ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
KHOA NGỮ VĂN
----------------
NGUYỄN THỊ HIỀN
THÂN PHẬN CON NGƯỜI
TRONG CA DAO NGHỆ TĨNH
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
NGÀNH SƯ PHẠM NGỮ VĂN
Đà Nẵng, tháng 05/2014
ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
KHOA NGỮ VĂN
----------------
THÂN PHẬN CON NGƯỜI
TRONG CA DAO NGHỆ TĨNH
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
NGÀNH SƯ PHẠM NGỮ VĂN
Người hướng dẫn khoa học:
TS. Lê Đức Luận
Người thực hiện
NGUYỄN THỊ HIỀN
Đà Nẵng, tháng 05/2014
Lời cam đoan
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình do chính tơi nghiên cứu, khơng sao
chép ở bất cứ một cơng trình nào. Tơi xin chịu trách nhiệm về tính khoa học
cũng như về nội dung trích dẫn và các tài liệu của khóa luận.
Đà Nẵng, ngày tháng năm 2014
Sinh viên
Nguyễn Thị Hiền
LỜI CẢM ƠN
Trong thời gian vừa qua nhờ sự quan tâm, giúp
đỡ tận tình của q thầy cơ, gia đình và bạn bè mà tơi
đã hồn thành khóa luận tốt nghiệp này.
Bằng tấm lịng tri ân của mình tơi xin gửi lời
cảm ơn sâu sắc đến các thầy cô giáo trong khoa
Ngữ văn - Trường Đại học Sư phạm Đà Nẵng, đặc
biệt là thầy giáo, Tiến sĩ Lê Đức Luận - người đã
trực tiếp hướng dẫn, giúp đỡ và tạo mọi điều kiện để
tơi hồn thành khóa luận tốt nghiệp.
Tơi cũng xin gửi lời cảm ơn chân thành tới Sở
Văn hóa Thơng tin tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh đã tận tình
giúp đỡ, cung cấp những tư liệu quý báu để chúng tơi
có cơ sở nghiên cứu, hồn thành đề tài.
Đà Nẵng, ngày tháng năm 2014
Sinh viên
Nguyễn Thị Hiền
1
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Nghệ Tĩnh là mảnh đất địa linh nhân kiệt. Nơi đây đã sinh ra biết bao
anh hùng dân tộc, những văn hào, thi hào tài giỏi, có tấm lịng nhân nghĩa lấy
sức mình phụng sự cho Tổ quốc như: Nguyễn Du, Hồ Chí Minh… Khơng
những vậy, Nghệ Tĩnh cịn có một nền văn hóa dân gian tương đối đầy đủ về
thể loại và phong phú về hình thức biểu hiện, trong đó phải kể đến thể loại ca
dao.
Từ lâu, ca dao Nghệ Tĩnh đã trở thành một kho tàng văn hóa dân gian
phong phú, đa dạng. Nó phản ánh mọi mặt sinh hoạt và tính cách của con
người Nghệ Tĩnh: Đó là tinh thần bền bỉ, cần cù lao động trên mảnh đất
nghèo, khắc nghiệt; là ý chí quật cường, dũng cảm đấu tranh chống lại bọn
tham ô quan lại, thực dân và đế quốc. Người dân Nghệ Tĩnh bằng ý chí, nghị
lực của mình, bằng ý thức và tinh thần yêu nước, đã làm tất cả để tồn tại và
khẳng định được bản thân mình như ngày hơm nay.
Là người con của q hương Nghệ Tĩnh, tôi rất tự hào về mảnh đất anh
hùng và đầy truyền thống hiếu học này. Tìm hiểu và nghiên cứu đề tài Thân
phận con người trong ca dao Nghệ Tĩnh nhằm mục đích trước hết là thấy
được đời sống sinh hoạt, con người Nghệ Tĩnh được thể hiện qua ca dao. Mặt
khác, đề tài cũng chỉ ra những sắc thái riêng của ca dao Nghệ Tĩnh so với các
vùng khác, cái làm nên nét độc đáo của văn học dân gian xứ Nghệ. Chính
điều này, đã giúp cho người nghiên cứu tăng thêm lòng tự hào về nơi chốn rau
cắt rốn của mình.
2
2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu
Nghệ Tĩnh là vùng đất có lịch sử và văn hóa lâu đời, đặc biệt là có một
kho tàng ca dao vơ cùng phong phú. Việc sưu tầm, nghiên cứu về Nghệ Tĩnh
đặc biệt là ca dao Nghệ Tĩnh lâu nay đã được nhiều cá nhân, tổ chức, giới phê
bình quan tâm và cũng thu được nhiều kết quả đáng ghi nhận.
Tục ngữ ca dao dân ca Việt Nam của Vũ Ngọc Phan (2000), tác giả đã
trình bày rất nhiều vấn đề của tục ngữ ca dao, dân ca Việt Nam trong đó ơng
có trình bày một vài khía cạnh liên quan đến ca dao Nghệ Tĩnh.
Lê Đức Luận với Cấu trúc ca dao trữ tình người Việt (2009), nghiên
cứu về cấu trúc ngơn ngữ trong ca dao, trong đó có một phần nói về ca dao
Nghệ Tĩnh.
Nguyễn Nhã Bản Cuộc sống của thành ngữ, tục ngữ trong ca dao,
(2003), Nxb Vinh, Nghệ An.
Nguyễn Nhã Bản Đặc trưng cấu trúc - ngữ nghĩa của thành ngữ, tục
ngữ trong ca dao, (2005), Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.
Cuốn Thi pháp ca dao Việt Nam (2006) của tác giả Nguyễn Xuân Kính,
Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội là cơ sở để chúng tơi tìm hiểu những hình thức
nghệ thuật của ca dao Nghệ tĩnh.
Trên đây là những cơng trình chủ yếu nghiên cứu về ca dao cả nước,
trong đó có một phần nhỏ nói đến ca dao Nghệ Tĩnh.
