụng công cũng
như những yếu tố chi phối làm nên phong cách nghệ thuật Tơ Hồi. Vì thế, đề tài
“Phong cách nghệ thuật của Tơ Hồi qua Cỏ dại và Tự truyện” sẽ tập trung vào việc
làm nổi bật những nét độc đáo, đặc sắc trong cách thể hiện của ơng. Mặt khác, khóa
luận cịn đi sâu lý giải những yếu tố chi phối, tạo nên cái “tạng riêng” ở thể loại hồi
kí của Tơ Hồi.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đề tài đi vào tìm hiểu những nét đặc sắc trong phong cách nghệ thuật của Tơ
Hồi qua Cỏ dại và Tự truyện.


5
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Chúng tôi lựa chọn tác phẩm Cỏ dại (1944), Tự truyện (1978) của nhà xuất
bản Văn học - Hà Nội làm văn bản để khảo sát.
4. Giới thuyết thuật ngữ

Theo 150 từ điển Thuật ngữ văn học của Lại Nguyên Ân cho rằng: “phong
cách là những nét chung, tương đối bền vững của hệ thống hình tượng của các
phương thức biểu hiện nghệ thuật, tiêu biểu cho bản sắc sáng tạo của một nhà văn,
một tác phẩm, một khuynh hướng văn học nào đó” [2, tr.263].
Trong cuốn Từ điển thuật ngữ văn học do nhóm tác giả Lê Bá Hán - Trần
Đình Sử - Nguyễn Khắc Phi định nghĩ phong cách là: “phạm trù thẩm mỹ chỉ sự
thống nhất tương đối ổn định của hệ thống hình tượng, của các phương tiện biểu
hiện nghệ thuật nói lên cái nhìn độc đáo trong sáng tác của một nhà văn trong tác
phẩm riêng lẽ, trong trào lưu văn học hay văn học dân tộc” [5, tr.255 - 256].
Có thể thấy, phong cách là nét độc đáo của mỗi nhà văn cả về tư tưởng và
nghệ thuật. Những khái niệm nêu trên cho dù xét về bề mặt từ ngữ có thể chưa trùng
khít, dù cách tiếp cận có khác nhau, nhưng vấn đề nội hàm khái niệm “phong cách”
trong lí luận văn học dường như đã có một sự thống nhất, nhất định. Từ đó cho thấy
phong cách là nét riêng, là sự khu biệt, bản sắc của một cá nhân, một tác phẩm hay
một thời đại.
5. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài này, tác giả khóa luận đã sử dụng một số phương pháp
nghiên cứu sau:
5.1. Phương pháp hệ thống –phân loại
Với phương pháp này, chúng tôi đặt hai tác phẩm Cỏ dại và Tự truyện vào
tồn bộ sáng tác Tơ Hồi, cũng như gắn nó vào tiến trình phát triển chung của nền
văn học nước ta. Từ đó, chúng tơi có thể sắp xếp tác phẩm trong chỉnh thể nghiên
cứu, sắp xếp các vấn đề một cách logic và phù hợp để làm nổi bật các luận điểm.
5.2. Phương pháp phân tích - tổng hợp
Từ những biểu hiện về đặc sắc trong hồi kí Cỏ dại và Tự truyện, chúng tôi


6
khái quát thành những luận điểm cơ bản, từ đó đúc kết thành những nhận xét, đánh
giá và khái quát vấn đề tiêu biểu của để thấy được tính nhất quán trong phong cách

của nhà văn qua bộ đôi tác phẩm này.
5.3. Phương pháp so sánh - đối chiếu
Chúng tôi tiến hành đối chiếu, so sánh phong cách hồi kí Tơ Hồi với những
sáng tác văn xi trước đó nhằm thấy được sự khác biệt qua mỗi chặng đường sáng
tác. Mặt khác, đặt sáng tác của Tơ Hồi bên cạnh tác phẩm của một số tác giả để
thấy điểm nổi bật, nét khu biệt so với những bạn văn cùng thời.
6. Bố cục của khóa luận
Ngồi phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, Nội dung được triển khai
gồm ba chương.
Chương 1: Nhà văn Tơ Hồi và thể loại hồi kí
Chương 2: Hiện thực cuộc sống và chân dung tự họa của Tơ Hồi trong Cỏ
dại và Tự truyện
Chương 3: Cỏ dại và Tự truyện – sự độc đáo trong nghệ thuật thể hiện


7
NỘI DUNG
Chương 1
NHÀ VĂN TƠ HỒI VÀ THỂ LOẠI HỒI KÍ
1.1. Tơ Hồi – đời người, đời văn
1.1.1. Tơ Hồi - “cuộc phiêu lưu giữa trần ai cát bụi”
Với việc tiếp thu thành tựu đã có từ trước cùng với sự ảnh hưởng của thời
đại, dòng văn học Việt Nam đã đạt được những thành công cả nội dung lẫn hình
thức nghệ thuật. Bên cạnh sự có mặt của các nhà văn như: Nam Cao, Ngun
Hồng…thì Tơ Hồi là một trong những gương mặt được nhiều độc giả yêu thích và
mến mộ. Ơng đã có những đóng góp đáng kể trong bức tranh chung của làng văn
Việt Nam.
Tơ Hồi tên thật là Nguyễn Sen, sinh ngày 27 tháng 9 năm 1920 tại làng
Nghĩa Đơ - phủ Hồi Đức - Hà Đông cũ (nay là phường Nghĩa Đô - quận Cầu Giấy
- Hà Nội). Ông sinh ra và lớn lên gắn bó với q ngoại ở làng Nghĩa Đơ nên bút

