Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (536.89 KB, 80 trang )
<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>
<b>Đề 1: Phân tích “Chuyện người con gái Nam Xương” của Nguyễn Dữ</b>
<i>Truyền kỳ mạn lục là một tác phẩm có giá trị của văn học trung đại nước</i>
ta ở thế kỷ XVI, một tập truyện văn xuôi bằng chữ Hán đầu tiên ở Việt Nam.
<i>Chuyện người con gái Nam Xương là một truyện hay trong tác phẩm, có giá trị</i>
sâu sắc về nhiều mặt, đánh dấu sự phát triển ban đầu của nền văn xuôi nước ta.
Truyện kể về một người phụ nữ tên là Vũ Thị Thiết ở huyện Nam Xương,
tỉnh Hà Nam. Vốn là một người vợ đoan chính, đảm đang. Nàng giữ lịng chung
thuỷ, hầu hạ mẹ chồng, chăm sóc con thơ trong suốt thời gian chồng đi lính ở
phương xa. Khi trở về vì nghe lời ngây thơ của con trẻ, người chồng nghi ngờ
nàng thất tiết nên đánh mắng đuổi đi. Khơng thể phân giải được oan tình, nàng
trẫm mình ở sơng Hồng Giang. Cảm động vì lịng trung thực của nàng, Linh
Phi (vợ vua biển Nam Hải) cứu vớt nàng và cho ở lại Long Cung. Người chồng
biết vợ bị oan nên rất hối hận, lập đàn giải oan cho nàng. Vũ Nương hiện lên, ẩn
hiện trong chốc lát rồi trở lại Long Cung.
Xét về giá trị hiện thực, truyện phản ánh sinh động thân phận của người
phụ nữ trong xã hội phong kiến, một xã hội bất công gây nhiều đau khổ cho
người phụ nữ. Trước tiên đó là chế độ xã hội với chiến tranh loạn, lạc liên miên
gây đau khổ cho con người. Vì cuộc chiến tranh đầy phi nghĩa, chàng Trương
Sinh giống như anh lính thú xưa trong ca dao: Thùng thùng trống đánh ngũ
<i>liên-Chân bước xuống thuyền nước mắt như mưa phải ra lính, phải xa cách người mẹ</i>
già, người vợ trẻ. Hạnh phúc gia đình bị chia cắt bởi chiến tranh. Người mẹ già
vì xa con, nhớ thương con mà sinh ra ốm. Vũ Nương vừa ni con thơ, vừa
chăm sóc thuốc thang cho mẹ chồng và hết lời khuyên lơn. Đến khi mẹ chồng
mất, nàng lo ma chay, tế lễ chu đáo.
Cái chết của Vũ Nương có nhiều nguyên nhân sâu xa, bắt nguồn từ hiện
thực nghiệt ngã của lễ giáo phong kiến của xã hội cũ, với chế độ “nam quyền”,
coi rẻ thân phận của người phụ nữ, rồi tính đa nghi, ghen tng, thói hung bạo,
gia trưởng của chồng.
Cuộc hơn nhân giữa Vũ Nương và Trương Sinh có phần khơng bình đẳng
(thiếp vốn con nhà khó, được nương tựa nhà giàu). Xã hội phong kiến lại coi
trọng “nam quyền”, hơn nữa Trương Sinh lại có tính đa nghi, đối với vợ thì
phịng ngừa q mức. Những chi tiết này chuẩn bị cho những hành động độc
đoán của Trương Sinh sau này.
Khi đánh giặc trở về, Trương Sinh cũng mang một tâm trạng nặng nề: mẹ
qua đời, con vừa học nói, lịng buồn bã. Trong hồn cảnh như thế, lời của Bé
Đản dễ kích động tính hay ghen của Trương Sinh: “trước đây, thường có một
<i>người đàn ơng đêm nào cũng đến...” </i>
Điều đáng trách là thái độ và hành động độc đốn của Trương Sinh khi
ấy. Khơng đủ bình tĩnh để tìm hiểu vấn đề, chàng bỏ ngồi tai những lời phân
trần của vợ, những lời bênh vực của họ hàng, làng xóm, khơng chịu nói ra dun
cớ ghen hờn. Cuối cùng, Sinh lại mắng nhiếc nàng và đánh đuổi nàng đi. Thái
độ và hành động của Trương Sinh vơ hình chung dẫn đến cái chết oan nghiệt
của Vũ Nương.
Đằng sau nỗi oan của người thiếu phụ Nam Xương, cịn bao nhiêu oan
tình bất hạnh mà người phụ nữ ngày xưa phải gánh chịu: Nàng Kiều trong
“Truyện Kiều” của Nguyễn Du, người cung nữ trong “Cung oán ngâm khúc”
của Nguyễn Gia Thiều, người phụ nữ lỡ duyên tình trong thơ Hồ Xuân Hương,...
Bên cạnh giá trị hiện thực, truyện còn mang giá trị nhân đạo sâu sắc.
<i>Chuyện người con gái Nam Xương ca ngợi một người phụ nữ có phẩm chất, có</i>
tâm hồn trong sáng, sáng ngời như ngọc lại bị nỗi oan tày trời vì một chuyện
ghen tng vớ vẩn của người chồng nơng nổi. Cuối cùng nàng phải tìm đến cái
chết để giải nỗi oan tình.
Tác giả đặt nhân vật Vũ Nương vào những hoàn cảnh khác nhau, qua đó
Chồng đi đánh giặc ngoài biên ải, nàng một lòng son sắt, thuỷ chung,
<i>“cách biệt ba năm, giữ gìn một tiết”, mong đợi chồng về trong cơ đơn mịn mỏi</i>
<i>“mỗi khi thấy bướm lượn đầy vườn, mây che kín núi, thì nỗi buồn góc bể, chân</i>
<i>trời không thể nào ngăn được”. Hơn nữa, nàng là một người con dâu hiếu kính,</i>
tận tuỵ chăm sóc khi mẹ chồng cịn sống, chơn cất mẹ chồng khi mẹ qua đời (lo
<i>liệu như đối với mẹ đẻ mình).</i>
Rồi đằng đẵng thời gian trơi qua, chồng ra lính trở về, cùng là lúc nàng bị
nghi oan. Vũ Nương đã phân trần để chồng hiểu rõ tấm lịng mình: “Thiếp vốn
<i>con kẻ khó ... mong chàng đừng một mực nghi oan cho thiếp”. Nàng đã nói đến</i>
thân phận mình, tình nghĩa vợ chồng và khẳng định lịng chung thuỷ, hết lịng
tìm cách hàn gắn hạnh phúc gia đình đang có nguy cơ bị tan vỡ. Dù họ hàng,
làng xóm có bênh vực và biện bạch, Trương Sinh vẫn không tin. Bất đắc dĩ Vũ
Nương thống thiết: “Thiếp sỡ dĩ nương tựa vào chàng ... đâu có thể lên núi vọng
<i>phu kia nữa!”. Đó là hạnh phúc gia đình, niềm khao khát của cả đời nàng giờ</i>
đây tan vỡ. Tình u khơng cịn, cả nỗi đau khổ chờ chồng giờ đây hoá đá....
Tuyệt vọng vì phải giành chịu nỗi oan khuất tày trời không phương giãi
bày, cứu chữa nàng đành mượn cái chết để chứng tỏ tiết hạnh trong sáng của
mình. lời khấn nguyện với thần linh vô cùng thảm thiết: “Thiếp nếu đoan trang
<i>giữ tiết, trinh bạch gìn lịng, vào nước xin làm ngọc Mị Nương, xuống đất xin</i>
Sau một năm ở thuỷ cung, khi nghe kể chuyện nhà, nàng đã ứa nước mắt
khóc, nghĩ đến câu “ngựa Hồ gầm giá Bắc, chim Việt đậu cành Nam” rồi hiện
về trên dòng nước cho thoả lòng nhớ chồng, con.
vát, rất mực hiếu kính với mẹ chồng, giữ vẹn lòng chung thuỷ sắt son với chồng,
hết lòng vun đắp hạnh phúc gia đình, .... lẽ ra phải được hạnh phúc trọn vẹn thế
mà phải chết một cách oan uổng, đau đớn.
Nhà văn đã xây dựng hình ảnh Vũ Nương bằng cả niềm xót thương, thơng
cảm cho người phụ nữ. Đồng thời cũng đề cao những khát vọng của họ: quyền
được yêu thương, được sống, được tôn trọng. Việc sáng tạo cuộc sống của nàng
ở dưới thuỷ cung cũng nhằm đề cao một triết lí nhân nghĩa: ở hiền, gặp lành,
người tốt phải được đền đáp xứng đáng.
Phải nhận thấy rõ rằng với truyện ngắn đầu tiên viết bằng chữ Hán,
Nguyễn Dữ đã có những mặt thành cơng trong nghệ thuật xây dựng truyện, xây
dựng những đoạn đối thoại. Cách kể chuyện hấp dẫn, xây dựng tình tiết, thắt nút
và gỡ nút thật bất ngờ, đầy kịch tính, càng làm cho nỗi oan tình của nhân vật
hiện ra với tất cả nét thảm khốc.
“Thắt nút” truyện bằng yếu tố bất ngờ. Một câu nói ngây thơ nghe như
thật của trẻ thơ mà gây bão tố dây chuyền trong cuộc đời. Bão tố nghi kị trong
một đầu óc nam quyền độc đốn, thiếu trí tuệ ; bão tố bất hồ dữ dội phá tan
hạnh phúc của một gia đình êm ấm. Bão tố oan khiên phá nát cuộc đời của một
“Gỡ nút” cũng bất ngờ bằng một câu nói trẻ thơ non dại (khi chỉ cái bóng
của chàng Trương trên vách: “cha Đản lại đến kia kìa” thì bao nhiêu oan khiên
gây thảm kịch trong phút chốc bỗng được sáng tỏ.
Truyện có những đoạn đối thoại và những lời tâm tình của nhân vật được
sắp xếp đúng chỗ, làm cho câu chuyện trở nên sinh động, góp phần khắc hoạ
diễn biến tâm lí và tính cách nhân vật ; lời nói của bà mẹ Trương Sinh nhân hậu,
từng trải ; lời lẽ của Vũ Nương bao giờ cũng chân thành, dịu dàng, mềm mỏng,
có lí, có tình - lời của người phụ nữ hiền thục, đoan chính ; lời của Bé Đản hồn
nhiên, ngây thơ, thật thà.
Chuyện đáng lẽ có thể kết thúc ở đoạn “gỡ nút” truyện, chàng Trương
Sinh tỉnh ngộ, thấu hiểu nỗi oan của Vũ Nương nhưng Nguyễn Dữ đã thêm phần
Vũ Nương trở về dương thế, gặp chồng trong thoáng chốc. So với truyện cổ tích
“Vợ chàng Trương”, Nguyễn Dữ đã tái tạo truyền kì từ cổ tích để nâng truyện
lên những giá trị tư tưởng và thẩm mĩ mới. Điều đó, làm tăng thêm sức hấp dẫn
của truyện và hồn chỉnh tính cách nhân vật Vũ Nương, thoả mãn ước mơ của
nhân dân là “ở hiền gặp lành”, ngưởi tốt sẽ được đền bù. Truyện kết thúc có
hậu. Trong truyện, những yếu tố truyền kì tập trung ở phần sau của truyện như
con rùa mai xanh được Phan Lang cứu, Vũ Nương được ở lại thuỷ cung, rồi hiện
về với kiệu hoa rực rỡ trên sơng... đó là những tình tiết kì ảo, khơng có thực
nhưng đã tạo ra một thế giới nghệ thuật lung linh huyền ảo.
Số phận và cuộc đời thực sự vẫn là thực xưa nay. Yếu tố hoang đường
truyền kì khơng thể cứu được cuộc đời Vũ Nương với số phận bi thảm của nàng.
Vũ Nương muốn sống lại mà không được sống, muốn trở về với chồng con và
quê hương mà không thể trở về được.
phúc với chồng con và được đề cao nhân phẩm trong xã hộ, xã hội của thời đại
mới.
<b>Đề 2: </b><i><b>Phân tích nhân vật Vũ Nương trong “Chuyện người con gái</b></i>
<i><b>Nam Xương” của Nguyễn Dữ.</b></i>
<b> “Truyền kì mạn lục” là một tác phẩm văn xi có giá trị của văn học cổ</b>
nước ta ở thế kỉ XVI, một tập truyện văn xuôi đầu tiên viết bằng chữ Hán ở Việt
Nam.
<i>“Chuyện người con gái Nam Xương” của Nguyễn Dữ, tác phẩm Truyền</i>
<i>kì mạn lục là một tác phẩm hay trong tập truyện đó. Nhân vật chính là Vũ</i>
Nương, một phụ nữ đẹp người, đẹp nết đã phải lấy cái chết để minh oan trước sự
ghen tuông vô cớ của chồng mình.
Có thể nói Nguyễn Dữ là tác giả văn xuôi tiêu biểu của văn học cổ thế kỉ
XVI. Hình ảnh người con gái Nam Xương là nhân vật từng có ảnh hưởng sâu
sắc đến lịng người mọi thời. Lê Thánh Tông đã từng xúc động viết trong bài thơ
“miếu vợ chàng Trương”:
<i>“Nghi ngút đầu ghềnh toả khỏi hương,</i>
<i>Miếu ai như miếu vợ chàng Trương... “</i>
Câu chuyện về Vũ Nương phản ánh cuộc đời đau khổ và bi thảm của Vũ
nương - người phụ nữ dưới chế độ xã hội phong kiến. Người vợ phải tự vẫn để
minh oan cho sự thuỷ chung của mình. Tác phẩm nêu cao chủ nghĩa nhân đạo
khiến ta xúc động khi về nhân vật Vũ Nương trong truyện.
Trước hết, đọc truyện, người đọc càng thương cho thân phận Vũ Nương
và dễ dàng nhận thấy được Vũ Nương là một người phụ nữ nết na, đức hạnh, đối
Có tư dung tốt đẹp, nhưng trong cuộc sống gia đình, nàng cam tâm làm
một người vợ hiền, ngoan nết “chẳng lúc nào vợ chồng phải đến thất hoà”, và
cho dù Trương Sinh, chồng của nàng, tuy là con nhà hào phú, lại ít học, đa nghi
quá sức.
Sự khiêm nhường, cam chịu của Vũ Nương là điều kiện tạo nên sự đầm
ấm của gia đình, mặc cho chế độ nam quyền độc đốn đè nặng trong đầu óc kẻ
vị kỉ ít học như chồng mình.
Nếu lấy sự kiện ngày Trường Sinh đi lính thú thì hành động và lời lẽ đưa
tiễn chồng của người vợ hiền, lời thiết tha cầu mong của Vũ Nương: “Chẳng
mong chàng áo gấm trở về quê cũ, chỉ mong được hai chữ bình n thế là đủ
rồi”..., “thư tín nghìn hàng, áo rét gửi người ải xa...”, là chi tiết cho cái
<i>“công-dung-ngôn-hạnh” mà Vũ Nương đã làm được một cách chân thành.</i>
Thế rồi, nỗi nhớ nhung, sự cơ đơn, giữ mình của người vợ trẻ càng khiến
chúng ta phải ca ngợi con người nhân hậu và đảm đang đó. Tính cách cao đẹp
của Vũ Nương cịn là lòng hiếu thảo với mẹ chồng, lòng chung thuỷ son sắt với
chồng của nàng.