Nghiên cứu về Nghệ Tĩnh đã có rất nhiều bài viết, cơng trình nghiên
cứu. GS. Nguyễn Nhã Bản với nhiều tác phẩm viết về Nghệ Tĩnh như: Bản
sắc người Nghệ Tĩnh (2001), Nxb Nghệ An. Trong tác phẩm này tác giả chủ
yếu trình bày tính cách, con người xứ Nghệ dưới góc nhìn ngơn ngữ. Ngồi ra
cịn có các cơng trình khác như: Địa danh trong thơ ca Nghệ Tĩnh, (2000); Ca
dao địa danh Nghệ Tĩnh, một bảo tàng văn hóa vùng được in trong hội quốc
tế lần thứ 5 về các ngôn ngữ liên Á, Vốn từ địa phương Nghệ Tĩnh; nhát cắt
3
thời gian trong tâm thức người Nghệ Tĩnh, (1995).
Cơng trình nghiên cứu Vị trí và đặc điểm của vùng văn hóa danh nhân
Nghệ Tĩnh, (1983) của Hồng Tiến Lựu.
Ban nghiên cứu lịch sử Nghệ Tĩnh (1980), Danh nhân Nghệ - Tĩnh, tập
1, tập 2. Nxb Nghệ -Tĩnh, Vinh.
Nguyễn Đổng Chi với tác phẩm Cuốn địa chí văn hóa dân gian Nghệ
Tĩnh, (2003) được tặng giải thưởng Hồ Chí Minh. Đây là một cơng trình
nghiên cứu khá đầy đủ về q trình hình thành vùng đất xứ Nghệ, các loại
hình văn hóa dân gian. Ngồi ra cịn có cơng trình nghiên cứu về Vè Nghệ
Tĩnh (1964) của các tác giả Nguyễn Đổng Chi, Ninh Viết Giao, Võ Văn Trực,
Nguyễn Tất Thứ.
Nghiên cứu về văn hóa Nghệ Tĩnh cịn có các tác giả khác như: Ninh
Viết Giao với Hát phường vải, Nghệ An; Văn học dân gian Nghệ Tĩnh
(1982); Lê Hàm với Dân ca Nghệ Tĩnh (1970); Nguyễn Xn Khốt với cơng
trình nghiên cứu Hò (1956).
Nghiên cứu về ca dao Nghệ Tĩnh, xét về quy mơ lớn nhất có thể kể đến
Nguyễn Đổng Chi với nhiều tác phẩm biên soạn có giá trị, công phu.
Ca dao Nghệ Tĩnh do Nguyễn Đổng Chi và Ninh Viết Giao biên soạn
(1984) là một cơng trình nghiên cứu công phu về kho tàng ca dao Nghệ Tĩnh.
Qua phần giới thiệu, tác giả đã chứng minh rằng Nghệ Tĩnh có một kho tàng
văn hóa dân gian phong phú. Nó phản ánh mọi mặt về đời sống sinh hoạt và
tính cách của con người Nghệ Tĩnh.
Đến năm 1996, Nguyễn Đổng Chi, Ninh Viết Giao đã cộng tác với Võ
Văn Trực, Sầm Nga Di, Lô Khánh Xuyền và một số tác giả khác nữa cho xuất
bản cuốn Kho tàng ca dao xứ Nghệ gồm có hai tập do nhà xuất bản Nghệ An
ấn hành. Cuốn này chủ yếu dựa trên cơng trình Ca dao Nghệ Tĩnh được xuất
bản năm 1984 và bổ sung thêm phần ca dao của người Thái ở Nghệ An và
4
đồng dao.
Trên đây là những bài viết, những cơng trình nghiên cứu về Nghệ Tĩnh,
tuy nhiên nó chỉ dừng lại ở một số bài viết chung chung về ca dao Nghệ Tĩnh,
chứ chưa có một cơng trình nào đi sâu nghiên cứu cụ thể đề tài Thân phận con
người trong ca dao Nghệ Tĩnh. Bằng hiểu biết của mình cùng với sự tiếp thu
tài liệu từ các nhà nghiên cứu, đây là những tư liệu q giúp chúng tơi hồn
thành đề tài. Hi vọng sẽ giúp bạn đọc có một cái nhìn khái qt và tồn diện
hơn về vấn đề này.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu mà chúng tơi tìm hiểu ở đây là Thân phận con
người trong ca dao Nghệ Tĩnh.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Với đề tài này, chúng tôi tập trung vào khảo sát, nghiên cứu thân phận
con người bình dân trong cuốn Kho tàng ca dao xứ Nghệ của Nguyễn Đổng
Chi và Ninh Viết Giao (chủ biên), Nxb Nghệ An, 1996.
4. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài này chúng tôi sử dụng một số phương pháp sau:
4.1. Phương pháp thống kê, phân loại
Chúng tôi thống kê và phân loại các bài ca dao thể hiện nội dung mà đề
tài chúng tôi cần nghiên cứu.
4.2. Phương pháp phân tích
Chúng tơi sử dụng phương pháp phân tích các bài ca dao xứ Nghệ để
làm nổi bật lên thân phận của những con người trong xã hội xưa. Đồng thời,
thấy được vẻ đẹp của vùng đất núi Hồng, sông Lam cũng như tình u q
hương, đất nước, ý chí kiên cường, bất khuất của người dân Nghệ Tĩnh.
5
4.3. Phương pháp so sánh
Sử dụng phương pháp so sánh nhằm làm nổi bật được những phẩm chất
tốt đẹp của con người xứ Nghệ so với các vùng khác.
4.4. Phương pháp khái quát, tổng hợp
Chúng tôi đã sử dụng phương pháp này để khái quát và tổng hợp tất cả
những nội dung mà chúng tơi đã trình bày.
5. Bố cục khóa luận
Ngồi phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, nội dung khóa luận
gồm 3 chương:
Chương 1: Khái quát chung
Chương 2: Đặc điểm thân phận con người trong ca dao Nghệ Tĩnh
Chương 3: Nghệ thuật biểu hiện thân phận con người trong ca dao
Nghệ Tĩnh
6
Chương 1
KHÁI QUÁT CHUNG
1.1. Đặc điểm về vị trí địa lí, dân cư và lịch sử vùng đất
1.1.1. Đặc điểm vị trí địa lí
Nghệ Tĩnh là một phần máu thịt của Việt Nam. Nơi đây, là một vùng
đất do điều kiện hồn cảnh đặc biệt mà có những sắc thái riêng, chính những
sắc thái này đã tạo nên những nét đặc sắc, độc đáo cho xứ Nghệ. Nghệ Tĩnh
gồm 2 tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh. Xứ Nghệ thuộc vùng Bắc Trung Bộ, trải dài
từ 17 độ 54’ đến 19 độ 3’ vĩ Bắc và từ 106 độ 2’ kinh Đơng. Ở đây, phía Bắc
giáp tỉnh Thanh Hóa, phía Nam giáp tỉnh Quảng Bình, phía Tây giáp nước
Cộng hịa Dân chủ Nhân dân Lào và phía Đơng giáp biển Đơng. Đây là vùng
có diện tích lớn nhất Việt Nam với tổng diện tích tự nhiên là 22.542 km2.