danh Tơ Hồi được ghép từ tên sơng Tơ Lịch và phủ Hồi Đức. Ngồi ra, ơng cịn
có một số bút danh khác như: Mai Trang, Mắt Biển, Duy Phương, Hồng
Hoa,…(dùng cho q trình viết báo của mình).
Tơ Hồi xuất thân trong một gia đình làm nghề dệt thủ cơng, hồn cảnh rất
khó khăn. Khi học hết bậc tiểu học, ơng đã phải tự kiếm sống. Cuộc sống của nhà
văn vất vả khi bước vào tuổi thanh niên, phải bươn chải với đủ mọi nghề như thợ
thủ công, dạy học, bán hàng, kế tốn hiệu bn…Thậm chí có những ngày thất
nghiệp, phải chịu cảnh tủi nhục khơng một đồng xu dính túi. Trong Tự truyện nhà
văn đã viết: “ngày ngày tôi đi dạo trong thành phố tha thẩn vu vơ tìm việc, rồi cứ
liệu đến bữa cơm tôi lại về” [7, tr.164].
Năm 1938, trong thời kì Mặt trận dân chủ Tơ Hoài tham gia phong trào Ái
hữu và làm ban thư kí, ban trị sự Hội Ái hữu của thợ dệt Hà Đơng.
Năm 1943, ơng gia nhập “Hội văn hóa cứu quốc” đầu tiên ở Hà Nội. Từ đó
ơng liên tục viết báo, hoạt động bí mật tuyên truyền cách mạng cho đến lúc cách
mạng tháng Tám thành công.


8
Từ năm 1951, Tơ Hồi về cơng tác ở Hội văn nghệ Việt Nam. Từ năm 1957
ông được bầu làm Tổng thư kí Hội nhà văn Việt Nam. Từ năm 1958 đến năm 1980
ông tiếp tục tham gia Ban chấp hành và làm Phó tổng thư kí Hội. Ngồi ra, nhà văn
cịn tham gia nhiều cơng tác xã hội khác: Đại biểu Quốc hội khóa VII, phó chủ tịch
Ủy ban đồn kết Á Phi, Phó chủ tịch Hội hữu nghị Việt Xô.
Kể về chuỗi dài những hoạt động và thăng trầm mà Tơ Hồi đã trải qua để
người đọc thấy cuộc đời Tơ Hồi ln gắn liền với những chuyến phiêu lưu, ông đi
hết nơi này đến nơi khác và đã giữ nhiều cương vị quan trọng. Tơ Hồi đã dùng hơn
nửa cuộc đời mình để đi, khám phá. Cuộc sống của ơng gắn liền với chuỗi dài
những hành trình. Mỗi điểm đến lại là nguồn cảm hứng bất tận để ông “thả chữ” vào
trong từng trang viết. Những chuyến đi trên hành trình tìm những vùng đất mới lạ và
đầy sức hấp dẫn ấy của Tơ Hồi được nhà nghiên cứu Vương Trí Nhàn ví như cuộc

phiêu lưu của con người giữa trần ai cát bụi.
1.1.2. Tơ Hồi - “người sở hữu một gia tài văn chương lớn”
Với một hành trình sáng tác khơng mệt mỏi, đến nay Tơ Hoài đã sở hữu một
gia tài văn học lớn. Hơn nửa thế kỉ lao động nghệ thuật của mình, nhà văn đã có
những đóng góp quan trọng vào nền văn học nước nhà. “Và có nhiều lý do để Tơ
Hồi xứng đáng là một trong những cây đại thụ của văn học Việt Nam hiện đại. Ông
được ca ngợi là nhà văn của những cái “nhất”. Tuổi đời nhiều nhất, số lượng tác
phẩm nhiều nhất, tuổi nghề nhiều nhất. Những con số ấy rất đáng được trân trọng,
nhưng điều đáng quý hơn là ở mảng sáng tác nào ông cũng có những tác phẩm
thành cơng, tạo được dấu ấn riêng và thực sự có giá trị” [27, tr.8].
Nhà văn nổi tiếng khơng phải vì có nhiều tác phẩm. Điều quan trọng trong số
rất nhiều tác phẩm đó, Tơ Hồi đã để lại sự yêu thích trong tâm trí bạn đọc, được dư
luận quan tâm, có sức trường tồn qua thử thách của thời gian. Ít nhà văn nào tạo
được sự thành công ở một diện rộng như ông.
Trước cách mạng tháng Tám, sáng tác của Tơ Hồi tập trung vào những
truyện ngắn về loài vật như Dế mèn phiêu lưu kí, O chuột, Chuột thành phố, Đơi ri
đá, Trê và Cốc, Võ sĩ bọ ngựa…. Với một trí tưởng tượng phong phú, một năng lực