Khi chồng vào lính, Vũ Nương một mình đảm đang, ni dạy con thơ,
chăm sóc thuốc thang cho mẹ chồng đau yếu, làm ma chay tế lễ khi mẹ chồng
qua đời. Vũ Nương giữ tròn hiếu đạo với mẹ chồng, giữ trịn tình nghĩa với
chồng.
còn được thể hiện qua lời trăng trối của mẹ chồng nàng trước khi bà qua đời:
<i>“xanh kia sẽ chẳng phụ con cũng như con đã chẳng phụ mẹ ...”</i>
Rồi sự chu đáo của Vũ Nương trong việc ma chay, cúng lễ đã thể hiện
tấm lòng thơm thảo của người con dâu đáng quý như Vũ Nương. Lòng chung
thuỷ của Vũ Nương còn được thể hiện ở hành động nuôi con, chờ chồng suốt
những tháng ngày Trương Sinh đi lính mà chưa rõ mặt con. Chỉ có hai mẹ con
cơi cút đùm bọc, gắn bó. Cậu Bé Đản thơ ngây, đêm đến được mẹ chỉ vào cái
bóng của mình trên tường gọi là cha (đó là một cách dỗ dành con ngủ thật hồn
<i>nhiên nhưng sau đó lại là ngun nhân gây ra cái tội thật vơ tình).</i>
Nỗi hàm oan khơng được quyền nói, suy xét cho ra là bởi con người độc
đoán, phàm phu lại kém văn hoá như Trương Sinh khi chàng ra lính trở về
(nghe lời đứa con non dại) đã gây nên nỗi oan tày trời cho Vũ Nương. Bị chồng
ghen tuông vô cớ, bao nhiêu lời giãi bày của vũ Nương và lời khuyên ngăn của
láng giềng, bà con, cô bác, Trương Sinh vẫn không tin và đinh ninh là “vợ hư”,
mối nghi ngờ càng ngày càng lún sâu khơng có cách gì gỡ ra được. Chàng mắng
nhiếc vợ thật thậm tệ rồi “đánh đuổi nàng đi”. Vũ Nương khơng hề có lỗi lầm
gì, nàng thuỷ chung, trinh trắng, đức hạnh vẹn toàn nhưng sự đối xử của chồng
làm cho nàng hoàn toàn thất vọng, không hiểu nỗi oan khuất từ đâu mà ra.
Không có cách nào để giãi bày, thất vọng bởi hạnh phúc - niềm vui “nghi gia
<i>nghi thất” khơng cịn nữa, nàng phải tìm đến cái chết để minh oan. Hành động</i>
tự vẫn là thái độ cuối cùng nàng được phép bởi không thể giải bày được với
chồng, tiết hạnh của nàng sẽ bị hoen ố, biết bao giờ phai mờ đi trong tâm trí của
chồng.
Một người vợ hiền lành, đầy tiết nghĩa, thuỷ chung phải chết dẫu khơng
có tội tình gì. Mãi đến sau cái chết đó, người chồng mới hiểu nỗi oan ức của vợ
mình. Chính sự độc đốn của người đàn ơng trong gia đình Phong kiến mà Nho
giáo nuôi dưỡng dung túng là đề tài mà Nguyễn Dữ muốn phê phán.
Bởi khơng chỉ hình ảnh nhân vật Vũ Nương, mà còn biết bao thân phận
<i>“Đau đớn thay phận đàn bà</i>
<i>Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung”</i>
Cái chết của Vũ Nương là số phận, nhưng cũng là lời tố cáo thói nghen
tng ích kỉ, sự hồ đồ, vũ phu của đàn ông- người chồng vô học, đa nghi như
Trương Sinh- là lời tố cáo luật lệ phong kiến hà khắc dung túng cho sự độc ác,
bất công- “chế độ nam quyền” dưới thời phong kiến ngự trị.
<b>CHUYỆN CŨ TRONG PHỦ CHÚA TRỊNH (Trích: Vũ trung tuỳ bút) </b>
<i><b>-Phạm Đình Hổ</b></i>
<b>I. Tác giả, tác phẩm</b>
<i>- Vũ trung tuỳ bút (tuỳ bút viết trong những ngày mưa).</i>
- Chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh: ghi lại cảnh sống xa hoa vô độ của chúa
Trịnh và bọn quan lại hầu cận trong phủ chúa.
- Thể tuỳ bút:
Ghi chép sự việc, con người , qua đó bộc lộ cảm xúc, suy nghĩ, nhận thức
đánh giá của tác giả về con người và cuộc sống. Sự ghi chép ở đây là tuỳ theo
cảm hứng chủ quan, có thể tản mạn, khơng gị bó theo hệ thống, kết cấu gì
nhưng vẫn tuân theo một tư tưởng cảm xúc chủ đạo. (Trong bài này là phê phán
<i>thói ăn chơi xa xỉ và tệ nhũng nhiễu nhân dân của bọn vua chúa và lũ quan lại</i>
<i>hầu cận). Lối ghi chép của tuỳ bút giàu chất trữ tình hơn các loại ghi chép</i>
khác( so với bút kí, kí sự).
<b>II. Tìm hiểu văn bản</b>
<i><b>1. Cuộc sống của chúa Trịnh và bọn quan lại</b></i>
- Chúa cho xây dựng nhiều cung điện, đình đài ở các nơi để thoả thích ý thích
“cơi đèn đuốc”, ngắm cảnh đẹp, ý thích đó khơng biết bao nhiêu cho vừa, vì vậy
“việc xây dựng đình đài cứ liên miên”, hao tiền tốn của.
- Những cuộc dạo chơi của chúa ở Tây Hồ được miêu tả tỉ mỉ: diễn ra hết sức
thường xuyên “tháng ba bốn lần’, huy động rất đông người hầu hạ “binh lính
dàn hầu quanh mặt hồ - mà Hồ Tây thì rất rộng”, các nội thần, các quan hộ giá,
nhạc cơng,...bày trị giải trí hết sức lố lăng và tốn kém (các nội thần ăn mặc giả
đàn bà bày bán quanh hồ, thuyền ngự dạo trên hồ, chốc chốc lại ghé vào bời
mua bán, dàn nhạc bố trí khắp nơi quanh hồ để tấu nhạc làm vui...).
- Việc tìm thu vật “phụng thủ” thực chất là để cướp đoạt những của quý trong
thiên hạ(chim quý, thú lạ, cây cổ thụ, những hịn đá hình dáng kì lạ, chậu hoa,
cây
cảnh) để tơ điểm nơi ở của chúa.
Các sự việc đưa ra đều cụ thể, chân thực và khách quan, khơng xen lời bình
của tác giả, có liệt kê và cũng có miêu tả vài sự kiện để khắc hoạ ấn tượng (miêu
tả kĩ công phu việc đưa một cây đa cổ thụ “từ bên bắc trở qua sông đem về”,
phải một cơ binh mới khiêng nổi).
Đoạn văn “Mỗi khi đêm thanh cảnh vắng, tiếng chim kêu vượn hót ran khắp
<i>bốn bề, hoặc nửa đêm ồn ào như trận mưa sa gió táp, vỡ tổ tan đàn, kẻ thức giả</i>
<i>biết đó là triệu bất tường” miêu tả cảnh thực ở những khu vườn rộng, đầy “trân</i>
cầm dị thú”, cổ mộc quái thạch, lại được bày vẽ như “bến bể đầu non”, nhưng
<i><b>2. Thủ đoạn của bọn quan hầu cận</b></i>
vừa ăn cướp vừa la làng, người dân như thế là bị cướp của tới hai lần, bằng
không thì cũng phải tự tay huỷ bỏ các thứ của q của mình. Đó là hành vi
ngang ngược, tham lam, tàn bạo, vô lý bất công. Bọn hoạn quan vừa vơ vét ních
đầy túi tham, vừa được tiếng mẫn cán trong việc nhà chúa.
Kết thúc đoạn văn miêu tả thủ đoạn của bọn hoạn quan này, tác giả kể lại một
sự việc đã từng xảy ra ngay tại gia đình mình: Bà mẹ của ơng đã phải sai chặt đi
một cây lê và hai cây lựu quí, rất đẹp trong vườn nhà mình để tránh tai hoạ.
Cách dẫn dắt như thế đã làm gia tăng đáng kể tính thuyết phục cho những chi
tiết chân thực đã ghi chép ở trên, đồng thời cũng làm cho cách viết thêm phong
phú và sinh động. Bên cạnh đó cịn kín đáo bộc lộ thái độ lên án phê phán chế
độ phong kiến của tác giả.
<b>III. Tổng kết</b>
<i>1. Về nghệ thuật</i>
Thành công với thể loại tuỳ bút:
- Phản ánh con người và sự việc cụ thể, chân thực, sinh động bằng các
phương pháp: liệt kê, miêu tả, so sánh.
- Xây dựng được những hình ảnh đối lập.
<i>2. Về nội dung</i>
<b>HỒNG LÊ NHẤT THỐNG CHÍ - (Hồi thứ 14, trích) - Ngơ Gia Văn Phái</b>
<i><b>1. Hình tượng người anh hùng Nguyễn Huệ</b></i>
a) Nguyễn Huệ là người bình tĩnh, hành động nhanh, kịp thời, mạnh mẽ,
<i>quyết đoán trước những biến cố lớn. Từ đầu đến cuối đoạn trích, Nguyễn Huệ</i>
ln luôn là con người hành động một cách xông xáo, nhanh gọn, có chủ đích và
rất quả quyết. Nghe tin giặc đã đánh chiếm đến tận Thăng Long, mất cả một
vùng đất đai rộng lớn mà ông không hề nao núng, “định thân chinh cầm quân đi
ngay”. Rồi chỉ trong vòng hơn một tháng, Nguyễn Huệ đã làm được bao nhiêu
việc lớn: “tế cáo trời đất” lên ngơi hồng đế, “đốc suất đại binh” ra Bắc, gặp gỡ
“người cống sĩ huyện La Sơn”, tuyển mộ binh lính và mở cuộc duyệt binh lớn ở
nghệ An, phủ dụ tướng sĩ, định kế hoạch hành quân, đánh giặc và cả kế hoạch
đối phó với nhà Thanh sau chiến thắng.
b) Là người có trí tuệ sáng suốt, nhạy bén mưu lược. Sự sáng suốt thể hiện
trong việc phân tích tình hình thời cuộc và thế tương quan giữa ta và địch. Đặc
biệt thể hiện qua lời phủ dụ với quân lính ở Nghệ An. Nguyễn Huệ khẳng định
chủ quyền dân tộc của ta và lên án hành động xâm lăng phi nghĩa, trái đạo trời
của giặc (“đất nào sao ấy, đều đã phân biệt rõ ràng”); nêu bật dã tâm của
giặc(“bụng dạ ắt khác...giết hại nhân dân, vơ vét của cải”); nhắc lại truyền
thống chống giặc ngoại xâm của dân tộc ta từ xưa; kêu gọi quân lính đồng tâm
hiệp lực, ra kỉ luật nghiêm,... Lời phủ dụ có thể xem như một bài hịch rất ngắn
mà ý tứ thật phong phú, sâu xa, có tác động kích thích lịng u nước và truyền
thống quật cường của dân tộc.
Sáng suốt, nhạy bén trong việc xét đoán và dùng người, thể hiện qua cách xử
trí với các tướng sĩ tại Tam Điệp, khi Sở và Lân “đều mang gươm trên lưng mà
c) Ý chí quyết thắng và tầm nhìn xa trơng rộng. Mới khởi binh đánh giặc,
chưa giành được một tấc đất nào, vậy mà vua Quang Trung đã nói chắc như
đinh đóng cột “phương lược tiến đánh đã có tính sẵn”, lại cịn tính sẵn cả kế
hoạch ngoại giao sau khi chiến thắng đối với một nước “lớn gấp mười nước
<i>mình” để có thể dẹp “việc binh đao”, “cho ta được yên ổn mà nuôi dưỡng lực</i>
<i>lượng”</i>
d) Là bậc kỳ tài trong việc dùng binh: bí mật, thần tốc, bất ngờ. Cuộc hành
quân thần tốc do vua Quang Trung chỉ huy đến nay vẫn còn là điều khiến chúng
ta kinh ngạc. Ngày 25 tháng chạp bắt đầu xuất quan ở Phú Xuân(Huế), một tuần
sau đã ra đến Tam Điệp(cách Huế khoảng 500 km). Vậy mà đêm 30 tháng chạp
đã “lập tức lên đường”, tiến ra Thăng Long. Mà tất cả đều đi bộ.Từ Tam Điệp
trở ra (khoảng 150 km), vừa hành quân, vừa đánh giặc mà vua Quang Trung
hoạch định kế hoạch là mồng 7 tháng giêng sẽ vào ăn tết ở Thăng Long( trong
thực tế đã vượt mức hai ngày). Hành quân xa, liên tục như vậy nhưng cơ nào đội
ấy vẫn chỉnh tề, cũng là do tài tổ chức của người cầm quân : hơn một vạn quân
mới tuyển đặt ở trung quân, còn quân tinh nhuệ từ đất Thuận Quảng ra thì bao
bọc ở bốn doanh tiền, hậu, tả, hữu.
những ngày hành quân cấp tốc, khơng có thì giờ nghỉ ngơi, vậy mà dưới sự lãnh
đạo tài tình của vị tổng chỉ huy này đã đánh những trận thật đẹp, thắng áp đảo kẻ
thù.
Trận Hà Hồi: vây kín làng, bắc loa truyền gọi, quân lính bốn phía dạ ran, quân
địch “rụng rời sợ hãi”, đều xin hàng, không cần phải đánh. Trận Ngọc Hồi, cho
quân lính lấy ván ghép phủ rơm dấp nước làm mộc che, dàn trận tiến đánh, khi
giáp lá cà thì “quăng ván xuống đất, ai nấy cầm dao chém bừa…” khiến kẻ thù
Bằng cách khắc hoạ trực tiếp hay gián tiếp, với biện pháp tả thực, <i>hình tượng</i>
<i>người anh hùng dân tộc hiện lên khá đậm nét với tính cách quả cảm, mạnh mẽ,</i>
<i>trí tuệ sáng suốt, nhạy bén, tài dụng binh như thần ; là người tổ chức và là linh</i>
<i>hồn của chiến công vĩ đại.</i>
- Khi miêu tả trận đánh của Nguyễn Huệ, với lập trường dân tộc và lòng yêu
nước, tác giả viết với sự phấn chấn, những trang viết chân thực có màu sắc sử
thi.
<i><b>2. Hình ảnh bọn xâm lược và lũ tay sai bán nước.</b></i>
a) Sự thảm bại của qn tướng nhà Thanh:
- Khơng đề phịng, khơng được tin cấp báo.
- Ngày mồng 4, quân giặc được tin Quang Trung đã vào đến Thăng Long:
+ Tôn Sĩ Nghị sợ mất mật, ngựa khơng kịp đóng n, người không kịp mặc áo
giáp, nhằm hướng bắc mà chạy.