Nghệ Tĩnh có núi rừng trùng điệp, chiếm hai phần ba diện tích. Núi trải
dài dày đặc ở phía tây, bốn mùa mây phủ từ xưa đã được nhân dân quen gọi là
dãy Giăng Màn hay Trường Sơn. Núi còn sừng sững đâm thẳng ra biển, được
gọi là Đèo Ngang hay Hoành Sơn.
Nghệ Tĩnh có khí hậu khá đặc biệt. Hàng năm phải chịu đựng một thứ
gió mà các nhà khí hậu học cho là có quan hệ với gió Lào Tây Nam Bănggan,
tức gió Nam Lào. Nó mang cái nóng ran của bụi khơ thu góp từ lục địa xa xơi
trút về đây, làm thêm phần kéo dài và tăng cao nhiệt độ những ngày hè. Từng
tấc đất ở đây đều thấm máu và mồ hôi của cha ông. Cuộc chống chọi giữa con
người với thiên nhiên diễn ra thường xuyên. Điều này ảnh hưởng rất lớn đến
tính cách, lối sống của người dân xứ Nghệ.
Xứ Nghệ là nơi có nhiều sơng ngịi, với tổng chiều dài sơng suối trên
địa bàn tỉnh là 10.228 km, mật độ trung bình là 0,7 km/km2. Sông lớn nhất là
sông Cả (sông Lam) bắt nguồn từ huyện Mường Pẹc tỉnh Xiêng - Khoảng
(Lào), có chiều dài là 532 km, diện tích lưu vực 27.200 km2. Tổng lượng
7
nước hàng năm khoảng 28.109 m3 trong đó 14,4.109 là nước mặt đủ để đáp
ứng cho hoạt động sản xuất và đời sống sinh hoạt của người dân nơi đây.
Nghệ Tĩnh là vùng đất có bờ biển dài 219 km. Bãi biển Cửa Lò là một trong
những bãi tắm đẹp và hấp dẫn, đây là điều kiện thuận lợi phục vụ cho việc
phát triển ngành du lịch và một số ngành nghề khác. Núi Hồng, sông Lam là
hai biểu tượng độc đáo thể hiện tâm hồn, lòng dũng cảm và tình u của con
người xứ Nghệ. Sơng Lam là con sông đẹp nhất ở nước ta, màu nước xanh
ngọc lững lờ, thường xuyên thay đổi dòng chảy, dù ai đi đâu cũng nhớ tới
những câu ca dao:
Nước sông Lam dào dạt
Đây cảnh đẹp q mình
Ai đi ngược đó đây
Vẫn nhớ về Nghệ Tĩnh.
1.1.2. Đặc điểm dân cư
Nghệ Tĩnh với số dân là 4.342.000 người (2004). Hiện nay chiếm đại
đa số dân cư Nghệ Tĩnh là dân tộc Kinh, người Thái là dân tộc chiếm đa số
trên miền núi. Trong Địa chí văn hóa dân gian Nguyễn Đổng Chi đã viết:
“Con người nơi đây chất chứa một cái gì chất phát của con người thời cổ hay
con người ở chốn núi rừng mà cuộc sống còn giản đơn và cách biệt” [9, tr.22].
Cả một thời kì dằng dặc trong khi nhân loại chưa biết cách ngự tốt được thiên
nhiên, trong khi khoa học kĩ thuật chưa phát triển mạnh… thì con người nơi
đây đã gan góc, mưu trí, bền bỉ phấn đấu để thích nghi với thiên nhiên khắc
nghiệt cũng như chắt chiu, cần kiệm quyết tâm bám đất để sinh tồn. Đúng như
Phan Huy Chú đã nhận xét: “Con người ở đây rất cần kiệm và hiếu học, sản
vật thì quý báu và hiếm lạ, thần núi và thần biển đều linh dị, khí thiêng non
sơng kết thành những bậc danh hiền. Đất này là vùng đất thông với xứ Nam
Lào, lại là vùng giới hạn của Nam Bắc, do đó xứng đáng là một thành trì kiên
8
cố, là then chốt của nước nhà qua các triều đại” [5, tr.136].
Con người xứ Nghệ là một phần dòng dõi của của những người nổi dậy
chống triều đình ở Đàng Ngồi, trong cái gan góc có bướng bỉnh, trong mưu
trí có sự liều lĩnh. Cũng như các địa phương khác, ý thức cộng đồng gia tộc,
cộng đồng làng xã còn rõ đậm nhưng ý thức dân tộc từ lâu đã được bồi đắp và
nâng cao. Những con người nơi đây, sẵn sàng quên mình vì nghĩa, trung trực,
thủy chung… có thể nói, thiên nhiên và xã hội đã phần nào quyết định nếp
sống, nếp nghĩ thể hiện được cá tính và tính cách đặc biệt của con người Nghệ
Tĩnh nổi bật đó là dũng cảm và nghị lực.
Nghệ Tĩnh là mảnh đất phải chịu bao khó khăn với thiên nhiên khắc
nghiệt, gắn bó với bao cuộc chiến cơng vang dội của dân tộc. Nơi đây, đã sản
sinh ra biết bao anh hùng, danh nhân văn hóa nổi tiếng như: Nguyễn Du, Hồ
Chí Minh… Xứ Nghệ được sử sách ghi lại là vùng “địa linh nhân kiệt”. “Sông
Lam núi Hồng đã ăn sâu vào tâm thức của mọi người và trở thành biểu tượng
rực rỡ về mảnh đất, con người xứ Nghệ. Ngã ba Đồng Lộc như một chứng
tích lịch sử gắn với tên tuổi của mười cô gái. Bãi phôi phối ở xã Xuân Viên,
huyện Nghi Xuân, dãy núi Hồng Lĩnh là nơi mà các nhà khảo cổ học đã tìm
thấy những dụng cụ bằng đá được ghè đẽo với những nồi đất, với hoa văn hai
mặt”…[5, tr.168].