9
tinh tường, Tơ Hồi đã lột tả được những đặc trưng của từng lồi, từ hình dáng đến
tính cách, lối sống. Cuộc sống loài vật hiện diện trên trang sách của ông khá chân
thực, sinh động. Mỗi con vật trong tác phẩm đều đem lại cho trẻ thơ những điều kí
thú và bồi đắp cho trẻ trí tưởng tượng phong phú, nuôi dưỡng những mối quan hệ tốt
đẹp về gia đình, bạn bè, sự dũng cảm, lịng nhân từ góp phần hình thành nhân cách,
phẩm chất đạo đức của trẻ.
Cịn q hương - mảng đề tài lớn mà Tơ Hồi ấp ủ, trân trọng, nhà văn viết
về vùng quê để lại nhiều ấn tượng khó phai trong tâm trí của người đọc. Ơng nặng
lịng với nơi “chơn rau cắt rốn” nên khi viết về con người và thiên nhiên nơi đây,
nhà văn thả trôi cho cảm xúc cứ tuôn chảy một cách thật tự nhiên, gần gũi mang

đậm cá tính như: Nhà nghèo (1942), Giăng thề (1942), Quê người (1942), Xóm
giếng ngày xưa (1942), Cỏ dại (1944). Q trình gắn bó với vùng đất thân thương
đã giúp ơng viết, rất hay, rất thực và đầy xúc cảm khi thể hiện về mảng sáng tác này.
Sáng tác Tơ Hồi hình thành hai mảng đề tài tưởng như tách bạch nhau
nhưng cuối cùng hội tụ vào nhau thống nhất trong một thế giới nghệ thuật của nhà
văn. Dẫu ơng viết về mình hay viết về người thì tất cả được hiện lên một cách đầy
đủ, sinh động mang tính khái quát cao về số phận con người và cuộc sống. Đó là
chủ nghĩa hiện thực “kiểu riêng” của Tơ Hồi trong văn xuôi trước cách mạng.
Cách mạng tháng Tám thành công, đánh dấu một bước chuyển trong tư tưởng
và sáng tác của nhiều cây bút trong thời kì đổi mới. So với nhiều nhà văn hiện thực
khác Tơ Hồi nhanh chóng nắm bắt kịp thời các vấn đề mới mẻ của đời sống, xác
định được đối tượng nghệ thuật cho nên ông sáng tác nhiều ở thể loại kí, truyện
ngắn, tiểu thuyết,… góp vào bước chuyển biến chung trong nền văn xi của dân
tộc. Nhà văn là một trong số ít những người cầm bút không phải trăn trở, ngập
ngừng nhiều lắm trước trang giấy. Tác phẩm Vỡ tỉnh là tác phẩm đầu tiên trong thời
gian này của ơng. Tơ Hồi là người tiên phong xây dựng văn học về các dân tộc ít
người. Ơng đã viết về sự chuyển mình, thay da của những vùng đất này trong cách
mạng dân tộc dân chủ Núi Cứu quốc, Truyện Tây Bắc…. Và trong những năm xây
dựng chủ nghĩa xã hội Nhật kí vùng cao, Miền Tây….


10
Sau tác phẩm, đề tài về miền núi vẫn được Tơ Hồi tiếp tục: Tuổi trẻ Hồng
Văn Thụ (1971), Họ Giàng ở Phìn Sa (1984), Nhớ Mai Châu (1988). Sở dĩ Tơ Hồi
thành cơng ở mảng sáng tác này là nhờ vào những năm tháng đi thực tế gắn với
vùng đất và con người vùng núi cùng với khả năng năm bắt tinh nhạy, sắc sảo. Ông
đã cho ra đời những tác phẩm xuất sắc về miền ngược.
Những kỉ niệm trong q khứ với gia đình, bạn bè đã thơi thúc ông viết. Từ
Cỏ dại (1944) đến Tự truyện (1978) rồi Những gương mặt (1988), Cát bụi chân ai
(1992), Chiều chiều (1999) là sự tiếp nối liền mạch hồi ức và sự quay về trọn vẹn

với những vùng đất quen thuộc, quê hương yêu dấu của nhà văn.
Như vậy, có thể khẳng định thành tựu sáng tác của ông ở các thể loại đã gắn
với tiến trình vận động và đổi mới của Văn học Việt Nam hiện đại.
1.2. Hồi kí – mảnh đất khẳng định phong cách Tơ Hồi
Trong loại hình văn xi nghệ thuật thể kí chiếm một vị trí quan trọng.
Thuật ngữ “kí” được dùng để gọi tên cho một thể loại văn học bao hàm nhiều “tiểu
loại” như kí sự, phóng sự, bút kí, hồi kí, du kí, nhật kí, tùy bút…Trong đó hồi kí là
thể tài có từ rất sớm. Riêng ở Việt Nam, hồi kí phát triển khá chậm và mới trở thành
một thể loại được chú ý trong thời gian gần đây. Việc giới thuyết về thuật ngữ hồi kí
là điểm tựa căn bản giúp chúng tôi nắm bắt được những đặc trưng quan trọng của
thể loại, từ đó tiến hành phân tích - khảo sát các phương tiện cấu thành phong cách
nghệ thuật trong hồi kí Tơ Hồi nói chung cũng như áp dụng đi sâu vào việc tìm
hiểu hai tác phẩm Cỏ dại và Tự truyện nói riêng.
Từ điển Tiếng Việt do Hoàng Phê (chủ biên) đưa ra khái niệm : “Hồi kí là thể
kí ghi lại những điều cịn nhớ sau khi đã chứng kiến sự việc” [23, tr.591].
Theo các tác giả cuốn Từ điển thuật ngữ văn học: Hồi kí là “thể loại thuộc kí,
kể lại những biến cố đã xảy ra trong quá khứ mà tác giả là người tham dự hoặc
chứng kiến”...“Xét về phương diện quan hệ giữa tác giả với các sự kiện được ghi lại
về tính chính xác của sự kiện, về góc độ và phương thức diễn đạt, hồi kí có nhiều
chỗ gần giống nhật kí. Cịn xét về phương diện tư liệu về tính xác thực và khơng có
hư cấu thì hồi kí lại rất gần với văn xuôi lịch sử, tiểu sử khoa học” [5, tr.152].