+ Quân sĩ hoảng hồn, tranh nhau qua cầu, xô nhau xuống sông, sông Nhị Hà
bị tắc nghẽn.
b) Số phận thảm hại của bọn vua tôi phản nước, hại dân:
- Vua Chiêu Thống vội cùng bọn thân tín “đưa thái hậu ra ngoài”, chạy bán
sống bán chết, cướp cả thuyền của dân để qua sông, “luôn mấy ngày không ăn”.
<b>Đề 3.1: Thuyết minh về Truyện Kiều của Nguyễn Du.</b>
<b>Nguyễn Du sinh ngày 23 tháng 11 năm Ất Dậu, tức ngày 3/1/1866 ở kinh thành</b>
Thăng Long trong một gia đình q tộc lớn. Thân sinh ơng là Hồng Giáp
Nguyễn Nghiễm (1708 – 1775), làm quan đến tham tụng (tể tướng) tước Xuân
quận công triều Lê. Mẹ ông là bà Trần Thị Tần, quê Kinh Bắc, đẹp nổi tiếng. 13
tuổi lại mồ côi mẹ, ông phải ở với người anh là Nguyễn Khản. Đời sống của
người anh tài hoa phong nhã, lớn hơn ơng 31 tuổi này rất có ảnh hưởng tới nhà
thơ.
Nguyễn Du là nhà thơ sống hết mình, tư tưởng, tình cảm, tài năng nghệ
thuật của ơng xun suốt các tác phẩm của ông, xuyên suốt cuộc đời ông và thể
hiện rõ nhất qua áng văn chương tuyệt vời là Truyện Kiều.
Sự thăng tiến trên đường làm quan của Nguyễn Du khá thành đạt. Nhưng
ông không màng để tâm đến cơng danh. Trái tim ơng đau xót, buồn thương,
phẫn nộ trước “những điều trông thấy” khi sống lưu lạc, gần gũi với tầng lớp
dân đen và ngay cả khi sống giữa quan trường. Ông dốc cả máu xương mình vào
văn chương, thi ca. Thơ ơng là tiếng nói trong trái tim mình. Đấy là tình cảm sâu
sắc của ông đối với một kiếp người lầm lũi cơ hàn, là thái độ bất bình rõ ràng
của ơng đối với các số phận con người. Xuất thân trong gia đình q tộc, sống
trong khơng khí văn chương bác học, nhưng ơng có cách nói riêng, bình dân,
giản dị, dễ hiểu, thấm đượm chất dân ca xứ Nghệ.
Về văn thơ Nôm, các sáng tác của ơng có thể chia thành 3 giai đoạn. Thời
gian sống ở Tiên Điền – Nghi Xuân đến 1802, ơng viết “Thác lời trai phường
nón, Văn tế sống 2 cô gái Trường Lưu”. Đây là hai bản tình ca thể hiện rất rõ
tâm tính của ơng, sự hoà hợp tâm hồn tác giả với thiên nhiên, với con người. Ba
tập thơ chữ Hán thì "Thanh hiên thi tập" gồm 78 bài, viết lúc ở Quỳnh Côi và
những năm mới về Tiên Điền, là lời trăn trở chốn long đong, là tâm sự, là thái
độ của nhà thơ trước cảnh đời loạn lạc. Sau 1809, những sáng tác thơ của ông
tập hợp trong tập “Nam Trung Tạp Ngâm” gồm 40 bài đầy cảm hứng, của tâm
<i>Truyện Kiều được Nguyễn Du chuyển dịch, sáng tạo từ cuốn tiểu thuyết</i>
“Truyện Kim Vân Kiều" của Thanh Tâm Tài Nhân, tên thật là Tử Văn Trường,
quê ở huyện Sơn Am, tỉnh Triết Giang, Trung Quốc. Truyện Kiều đã được nhân
dân ta đón nhận một cách say sưa, có nhiều lúc đã trở thành vấn đề xã hội, tiêu
biểu là cuộc tranh luận xung quanh luận đề "Chánh học và tà thuyết" giữa cụ
Nghè Ngô Đức Kế và ông Phạm Quỳnh thu hút rất nhiều người của 2 phía cùng
luận chiến. Khơng chỉ ảnh hưởng sâu sắc trong tầng lớp thị dân, Truyện Kiều
còn được tầng lớp trên say mê đọc, luận. Vua Minh Mạng là người đầu tiên
đứng ra chủ trì mở văn đàn ngâm vịnh truyện Kiều và sai các quan ở Hàn Lâm
Viện chép lại cho đời sau. Đến đời Tự Đức, nhà vua thường triệu tập các vị khoa
bảng trong triều đến viết và vịnh Truyện Kiều ở văn đàn, ở Khu Văn Lâu.
Truyện Kiều của Nguyễn Du là tác phẩm tiêu biểu nhất của thể loại truyện
nôm trong văn học trung đại VN.
ND dựa vào cốt truyện Kim Vân Kiều truyện của Thanh tâm tài nhân
(TQ), có bố cục theo 3 phần truyền thống của tác phẩm cổ điển:
P1: Gặp gỡ & đính ước
P2: Gia biến & lưu lạc
P3: Đoàn tụ.
Nhân vật chính là người con gái tài sắc Thúy Kiều. Nhưng phần sáng tạo
của ND là rất lớn. Điều này làm nên giá trị của kiệt tác Truyện Kiều.
Về nội dung, Truyện Kiều có hai giá trị lớn là hiện thực và nhân đạo. Tác
phẩm đã phản ánh sâu sắc hiện thực xã hội đương thời với bộ mặt tàn bạo của
tầng lớp thống trị và số phận những con người bị áp bức đau khổ, đặc biệc là số
phận bi kịch của người phụ nữ.
TK mang giá trị nhân đạo với những nội dung cơ bản: niềm thương cảm
sâu sắc trước những đau khổ của con người , sự lên án, tố cáo những thế lực tàn
bạo, sự trân trọng, đề cao con người từ vẻ đẹp hình thức, phẩm chất đến những
ước mơ, khát vọng chân chính.
Về nghệ thuật, TK có những thành tựu lớn về nhiều mặt, nổi bật là ngôn
ngữ và thể loại. Đến TK, tiếng Việt đã đạt đến trình độ đỉnh cao ngơn ngữ nghệ
thuật biểu đạt, biểu cảm và thẩm mĩ, kết hợp giữa ngôn ngữ dân tộc và ngôn ngữ
bác học. Nghệ thuật tự sự, miêu tả trong tác phẩm thật đa dạng.
Ngày nay, Truyện Kiều vẫn đang được các nhà xuất bản in với số lượng
lớn, được dịch ra rất nhiều thứ tiếng. Các nhà nghiên cứu trên thế giới đánh giá
cao Truyện Kiều. Kiệt tác TK có sức chinh phục lớn đối với nhiều thế hệ độc
giả.
Tác phẩm đã được dịch ra nhiều thứ tiếng và được giới thiệu nhìu nước trên
thế giới. Dịch giả người Pháp Rơ-ne-crir-sắc khi dịch Truyện Kiều đã viết bài
nghiên cứu dài 96 trang, có đoạn viết: "Kiệt tác của Nguyễn Du có thể so sánh
một cách xứng đáng với kiệt tác của bất kỳ quốc gia nào, thời đại nào”. Ông so
sánh với văn học Pháp: “Trong tất cả các nền văn chương Pháp không một tác
phẩm nào được phổ thông, được tồn dân sùng kính và u chuộng bằng quyển
truyện này ở Việt Nam". Và ông kết luận: "Sung sướng thay bậc thi sĩ với một
tác phẩm độc nhất vô nhị đã làm rung động và ca vang tất cả tâm hồn của một
dân tộc". Năm 1965 được Hội đồng Hồ bình thế giới chọn làm năm kỷ niệm
200 năm năm sinh Nguyễn Du.
<b>Đề 3.2: Qua việc tìm hiểu cốt truyện và các đoạn trích trong SGK ngữ </b>
<i>văn 9, tập I, em hãy phân tích nhân vật Thuý Kiều để làm nổi bật giá trị nhân </i>
<i>đạo của Truyện Kiều.</i>
Kiệt tác truyền Kiều của đại thi hào Ng.Du có 2 giá trị lớn là giá trị hiện
Tiếng nói nhân đạo ấy tốt lên từ hình tượng nhân vật Thuý Kiều trong
truyện Thuý Kiều. Thuý Kiều là hiện thân của nổi đau và bất hạnh. Nàng là một
người con gái tài sắc, giàu tình cảm nhưng bị xã hội phong kiến vùi dập, đoạ
đày.
<i>Nhân vật Thuý Kiều là hiện thân những bi kịch của người phụ nữ trong</i>
<i>xã hội phong kiến trước đây. Đời Kiều là một tấm gương oan khổ. Số phận Kiều</i>
hội đủ những bi kịch của người phụ nữ. Tuy nhiên hai bi kịch lớn nhất ở Kiều là
bi kịch tình yêu tan vỡ và bi kịch bị chà đạp nhân phẩm.
Tình yêu Kim Trọng- Thuý Kiều là một tình yêu lí tưởng với “Người
<i>quốc sắc,kẻ thiên tài”, nhưng cuối cùng “giữa đường đứt gánh tương tư”,</i>
<i>“nước chảy hoa trơi lỡ làng”. Tình u tan vỡ và khơng bao giờ hàn gắn </i>
được-tuy “màn đoàn viên” có hậu về cơ bản cũng chỉ là “một cung gió thảm mưa
<i>sầu”. Hạnh phúc nàng toan được nắm trong tay thì cuộc đời cướp mất.</i>
Kiều là người ln có ý thức về nhân phẩm nhưng cuối cùng lại bị chà
đạp về nhân phẩm. Nàng trở thành “món hàng” để kẻ bn người họ Mã “cị kè
<i>bớt một thêm hai”. Rồi nàng phải thất thân với những kẻ như Mã Giám Sinh,</i>
phải “Thanh lâu hai lượt thanh y hai lần”- Nổi đau nhất của cuộc đời Kiều
chính là: “Thân lươn bao quản lần đầu- chút lòng trinh bạch từ sau xin chừa”.
Có nổi đau nào lớn hơn khi con người trọng nhân phẩm, ln có ý thức về nhân
phẩm mà cuối cùng phải tuyên bố từ bỏ nhân phẩm?
Đời Kiều không phải chỉ là một tấm bi kịch, mà là những chuổi dài những
bi kịch nối tiếp nhau, mỗi lần nàng cố cất đầu ra khỏi bùn nhơ là một lần bị dúi
xuống, bị đạp xuống sâu thêm một tầng nữa.
<i>Thuý Kiều là hiện thân của một vẻ đẹp nhan sắc, tài hoa. Sắc và tài của</i>
Kiều đã đạt tới mức lí tưởng. Thể hiện vẻ đẹp, tài năng của Kiều Ng.Du đã sử
dụng bút pháp ước lệ của văn học cổ có phần lí tưởng hố để trân trọng một vẽ
đẹp. “ Một hai nghiêng nước nghiêng thành-sắc đành đồi một tài đành hoạ
<i>hai”.</i>
<i>Thuý Kiều là hiện thân của nổi khát vọng tình yêu tự do, khát vọng hạnh</i>
<i>phúc và khát vọng về quyền sống.</i>
Khát vọng tình yêu tự do đậm màu sắc lãng mạn được thể hiện qua mối
quan hệ Thuý Kiều- Kim Trọng. Mới gặp chàng Kim lần đầu, hai bên chưa tiện
nói với nhau một lời, mà mối tình không lời ấy đã như một chén rượu nồng,
khiến người ta chống váng đê mê:
<i>“Tình trong như đã mặt ngồi còn e</i>
<i>Chập chờn cơn tỉnh cơn mê...”</i>
Yêu nhau nàng chủ động xây dựng tương lai với người yêu. Gót chân
nàng thoăn thoắt đi sang nhà Kim Trọng, cái hình ảnh nàng “Xăm xăm băng nẻo
<i>vườn khuya một mình” Thật là nhiệt thành cho một mối tình đầu trong trắng.</i>
Ng.Du đã dành tất cả tài năng và tâm huyết để viết lên một bản tình ca say đắm
có một khong hai trong lịch sử văn học Việt Nam.
Mối tình Kim-Kiều vượt ra ngồi lễ giáo phong kiến bằng tình u tự do ,
chủ động của hai người. Khác với nhiều người phụ nữ xưa phải chịu sự sắp đặt
Khát vọng về hạnh phúc, về quyền sống đã đưa Kiều trở thành đại diện
cho con người bị áp bức vùng lên làm chủ số phận của mình trong tư thế chiến
tháng, tư thế chính nghĩa:
<i>“Nàng rằng: Lồng lộng trời cao</i>
<i>Hại nhân nhân hại sự nào tại ta”.</i>
Ở đây, Thuý Kiều đẫ gặp gỡ bao nhiêu người phụ nữ bị áp bức khác vùng
lên địi quyền sống, địi lẽ cơng bằng, trừng trị kẻ ác. “Cái thế giằng co giữa sự
<i>sống và sự chết ở trong Tấm Cám, Thạch Sanh, trong nhiều truyện nôm khuyết</i>
<i>danh khác cũng như trong truyện Kiều, về căn bản nào có khác gì nhau, chỉ</i>
<i>khác... Một bên nhiều khi con người mượn yếu tố thần linh phụ trợ, một bên đã</i>
<i>vươn tới tư tưởng trị nhân dân và con người quyết định theo cơng lí của </i>
<i>mình”-(Cao Huy Đỉnh)</i>
<b>Đề 4: Phân tích đoạn trích “Chị em Thuý Kiều” để thấy rõ “Với bút pháp</b>
<i>tinh diệu, Nguyễn Du không những xây dựng lên hai chân dung “Mỗi người một</i>
<i>vẻ mười phân vẹn mười” mà dường như còn nói được cả tính cách, thân</i>
<i>phận...tốt ra từ diện mạo của mỗi vẻ đẹp riêng”.</i>
Đoạn trích “Hai chị em Thuý Kiều” nằm ở phần đầu của câu chuyện.
Trong đoạn trích này, Nguyễn Du tập trung miêu tả hai chân dung tuyệt mỹ của
chị em Thuý Kiều. Đằng sau những nét bút miêu tả tinh tế và độc đáo, người
đọc có thể nhận thấy tấm lịng ưu ái, trân trọng đặc biệt của Nguyễn Du đối với
nhân vật của mình. Qua ngịi bút của Nguyễn Du, hai chị em Thuý Kiều đều
xinh đẹp, nhưng “mỗi người (tài tình) mỗi vẻ” với dự báo trước số phận, tính
cách, cuộc đời của mỗi nhân vật, đặc biệt là Thuý Kiều, nhân vật của truyện.