1.1.3. Lịch sử vùng đất
Xứ Nghệ là tên chung của vùng Hoan Châu cũ (bao gồm cả Nghệ An
và Hà Tĩnh) từ thời nhà Hậu Lê. Theo Đại Việt sử kí tồn thư, Nghệ Tĩnh
thuộc bộ Cửu Đức, thời nhà Hán là huyện Hàm Hoan thuộc quận Cửu Chân,
thời nhà Ngô tách ra huyện Cửu Chân đặt tên là quận Cửu Đức, thời nhà Đinh
nhà Tiền Lê gọi là Hoan Châu. Đến thời nhà Lý năm 1030 bắt đầu gọi là châu
Nghệ An, thời nhà hậu Lê từ 1490 gọi là xứ Nghệ An, thời Tây Sơn gọi là
Nghĩa An trấn. Đến thời nhà Nguyễn vua Gia Long đặt làm Nghệ An trấn.
9
Năm 1831 vua Minh Mạng chia Nghệ An trấn thành 2 tỉnh là nghệ An (phía
Bắc sơng Lam) và Hà Tĩnh (phía Nam sơng Lam). Từ năm 1976 đến 1991 sát
nhập Nghệ An và Hà Tĩnh thành Nghệ Tĩnh. Năm 1991 Nghệ Tĩnh lại tách ra
thành Nghệ An và Hà Tĩnh như ngày nay. Đơn vị hành chính gồm: Thành phố
Vinh, thị xã Hà Tĩnh và 25 huyện. Hai tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh cùng chung
một vùng văn hóa gọi là văn hóa Lam Hồng, có chung biểu tượng là núi Hồng
- sơng Lam, có cùng phương ngữ tiếng Nghệ, cùng kho tàng văn hóa dân
gian, cùng ca câu hị ví dặm, cùng uống chung dịng nước sơng Lam.
Theo lời GS Trần Quốc Vượng, một nhà nghiên cứu học nổi tiếng đã
nói: “Nói thật cho đúng thì Nghệ Tĩnh mới tách ra về mặt hành chính q gần
đây thơi. Chúng tơi đã làm chung và nhìn chung về khảo cổ học Nghệ Tĩnh.
Thời Đá cũ, sơ kì có Thẩm Ịm ở Qùy Châu, hậu kì có đồi rừng, đồi Rạng ở
Thanh Chương. Thời Đá mới, sơ kì có nhiều hang động Hịa Bình – Bắc Sơn
ở các huyện Quế Phong, Con Cng, Tương Dương, Tân kì, Qùy Châu, có
nhiều cồn sò điệp ở ven biển Quỳnh Văn, Quỳnh Lưu, hậu kì có nhiều di tích
văn hóa cồn – bàu – dạng Bàu Tró - ở dọc ven biển Cẩm Xuyên, Thạch Hà,
Can Lộc, Nghi Xuân, Diễn Châu. Rất đáng chú ý là xưởng chế tàu rìu đá ở Rú
Dầu, xã Đức Đồng, Đức Lạc, huyện Đức Thọ đánh dấu sự phân công lao
động và nhiều trao đổi sản phẩm từ đó tỏa đi nhiều nơi ngay từ thời nguyên
thủy”… [5, tr.125].
Nghệ Tĩnh đã có rất nhiều lần thay đổi tên khác nhau, điều đó chứng tỏ
vùng đất này đã trải qua rất nhiều thăng trầm của dân tộc. Lịch sử đã đi qua
thời kì đồ đá, đồ đồng và đồ sắt, và cũng tại vùng đất này trong trí nhớ của
dân gian còn đậm nét những thần thoại, huyền thoại về ông Đùng, ông Khổng
Lồ,… cùng nhiều truyền thuyết về thời đại Hùng Vương, đặc biệt là truyền
thuyết Kinh Dương Vương lấy nàng Thần Long lập đô ở ấp Thúc Lĩnh (Ngàn
Hống) và sinh con trưởng là Long Vương (Lạc Long Quân).
10
Nghệ Tĩnh là “phên dậu của nước nhà”, là đất “trọng trấn”, “nam trấn”,
“viễn trấn”, của nhiều đời. Các anh hùng dân tộc, các lãnh tụ nghĩa quân mỗi
khi vùng lên dấy nghĩa chống ngoại xâm, chống giai cấp bóc lột hay khi thất
bại phải rút lui để chờ cơ hội phục hưng thường dùng Nghệ Tĩnh làm căn cứ
địa. Đây là nơi cịn ghi bao chứng tích lịch sử, do địa thế núi sơng có phần
hiểm trở khi thắng có thể đánh ra, khi yếu có thể giữ vững. Người Nghệ Tĩnh
vốn có tính cách quật cường, dũng cảm bất khuất, khi chịu đựng gian khổ thì
gan góc lầm lì, khi đi theo việc nghĩa thì thủy chung son sắt. Tất cả đã làm
nên những đặc trưng riêng biệt cho con người xứ Nghệ.
Xứ Nghệ là vùng đất cuối cùng của lãnh thổ Đại Việt xưa. Trải qua
nhiều thời kì, vùng “viễn trấn” có một truyền thống chống lại giai cấp thống
trị rất tích cực. Hơn nữa, nó lại ở khá xa trung tâm phong kiến tập quyền nên
bọn thống trị khó với tay tới bóp nghẹt cuộc sống của nhân dân. Cắp giáo non
sơng, chọi mình với những kẻ thù cướp nước hung hãn, nhân dân Nghệ Tĩnh
rất mực can đảm hiên ngang.
Theo GS. TS Nguyễn Nhã Bản đã từng viết: “Nghệ Tĩnh là mảnh đất
có từ ngày nhà nước chúng ta mang tên Văn Lang. Lịch sử tổ quốc Việt Nam
thân yêu của chúng ta có bao nhiêu thăng trầm thì dường như đất Nghệ cũng
xảy ra bấy nhiêu biến cố” [5, tr.115]. Nghệ Tĩnh là một vùng đất có nền văn
hố lâu đời. Nó gắn liền với cái nơi văn hố của người Việt Nam nói chung.