11
Còn Lại Nguyên Ân trong cuốn 150 thuật ngữ văn học cũng chỉ ra dấu hiệu
nhận diện hồi kí, ơng cho rằng: “tác phẩm hồi kí là một thiên trần thuật từ ngơi tác
giả, kể về những sự việc có thực trong quá khứ mà tác giả tham dự hoặc chứng
kiến…Người viết hồi kí chỉ tái hiện cái phần hiện thực thường nằm trong tầm nhìn
của mình…căn cứ chủ yếu vào ấn tượng và hồi ức của bản thân mình”… “là cái
nhìn của anh ta vào tất cả những gì được kể lại…nên hồi kí thường đậm tính chủ

quan” [2, tr.155].
Bên cạnh đó, chúng ta cần phân biệt hồi kí và tự truyện bởi lẽ hai khái niệm
này rất gần nhau. Điểm giống nhau giữa hai thể loại này đều là những thể loại văn
học mang tính hồi cổ, tái hiện lại quá khứ. Nhưng cả tự truyện và hồi kí nằm ở hai
địa hạt khơng hề trùng khít nhau trong hệ thống văn học. Bởi bản chất của tự truyện
cho phép nhà văn hư cấu để tạo nên những hình tượng hồn chỉnh cịn bản chất của
hồi kí địi hỏi sự chính xác của sự kiện và những đánh giá khách quan của người
viết. Nói một cách cụ thể hơn, hồi kí ghi lại những sự kiện trong lịch sử mà tác giả
khơng phải là nhân vật chính cịn ngược lại tự truyện là kể các truyện, kể cái “tơi”
của tác giả.
Như vậy cả hồi kí và tự truyện đều lấy chất liệu của thế giới hiện thực từ hồi
ức, nhưng hồi kí thuật lại những sự việc đã qua một cách khách quan cịn tự truyện
do chính tác giả tự viết về cuộc đời mình. Theo các nhà nghiên cứu phương Tây, có
nhiều dạng hồi kí, như hồi kí của các nhà văn, hồi kí của các chính khách kể về cuộc
đời hoạt động chính trị, hồi kí của các tác giả là chứng nhân cho một sự kiện chính
trị, xã hội quan trọng. Trong đó, hồi kí văn học của các nhà văn cũng phân nhiều thể
loại: hồi kí chân dung, hồi kí tự truyện….Đây là các thể loại mà những năm gần đây
phát triển mạnh mẽ. Nó cung cấp cho độc giả những tư liệu quý giá về đời tư của
các nhà văn, về bộ mặt tinh thần của xã hội ở một thời kì về nhiều lĩnh vực văn hóa,
tư tưởng, văn học…Đồng thời cung cấp những thông tin về sự nghiệp sáng tác, cuộc
đời của từng nhà văn cũng như cá tính, phong cách của tác giả. Điều đó được minh
chứng qua hàng loạt tác phẩm: Bước đường viết văn của Nguyên Hồng, Đời viết văn
của tơi - Nguyễn Cơng Hoan, Hồi kí - Đặng Thai Mai, Nhớ lại một thời - Tố Hữu,


12
hồi kí Cỏ dại, Tự truyện, Cát bụi chân ai, Chiều chiều của Tơ Hồi.
Sự phát triển của thể kí không chỉ mang đến cho văn học Việt Nam đương
đại một sắc diện mới mà còn xác lập được một ví trí xứng đáng trên văn đàn. Một số
đặc điểm nhận diện qua việc tìm hiểu và tra cứu từ tài liệu của các nhà nghiên cứu