Mở đầu đoạn trích, Nguyễn Du giới thiệu vẻ đẹp chung về hai chị em với
bốn câu thơ:
<i>“Đầu lòng hai ả tố nga</i>
<i>Thuý Kiều là chị, em là Thuý Vân</i>
<i>Mai cốt cách, tuyết tinh thần</i>
<i>Mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười”</i>
Cả hai chị em đều có vẻ đẹp tồn mỹ, từ hình thức bên ngồi “Mai <i>cốt</i>
<i>cách” đến vẻ đẹp bên trong tâm hồn “Tuyết tinh thần”. Vẻ đẹp của Thuý Vân</i>
được miêu tả ở bốn câu thơ tiếp:
<i>“Vân xem trang trọng khác vời</i>
<i>Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang</i>
<i>Hoa cười ngọc thốt đoan trang</i>
<i>Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da”</i>
Vẻ đẹp của Thuý Vân được Nguyễn Du miêu tả một cách toàn vẹn từ
khn mặt, nét ngài, màu da, mái tóc đến tiếng nói, nụ cười và cốt cách. Thuý
Vân hiện ra qua những hình ảnh, những tính chất ước lệ của văn học cổ trung
đại. Nguyễn Du tập trung tô đậm vẻ đẹp phúc hậu, đoan trang của Thuý Vân.
Vẫn là cách thức quen thuộc của văn học cổ, lấy vẻ đẹp của thiên nhiên làm
chuẩn mực cho vẻ đẹp con người, nhưng bức chân dung của Thuý Vân, qua nét
vẻ thân tình của Nguyễn Du bỗng trở nên sống động là nhờ đã chứa đựng trong
đó quan niệm về tài sắc của chính nhà thơ. Gương mặt xinh đẹp đầy đặn, vẻ đẹp
đoan trang phúc hậu của Thuý Vân-một vẻ đẹp và thiên nhiên sẵn lòng nhường
nhịn “Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da”-như dự báo trước một cuộc
Quả thật, với những từ ngữ trau chuốt, những hình ảnh ước lệ tượng trưng
vẻ đẹp và giàu sức gợi tả, được lọc qua tâm hồn mẫn cảm, tinh tế, Ng.Du đã
khắc hoạ khá sống động vẻ đẹp đài các, đoan trang viên mãn, mơn mởn sức
sống của Thuý Vân, biểu hiện một tâm hồn vô tư, dự báo trước một cuộc đời
yên ổn, vinh hoa, phú quý sẽ mỉm cười, vui vẻ đón nàng.
Song, việc miêu tả vẻ đẹp của Th Vân, khơng phải là chủ đích nghệ
thuật của tác giả. Đó thực chất chỉ là việc tạo tiền đề, tao ra một điểm tựa nghệ
thuật “tá khách hình chủ” để làm nổi bật hơn tài sắc của Thuý Kiều, nhân vật
trung tâm của tác phẩm.
Đôi mắt đẹp của nàng trong như nước mùa thu, lông mày xin xắn, tươi
non như sắc núi mùa xuân “làn thu thuỷ, nét xuân sơn”. Nếu như vẻ đẹp của
Th Vân trời xanh cịn có thể nhường nhịn, thì trước sắc đẹp của Thuý Kiều,
thiên nhiên tạo hoá cũng trở nên đố kị, ghen ghét
<i> Kiều càng sắc sảo mặn mà,</i>
<i>So bề tài sắc lại là phần hơn</i>
<i> Làn thu thuỷ nét xuân sơn,</i>
<i>Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh</i>
Thiên nhiên đố kị, ghen ghét với nàng. Hồng nhan bạc mệnh, cái sắc đẹp
<i>“sắc sảo mặn mà” khiến thiên nhiên cũng phải đố kị, ghen ghét ấy đã dự báo</i>
trước một cuộc đời đầy sóng gió sẽ ập đến với nàng. Ng Du đã không tiếc lời ca
ngợi sắc đẹp và tài nghệ của nàng Kiều. Khác hẳn Thuý Vân, Th Kiều thông
minh, đa tài, đa cảm, một con người nhất mực tài hoa: Tài thơ, tài hoạ, tài đàn
của Th Kiều đạt tới mức tuyệt diệu:
<i>“ Thơng minh vốn sẵn tính trời</i>
<i>Pha nghề thi hoạ đủ mùi ca ngâm</i>
<i>Cung thương lầu bậc ngũ âm</i>
<i>Nghề riêng ăn đứt hồ cầm mộ tchương”.</i>
Cả diện mạo bên ngoài và tâm hồn cũng hé mở dần tính cách số phận của
nàng Kiều.
Rõ ràng, Ng.Du khi miêu tả sắc đẹp của nàng Kiều đã gửi gắm quan niệm
<i>“Tài hoa bạc mệnh” vào đấy - dự báo trước cuộc đời, số phận long đong, lận</i>
đận, đầy bất hạnh của nàng.
<b>Đề 5: </b><i>Hãy phân tích đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” để thấy rằng:</i>
<i>Nguyễn Du đã dựng nên một bức tranh tâm tình đầy xúc động.</i>
<b> Từ một thiếu nữ tài sắc sống trong cảnh "êm đềm trướng rủ màn che",</b>
Kiều đã trở thành món hàng trong màn mua bán của Mã Giám Sinh và giờ nàng
đang sống trong cô đơn, nhớ thương đau buồn, lo âu nơi lầu Ngưng Bích. Hai
mươi hai câu thơ trong đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích đã thể hiện rõ bức
tranh tâm cảnh của kiều.
Sống nơi lầu Ngưng Bích là kiểu sống trong sự cô đơn tuyệt đối:
Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân
<i> Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung</i>
<i> Bốn bề bát ngát xa trông</i>
<i> Cát vàng cồn nọ bụi hồng dặm kia</i>
<i> Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lịng.</i>
Kiều bị giam lỏng ở lầu Ngưng Bích, hai chữ "khóa xn" đã nói lên điều
đó. "Khóa xn" ở đây khơng phải nói tới những cơ gái cịn cấm cung mà là sự
mỉa mai, chua xót cho thân phận nàng Kiều. Nàng trơ trọi giữa thời gian mênh
mơng, khơng gian hoang vắng trong hồn cảnh tha hương, cô đơn, giờ lại bị đầy
vào chốn lầu xanh ô nhục. Trong cảnh ngộ như thế, Kiều chỉ còn biết lắng nghe
tiếng nói từ sâu thẳm lịng mình. Tâm trạng Kiều trải ra theo cái nhìn cảnh vật.
Nhìn lên trên là vầng trăng đơn cơi, nhìn xuống mặt đất thì bên là cồn cát nhấp
nhơ lượn sóng bên là bụi hồng cuốn xa hàng vạn dặm. Lầu Ngưng Bích là một
chấm nhỏ giữa thiên nhiên trơ trọi, giữa mênh mang trời nước. Cái lầu cao ngất
nghểu, trơ trọi ấy giam hãm một thân phận trơ trọi. Khơng một bóng người,
khơng một sự chia sẻ, chỉ có một thiên nhiên câm lặng làm bạn. Kiều chỉ có một
mình để tâm sự, để đối diện với chính mình. Trong cái khơng gian rợn ngợp và
thời gian dài dặc, quẩn quanh "mây sớm đèn khuya" gợi vịng tuần hồn khép
kín của thời gian, tất cả như giam hãm con người, như khắc sâu thêm nỗi đơn
côi khiến Kiều càng thấy "bẽ bàng" chán ngắn, buồn tủi. Sớm và khuya, ngày và
đêm Kiều thui thủi một mình nơi đất khách quê người, nàng chỉ còn biết làm
bạn với mây và đèn. Trong nỗi cơ đơn tuyệt đối ấy, lịng Kiều dồn tới lớp lớp
những chua xót. Buồn vì cảnh hoang vu, rợn ngợp và buồn vì tình riêng khiến
lịng như bị xé:
<i>Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng</i>
Nguyễn Du từ cảnh vật trước lầu Ngưng Bích đã nói lên những nỗi lịng của
Thúy Kiều. Đó là sự cô đơn, vô vọng đến tuyệt đối và đó là những dư vị của bao
tháng ngày gian khổ, sưng tấy.
Tạm quên đi những chia xẻ trong lòng, Kiều nhớ về những người thân:
Tưởng người dưới nguyệt chén đồng
<i>Tin sương luống những rày trông mai chờ.</i>
Đối với những quy định phong kiến. Kiều nhớ về người yêu rồi nhớ đến cha mẹ.
Trong lúc này, nỗi đau đớn tình người u vẫn cịn da diết. Kỷ niệm cịn mới
đây thơi. Hơn thế nữa Kiều lại bị Mã Giám Sinh mua chuộc, sớm bị đưa vào lầu
xanh nên nỗi đau lớn nhất của nàng lúc này là:
Tấm son gột rửa bao giờ cho phai
Trọng, nàng là kẻ phụ tình, lỡ hẹn. Trong tâm cảnh như thế, để Kiều nhớ chàng
Kim trước là sự tinh tế của ngòi bút Nguyễn Du. Nhớ tới người yêu là nhớ tới
đêm trăng thề nguyền. Vừa mới hôm nào, nàng cùng chàng uống chén rượu thề
nguyền son sắt, một lịng cùng nhau một đời mà nay mối tình dun đã chia đột
ngột. Câu thơ như có nhịp thổn thức của trái tim rỉ máu. Kiều đau đớn hình dung
Kim Trọng vẫn ngày ngày hướng về nàng để chờ tin mà uổng cơng vơ ích. Càng
nhớ chàng Kim bao nhiêu thì Kiều lại thương cho thân mình bấy nhiêu. Thương
mình bơ vơ bên trời góc bể, càng nuối tiếc mối tình đầu, càng hiểu rằng tấm son
mà nàng dành cho chàng Kim chẳng bao giờ nguôi ngoai. Không chỉ vậy mà
tấm son đã bị hoen ố của nàng đến khi nào mới rửa cho được. Trong nỗi nhớ cịn
có cả nỗi xót xa, ân hận, tủi hổ. Đặt trong hồn cảnh cơ đơn, Kiều đã tạm để nỗi
lịng mình lắng xuống và nhớ tới Kim Trọng. Đó là sự vị tha và tấm lòng chung
thủy của một con người.
Nếu khi nhớ tới Kim Trọng. Kiều "tưởng" thì khi nghĩ tới cha mẹ Kiều
"xót":
Xót người tựa cửa hơm mai
<i>Sân Lai cách mấy nắng mưa</i>
<i>Có khi gốc tử đã vừa người ôm.</i>
Nàng thương cha mẹ từ bấy đến nay vẫn sớm chiều tựa cửa chờ tin đứa con
lưu lạc. Nàng xót thương da diết và day dứt khơn ngi vì khơng thể quạt nồng,
ấp lạnh, phụng dưỡng song thân khi già yếu. Thành ngữ "quạt nồng ấp lạnh",
điển cố "Sân Lai, gốc tử" đều nói lên tâm trạng nhớ thương, tấm lịng hiếu thảo
của Kiều. Nàng tưởng tượng nơi quê nhà tất cả đã đổi thay. Cha mẹ thì mỗi
người thêm một già yếu mà nàng thì chẳng thể ở bên chăm sóc. Giờ đây khoảng
cách không gian giữa nàng và cha mẹ là cách mấy nắng mưa. Thiên nhiên không
chỉ tàn phá cảnh vật mà còn tán phá cả con người. Lần nào khi nhớ tới cha mẹ.
Kiều cũng nhớ ơn chín chữ cao sâu và ln ân hận mình đã phụ công sinh thành
nuôi dưỡng của cha mẹ. Nỗi nhớ của nàng được gửi vào chiều dài thời gian, vào
chiều sâu không gian bởi vậy mà càng thêm da diết, sâu xa. Dù đau buồn bất
hạnh nhưng trái tim Kiều đầy yêu thương, nhân hậu, vị tha. Nàng là người tình
chung thủy, là người con rất mực hiếu thảo, là người có tấm lịng vị tha đáng
trọng. Hai nỗi nhớ được biểu hiện khác nhau đó cũng là sự cảm thơng lạ lùng
của nhà thơ, tấm lòng nhân đạo của Nguyễn Du đối với con người.
Vẫn việc sử dụng bút pháp tả cảnh ngụ tình quen thuộc, những nỗi buồn
khác nhau với lí do buồn khác nhau, trong lòng Kiều đã buồn tác động lại khiến
càng buồn hơn và nỗi buồn ngày một ghê gớm, mãnh liệt hơn.
Buồn trông cửa bể chiều hơm
<i>Thuyền ai thấp thống cánh buồm xa xa?</i>
<i>Buồn trông ngọn nước mới sa</i>
<i>Hoa trôi man mác biết là về đâu?</i>
<i>Buồn trông nội cỏ dầu dầu</i>
<i>Chân mây mặt đất một màu xanh xanh.</i>
<i>Buồn trơng gió cuốn mặt duềnh</i>
<i>Ẩm âm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi.</i>
<i>Buồn trơng cửa bể chiều hơm</i>
<i>Thuyền ai thấp thống cánh buồm xa xa?</i>
Không gian mênh mông và thời gian khi chiều tà muôn thuở gợi buồn. Giữa
khung cảnh ấy chỉ có một con thuyền vơ định và hiện hữu với cánh buồm thấp
thoáng xa xa như một ảo ảnh. Cảnh đã gợi trong lòng người tha thương nỗi buồn
nhớ về cha mẹ, quê nhà xa cách, nỗi cô đơn và khát khao sum họp. Cánh hoa
trôi man mác trên ngọn nước mới sa gợi trong lịng Kiều nỗi buồn về thân phận
trơi nổi, khơng biết rồi sẽ bị trôi dạt, bị vùi dập ra sao:
Buồn trông ngọn nước mới xa
<i>Hoa trôi man mác biết là về đâu!</i>
Cánh hoa làm Kiều xót xa cho duyên phận, số kiếp của mình. Sau một cửa
biển một cách hoa giữa dòng nước là cảnh của một nội cỏ.
Buồn trông nội cỏ dầu dầu
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh.
Cả một nội cỏ trải ra mênh mông nhưng khác với cỏ trong ngày Thanh
minh. Đó là "cỏ non xanh rợn trân trời", còn cỏ ở đây "dầu dầu". Một màu vàng
úa gợi tới sự héo tàn, buồn bã. Màu xanh nhàn nhạt trải dài từ mặt đất tới chân
mây không phải màu xanh của sự sống của hy vọng mà chỉ gợi nỗi chán ngán vơ
<i>Buồn trơng gió cuốn mặt duềnh</i>
<i>Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi.</i>
Tiếng sóng như báo trước sóng gió dữ dội của cuộc đời hay cũng chỉ là
tiếng kêu đau đớn của Kiều đồng vọng với thiên nhiên. Kiều khơng chỉ buồn mà
cịn lo sợ, kinh hãi như đang đứng trước sóng gió, bão táp của cuộc đời này sắp
đổ xuống đầu nàng. Cảnh được miêu tả từ xa đến gần, màu sắc từ nhạt đến đậm,
âm thanh từ tĩnh đến động. Cảnh ngày một rõ hơn để diễn tả nỗi buồn từ man
mác mông lung đến âu lo kinh sợ dồn đến bão táp nội tâm. Thiên nhiên chân
thực, sinh động nhưng mờ ảo bởi nó được nhìn theo quy luật "cảnh nào cảnh
chẳng đeo sầu, người buồn cảnh có vui đâu bao giờ". Và đó cũng là hiện thân, là
tang vật của quá khứ khổ đau, hiện tại lẻ loi bất hạnh và báo hiệu một tương lai
khủng khiếp. Tất cả đều là hình ảnh về sự vô định, mong manh, vô vọng, sự trôi
dạt, bế tắc. Đoạn thơ gồm bốn cặp câu lục bát cũng là bốn cảnh và cặp câu được
liên kết nhớ điệp ngữ "buồn trông".