Xứ Nghệ cũng là cái nơi văn hố của Miền Trung.
1.2. Đặc điểm về con người Nghệ Tĩnh
Nếu như các bà mẹ dùng những lời ru ngọt ngào, sâu lắng để thổi vào
tâm hồn những đứa con của mình. Ca dao Nghệ Tĩnh lại dùng âm điệu ngọt
ngào, thiết tha của câu lục bát quen thuộc để hát nuôi phần hồn cho những
đứa con yêu. Qua những âm điệu đó cha mẹ gửi gắm ước mơ trong những bài
học đầu đời sâu sắc:
11
Ru con con ngủ à ơi
Trông cho con lớn nên người khôn ngoan
Làm trai gánh vác giang san
Mẹ cha trông xuống, thế gian trông vào
Ru con con ngủ đi nào
Cù lao dưỡng dục biết bao cho cùng
Làm trai quyết chí anh hùng
Ra tay đánh dẹp, vẫy vùng nước non.
Qua những lời ru trên ta thấy được cái khí chất gân guốc, mạnh mẽ, hịa
trong âm điệu tâm tình, thiết tha quen thuộc. Người xứ Nghệ không chỉ truyền
cho con trẻ lịng biết ơn cơng cha, nghĩa mẹ mà cịn dưỡng dục con về chí khí
làm người. Người dân Lam Hồng cần cù lao động trên mảnh đất vô cùng khắc
nghiệt, kiên cường, bất khuất khi đấu tranh với bọn quan lại, đế quốc. Ở họ
hội tụ rất nhiều đức tính q báu: Chân thành, thẳng thắn, tình nghĩa; thơng
minh, sáng tạo, hiếu học; cần cù, chịu khó…. Tất cả đã làm nên một xứ Nghệ
rất riêng, rất đặc sắc.
1.2.1. Chân thành, thẳng thắn, tình nghĩa
Nghệ Tĩnh là vùng đất sản sinh ra nhiều con người nổi tiếng gan góc,
mưu trí, kiên cường, bất khuất trong đấu tranh với thiên nhiên cũng như trong
đấu tranh với giai cấp bóc lột. Con người xứ Nghệ giàu lí tưởng về cuộc sống,
về cái đẹp, vươn lên thực tại. Họ là những con người sống chân thành, thẳng
thắn và tình nghĩa. Người Nghệ Tĩnh nổi tiếng gân guốc, bộc trực nhưng cũng
tinh tế không thua kém bất cứ vùng nào:
Trèo đèo hai mái chân vân
Người về Hà Tĩnh, dạ ái ân Quảng Bình.
Đứng trên đỉnh đèo, nhìn sang hai mái, bước một bước chân thôi là
người đã về “Hà Tĩnh” thân thương. Giữa không gian đặc biệt đó, nỗi lưu
12
luyến lên đến đỉnh điểm, đặt bước chân về “Hà Tĩnh” mà “dạ ái ân Quảng
Bình”. Vẻ đẹp của bài ca dao trên như một lời giải thích vì sao mảnh đất này
lại có thể sản sinh ra những trang “Kiều” thêu hoa dệt gấm như vậy.
Con người Nghệ Tĩnh có tính chân thực, là khí tiết bền bỉ của những
tâm hồn tha thiết với quê hương, với dòng họ, với nghề nghiệp. GS. Đặng
Thai Mai đã từng nhận xét về con người Nghệ Tĩnh: “Con người ở đây đối
với tự nhiên, đối với cái đẹp của lí tưởng, tuy không bộc lộ một cách ồn ào
hời hợt, nhưng lại có phần suy nghĩ điềm tĩnh, sâu sắc và bền bỉ cảm động
thiết tha” [24]. Con người Nghệ Tĩnh là vậy sống chân thành, cởi mở với mọi
người. Họ sống hiền lành, chất phát nhưng không bao giờ chịu khuất phục
hay im lặng trước cái ác, cái xấu. Khảng khái, thủy chung, trung trực là những
nét dễ bắt gặp ở người dân xứ Nghệ.
Sống trong môi trường với thiên nhiên thời tiết khắc nghiệt, con người
nơi đây luôn phải đối mặt với bao khó khăn, thử thách, hoạn nạn nhưng họ
không hề bi quan, mà luôn tỏ ra vui tươi, dí dỏm. Một kí giả Cu Ba đã tỏ ra
kinh ngạc trước vẻ đẹp kiên cường, dịu hiền và ngây thơ của những nữ pháo
thủ, ông viết: “Chẳng hề sợ khi chiếc máy bay phản lực Mĩ nhào xuống bắn
vào tổ chức của cô. Thế mà cô cảm thấy “sợ” khi chúng tôi đề nghị cô kể lại
chuyện chiến đấu ấy” [9, tr.31]. Phần đông con người nơi đây ăn nói hơi vụng
về nhưng cũng khơng kém bạo dạn. Họ múa hơi ít nhưng ca hát thì phong
phú, trào phúng ý nhị thâm trầm, cùng nhau đoàn kết, sống ân cần, tình nghĩa,
thủy chung sắt son:
Xung quanh những họ cùng hàng
Coi nhau như ngọc như vàng mới nên
Phòng khi vận túng hồi đen
Kẻ giàu giúp của kẻ nghèo giúp công.
13
Người Nghệ Tĩnh coi trọng tình nghĩa, trước hết là tình nghĩa đối với
bà con nội ngoại. Họ thường nhắc nhở nhau: “Giàu mà ngốc nghếch ngu si,
đói mà biết cậu biết dì là hơn”. Đối với bạn bè quen biết, dù anh có làm nên
quan sang chức cả cũng không được quên và không được trịch thượng: “Dù
làm chức trọng, quyền cao, cũng phải hạ võng mà chào bạn quen”. Tình nghĩa
khơng chỉ đối xử tốt với bà con, bạn bè mà còn phải ăn ở tốt với người ngoài,
đây là quan hệ tốt giữa con người với con người:
Nhịn miệng đãi khách đường xa
Ấy là của gởi chồng ta đi đường.