như đã trình bày ở trên giúp chúng tôi tiếp cận và hiểu sâu sắc hơn về thể hồi kí
trong sáng tác của Tơ Hồi. Qua đó, tìm hiểu phong cách nghệ thuật của nhà văn
trong từng tác phẩm cụ thể cũng như lí giải được câu hỏi tại sao hồi kí là mảnh đất
khẳng định tài năng, phong cách của tác giả.
1.2.1. Tô Hồi - “nhà văn gặt hái những bơng hoa đầu mùa” cho thể loại hồi kí”
Tơ Hồi viết văn từ những năm 40 của thế kỉ XX, đến nay trở thành một
trong những cây bút văn xuôi lực lưỡng nhất làng văn Việt Nam. Nếu như ở thế giới
tuổi thơ không bao giờ ta quên những trang viết về cuộc phiêu lưu đầy thú vị của
chú dế mèn trong Dế mèn phiêu lưu kí thì khi viết về miền núi không thể không
nhắc đến Truyện Tây Bắc - một trong những đỉnh cao nghệ thuật của Tơ Hồi trong
hành trình cầm bút. Giới yêu quý văn chương cũng hết bút mực ca ngợi những dụng
công, nỗ lực cống hiến của nhà văn. Tài năng của Tơ Hồi khơng chỉ thể hiện ở
những thể loại đó mà nó cịn phát tinh qua địa hạt hồi kí ở một số tác phẩm theo suốt
hành trình sáng tác của tác giả. Nói Tơ Hoài - một trong những tác giả đã gặt hái
“những bơng hoa đầu mùa cho thể loại hồi kí” cũng bởi ba nguyên nhân sau:
Thứ nhất, trong chặng đường phát triển của văn học Việt Nam hồi kí là mảnh
đất màu mỡ được nhiều nhà văn đào xới và Tô Hoài - một trong những người canh
tác trên mảnh đất ấy. Ông cũng thu lượm được nhiều hoa thơm quả ngọt từ bao nhiêu
năm chắt chiu vun trồng trên mảnh đất này. Điều đó được minh chứng qua hàng loạt tác
phẩm kí có giá trị được người đời nhớ mãi.
Thứ hai, ông muốn thể hiện tiềm lực đang tiềm ẩn trong con người. Mặt khác
tác giả muốn “bứt phá” nó vì theo thơng thường khi đến một độ tuổi nào đó đặc biệt
là lúc gần về già, có một độ lùi thời gian cần thiết để đánh giá, để ngẫm, để nghĩ về
nhân tình thế thái, về những buồn vui cũng như những năm tháng thăng trầm đã trải
qua nên lúc đó thể loại hồi kí là sự lựa chọn hàng đầu của các nhà văn, nhà thơ. Nhà


13
văn Nguyễn Công Hoan (1903 - 1977) lúc sắp bước vào tuổi bảy mươi mới “quyết
tâm” “nhớ gì viết nấy” hay ở nữ sĩ Anh Thơ (1918 - 2005) đã hồn thành hồi kí của

mình vào năm 1995 mang tên Tiếng chim tu hú. Còn Tố Hữu (1920 - 2002), hồi kí
Nhớ lại một thời được đến tay bạn đọc vào tuổi tám mươi…Trong nền văn học Việt
Nam, nếu như Nguyên Hồng (1918 - 1982) từ năm mười sáu tuổi đã có hồi kí
Những ngày thơ ấu về tuổi thơ cay đắng và cơ cực, một tuổi thơ với bao nỗi buồn,
thì Tơ Hồi với Cỏ dại (1944) - tập hồi kí đầu tay của mình tức là cũng rất sớm.
Cùng với Nguyên Hồng, ông cũng muốn bạn đọc hãy “hướng mắt” về phía ơng để
chào đón đứa con tinh thần này. Chính vì lí do ấy đã thơi thúc ông viết sớm, viết
nhanh khi mới “sương sương gió”.
Nguyên nhân thứ ba là khi viết Tơ Hồi đã đi khác với quan niệm chung về
hối kí - tức chỉ nói về đời mình. Tơ Hồi dựng cả một bức tranh đa diện, nhiều chiều
về hiện thực cùng những câu chuyện khơng bịa đặt thêm thắt, tơn trọng tính xác
thực của người và việc ông biết giữ đúng mực những mối quan hệ riêng - chung.
Theo tác giả, dù sáng tác đề tài hay thể loại nào cũng phải nói được sự thật để khiến
cho người đọc cảm xúc, từ đó tạo nên suy nghĩ cho họ”. Như vậy ở nguyên nhân thứ
ba này, Tơ Hồi viết để “kích thích” vào não bộ của bạn đọc, để họ hòa cùng vào
trang viết, trên từng câu chữ mà nhà văn chắt chiu. Nhà văn khiến cho độc giả bị
cuốn vào, không thể rời mắt khỏi quyển sách, khơng thể gấp nó lại bởi ở đó có một
“ma lực” đặc biệt, qua cách thể hiện sáng tạo của ơng.
Thực sự, Tơ Hồi - nhà văn với cách viết không giống ai, mang đậm cá tính,
phong cách của mình đã tạo được “dấu ấn riêng trên từng trang giấy”, khiến cho bạn
đọc không thể khơng nhớ đến ơng - người có cơng khơng nhỏ vào “mảng màu lớn”
của thể tài hồi kí trong bức tranh chung của sự nghiệp đổi mới văn học” [27, tr.13].
Đúng như Nguyễn Đăng Mạnh trong Nhà văn Việt Nam hiện đại - chân
dung và phong cách đã cho rằng: “Tơ Hồi sinh ra để viết hồi kí. Dường như ông có
một thứ cảm hứng riêng, có thể gọi là cảm hứng hồi tưởng. Hồi kí là sở trường, thế
mạnh cho ngịi bút Tơ Hồi” [16, tr.284].