<i>Buồn trông cửa biển chiều hôm</i>
<i>... Buồn trông ngọn nước mới sa</i>
<i>...Buồn trông nội cỏ dầu dầu</i>
<i>...Buồn trơng gió cuốn mặt duềnh.</i>
tâm trạng hết sức độc đáo và xúc động. Khúc ca khép lại đầy dư âm với hịa tấu
phức điệp của sóng biển, "sóng lịng", "sóng đời" đang vang lên những tiếng
gầm gào của hiểm họa như muốn hất tung, nhấn chìm người con gái cô đơn, tội
nghiệp trên điểm tựa chiếc ghế đời mỏng manh. Lúc này Kiều trở nên tuyệt
<b>Đề 6: Phân tích tám câu thơ cuối của đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” </b>
Kiều bị cấm cung ở lầu Ngưng Bích, nhưng thực chất là bị Tú Bà giam
lỏng ở đấy, dùng “Mưu ma chước quỷ” lừa gạt nàng, để buộc nàng phải ra tiếp
khách ở lầu xanh. Sau lưng nàng là những tai biến, đau đớn, nhục nhã, ê chề: gia
đình bị mắc oan, phải trao duyên cho Thuý Vân, bị Mã Giám Sinh giả danh cưới
về làm lẽ và bị gã lừa gạt, làm nhục ngay ở dọc đường, bị Tú Bà sỉ nhục và dở
trò đánh đập để ra uy. Từ tâm trạng của mình, nhìn cảnh vật bên ngồi, do đó,
những ghi nhận về cảnh là những ghi nhận về tình. Vì mối quan hệ tình cảnh đó,
người đọc càng hiểu sâu sắc tâm trạng của Th Kiều trong đoạn trích này:
<i>Buồn trơng cửa bể chiều hơm</i>
<i>Thuyền ai thấp thống cánh buồm xa xa?</i>
<i>Buồn trông ngon nước mới sa,</i>
<i>Hoa trôi man mác biết là về đâu?</i>
<i>Buồn trông nội cỏ rầu rầu</i>
<i>Chân mây mặt đất một mầu xanh xanh</i>
<i>Buồn trơng gió cuốn mặt duềnh</i>
<i>Âm ầm tiếng sóng vây quanh ghế ngồi.</i>
Mã Giám Sinh nói dối, mua Kiều về làm vợ lẽ. Kiều đã “thất thân” với
Mã. Thật ra Mã mua Kiều về cho mụ Tú Bà. Tú Bà khi biết hành vi của Mã đã
Sau những đau đớn ê chề, trong lẻ loi, Kiều ngóng đợi tin tức người tình
<i>“Tưởng người dưới nguyệt chén đồng-tinh sương ...trông mai chờ”. Nàng nghĩ</i>
về cha mẹ tuổi già bóng xế “Xót thương ...-quạt nồng ...đó giờ?”
Chính trong tâm trạng ngổn ngang nhiều nỗi đó, Kiều nhìn ra cái mênh
mông của biển cả. Từ trong cảnh soi vào lịng mình hiện tại, Kiều gặp lại lịng
mình:
<i>“Buồn trơng cửa bể chiều hơm</i>
<i>Thuyền ai thấp thống cánh buồm xa xa?”</i>
Giữa cái mênh mông của trời biển, trong màu xanh xam xám của ban
chiều, có những cánh buồm lúc ẩn lúc hiện: chiếc thuyền ra khơi, chiếc thuyền
hướng về đất liền. Từ nội tâm đang đau khổ, Kiều như nhìn nhận “từ trong ai
<i>đó”,”Trong những chiếc thuyền từ biển khơi”, trong tầm mắt xa khơi của cảnh</i>
và con người. Đang trông vọng một nỗi hội tụ mà sao lại cách biệt, chia li làm
vậy?
Lời thơ bình dị, những gì gợi lên trong âm hưởng của câu thơ - là nỗi
khắc khoải, xốy sâu vào lịng Kiều:
<i>Buồn trơng ngọn nước mới sa,</i>
<i>Hoa trôi man mác biết là về đâu?</i>
ác - thân phận Thuý Kiều, chúng ta mới hiểu được tâm trạng của nàng Kiều
Buồn bã, Kiều lại nhìn vào đồng nội:
<i>Buồn trông nội cỏ dầu dầu</i>
<i>Chân mây, mặt đất một màu xanh xanh.</i>
Màu mây, màu cỏ nhạt hoà vào với nhau thành một màu “xanh xanh” khó phân
biệt. Mà làm sao phân biệt được “màu trời, sắc mây” trong cảnh chiều tà, giữa
cái mênh mông, bát ngát trong lúc tâm hồn còn nhiều ngổn ngang như thế. Và
cuối cùng:
<i>“Buồn trơng gió cuốn mặt duềnh</i>
<i>Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi”</i>
Trong câu thơ, đọc lên, ta nghe có “tiếng gió” và “tiếng sóng biển” đang
<i>“ầm ầm” kêu quanh ... nàng Kiều như đang ở trong tâm trạng lo lắng, hoảng sợ</i>
tưởng như không ngồi trên đất liền nữa mà như đang ngồi giữa biển khơi, bốn
phía “ầm ầm tiếng sóng”. Tiếng sóng ở đây, trong câu thơ khơng phải là âm
thanh của tiếng sóng bình thường: sóng vỗ, sóng xơ, sóng dào dạt, ... mà “tiếng
<i>sóng kêu” ầm ầm tứ phía, ngầm dự báo cơn sóng gió, bão táp của cuộc đời thật</i>
dữ dội sẽ ập đến với Thuý Kiều, với đoạn trường mười lăm năm lưu lạc đang
chờ đợi nàng.
Đoạn thơ này hay khơng những vì đã khái quát được tâm trạng của nàng
Kiều khi ở lầu Ngưng Bích mà cịn mở ra những điều dự báo về sau của cuộc
Những dự báo mơ hồ của tâm linh không lâu đã đến với Kiều. Tám câu
thơ cuối của đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” càng khẳng định ngòi bút tài
hoa của Nguyễn Du trong bút pháp tả cảnh, tả nội tâm nhân vật tài tình, gợi cảm,
để lại ấn tượng sâu lắng trong lịng người đọc xưa và nay, thấm đẫm tinh thần
nhân đạo sâu sắc.
<b>Đề 7: Phân tích đoạn thơ trích “Mã Giám Sinh mua Kiều”.</b>
(Ngữ văn 9 - tập I)
Đang sống trong hạnh phúc của mối tình đầu say mê, trong trắng với Kim
Trọng thì bất ngờ gia đình Kiều bị vu oan, giá hoạ. Khơng đành lịng để cho gia
đình tan nát, Thuý Kiều đau đớn trao duyên cho Thuý Vân, tự nguyện bán mình
để lấy tiền cứu cha và em trai. Lợi dụng tình cảnh đau đớn của Kiều, Mã Giám
Sinh “vốn là một đứa phong tình đã quen” đánh tiếng cưới nàng về làm thiếp
nhưng thực sự là hắn mua Kiều về cửa hàng thanh lâu của hắn với mụ Tú Bà ở
Lâm Tri. Đoạn trích này miêu tả màn kịch mua bán người, qua đó “lột mặt nạ”
của Mã Giám Sinh và thể hiện nỗi đau đớn ê chề, mở đầu cho đoạn trường mười
lăm năm lưu lạc đầy cay đắng của nàng Kiều.
Với ngòi bút sắc sảo trong miêu tả và nỗi căm ghét, Nguyễn Du đã lột tả
bộ mặt bỉ ổi, tàn ác, ghê tởm của bọn “buôn bán thịt người”. Trong màn kịch
này, Mã Giám Sinh đóng vai chàng sinh viên Quốc Tử Giám đến để làm “lễ vấn
<i>danh”, xem mặt, dạm hỏi Thuý Kiều về làm vợ lẽ. Gã sinh viên giả hiệu “người</i>
<i>viễn khách” mờ ám này, mù mờ từ tên họ đến q qn. Và ngịi bút thần tình</i>
của Nguyễn Du cứ mỗi nét lại khắc hoạ rõ hơn chân dung và cái bản chất, giả
<i>dối</i>
<i> , vơ học, bất nhân, vì tiền ghê tởm của họ Mã.</i>
Được mụ mối giới thiệu là «viễn khách », tức là khách ở nơi xa đến đưa
đến để « vấn danh », để ăn hỏi và xin cưới. Cách giới thiệu có vẻ trang trọng :
Gần miền có một mụ nào
<i>Đưa người viễn khách tìm vào vấn danh</i>
Khách tự giới thiệu mình là kẻ sĩ, tức là sinh viên trường Quốc Tử Giám,
chỉ nói họ, khơng xưng tên rất kiểu cách q tộc ; sau đó giới thiệu quê hương
bản quán : huyện Lâm Thanh cũng gần. Hai chữ rằng nối tiếp nhau xuất hiện
biểu lộ một thái độ hợm hĩnh, coi thiên hạ bằng nửa con mắt. Khẩu ngữ đối đáp
của viễn khách cộc lốc, vô lễ, thật khiếm nhã :
Hỏi tên, rằng : Mã Giám Sinh,
<i>Hỏi quê, rằng : Huyện Lâm Thanh cũng gần.</i>
Đọc « Truyện Kiều », ta mới thấu hiểu rõ nguồn gốc viễn khách. Y với
mụ Tú Bà là những kẻ «Làng chơi đã trở về già hết duyên », sống ở Lâm Tri
« Quanh năm buôn bán phấn hương đã lề » . Sinh viên trường Quốc Tử Giám,
<i>quê huyện Lâm Thanh cũng gần mà họ Mã giới thiệu thực chất chỉ là sự khoe</i>
mẽ, giả dối.
Đây là bức chân dung truyền thần tên lái buôn họ Mã :
<i>Quá niên trạc ngoại tứ tuần</i>
<i>Mày râu nhẵn nhụi, áo quần bảnh bao.</i>
<i>Trước thầy, sau tớ lao xao</i>
<i>Nhà băng đưa mối, rước vào lầu trang</i>
<i>Ghế trên ngồi tót sỗ sàng.</i>
Mã Giám Sinh đã “ngoại tứ tuần” mà vẫn “áo quần bảnh bao”, “mày râu
<i>nhẵn nhụi” chải chuốt, lố lăng rõ ra một gã trai lơ. Lũ thầy, tớ chúng kéo đến</i>
nhà Kiều thật là nhốn nháo, lố lăng, không chút lễ giáo, thiếu nền nếp, đáng
khinh.
huynh trưởng đánh kính. Kẻ đi hỏi vợ là hàng con cái mà lại ngồi tót thì thật
chướng mắt, vơ lễ.
Bản chất bất nhân, vì tiền của Mã Giám Sinh bộc lộ qua cảnh mua bán
Thuý Kiều. Dẫu được khéo léo che đậy bằng mọi thứ mánh lới xảo quyệt nhưng
diện mạo, thái độ, cử chỉ, hành vi và ngôn ngữ của hắn vẫn tự tố cáo bản chất
đích thực của một tên “bn thịt bán người”.
Trong con mắt của Mã Giám Sinh, nàng Kiều cùng với tài sắc của nàng
chỉ là một món hàng rồi đây sẽ sinh lợi cho hắn. Hắn đắn đo khi “cân sắc, cân
<i>tài”, hắn “ép”, hắn “thử” tài nghệ của nàng; nhấc lên, đặt xuống, xoay vần đủ</i>
kiểu hệt như người ta mua bán một món hàng. Khi đã hồn tồn vừa ý, bản chất
con bn của hắn vẫn còn lộ ra ở cái thái độ “tuỳ cơ dặt dìu” khi mặc cả. Bản
chất đó cịn được che đậy bằng những lời lẽ mĩ miều, sang trọng:
<i>“ Rằng mua ngọc đến Lam Kiều</i>
<i>Sính nghi xin dạy bao nhiêu cho tường?”</i>
Thì cuối cùng bộc lộ một cách trắng trợn và bỉ ổi nhất:
<i>“Cò kè bớt một, thêm hai</i>
<i>Giờ lâu ngã giá vàng ngồi bốn trăm”</i>
Với sự mặc cả “cị kè” ti tiện, bẩn thỉu này, màn kịch “lễ vấn danh” lộ rõ
thực chất là một cảnh “mua thịt bán người” một cách trắng trợn và Mã Giám
Sinh hiện nguyên hình là một tên con buôn ghê tởm và đê tiện nhất.
MGS hiện lên qua ngôn ngữ miêu tả trực diện của tác giả. Hình ảnh nhân
vật phản diện được miêu tả bằng nét bút hiện thực, hòan chỉnh cả diện mạo và
tính cách. Nhân vật MGS được khắc hoạ thật cụ thể, sinh động, đồng thời lại
mang ý nghĩa khái quát về một loại người giả dối, vô học, bất nhân.
Trong đoạn trích này, hình ảnh Th Kiều hiện ra với tất cả những buồn
khổ, xót xa, ê chề, tủi hổ. Là một cơ gái tài sắc vẹn tồn, đang sống trong cảnh
<i>“êm đềm trướng rủ, màn che, tường đong ong bướm đi về mặc ai”, lại đang</i>
ngây ngất trong hạnh phúc của mối tình đầu trong trắng thì thình lình tai hoạ ập
đến, Kiều trở thành một món hàng cho bọn “bn thịt, bán người” trao tay mua
bán, cị kè, mặc cả. Tâm hồn nhạy cảm của nàng đã cảm nhận sâu sắc cảnh ngộ
éo le, vừa hổ thẹn, vừa dơ dáy, vừa đau đớn, nhục nhã của mình:
<i>“ Nỗi mình thêm tức nỗi nhà</i>
<i>Thềm hoa một bước, lệ hoa mấy hàng!</i>
<i>Ngại ngùng dợn gió, e sương,</i>
<i>Ngừng hoa bỗng thẹn, trơng gương mặt dày”.</i>
Kiều vừa xót xa cho mối tình của mình (nỗi mình), vừa xót xa cho gia
đình (nỗi nhà), lệ rơi khôn cầm. Kiều ra với Mã Giám Sinh như cành hoa đem ra
trước sương gió, cho nên “ dợn gió, e sương”, vì sương gió làm cho hoa tàn, hoa
rụng. Và vì tự ví mình với hoa nên thẹn thùng khi nhìn thấy hoa, tự thấy khơng
được sự đau đớn, xót xa, tủi nhục, ê chề bởi nàng là người ln có ý thức về
nhân phẩm mà lại bị chà đạp lên nhân phẩm một cách nhục nhã. Kiều đau uất
trước cảnh đời ngang trái, đau khi nghĩ tới”nỗi mình” - tình duyên dang dở, uất
bởi “nỗi nhà” bị “vu oan giáng hoạ”, Bao trùm lên tâm trạng của Kiều là sự đau
đớn, tái tê “thềm hoa một bước, lệ hoa mấy hàng”!