1.2.2. Thông minh, sáng tạo, hiếu học
Nghệ Tĩnh là mảnh đất đã gắn bó với bao thăng trầm và chiến công
vang dội của lịch sử dân tộc. Con người nơi đây đã dũng cảm, kiên cường,
đầy bản lĩnh để chống chọi với thiên nhiên khắc nghiệt, với những cuộc đấu
tranh chống giặc ngoại xâm bảo vệ quê hương, đất nước. Góp phần quan
trọng làm nên những trang sử vẻ vang của dân tộc là các anh hùng dân tộc,
danh nhân văn hóa tài năng, giàu lịng u nước. Điều vơ cùng vinh dự của
Nghệ Tĩnh đó là nơi sinh ra vị lãnh tụ thiên tài của dân tộc, chủ tịch Hồ Chí
Minh. Người đã đem lại cuộc sống độc lập, tự do cho Tổ quốc. Trong mọi
hoàn cảnh con người Nghệ Tĩnh vẫn luôn tỏ ra lạc quan, đứng ở hàng ngũ tiên
phong của thời đại.
Truyền thống thông minh, sáng tạo, hiếu học đã trở thành một truyền
thống đáng q, được duy trì, ni dưỡng và phát triển qua nhiều thế hệ khác
nhau. Con người xứ Nghệ với ý chí, nghị lực phi thường đã vượt lên trên mọi
hồn cảnh khắc nghiệt, khó khăn:
Sáng khoai, trưa khoai, tối khoai, khoai ba bữa
Ông đỗ, cha đỗ, con đỗ, cả nhà đỗ.
14
Ngày nay, truyền thống hiếu học vẫn được con người nơi đây gìn giữ
và phát huy mạnh mẽ:
Anh về chăm chỉ học hành
Bảng treo trường Nghệ để danh cho mình
Khi nào treo bảng xứng danh
Rồi em ra đáy cổng thành nghe tên.
Mảnh đất xứ Nghệ đã sản sinh và đóng góp cho đất nước nhiều anh
hùng hào kiệt, kích thích tinh thần hiếu học cho mọi người. Chính nhờ sự học
hành siêng năng, chăm chỉ, có nghị lực phấn đấu trong học tập nên thành tích
đạt được rất đáng tự hào. Nếu từ thời Lí cho đến cuối Lê học trò đất Hồng
Lam chỉ chiếm 1/6 trong tổng số các ơng Nghè tồn quốc, thì trong suốt 39
khoa khoa thi Hội, thi Đình thời Nguyễn học trị đất Hồng Lam lại chiếm 1/5
tổng số. Đại Nam nhất thống đã nhận định: “Học trị Nghệ An chuộng khí
tiết, nhiều người hào phóng khơng trói buộc, dốc chí chăm học, văn chương
thì dùng lời lẽ cứng cáp không cần đẹp lời” [9, tr.31].
Truyền thống quê hương được xây dựng và bồi đắp qua hàng ngàn năm
lịch sử, đó là kết tinh của hàng nghìn, hàng vạn con người trong quần chúng
bình dân. Biết bao thế hệ người con Nghệ Tĩnh đã noi gương những cha anh
đi trước phát huy những truyền thống tốt đẹp của quê hương. Xứ Nghệ bao
đời nay nổi tiếng với tinh thần hiếu học, được vinh danh vào sử sách:
Khi nào Rú Gám hết cây
Hồ Sen hết nước, họ này hết quan.
Con người Nghệ Tĩnh đã luôn cố gắng chịu khó học hành để vượt lên
cuộc sống nghèo khó, quanh năm “bán mặt cho đất, bán lưng cho trời”. Họ
ln ý thức được vai trị của mình trong cuộc đời này. Cho nên, những người
con đất Hồng Lam đã miệt mài với đèn sách, phấn đấu hết mình cho sự phát
triển của nước nhà, xem đó như là một bổn phận:
15
Con ơi mẹ dạy câu này
Chăm lo đèn sách cho tày áo cơm
Làm người đói sạch rách thơm
Cơng danh là nợ nước non phải đền.
Câu chuyện về Cá gỗ đó là một trong những nét sáng tạo độc đáo của
người dân xứ Nghệ, thể hiện sự thông minh, khéo léo nhưng khơng kém phần
hài hước, dí dỏm của con người nơi đây. Mảnh đất cằn cỗi, khắc nghiệt này
đã sinh ra biết bao người con ưu tú cho quê hương, đất nước. Hồ Chí Minh Người cha già của dân tộc mang trong mình những dấu ấn bản sắc của con
người xứ Nghệ thể hiện những truyền thống tốt đẹp của con người nơi đây đó
là thơng minh, sáng tạo, ham học hỏi….
1.2.3. Cần cù, chịu khó
Điều kiện thiên nhiên không mấy ưu đãi, điều này ảnh hưởng rất lớn
đến tính cách con người xứ Nghệ, nổi bật đó là đức tính cần cù, chịu khó. Một
biểu hiện độc đáo của ý chí trong con người xứ Nghệ là sự căm ghét, là tư
tưởng vượt thoát cái nghèo, cái khổ. Đây là một bài ca dao diễn tả thái độ ấy
của người dân trong xã hội cũ:
Gánh cực mà đổ lên non
Còng lưng mà chạy, cực còn chạy theo.
Người Nghệ Tĩnh coi sự gian khó, đắng cay, tủi nhục như một loại vật
thể trước mắt. Căm ghét vì nó cứ bám riết, đeo đẳng. Vì thế nên họ “gánh cực
mà đổ lên non” thế nhưng “còng lưng mà chạy, cực còn chạy theo”. Sự căm
tức của nhân dân với cái nghèo, cái đói, cái bất cơng đã đến tột cùng. Nghị
lực, chí hướng, khát vọng đấu tranh thốt nghèo của người dân vì thế càng trở
nên quyết liệt. Người xứ Nghệ bao đời nay liên tục kế thừa theo tinh thần thời
đại. Ngày nay, cuộc sống vẫn còn nhiều gian khó nhưng ngày càng xuất hiện
16
nhiều điển hình phát huy hiệu quả ý chí vượt thốt cái nghèo, “có gan làm
giàu” và làm giàu chính đáng của người dân mảnh đất địa linh nhân kiệt này.