14
Tơ Hồi, với những bước đi chập chửng đầu tiên trên mảnh đất mà nhà văn

chọn để canh tác, cùng với sự nỗ lực khơng ngừng ở ngịi bút, với một thái độ làm
việc nghiêm túc, cần mẫn, ta thấy được những tâm huyết của nhà văn dành cho hoạt
động sáng tạo nghệ thuật. Chính điều đó, mang lại một danh hiệu vinh dự: “nhà văn
gặt hái những bông hoa đầu mùa” ở thể loại hồi kí.
1.2.2. Cỏ dại và Tự truyện – hai tập hồi kí mang đậm dấu ấn Tơ Hồi
Hồi kí là lối văn viết về chính “cái tôi”, và sự cuốn hút đối với bạn đọc khi
cái tơi gọi được một điều gì đáng nói trong cuộc đời. Mỗi nhà văn khi viết về hồi kí
đều phải tơn trọng sự thật. Hồi kí của Tơ Hồi cũng khơng đi chệch quỹ đạo đó.
Nguyễn Tn từng quan niệm trong sáng tạo nghệ thuật: “mỗi nhà văn có một
vision (nhãn quan) riêng”, nó đẻ ra phong cách. Do thế mà anh thích tả gió, tả nắng,
anh thì thích tả mây, tả mưa. Anh thì có sở trường này, anh thì có sở trường nọ.
Như vậy, mỗi nhà văn đều có cái riêng của mình. Tơ Hồi cũng thế, nét riêng
của ông thể hiện rất rõ qua mỗi sáng tác mà cụ thể khi đi sâu vào việc tìm hiểu hai
tác phẩm Cỏ dại và Tự truyện, chúng tôi sẽ khai thác những đặc điểm đó, để góp
phần làm sáng tỏ những nhận định trên.
Năm 1944,Tơ Hồi đã cho ra đời tập hồi kí đầu tay mang tên Cỏ dại kể lại
quãng đời thơ ấu của tác giả. Tác phẩm là hồi ức tuổi thơ của Tơ Hồi, một tuổi thơ
êm đềm, phả chút buồn tủi lẫn những dư vị ngọt ngào, cứ ln hiện lên tươi rói trên
những trang sách.
Cỏ dại còn kể về chuyến hành hương ra thành phố của tác giả, trong vai trò là
cu Bưởi. Cu Bưởi phải rời quê, xa ông bà ngoại, mẹ và các dì để ra tỉnh. Biết bao
bồi hồi ngơ ngác trong tâm trạng cậu bé lần đầu được ra thành phố trọ học. Nhưng
mọi tấp nập, nhộn nhịp của phố phường không sao nguôi ngoai được nỗi nhớ nhà.
Việc học chẳng thấy đâu, chỉ thấy cậu hằng ngày phải lo mỗi việc đánh đi, đánh lại
mỗi một đôi giầy, cọ mãi mấy cái chai, và vần ra vần vào một cái lốp ô tô. Cuối
năm, áp tết cu Bưởi trở về nhà với cái đầu bị hắc lào và trắng mốc. Qua đó, bạn đọc
nhận thấy ở ơng đã có một cái nhìn ngộ nghĩnh, đượm buồn mà sắc nét, một cái
buồn “định mệnh”. Với hồi kí đầu tay này, Tơ Hồi đã bộc lộ cái nhìn sắc ảo về hiện



15
thực và con người trước 1945.
Đến Tự truyện, Tơ Hồi lại tiếp tục đào sâu vào cái kho kí ức ấy. Viết về tuổi
thơ khi đã ở tuổi hai mươi, rồi lại viết tiếp chính tuổi thơ ấy vào độ tuổi năm mươi,
nhưng người đọc chẳng thấy Tơ Hồi vơi đi chút nào cái trữ lượng bên trong. Cũng
viết về những người xung quanh như một thầy giáo gàn gàn, ương ương với nhiều
tình huống trớ trêu, cũng cái buồn thương, song đấy lại là những oi bức ngột ngạt
hơn. Vừa khác Cỏ dại vừa không khác, nhà văn luôn luôn đưa đến cho chúng ta
những thi vị khác nhau của ngịi bút ngày càng có chiều sâu.
Tự truyện của Tơ Hồi gắn với chuỗi dài những thăng trầm trong cuộc đời
nhà văn. Ở đó, hội tụ tất cả những gì mà ơng từng trải. Có thể là những ngày lên
thành phố đầy cực nhọc, những tháng ngày thất nghiệp phải lang thang khắp nơi,
đầu đường, xó chợ. Để rồi phải bán những cuốn “Ái tình luận” - bùa hộ thân lên Hải
Phịng học đánh máy chữ mong có được một cái nghề nuôi sống bản thân. Đôi lúc,
nhân vật tôi trong truyện phải đi làm tiền của những cô gái làm tiền chỉ vì cái đói cứ
ln đeo bám. Trong những chuỗi ngày cơ cực, câu chuyện về hoạt động cách mạng
của chàng thanh niên, từ một cu Bưởi nay đã trưởng thành, hăng hái với một tinh
thần đầy nhiệt huyết của tuổi trẻ cũng được nhà văn thể hiện trong tác phẩm.
Cỏ dại và Tự truyện theo tác giả khóa luận: “có thể xem như những viên
gạch đầu tiên của Tơ Hồi giúp ơng tạo cơ sở, tiền đề làm nên những kiệt tác xuất
sắc, gây được tiếng vang lớn ở những tác phẩm sau này trên địa hạt hồi kí” - một
lĩnh vực mà để tạo ra những đứa con tinh thần “là cả một quá trình phải đấu tranh tư
tưởng để viết”. Tơ Hồi xác định phải “đấu tranh tư tưởng” để làm nên những tác
phẩm thực sự mang đậm phong cách, cá tính của mình. Với hai tập hồi kí “tiên
phong” này, tuy cịn một số hạn chế nhất định nhưng phải khẳng định một điều rằng
bộ đôi tác phẩm Cỏ dại và Tự truyện đã mang đậm “dấu ấn” của nhà văn.
Tác giả không đi sâu vào việc phản ánh những mâu thuẩn giai cấp dữ dội,
quyết liệt song người đọc vẫn thấy được tất cả sự buồn chán về một kiếp người,
buồn về sự bần cùng, bế tắc. Đâu đó ở cả hai tác phẩm cũng le lói một chút hy vọng
và niềm tin. Từ “Cỏ dại đến Tự truyện, trong một khoảng cách hơn ba mươi năm