Phải nói, trước sau, Nguyễn Du cũng đã miêu tả cảnh bán người như là
cảnh “cành hoa đem bán cho thuyền lái buôn”
<b>Đề 8 : Phân tích đoạn trích «Cảnh ngày xn »</b>
Trang thơ của Nguyễn Du đang mở rộng trước mắt chúng ta. Có phải
khơng, sau bức chân dung giai nhân là bức hoạ về cảnh sắc mùa xuân trong tiết
thanh minh và cảnh du xuân của trai tài gái sắc, của chị em Th Kiều ? Đoạn
thơ «Cảnh ngày xn» gồm có 18 câu, từ câu 39 đến câu 56 của Truyện Kiều
tiêu biểu cho bút pháp nghệ thuật tả cảnh và tả tình của thi hào Nguyễn Du. Một
vẻ đẹp thanh xuân, một niềm vui xôn xao, náo nức cứ dâng lên, cứ lan toả rồi
lắng dịu mãi trong lòng ta khi đọc đoạn thơ này.
Bốn câu thơ đầu mở ra một khơng gian hữu sắc, hữu hương, hữu tình, nên
thơ. Giữa bầu trời bao la mênh mông là những cánh én bay qua bay lại như <i>đưa</i>
<i>thoi. Cánh én mùa xuân thân mật biết bao. Hai chữ đưa thoi rất gợi hình, gợi</i>
cảm. Cánh én như con thoi vút qua, vút lại, chao liệng ; thời gian đang trôi
nhanh, mùa xuân đang trôi nhanh :
<i>Ngày xuân con én đưa thoi,</i>
<i>Thiều quang chín chục đã ngồi sáu mươi.</i>
<i>Cỏ non xanh tận chân trời,</i>
<i>Cành lê trắng điểm một vài bông hoa.</i>
Sau cánh én đưa thoi là ánh xuân, là thiều quang của mùa xn khi « chín
<i>chục đã ngồi sáu mươi», mùa xuân đã bước sang tháng ba. Hai chữ « thiều</i>
<i>quang» gợi lên cái màu hồng của ánh xuân, cái ấm áp của khí xn, cái mênh</i>
mơng bao la của đất trời.
Mùa xn cịn là sắc «xanh » mơn mởn, ngọt ngào của cỏ non trải dài,
trải rộng như tấm thảm «tận chân trời ». Là sắc « trắng » tinh khôi, thanh khiết
của hoa lê nở lác đác, chỉ mới hé lộ, khoe sắc, khoe hương « một vài bông
<i>hoa » :</i>
<i>Cỏ non xanh tận chân trời,</i>
<i>Cành lê trắng điểm một vài bông hoa.</i>
Vần cổ thi Trung Hoa được Tố Như vận dụng một cách sáng tạo :
<i>« Phương thảo liên thiên bích / Lê chi sổ điểm hoa ». Hai chữ «trắng điểm » là</i>
nhãn tự, cách chấm phá điểm xuyết của thi pháp cổ gợi lên vẻ đẹp thanh xuân
trinh trắng của thiên nhiên cỏ hoa ; bút pháp nghệ thuật phối sắc tài tình : trên
cái nền xanh của cỏ non là một vài bông hoa lê « trắng điểm ». Giữa diện và
điểm, giữa nền xanh và sắc trắng của cảnh vật mùa xuân là những cánh én đưa
<i>thoi, là màu hồng của ánh thiều quang, là khát vọng mùa xuân ngây ngất, say</i>
đắm lòng người.
Cảnh mùa xuân là bức tranh hoa lệ, là vần thơ tuyệt bút của Nguyễn Du
Tám câu thơ tiếp theo tả cảnh trẩy hội muà xuân :
<i> Thanh minh trong tiết tháng ba,</i>
<i>Lễ là tảo mộ, hội là đạp thanh.</i>
đang diễn ra khắp mọi miền quê đất nước. Trẻ trung và xinh đẹp, sang trọng và
phong lưu :
<i>Dập dìu tài tử giai nhân,</i>
<i>Ngựa xe như nước, áo quần như nêm.</i>
Trong đám tài tử giai nhân gần xa ấy, có ba chị em Kiều.
Thơ là nghệ thuật của ngôn từ. Các từ ghép : yến anh, chị em, tài tử, giai
<i>nhân, ngựa xe, áo quần (danh từ) ; gần xa, nô nức, sắm sửa, dập dìu (động từ,</i>
tính từ) được thi hào sử dụng chọn lọc, tinh tế, làm sống lại cái khơng khí lễ hội
mùa xn, một nét đẹp của nền văn hố lâu đời của phương đơng, của Trung
Hoa, của Việt Nam chúng ta, và nếp sống phong lưu của chị em Kiều.
<i>Ngổn ngang gị đống kéo lên,</i>
<i>Thoi vàng vó rắc, tro tiền giấy bay.</i>
Đời sống tâm linh, phong tục dân gian cổ truyền trong lễ tảo mộ được
Nguyễn Du nói đễn với nhiều thơng cảm, san sẻ. Cõi âm và cõi dương, người
đang sống và kẻ đã khuất, hiện tại và quá khứ đồng hiện trên những gò đống
<i>ngổn ngang trong lễ tảo mộ. Cái tâm thánh thiện, niềm tin phác thực dân gian</i>
đầy ắp nghĩa tình. Các tài tử giai nhân và ba chị em Kiều không chỉ nguyện cầu
cho những vong linh mà còn gửi gắm bao niềm tin, bao ao ước về tương lai
Sáu câu thơ cuối đoạn ghi lại cảnh chị em Kiều đi tảo mộ đang dần bước
trở về nhà. Mặt trời đã tà tà gác núi. Ngày hội, ngày vui đã trơi qua nhanh :
<i>Tà tà bóng ngả về tây,</i>
<i>Chị em thơ thẩn dan tay ra về.</i>
Hội tan sao chẳng buồn ? Ngày tàn sao chẳng buồn ? Nhịp thơ như chậm
rãi. Nhịp sống như ngừng trơi. Tâm tình thì thơ thẩn, cử chỉ thì dan tay, nhịp
chân thì bước dần. Một cái gì man mác, bâng khuâng : lần xem đối với cảnh vật.
Tất cả đều nhỏ bé. Khe suối chỉ là ngọn tiểu khê. Phong cảnh thanh thanh. Dịng
nước thì nao nao uốn quanh. Nhịp cầu thì nho nhỏ bắc ngang cuối ghềnh.Cả một
không gian êm đềm, vắng lặng. Tâm tình của chị em Kiều như dịu lại trong
bóng tà dương. Như đang chờ đợi một cái gì sẽ đến, sẽ nhìn thấy ? Cặp mắt cứ
<i>lần xem gần xa :</i>
<i>Bước dần theo ngọn tiểu khê,</i>
<i>Nhìn xem phong cảnh có bề thanh thanh.</i>
Các từ láy tượng hình : thanh thanh, nao nao, nho nhỏ gợi lên sự nhạt
nhoà của cảnh vật và sự rung động của tâm hồn giai nhân khi hội tan, ngày tàn.
Nỗi niềm man mác. bâng khuâng thấm sâu, lan toả trong tâm hồn giai nhân đa
tình, đa cảm.
Cảnh vật và thời gian được miêu tả bằng bút pháp ước lệ tượng trưng
nhưng rất sống động, gần gũi, thân quen với bất cứ người Việt Nam nào. Khơng
cịn xa lạ nữa, vì ngọn tiểu khê ấy, nhịp cầu nho nhỏ ấy là màu sắc đồng q, là
<b>Đề 9: </b><i>Phân tích nét nổi bật của tính cách nhân vật Lục Vân Tiên trong</i>
<i>đoạn trích “Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga” của Nguyễn Đình Chiểu.</i>
Nói đến Nguyễn Đình Chiểu khơng những là nói đến một nhà thơ yêu
nước tiêu biểu nhất của thời kỳ đất nước ta bị thực dân Pháp xâm lược cuối thế
kỷ XIX mà ơng cịn được nhân dân biết đến như một nhà thơ lớn, ca ngợi đạo lí
làm người, đề cao tiết hạnh của người phụ nữ, ca ngợi lòng trung hiếu và hành
động vị nghĩa của nam giới mà tác phẩm Lục Vân Tiên là một minh chứng hùng
hồn.
Lục Vân Tiên - nhân vật chính của tác phẩm, hơn ai hết đã biểu hiện rõ
nét lý tưởng của người anh hùng. Đặc biệt là đoạn trích “Lục Vân Tiên cứu Kiều
<i>Nguyệt Nga” đã để lại trong lịng người đọc một ấn tượng khó phai mờ về hình</i>
ảnh một trang nghĩa sỹ đánh cướp cứu người.
Lục Vân Tiên là một nhân vật lý tưởng, nhân vật đẹp nhất trong truyện
“Lục Vân Tiên” của Nguyễn Đình Chiểu. Chàng là con một gia đình thường dân
ở quận Đơng Thành, một người học trị khơi ngơ, có tài, có đức, văn võ song
tồn:
<i>“Có người ở quận Đơng Thành</i>
<i>Tu nhân tích đức sớm sinh con hiền.</i>
<i>Đặt tên là Lục Vân Tiên</i>
<i>Tuổi vừa hai tám nghề chuyên học hành”</i>
Nói theo nhà văn, nhà phê bình văn học Hồi Thanh: “Trong cuộc đấu
<i>tranh giữa cái thiện và cái ác trong một xã hội suy tàn, Nguyễn Đình Chiểu đã</i>
<i>đưa vào trận cả một đạo quân tưng bừng khí thế, kiên quyết vì chính nghĩa mà</i>
<i>chiến đấu và chiến thắng thì thủ lĩnh đạo qn đó phải là Lục Vân Tiên chớ</i>
<i>khơng phải là một ai khác”.</i>
Chính Lục Vân Tiên tiêu biểu cho lý tưởng sống, đạo đức cao đẹp của
nhân dân ta lúc bấy giờ. Chàng là người học rộng, tài cao, văn võ kiêm tồn lại
ln sẵn sàng ra tay cứu giúp người khác khi hoạn nạn. Vừa từ tạ tôn sư xuống
núi, định về kinh ứng thi, trên đường đi, chợt thấy một đám người khóc than bỏ
chạy, chàng liền hỏi chuyện mới hay có một bọn cướp dữ vừa phá làng xóm và
bắt đi hai cơ gái. Lục Vân Tiên khơng chịu nổi cản bất bình, nổi giận:
<i>Vân Tiên nổi giận lơi đình</i>
<i>Hỏi thăm lũ nó cịn đình nơi nao.</i>
<i>Tôi xin ra sức anh hào</i>
<i>Cứu người cho khỏi lao đao buổi này.</i>
Thấy người mắc nạn, Lục Vân tiên liền ra tay:
<i>Vân Tiên ghé lại bên đàng</i>
<i>Bẻ cây làm gậy nhằm làng xông vô.</i>
mãnh, bất chấp bọn cướp bao vây tứ phía. Lục Vân Tiên đã dũng cảm “tả đột,
<i>hữu xông”, “khác nào Triệu Tử mở vòng Đương Dang”. Ngay từ phần mở đầu</i>
truyện thơ, Nguyễn Đình Chiểu đã giới thiệu Vân Tiên là người “văn đà khởi
<i>phụng đằng giao - võ thêm tam lược lục thao ai bì”. Thì lúc này, chính là cơ hội</i>
để chàng thi thố tài năng võ nghệ của mình. hình ảnh Vân Tiên tung hoành với
chiệc gậy trong tay, tạo một ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc của mọi thế
<i>Lâu la bốn phía vỡ tan</i>
<i>Đều quăng ươm giáo tìm đàng chạy ngay.</i>
Bọn lâu la phải quăng cả vũ khí để chạy tháo thân, cịn tên đầu đảng thì:
<i>Phong Lai trở chẳng kịp tay</i>
<i>Bị Tiên một gậy thác rày thân vong.</i>
Thế là chỉ một mình, Vân Tiên đã tài giỏi dẹp xong lũ cướp. Nhưng điều
đáng quý hơn cả của chàng nghĩa sỹ là thái độ vơ tư. Làm xong việc nghĩa,
chàng đã khơng coi đó là công ơn và từ chối việc đền ơn. Kiều Nguyệt Nga thì
thốt nạn, cảm tạ chàng và xin được đền ơn:
<i> Hà Khê qua đó cũng gần</i>
<i>Xin theo cùng thiếp đền ơn cho chàng.</i>
<i>Gặp đây đang lúc giữa đàng</i>
<i>Của tiền khơng có, bạc vàng cũng khơng.</i>
<i>Tưởng câu báo đức thù cơng</i>
<i>Lấy chi cho phỉ tấm lịng cùng ngươi!</i>
Nhưng Vân Tiên đã khẳng khái từ chối mọi sự đền đáp:
<i>Vân Tiên nghe nói liền cười</i>
<i>Làm ơn há dễ trơng người trả ơn.</i>
Nụ cười của trang nghĩa sỹ này mới đẹp làm sao! Trong nụ cười ấy như
hàm chứa cả sự thông cảm lẫn sự bao dung.
Vân Tiên đã làm việc nghĩa một cách vơ điều kiện và coi đó là lẽ tự
nhiên: ở đời là phải thế, không thể nào khác được. Vân Tiên cứu người mắc nạn
là vì nghĩa, đó cùng chính là lý tưởng mà chàng ơm ấp và thực hiện:
<i>Nhớ câu kiến ngãi bất vi</i>
<i>Làm người thế ấy cũng phi anh hùng.</i>
Tóm lại, Lục Vân Tiên là mẫu người hào hiệp, sẵn mạng trong mình
truyền thống trọng nghĩa khinh tài của dân tộc ta. Phẩm chất cao đẹp ấy đáng
được người đời sau truyền tụng, học tập và phát huy. Lục Vân Tiên cho chúng ta
một bài học lớn về tinh thần nghĩa hiệp, không thể làm ngơ trước tai hoạ và đau
khổ của người khác. Trong xã hội ngày nay, mẫu người như thế không phải là
khơng có. Đọc báo, nghe đài , đọc sách chúng ta vẫn gặp họ đâu đó ở chỗ này,
chỗ khác. Họ xứng đáng được xã hội biểu dương.
Gấp trang sách lại, hình ảnh hào hùng của chàng nghĩa sỹ sẵn sàng ra tay
<i>“trừ thói hồ đồ hại dân” vẫn cứ hiện rõ. Trong lời thơ mộc mạc của nhà thơ vẫn</i>
âm vang mãi một tấm gương sáng về tinh thần thượng võ. Ngày nay, đâu phải
việc “cứu khốn, phò nguy” là khơng cần thiết nữa, do đó, Lục Vân Tiên vẫn góp
phần giúp cho chúng ta sống đẹp hơn và xứng đáng hơn với lời tâm niệm:
<i>“Nhớ câu kiến ngãi bất vi</i>
<i>Làm người thế ấy cũng phi anh hùng”.</i>
Đoạn này trích ở phần giữa truyện thơ " Lục Vân Tiên " . Nghe tin mẹ
Ơng Ngư và Trịnh Hâm - Sự đối nghịch giữa cái thiện và cái ác. Tám câu
đầu là hành động tội ác tàn bạo thể hiện tâm địa độc ác của Trịnh Hâm đối với
bạn mình là Lục Vân Tiên. Đoạn sau miêu tả việc làm nhân đức của Ngư ơng
cùng gia đình đã vớt Lục Vân Tiên và chạy chữa cho chàng đồng thời miêu tả
cuộc sống lao động trong sạch và nhân cách cao cả đáng kính của ơng Ngư.