Sách Đại nam nhất thống chí đã viết rằng: “Đất xấu, dân nghèo, tập tục
cần kiệm, nhà nông chăm chỉ ruộng nương”. Người dân Nghệ Tĩnh không
ngừng cải tạo đất đai để làm ra hạt gạo, củ khoai. Chính đức tính cần cù ấy, đã
khiến cho những đồng ruộng khơ cằn thành những nương khoai xanh tốt, màu
mỡ.
Chắc hẳn trong mỗi chúng ta ai là người con xứ Nghệ đều không thể
không biết câu chuyện “cá gỗ” nhấn mạnh sự chịu khó của con người nơi đây.
Đồng thời, câu chuyện như một lời trách khéo nhẹ nhàng, nói nhỏ về sự tính
tốn, keo kiệt của người dân Nghệ Tĩnh. Nhân dân trong nước thường nhắc
đến câu chuyện dân gian “con cá gỗ”, đó khơng phải là một sự mỉa mai mà là
một sự kính trọng, một sự ca ngợi và ngưỡng mộ. Họ thán phục sự chịu khó
học tập của nhân dân xứ Nghệ. Có người cho rằng “con cá gỗ” cịn nói đến sự
tính tốn keo kiệt của “ơng đồ xứ Nghệ”. Song nói như vậy là khơng thoả
đáng, ông đồ Nghệ nghèo, nghèo quá mức nhưng không thể vì cái nghèo mà
mất đi sĩ diện của mình. Đó chính là cái ngơng, cái ngạo nghễ mà chỉ “ơng đồ
xứ Nghệ” mới có được.
Núi Hồng, sơng Lam là hai hình ảnh gần gũi và thân thuộc nhất khi nói
về xứ Nghệ. Con người nơi đây rất yêu quý và tự hào về quê hương sông núi:
Núi Hồng ai đắp mà cao
Sông Lam ai bới ai đào mà sâu?
Chỉ trong hai dòng thơ mà xuất hiện ba động từ mạnh liên tiếp “đắp bới - đào”. Những chữ ấy, phản ánh hoạt động lao động sản xuất vất vả khó
khăn, thể hiện tinh thần quả cảm đấu tranh với thiên nhiên của con người xứ
Nghệ. Ngợi ca và tự hào về sơng núi cũng có nghĩa là người Nghệ Tĩnh đang
tự hào về những phẩm chất mà linh khí đất này đã hun đúc nên cho mình.
17
Tầm vóc, sự sâu sắc của ý chí và tâm hồn người xứ Nghệ có lẽ phải dùng
chiều kích của núi sông đất này mới sánh được:
Hồng Sơn cao ngất mấy trùng
Lam Giang mấy trượng thì lịng bấy nhiêu.
Chân dung tinh thần của con người vùng văn hóa Hồng Lam đã thể
hiện những nét đẹp đậm đà trong bản sắc văn hóa dân tộc: Đó là bản lĩnh
cứng cỏi, bền bỉ gân guốc, điềm tĩnh sâu sắc, giàu khát vọng và nhiều lúc thiết
tha tinh tế… Tất cả những đặc điểm trên đã làm nên những dấu ấn riêng, đặc
trưng cho con người vùng núi Hồng sông Lam.
1.3. Vài nét về ca dao Nghệ Tĩnh
1.3.1. Khái niệm ca dao
Trải qua bao thăng trầm của lịch sử, các thế hệ cha ông để lại cho
chúng ta những di sản tinh thần vơ cùng q giá, trong đó có ca dao xứ Nghệ.
Nó đã phản ánh đời sống tâm hồn phong phú của con người nơi đây, vừa
mang những nét chung của văn hóa Việt Nam, vừa thể hiện những bản sắc
của vùng văn hóa Nghệ Tĩnh. Bàn về khái niệm ca dao các nhà nghiên cứu có
rất nhiều ý kiến, quan niệm khác nhau.
Trong cuốn Cấu trúc ca dao trữ tình người Việt TS. Lê Đức Luận đưa
ra khái niệm: “Ca dao là lời của các câu hát dân gian và những sáng tác ngâm
vịnh được lưu truyền trong dân gian và được gọi chung là lời ca dân gian”
[23, tr.26].
Theo Từ điển thuật ngữ văn học: “Ca dao còn gọi là phong dao, được
dùng với nhiều nghĩa rộng hẹp khác nhau. Theo nghĩa gốc thì “ca” là bài hát
có khúc điệu, “dao” là bài hát khơng có khúc điệu. Ca dao là danh từ ghép chỉ
toàn bộ những bài hát lưu hành phổ biến trong dân gian, có hoặc khơng có
khúc điệu. Trong trường hợp này ca dao đồng nghĩa với dân ca” [16, tr.3132].
18
Nhà nghiên cứu văn học dân gian Nguyễn Xuân Kính thì phát biểu
ngắn gọn “Ca dao là thơ dân gian, có nội dung trữ tình và trào phúng bao gồm
lời hàng loạt. Người ta có thể ngâm đọc, hát ( và có thể xem bằng mắt sau khi
ghi chép lại)” [20, tr.23].
Như vậy, bàn về ca dao có thể có nhiều cách hiểu, nhiều cách định
nghĩa khác nhau. Nói đến ca dao người ta nghĩ đến những lời thơ dân gian,
khái niệm ca dao đã được quy định dùng để chỉ bộ phận cốt lõi nhất, tiêu biểu
nhất: đó là những câu hát đã trở thành cổ truyền của nhân dân.
1.3.2. Đặc điểm ca dao Nghệ Tĩnh
Trong kho tàng đồ sộ các di sản văn hóa đất Hồng Lam ấy, ca dao
Nghệ Tĩnh chiếm một vị trí quan trọng. Trải qua hàng ngàn năm lịch sử, ca
dao Nghệ Tĩnh đã tồn tại và gắn bó với người dân xứ Nghệ như máu thịt, trở
thành nét đẹp của đời sống tinh thần đậm đà bản sắc một vùng quê.
Ca dao Nghệ Tĩnh là những bài ca dao do người dân Nghệ Tĩnh sáng
tác và những người dân từ nơi khác tới đây sáng tác về vùng đất Nghệ Tĩnh.
Ca dao xứ Nghệ phản ánh mọi mặt đời sống của con người từ lao động sản
xuất đến tinh thần đấu tranh giai cấp, quan hệ hơn nhân - gia đình, tình
u…Nghệ Tĩnh có nhiều bài ca dao của nhiều vùng do nhiều đời hội tụ lại.