16
người đọc dường như khơng thấy có một sự hụt hẵng hoặc ngắt quãng nào trong
mạch hồi ức của Tô Hồi vẫn một trí nhớ tuyệt diệu. Một cảm hứng nhất qn. Một
sự sống khơng vơi cạn trong kho kí ức” [10, tr.43].
Nếu Cỏ dại bộc lộ những khả năng của tác giả trong việc nắm bắt quá khứ
ngay khi nó mới vừa hình thành, cũng như khách quan hóa mình thành một đối
tượng miêu tả thì Tự truyện cho thấy ông sống kĩ lưỡng biết bao với đời sống quanh
mình. Từ chuyện riêng tư đến chuyện làm nghề, rồi chuyện hoạt động cách mạng,
cái gì cũng được lên trang giấy, trở thành văn chương, sức chứa của đầu óc ông thật
hơn người mà sự chi li, tỉ mỉ thì ít ai bì kịp.
Tơ Hồi viết những điều mà khơng phải ở bất kì một nhà văn nào cũng viết
được. Ông đã kể lại cuộc đời cá nhân con người một cách sinh động, chân thực, trần
trụi cùng với một sự thể hiện “lạ”, “táo bạo”, hai đứa con tinh thần của nhà văn
mang đậm “dấu ấn” của cha đẻ nó. Góp phần khơng nhỏ vào việc định hình phong
cách nghệ thuật của ơng. Thêm vào đó bộ đơi tác phẩm này dường như là khâu
chuẩn bị cho những sáng tác thuộc thể kí về sau của Tơ Hồi.
Một cuộc đời phiêu bạt và đầy phong ba, “cát bụi” có thể thấy Tơ Hồi, nhà
văn của những chuyện thường, đời thường và con người thường. Tác giả đã lắp
ghép thành công từng “mảnh vụn” từ cuộc sống để tạo thành một tác phẩm nghệ
thuật hoàn chỉnh bằng tất cả tài năng, tâm huyết, cùng với một phong thái làm việc
cần mẫn, chu đáo và nghiêm túc, đầy tinh thần trách nhiệm. Chính việc hội tụ ở con
người Tơ Hồi những phẩm chất ấy đã đưa ông đến ngôi vị một trong những “cây
đại thụ trong giới văn chương”. Nhà văn thành cơng khi viết về đề tài miền núi, về
lồi vật và cả về vùng đất thân thương - thủ đơ Hà Nội.
Bên cạnh đó thời gian sẽ trơi qua, ấn tượng của độc giả khi nhớ về những
sáng tác của Tơ Hồi vẫn ở thể loại thuộc “sở trường” là hồi kí - nơi khẳng định tài
năng, phong cách của nhà văn.
Những gì đầu tiên là điều mà bất kì ai cũng muốn khai phá. Nó mang điều

đặc biệt đến kì lạ, nó cuốn hút tất cả mọi người, đặc biệt là trong văn chương. Cỏ
dại và Tự truyện là những sáng tác như thế, mang đậm cá tính sáng tạo nhà văn. Đọc


17
tác phẩm, chính những điều được Tơ Hồi trải lịng mình trên từng trang viết khó có
thể khiến người đọc thả quyển sách xuống. Họ sẽ đọc đến trang cuối cùng, để được
hịa mình trong những cung bậc cảm xúc của nhà văn, để có thể tìm kiếm một chút
hình bóng của chính mình trong đó.
Tất cả những danh hiệu cao quý mà bạn đọc yêu văn chương cũng như giới
nghiên cứu và phê bình dành tặng cho Tơ Hồi như một phần thưởng xứng đáng cho
những cống hiến của tác giả dành cho nền văn học nước nhà.


18
Chương 2
HIỆN THỰC CUỘC SỐNG VÀ CHÂN DUNG TỰ HỌA CỦA TƠ HỒI
TRONG CỎ DẠI VÀ TỰ TRUYỆN

2.1. Cái nhìn độc đáo về hiện thực cuộc sống trong Cỏ dại và Tự truyện
Mỗi nhà văn có sự cảm nhận về thế giới hiện thực khách quan khác nhau. Vì
thế, ở họ có một hệ thống đề tài riêng, khơng ai giống ai. Người ta gọi là những
vùng thẩm mĩ riêng, họ chỉ có thể cảm hứng về nó mà thơi. Tất cả xét đến cùng bắt
nguồn từ nhãn quan về thế giới.
Đối với Tơ Hồi, khơng như một số cây bút khác, có người chỉ quen cảm thụ
với những cái cao cả, thiêng liêng; những con người và sự vật được tôn sùng, ông
quan tâm đến những cái thường nhất trong cuộc sống hằng ngày. Chỉ có những điều
ấy mới chi phối đến ngòi bút trong cách kể, cách tả của nhà văn.
2.1.1. Hiện thực “bất ngờ”, “tình cờ” và “ngẫu nhiên”.
Trước đây khi viết hồi kí các nhà văn thường hay thi vị hóa các sự kiện. Điều