Hành động tội ác của Trịnh Hâm thể hiện rõ qua tám câu đầu: ...Chỉ trong
tám câu thơ tác giả đã nêu ra tâm địa độc ác của Trịnh Hâm. Trước cảnh mù loà
của Lục Vân Tiên, hắn đã khơng hề có một chút thương cảm. Từng là bạn bè với
nhau khi cùng đến trướng thi. Giờ gặp lại bạn trong lúc khó khăn, bệnh hoạn lại
hết lịng tin cậy : “Tình trước ngãi sau. Có thương xin khá giúp nhau phen này”
và chính miệng hắn cũng đã khăng khăng : “ Đương cơn hoạn nạn gặp nhau.
Người lành nỡ bỏ người đau sao đành” . Vậy nhưng hắn lại làm ngược lại. Một
kẻ bất nhân bất nghĩa. Hắn đã lừa tiểu đồng vào rừng sâu và trói vào gốc cây bỏ
cho thú dữ ăn thịt. Hơn thế nữa,, Trịnh Hâm là một kẻ xảo trá. Hành động tội ác
của hắn không phải là vơ tình mà là một âm mưu khá tinh vi đã được hắn hoạch
định trước: Đưa Vân Tiên xuống thuyền với lời hứa sẽ đưa về tận nhà, đợi khi
tối trời đẩy Vân Tiên xuống sông cho nước cuốn trôi rồi lại giả tiếng kêu trời
nhằm lừa mọi người hòng che giấu tội ác của mình. Trịnh Hâm là mẫu người
tiêu biểu cho cái xấu, cái ác của xã hội lúc đó.
Động cơ thủ ác của hắn là gì ? Chẳng quen biết, thù hằn gì, chỉ gắp nhau
trên đường đi thi, trong lần uống rượu làm thơ trong quán nhưng chỉ vì thấy Vân
Tiên đức cao tài giỏi đã sinh lòng đố kỵ, ganh ghét :
<i>Kiệm, Hâm là đứa so đo,</i>
<i>Thấy Tiên dường ấy âu lo trong lòng.</i>
<i>Khoa này Tiên ắt đấu cơng,</i>
<i>Hâm dầu có đậu cũng khơng xong rồi.</i>
Chỉ vì dục vọng thấp hèn mà hắn trở nên tàn bạo như thế. Nhưng cái ác
hiện hình đó khơng hề làm mất lịng tin nơi con người của nhà thơ. Bằng chứng
là phần chủ yếu của đoạn trích tác giả đã miêu tả và ca ngợi tấm lịng nhân hậu
và cao thượng đầy chân tình của ơng Ngư khi cứu vớt và tận tình chăm sóc Vân
Tiên.
Hình ảnh ơng Ngư được nói đến trong đoạn trích là đại diện cho cái
Thiện. Hình ảnh miêu tả cho thấy gia đình ơng Ngư thật đẹp, đẹp từ quan niệm
sống đến việc làm nhân đức. Thấy người bị nạn ông đã lập tức cứu giúp và cả
nhà ơng cùng tận tình cứu sống người bị nạn dù khơng hề biết họ là ai:
<i>Ơng chài xem thấy vớt ngay lên bờ.</i>
<i>Hối con vầy lửa một giờ,</i>
<i>Ông hơ bụng dạ, mụ hơ mặt mày.</i>
Cứu sống Vân Tiên, ơng cịn lưu giữ chàng ở lại gia đình mình. Dù gia
cảnh ơng rất nghèo nhưng ơng sẵn lịng đùm bọc kẻ tật nguyền khơng chốn dựa
nương. Ơng Ngư đã khơng hề tính tốn đến cái ơn cứu mạng mà Vân Tiên
khơng lấy gì báo đáp:
<i>Ngư rằng : Lòng lão chẳng mơ,</i>
<i>Dốc lòng nhân nghĩa, há chờ trả ơn.</i>
Lời nói ý nghĩa này của ông làm ta nhớ lại lời của Vân Tiên khi cứu
Nguyệt Nga “làm ơn há dễ trông người trả ơn”.
Không chỉ việc làm, quan niệm sống và cả phong cách sống của ông Ngư
cũng rất đẹp : Nghèo mà trong sạch, khơng màng danh lợi. Ơng sống ung dung
tự do tự tại, kiếm sống bằng chính sức lao động của mình : “Khoẻ quơ chài kéo,
mệt quăng câu dầm” . Quả là một cuộc sống rất mực thanh cao, vui cùng bầu
trời, vui cùng gió trăng sơng nước: “ Một bầu trời đất vui thầm ai hay”, “Ngày
kia hứng gió, đêm này chơi trăng”.
Rất đẹp cả từ hành động đến quan niệm sống. Ơng Ngư là hình ảnh tiêu
biểu của người dân lao động, cho đạo đức cao đẹp và trong sáng của nhân dân.
<b>Đề 11: Phân tích bài thơ “Đồng chí” của chính Hữu (Ngữ văn 9 -Tập 1).</b>
Bài thơ “Đồng chí” ra đời vào đầu năm 1948, sau chiến dịch Việt Bắc
của quân và dân ta đánh thắng cuộc tiến công quy mô lớn của thực dân Pháp
cuối năm 1947 lên khu căn cứ địa Việt Bắc. Nhà thơ Chính Hữu lúc đó là chính
trị viên đại đội thuộc trung đồn Thủ đơ, cùng đơn vị của mình tham gia chiến
đấu suốt chiến dịch. Đầu năm 1948 Chính Hữu viết bài thơ này. Bài thơ là kết
quả của những trải nghiệm thực và những cảm xúc sâu xa của tác giả với đồng
đội trong chiến dịch Việt Bắc. Bài thơ nói về tình đồng đội, đồng chí thắm thiết,
<i>sâu nặng của những người lính cách mạng mà phần lớn họ xuất thân từ nơng</i>
<i>dân. Đồng thời bài thơ cũng thể hện lên hình ảnh chân thực, giản dị mà cao đẹp</i>
<i>của anh bộ đội trong thời kì đầu của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp</i>
<i>cịn rất khó khăn thiếu thốn.</i>
Bài thơ “Đồng chí” viết theo thể thơ tự do, với hai mươi dòng thơ, chia
làm ba đoạn. Cả bài thơ đều tập trung vào thể hiện chủ đề về tình “Đồng chí”.
Cái bắt gặp đầu tiên của những người lính là từ những ngày đầu gặp mặt.
<i> “Súng bên súng, đầu sát bên đầu”. </i>
<i>“Súng - đầu” sát bên nhau là tượng trưng cho ý chí và tình cảm, cùng</i>
chung lí tưởng, nhiệm vụ chiến đấu, sát cánh bên nhau. Tình đồng chí, đồng đội
nảy nở và hình thành bền chặt trong sự chan hoà và chia sẻ mọi gian lao cũng
như niềm vui. Đó là mối tình tri kỉ của những người bạn chí cốt mà tác giả đã
biểu hiện bằng một hình ảnh cụ thể, giản dị mà hết sức gợi cảm: “Đêm rét
<i>chung chăn thành đôi tri kỉ”. Sau câu thơ này, nhà thơ hạ một câu, một dịng</i>
thơ, hai tiếng “Đồng chí” vang lên như một “nốt nhấn”, là sự kết tinh của mọi
cảm xúc, mọi tình cảm. Câu thơ “Đồng chí” vang lên như một phát hiện, một
lời khẳng định, đồng thời lại như một cái bản lề gắn kết đoạn đầu với đoạn thứ
hai của bài thơ. Dòng thơ hai tiếng “Đồng chí” như khép lại, như lắng sâu vào
lịng người cái tình ý sáu câu thơ đầu của bài thơ, như một sự lí giải về cơ sở của
tình đồng chí. Sáu câu thơ trước hai tiếng <i> “đồng chí” ấy là cội nguồn và sự</i>
<i>hình thành của tình đồng chí keo sơn giữa những người đồng đội.</i>
Mạch cảm xúc và suy nghĩ trong bài thơ được triển khai trong đoạn thơ
<i>thứ hai là những biểu hiện cụ thể của tình đồng chí và sức mạnh của tình đồng</i>
<i>chí. Sự biểu hiện của tình đồng chí và sức mạnh của nó được tác giả gợi bằng</i>
hình ảnh ở những câu thơ tiếp:
<i>“ Ruộng nương anh gửi bạn thân cày</i>
<i>Gian nhà khơng mặc kệ gió lung lay</i>
<i>Giếng nước, gốc đa nhớ người ra lính”</i>
mỗi người có một tâm tư, một nỗi lịng về hồn cảnh gia đình, người thân, cơng
việc đồng q. Họ gửi lại tất cả cho hậu phương, gửi bạn thân cày cấy ruộng
nương của mình. Họ nhớ lại những gian nhà trống khơng “mặc kệ gió lung lay”.
Nhưng đành để lại, đành gửi lại, họ phải ra đi vì nghĩa lớn “cứu nước, cứu
<i>nhà.”</i>
Giờ ở tiền tuyến, họ nhớ về hậu phương với một tình cảm lưu luyến khó
qn. Hậu phương, tiền tuyến (người ở lại nơi giếng nước, gốc đa) khơng ngi
nhớ thương người thân của mình là những người lính nơi tiền tuyến. Tuy dứt
khốt, mạnh mẽ ra đi nhưng những người lính khơng chút vơ tình. Trong chiến
đấu gian khổ, hay trên đường hành quân họ đều nhớ đến hậu phương- những
người thân yêu nhất của mình:
<i>“ Ôi! Những đêm dài hành quân nung nấu</i>
<i>Bỗng bồi hồi nhớ mắt người u”</i>
<i>(Nguyễn Đình Thi)</i>
<i>“Đồng chí”-đó là cùng chia sẻ những gian lao, thiếu thốn của cuộc đời</i>
người lính với những hình ảnh chân thực, xúc động, gợi tả và gợi hình (từng cơn
<i>ốm lạnh sốt run người, vầng trán ướt mồ hôi,áo rách vai, quần vài mãnh vá,</i>
<i>miệng cười buốt giá, chân không giày) những ngày tháng ở rừng.</i>
Để diển tả được sự gắn bó, chia sẻ, sự giống nhau về cảnh ngộ người lính
tác giả đã xây dựng những câu thơ sóng đơi, đối ứng với nhau trong từng cặp,
từng câu:
<i>“ Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh</i>
<i>Sốt run người vừng trán ướt mồ hôi”</i>
<i>...</i>
<i>Miệng cười buốt giá</i>
<i>Chân không giày”</i>
Sức mạnh nào đã giúp họ vượt qua tất cả?
Hình ảnh “thương nhau tay nắm lấy bàn tay” biểu hiện thật giản dị và
xúc động của tình cảm đồng chí, đồng đội thiêng liêng của những người lính.
Tình cảm đó là nguồn sức mạnh và niềm vui để họ vượt qua. Cái “bắt tay”(như
bàn tay biết nói) chính là tình cảm của người lính truyền cho nhau sức mạnh và
niềm tin để họ vượt qua tất cả những gian lao, thiếu thốn, thử thách trong chiến
đấu.
Tình đồng chí, đồng đội cịn biểu hiện ở sự thử thách. Đoạn thơ cuối thật
cơ đọng bằng hình ảnh khi nhà thơ viết:
<i>Đêm nay rừng hoang sương muối</i>
<i>Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới</i>
<i>Đầu súng trăng treo”.</i>
Đây là một bức tranh đẹp của tình đồng chí, đồng đội- một bức tranh đặc
sắc và có ý nghĩa.
Bức tranh trên là mội cảnh thực trong mội đêm phục kích “chờ giặc tới”
tại một cảnh “rừng hoang sương muối” hoang vắng lạnh lẽo nổi bật lên ba hình
ảnh gắn kết với nhau “vầng trăng, khẩu súng và người lính” vầng trăng như treo
trên khẩu súng của người lính. Người lính thì “đứng cạnh bên nhau chờ giặc
<i>tới”.</i>
thơ nói lên ý nghĩa cao đẹp của cuộc chiến đấu bảo vệ Tổ quốc của anh bộ đội
cụ Hồ trong những năm đầu khánh chiến chống Pháp.
Bài thơ có ba khổ, ba tứ thơ, chủ yếu tạo thành ý chung xuyên suốt tồn
bài thơ “Đồng chí”.“Đồng chí -thương nhau nắm lấy bàn tay - đầu súng trăng
<i>treo”</i>
<b>Đề 12: Phân tích bài thơ “Bài thơ về tiểu đội xe khơng kính”của Phạm </b>
<i>Tiến Duật</i>
Phạm Tiến Duật là nhà thơ trẻ và lớn lên “trong sắc áo của anh bộ đội
<i>Trường Sơn” giữa những ngày ác liệt nhất của cuộc chiến tranh nhân dân chống</i>
Mỹ.
Tiếng thơ Phạm Tiến Duật hình thành và lớn lên với những bài thơ
<i>“Trường Sơn đông-Trường Sơn tây, Lửa đèn, Gửi em cô thanh niên xung</i>
<i>phong, Nhớ....” đã góp phần trẻ hố thơ Việt Nam thời chống Mỹ. Bài thơ “Bài</i>
<i>thơ về tiểu đội xe khơng kính” được rút ra trong tập thơ “Vầng trăng-quầng</i>
<i>lửa” của tác giả. Trong bài thơ tác giả đã xây dựng một hình tượng độc đáo</i>
“những chiếc xe khơng kính” chắn gió vẫn băng băng trên đường ra trận vì chiến
trường miền Nam ruột thịt.
Bài thơ cú một nhan đề khỏ dài, tưởng như cú chỗ thừa, nhưng chớnh nhan
đề ấy lại thu hỳt người đọc ở cỏi vẻ lạ, độc đỏo của nú. Nhan đề bài thơ đã làm
nổi bật rõ hình ảnh của tồn bài: những chiếc xe khơng kính. Hình ảnh này là
một phát hiện thú vị của tác giả, thể hiện sự gắn bó và am hiểu hiện thực đời
sống chiến tranh trên tuyến đờng Trờng Sơn. Nhng vì sao tác giả cịn thêm vào
nhan đề hai chữ “bài thơ”? Hai chữ đó cho thấy rõ hơn cách nhìn, cách khai thác
hiện thực của tác giả: không phải chỉ viết về những chiếc xe khơng kính, hay là
Trong bài thơ nổi bật lên một hình ảnh độc đáo: những chiếc xe khơng
kính vẫn băng ra chiến trờng. Xa nay, những hình ảnh xe cộ, t u thuyền nếu đà a
vào thơ thì thờng đựơc mĩ lệ hố, lãng mạn hoá đi rồi và thờng mang ý nghĩa
t-ợng trng hơn tả thực. Nay chiếc xe khơng kính của Phạm Tiến Duật là hình ảnh
thực, thực đến trần trụi. Tác giả giải thích nguyên nhân cũng rất thực: “Bom giật,
<i>bom rung kính vỡ đi rồi”. Cái hình ảnh thực này đựơc diễn tả bằng hai câu thơ</i>
rất gần vói văn xi, lại có giọng thản nhiên(“Khơng có kính khơng phải vì xe
<i>khơng có kính-Bom giật, bom rung kính vỡ đi rồi”) càng gây ra sự chú ý về vẻ</i>
khác lạ của nó. Bom đạn chiến tranh cịn làm những chiếc xe ấy biến dạng thêm,
trần trụi hơn nữa:
<i>Khơng có kính rồi xe khơng có đèn</i>
<i>Khơng có mui xe, thùng xe có xớc.</i>
Hình ảnh chiếc xe khơng hiếm trong chiến tranh, nhng phải có hồn thơ
nhạy cảm với nét ngang tàng, tinh nghịch, thích cái lạ nh Phạm Tiến Duật mới
nhận ra đợc và đa nó vào thành hình tợng thơ độc đáo thời chiến tranh chống Mĩ.