Nó có thể là do những luồng di cư của các dịng họ qua lớp sóng phế hưng
của các vương triều, hoặc do những ông đồ Nghệ ra đi dạy học mang ca dao
Nghệ Tĩnh đi theo, lúc về họ cũng mang những bài ca dao của địa phương
khác cùng về. Dần dần, những bài ca dao như thế đã được thời gian sàng lọc,
gọt giũa, dùi mài cho phù hợp với cảm thức của người xứ Nghệ:
Vợ anh anh lấy đã lâu
Đố ai lắm ruộng nhiều trâu vơ giành
Đố ai lấy được vợ anh
Thì anh cho một cẳng
19
Chân đi lủng lẳng như cẳng đánh cù
Đã thù thì anh thù cho nốt
Nhà thì anh đốt khói bay lên trời.
Hình thức nội dung của ca dao xứ Nghệ chủ yếu là thơ, văn vần. Những
câu ca dao này phản ánh trực tiếp đến đời sống tâm hồn của con người Nghệ
Tĩnh. Ca dao trở thành một thuật ngữ để chỉ thể thơ dân gian. Căn cứ vào nội
dung thì ca dao chia thành hai phần: “Tiếng hát tình cảm của nhân dân lao
động và tiếng hát đấu tranh”. Nó là một phần vốn chung ca dao của đất nước.
Nội dung của những sáng tác ca dao này phản ánh cuộc sống tâm tư, tình
cảm, những sự việc diễn ra ở mảnh đất này khó lẫn vào ca dao của vùng khác,
đặc biệt là từ địa phương trong những sáng tác này:
-Trăng lên em tưởng là trưa
Vác đòn đi củi mà chưa thấy chồng
- Tiếc công anh xe nhợ dây uốn cần,
Xe chưa kịp nhợ, có lần ra khơi.
Ngọn nguồn của những bài ca dao lưu truyền ở xứ Nghệ mang nhiều
hơi thở và phong cách của con người nơi đây. Ca dao có thể là thơ tự sự,
nhưng đại bộ phận là thơ trữ tình. Thường được dùng trong ca dao là thể thơ
lục bát, song thất lục bát. Cũng như các miền ca dao khác, ca dao xứ Nghệ
mang trong mình tình cảm của mảnh đất quê hương mình đó là tình cảm chan
chứa của những người dân quê mộc mạc. Cảnh đẹp quê hương được nhắc đến
khắp nơi, mọi lúc như niềm tự hào và ngưỡng mộ:
Đường vô xứ Nghệ quanh quanh
Non xanh nước biếc như tranh họa đồ.
Nhìn chung, ca dao Nghệ Tĩnh mượt mà, uyển chuyển như ca dao phổ
biến. Tuy nhiên, yếu tố địa phương vẫn chưa thốt khỏi, nhiều bài, nhiều câu
cịn tới ngày nay:
20
Anh thương em vô giá quá chừng
Trèo truông quên mệt, ngậm gừng quên cay.
Ca dao Nghệ Tĩnh khi lưu hành vào trong nội bộ tỉnh cũng sinh ra một
vài dị bản khác nhau. Mặc dù nguồn gốc của từng bài ca dao có khác nhau,
song tất cả ca dao đang lưu truyền ở Nghệ Tĩnh đều phản ánh các mặt sinh
hoạt, tính cách của những con người đã bao năm sinh sống, chiến đấu, xây
dựng trên mảnh đất Hồng Lam:
Thuyền khơng đậu bến Giang Đình
Ta khơng ta quyết lấy mình mà thôi.
Khi lưu hành ở các vùng khác ta thấy có sự thay đổi:
Thấy anh thơ thẩn một mình em thương.
Kho tàng ca dao Nghệ Tĩnh còn lại hiện nay hầu hết bị xóa nhịe thời
điểm sáng tác. Nét trào phúng trong ca dao xứ Nghệ cũng là một trong những
nét tiêu biểu của thể loại này. Thơng thường, đó là sự châm biếm những thói
hư, tật xấu trong nhân dân với nụ cười hài hước, nhẹ nhàng, nhưng cũng
không kém phần gay gắt, cứng rắn:
- Có tiền thì mụ chèo non
Khơng tiền thì mụ quanh co dưới rào
- Mắt thì như cái nồi ba
Mồm bằng cái rổ, nói ngoa nhất làng.
Ca dao xứ Nghệ đã len lỏi vào bao ngõ ngách tâm hồn làm trăn trở bao
trái tim con người nơi đây. Nó diễn tả được bao cảm xúc, thái độ của con
người đó là xao xuyến, thương thân tủi phận, ngồi ra cịn có phần tin tưởng,
đấu tranh vững mạnh với bản sắc riêng của con người xứ Nghệ. Đó là đạo lý
của nhân dân, là nếp nghĩ cách cảm, là phong tục tập quán, là triết lí về nhân
sinh, là giáo huấn về cuộc số của người dân Nghệ Tĩnh. Chúng nằm trong
những câu lục bát ý nhị, mượt mà bao giờ cũng dễ nhớ dễ thuộc với các hình
21
ảnh rất quen thuộc như cây đa, bến nước, sân đình của người dân xứ Nghệ.
Tiểu kết:
Với những điều kiện tự nhiên khắc nghiệt, với bao thăng trầm của lịch
sử dân tộc đã góp phần làm nên đời sống và tính cách con người xứ Nghệ.
Khơng chỉ có một truyền thống dân tộc chống ngoại xâm anh dũng kiên
cường, đây cịn là nơi có đời sống văn hóa vơ cùng phong phú, đa dạng trong
đó nổi bật là kho tàng ca dao Nghệ Tĩnh. Nó được thể hiện một cách điềm
tĩnh, trầm lặng, khắc vào lòng người những cảm xúc mãnh liệt về tình yêu quê
hương, tình yêu con người. Trải qua bao thế hệ người dân nơi đây vẫn giữ
được những phẩm chất quý báu về sự cần cù, chịu khó; kiên trung bất khuất;
thơng minh, hiếu học… Tạo nên những dấu ấn riêng biệt mang đậm bản sắc
người xứ Nghệ.