đó cũng dễ hiểu bởi với mỗi người, kỷ niệm hoặc ấn tượng sâu đậm đã trôi qua
thường không bao giờ phai mờ trong kí ức. Phần nào nó lại được tắm trong màn
sương của thời gian, cho nên nói hồi kí ít nhiều có chất thơ chính vì lẽ đó. Đọc hồi
kí Tơ Hồi, Ngun Hồng, người đọc thực sự xúc động với những cảnh đời tư hiện
lên thật tha thiết, buồn - vui đan xen thể hiện rất thực cuộc sống đời thường.
Dưới con mắt của nhà văn, dường như ở ngịi bút của ơng mọi kỉ niệm khơng
chỉ được biến thành những cái vĩnh hằng, cái cao thượng mà có cả sự vật, con người
bình thường. Nhân vật khơng chỉ được tắm mình trong những ánh sáng huyền ảo
lung linh của quá khứ mà hiện ra như những con người thường, thậm chí tầm
thường. Ơng đã tiếp cận cuộc sống trong sự xô bồ gần nhất, thấy được những “ung
nhọt”, ln tồn tại và “ứ đọng” trong dịng chảy của cuộc đời. Tơ Hồi đã vẽ một
cách tỉ mỉ bức tranh về đời sống xã hội xung quanh mình, về nhân tình thế thái, về
những điều ơng cho rằng phải “lắp”, phải “ghép”, “gom nhặt” từng mảnh vụn lại.


19
Mở đầu thiên hồi ức Cỏ dại, tác giả ghi lại cuộc sống gia đình - nơi tổng hợp
của những tiếng la hét và chửi rủa. Trong cuộc sống ngột ngạt ấy, nhân vật tôi phải
chứng kiến không biết bao nhiêu nỗi đau khổ. Niềm vui ở ngơi nhà thì hiếm hoi
nhưng những buồn tủi thậm chí là những giọt nước mắt thì cứ đong đầy. Những sự
việc chóng đến, chóng đi khiến cho ơng khơng khỏi bất ngờ. Đó chính là cái chết
của cái Hồ - một cái chết thương tâm: “Tháng tư năm ấy, hai anh em chúng tơi cùng
lên sởi... tơi sắp khỏi thì bệnh sởi của em gái tôi bắt đầu... mắt Hồ nhắm như ngủ,
mặt Hồ vẫn trắng xanh xanh như thường ngày. Một lúc sau, cả nhà tơi ịa khóc inh
ỏi trong buồng.... Tơi không bao giờ tin thế là em tôi chết” [7, tr.36]. Cái chết đột
ngột của đứa em xấu số khiến khung cảnh của gia đình thêm ảm đạm hơn.
Để có được cái nhìn về cuộc đời một cách gần nhất, Tơ Hồi thể hiện thì ở
ơng phải có một cảm quan tinh nhạy về hiện thực. Tác giả Mai Thị Nhung cho rằng:
“yếu tố cốt lõi tạo cơ sở hình thành cảm quan về hiện thực của Tơ Hồi khơng chỉ là
hồn cảnh gia đình, xã hội và bản thân mà còn là quan niệm về văn chương”...“dù

quan niệm văn chương của ơng chưa được thể hiện một cách có hệ thống và chiều
sâu như Nam Cao, nhưng trong nhiều tác phẩm của mình, nhà văn đã bộc lộ một
cách khá rạch rịi” [22, tr.18]. Ở đây, tác giả khóa luận thống nhất với nhận định trên
của cơng trình nghiên cứu, bởi ngay những ngày đầu cầm bút, Tơ Hồi nhận thấy:
“chưa bao giờ tôi bắt chước truyện của Khái Hưng, Nhất Linh. Viết những truyện
viễn vơng gian hồ kì hiệp thì ai cũng có thể tưởng tượng như nhau nhưng viết giống
cái thật thì địi hỏi người trong truyện của mấy ơng con quan và có đồn điền như
thế, tôi không biết, nên không bắt chước được” [7, tr.198]. Đó là sự tự “ý thức sâu
sắc về ngịi bút của chính mình, về cái tạng của riêng mình” [22, tr.18].
Tơ Hồi tự học để trở thành một nhà văn. Ông đến với nghề “vừa bất ngờ,
ngẫu nhiên nhưng cũng đầy tình cờ và tự nhiên” [10, tr.23]. Nước lên - truyện ngắn
đầu tay của Tơ Hồi, khởi nghiệp của nhà văn bắt đầu từ đây. Ông tâm sự, lúc đi
học ơng rất thích viết những truyện ngắn nhỏ, những truyện vừa những “truyện mini
đầy tình cờ và tức cười. Bây giờ, khi tôi quyết định lấy nghề viết nuôi thân, tơi
khơng nghĩ là tình cờ...”[10, tr.197].


×