Chỉ một chi tiết nhỏ, tác giả đã làm cho người đọc hiểu được sự ác liệt,
tàn bạo của cuộc chiến tranh do đế quốc Mỹ gây ra. Những chiếc xe này đã làm
nổi bật hình ảnh những người lính lái xe trên tuyến đường Trường Sơn trong
những năm chống Mỹ cứu nước.
Thế mà, những người lính trên những chiếc “xe khơng kính” vẫn mét t
thÕ ung dung, hiªn ngang:
<i>Ung dung buồng lái ta ngồi </i>
<i>Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng!</i>
Khung kính đã bị vỡ, khơng có gì để chắn gió trời ùa vào, đập thẳng vào
mắt. Thế mà, tác giả lại viết:
<i>Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng</i>
<i>Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim.</i>
trận trở nên gần sát hơn đang chạy ngược lại. Vì khơng có kính chắn, nên người
lái xe có cảm giác và ấn tượng “Con đường chạy thẳng vào tim”. Con đường
thực trước mặt đó cịng chính là con đường được nhà thơ nâng lên thành con
đường lý tưởng con đường cách mạng..., con đường ở trong trái tim của người
chiến sĩ. Chính là con đường đó đã giúp cho các chiến sĩ lái xe thêm sức mạnh,
niềm tin, bất chấp bom đạn của kẻ thù, tiến lên phía trước:
<i>Thấy sao trời và đột ngột cánh chim</i>
<i>Như sa như ùa vào buồng lái</i>
Người lái xe vẫn vui với “ sao trời” và “cánh chim”, “ sao trời và cánh
<i>chim” ngày đêm như bầu bạn với người lính lái xe. Ngày cũng như đêm, thiên</i>
nhiên, đất trời luôn sát cánh với người chiến sĩ lái xe trên suốt chặng đường dài
ra trận. Với nghệ thuật nhân hoá tài tình, nhà thơ đã biến những khó khăn trở
ngại khi lái những chiếc xe khơng kính trở thành gần gũi, gắn bó thân thương
hơn.
Thái ®ộ và “cái nhìn” của anh lái xe như bất chấp, coi thường tất cả nguy
him phớa trc. Mặc dự:
<i>Không có kính ừ thì có bụi</i>
<i>Bụi phun tóc trắng nh ngời già</i>
Hoặc là:
<i>Không có kính ừ thì ớt áo</i>
<i>Ma tuôn, ma xối nh ngoài trêi</i>
c¸c anh vÉn“nhìn nhau mặt lấm cười ha ha” hoặc tếu táo “phì phèo châm
<i>điếu thuốc” hay “bắt tay qua cửa kính vỡ rồi.”</i>
Hình ảnh trong các câu thơ trên đã làm nổi rõ cái hiên ngang, dũng cảm,
bất chấp mọi nguy hiểm của các chiến sĩ lái xe, để lái những chiếc xe khơng
kính ra mặt trận với một niềm tin, niềm vui của tuổi trẻ.
Giọng điệu thơ có khi thật ngang tàng, tự nhiên, bất chấp gian khổ được
thể hiện rõ trong cấu trúc được lặp lại “ Ừ thì...”, “Chưa cần rửa”, “Chưa cần
<i>thay” ..., “Lái trăm cây số nữa...”. Dường như gian khổ nguy hiểm, ác liệt của</i>
chiến tranh không làm ảnh hưởng đến tinh thần của họ, trái lại, những người lính
lái xe xem như là một dịp để rèn thử thách sức mạnh và ý chí của mình “ chí
<i>làm trai” - tuổi trẻ người lính”. </i>
Những người lái xe cịn là những chàng trai trẻ, sơi nổi, vui nhộn, lạc
quan. Họ “nhìn nhau”, “bắt tay nhau”, và trên đường ra trận thì :
<i> Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời</i>
<i>Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy</i>
<i>Võng mắc chơng chênh đường xe chạy</i>
<i>Lại đi, lại đi, trời xanh thêm.</i>
Trước mắt họ những chiếc xe lại tiến lê phía trước, là ta cứ đi, lại đi “trời
Cái gì đã làm nên sức mạnh ở họ để coi thường gian khổ bất chấp gian
nan như vậy? Đó chính là ý chí chiến đấu để giải phóng miền Nam, là tình u
nước nồng nhiệt ở tuổi trẻ thời đánh Mỹ cứu nước.
<b>Đề 13: Cảm nhận của em về chân dung người lính lái xe trong “ Bài thơ</b>
<i>tiểu đội xe khơng kính” của Phạm Tiến Duật </i>
Phạm Tiến Duật là nhà thơ nổi lên từ phong trào chống Mỹ cứu nước.
Năm 1964, tốt nghiệp khoa Văn trường Đại học Sư phạm Hà Nội, ông vào bộ
đội và xung phong vào tuyến lửa khu Bốn.
Từng là lính lái xe nên ơng có những bài thơ viết rất hay về binh chủng
này. “ Tiểu đội xe khơng kính” là một bài thơ tiêu biểu.
Bài thơ là khúc hát ca ngợi những người lính lái xe đã đã vượt lên hiện
thực dữ dội, ác liệt của khói lửa chiến tranh thời chống Mỹ để hoàn thành nhiệm
vụ.
Bài thơ đã xây dựng một hình tượng độc đáo đó là những chiếc xe, nói
cho đúng là cả một tiểu đội xe khơng có kính chắn gió, chắn bụi băng băng ra
trận. Mà độc đáo thật, vì chỉ gặp ở Việt Nam, ở những chiến sĩ lái xe quân sự
thời chống Mỹ. Có thể nói “chất” độc đáo này được lên men từ chiến trường ác
liệt:
<i>“Khơng có kính khơng phải vì xe khơng có kính</i>
<i>Bom giật, bom rung kính vỡ đi rồi”</i>
Nguyên nhân xe khơng kính là vậy. Đấy là mội hiện thực trần trụi mà tác
Bên cạnh hiện thực trần trụi đấy là hình ảnh người lính lái xe hiện lên rất
đẹp. Cứ tưởng với hiện thực dữ dội, ác liệt, trớ trêu ấy, người lính lái xe phải bó
tay, thế nhưng vẫn nổi lên với tư thế:
<i>“Ung dung buồng lái ta ngồi</i>
<i>Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng.”</i>
Nghĩa là xe cứ đi. Khơng những ung dung mà người lính lái xe còn tỏ ra
rất chủ động, hiên ngang vượt lên tất cả.
Nói đến người lái xe là nói đến con mắt, nói đến cái nhìn. Tơ đậm cái nhìn
của người lái xe, chỉ trong một dòng thơ, tác giả đã sử dụng 3 lần từ “nhìn”
(điệp từ). Nhìn trời là để phát hiện máy bay hay pháo sáng về ban đêm. Nhìn
thẳng là cái nhìn nghề nghiệp, hiên ngang. Và cũng từ ca - bin khơng kính, qua
cái nhìn đã tạo nên những ấn tượng, cảm giác rất sinh động, cụ thể đối với
người lái xe:
<i>“Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng</i>
<i>Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim</i>
<i>Thấy sao trời và đột ngột cánh chim </i>
<i>Như sa, như ùa vào buồng lái”</i>
Những cảm giác này, dù mang ý nghĩa tả thực hay tượng trưng, đều thể
hiện cái thế ung dung, tinh thần vượt lên của người lái xe.
Hai khổ thơ tiếp, hình ảnh người lái xe được tô đậm. Cái tài của Phạm
Tiến Duật trong khổ thơ này là cứ hai câu đầu nói về hiện thực nghiệt ngã phải
Xe khơng kính nên “bụi phun tóc trắng như người già” là lẽ đương nhiên,
xe khơng có kính nên “ướt áo, mưa tn, mưa xối như ngồi trời” là lẽ tất
nhiên.
Chính vì thế:
<i>“Chưa cần lửa, phì phèo châm điếu thuốc</i>
<i>Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha”</i>
Và cao hơn:
"Chưa cần thay lái trăm cây số nữa
<i>Mưa ngừng, gió lùa khơ mau thơi.”</i>
Đây là những câu thơ đậm chất người lính, nói rất đúng tinh thần và cuộc
sống của người lính. Các động tác “phì phèo châm điếu thuốc” tuy có vụng về
nhưng sao đáng yêu thế! Cái cười “ha ha” nở ra trên khuôn mặt lấm lem của
mọi người sao mà rạng ngời đến thế! Bởi vậy, đọc những câu thơ này giúp ta
hiểu được phần nào cuộc sống của người lính ngồi chiến trường những năm
tháng đánh Mỹ. Đó là cuộc sống gian khổ trong bom đạn ác liệt nhưng tràn đầy
tinh thần lạc quan, yêu đời và tinh thần hoàn thành nhiệm vụ cao.
Hai khổ thơ tiếp nói về cảnh sinh hoạt và sự họp mặt sau những chuyến
vận tải trên những chặng “đường đi tới”. Vẫn những câu thơ có giọng điệu
riêng, đậm chất văn xuôi rất riêng của Phạm Tiến Duật đã thể hiện được tình
đồng chí, đồng đội trong kháng chiến. Ở hai khổ thơ này, tác giả vẫn tô đậm cái
hình tượng thơ “xe khơng kính”, nhưng lại có cách nói khác rất lính:
<i>“Gặp bạn bè suốt dọc đường đi tới</i>
<i>Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi”</i>
Khổ thơ cuối cùng, kết thúc bài thơ, tác giả muốn nói với chúng ta một
điều như một điều dự báo: đâu chỉ là tiểu đội xe khơng kính mà tương lai cịn là
tiểu đội xe không đèn, không mui xe, ... Hiện thực của cuộc chiến tranh diễn ra
còn hết sức ác liệt, người lính lái xe cịn phải đối mặt với bao nhiêu nghiệt ngã,
thử thách:Khơng có kính rồi xe khơng đèn, khơng có mui, thùng xe có xước
nhưng nhất định họ sẽ hoàn thành nhiệm vụ, sẽ chiến thắng bởi vì phía trước họ
là miền Nam thân u và vì họ sẵn có một nhiệt tình cách mạng, một trái tim
quả cảm - trái tim người lính Cụ Hồ.
<i> “ Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước</i>
<i>Chỉ cần trong xe có một trái tim”</i>
<b>Đề 14: Phân tích bài thơ ” Đồn thuyền đánh cá”của Huy Cận</b>
Bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” là bài thơ được Huy Cận sáng tác vào
năm 1958, nhân một chuyến đi thực tế ở vùng mỏ Hồng Gia - Cẩn Phả - Quảng
<i>Ninh. Thông qua một đêm đánh cá của một đồn thyền trên biển, nhà thơ ca</i>
ngợi khơng khí lao động mới, tràn đầy niềm lạc quan, làm chủ thiên nhiên, biển
cả bao la.
Bài thơ đã dựng được khơng khí lao động khẩn trương, hăng say, nhộn
nhịp của miền Bắc những năm đầu bắt tay xây dựng chủ ngha xó hi.
Hai khổ đầu núi v cnh on thuyn ra khơi đánh cá. Cảnh biển vô cùng
tráng lệ lúc hồng hơn. Mặt trời được ví von như hịn than đỏ rực “hòn lửa” từ
từ lặn xuống biển. Bầu trời và mặt biển bao la như ngôi nhà vũ trụ trong khoảnh
<i>Mặt trời xuống biển như hịn lửa</i>
<i>Sóng đã cài then đêm sập cửa</i>
Ngày đã chuyển sang đêm. Vừa lúc đó, đồn thuyền ra khơi:
<i>Đồn thuyền đánh cá lại ra khơi,</i>
<i>Câu hát căng buồm cùng gió khơi</i>
Khơng phải từng chiếc thuyền lẻ tẻ đi biển mà là cả một đoàn thuyền, một
sức mạnh mới của một cuộc đời đổi thay. Chữ lại trong ý thơ lại ra khơi là sự
khẳng định nhịp điệu lao động của dân chài đã ổn định, đi vào nền nếp trong hồ
bình. Khúc hát lên đường vang động. Gió biển thổi mạnh. Cánh buồm no gió
căng lên. Tiếng hát, gió khơi, buồm căng là ba chi tiết nghệ thuật mang tính
tượng trưng diễn tả tinh thần phấn khởi, hăng say và khí thế ra khơi của ngư dân
vùng biển.
Bốn câu thơ tiếp theo nói rõ về câu hát để làm nổi bật một nét tâm hồn
của người dân chài. Tiếng hát cầu mong đi biển gặp nhiều may mắn:
<i>Hát rằng cá bạc biển Đơng lặng</i>
<i>Cá thu biển Đơng như đồn thoi</i>
<i>Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng</i>
<i>Đến dệt lưới ta đồn cá ơi!</i>
Chuyện làm ăn có nhiều may rủi. Ra khơi đánh cá, họ cầu mong biển
lặng, sóng êm, gặp luồng cá đánh bắt được nhiều. Niềm mong ước ấy phản ánh
Bốn khổ thơ tiếp nói về cảnh đánh cá một đêm trăng trên vịnh Hạ Long.
Mỗi khổ thơ là một nét vẽ về biển trời, sóng nước, trăng sao, trong đó con người
hiện lên trong dáng vẻ khoẻ mạnh, trẻ trung và yêu đời.
Hạ Long là một thắng cảnh bậc nhất ở nước ta. Hạ Long một đêm trăng
mang vẻ đẹp thần tiên. Huy Cận với bút pháp lãng mạn tả cảnh đánh cá trên Hạ
Long một đêm trăng bằng bao hình ảnh tuyệt vời.
đánh. Mỗi thuỷ thủ là một chiến sĩ. Con thuyền, mái chèo, lưới, ngư cụ khác đều
trở thành vũ khí của họ. Chữ lướt đặc tả đoàn thuyền ra khơi với vận tốc phi
thường; thiên nhiên cùng góp sức với con người trên con đường lao động và
khám phá. Nhịp thơ hối hả lơi cuốn:
<i>Thuyền ta lái gió với buồm trăng</i>
<i>Lướt giữa mây cao với biển bằng</i>
<i>Ra đậu dặm xa dò bụng biển</i>
<i>Dàn đna thế trận lưới vây giăng.</i>
Nhũng câu thơ tả đàn cá là đặc sắc nhất. Biển quê ta giàu có với nhiều
loại cá quý, cá ngon nổi tiếng như tục ngữ đã nói : chim, thu, nhụ, đé. Vận dụng
sáng tạo cách nói của dân gian, ở phần trên, nhà thơ đã viết: Cá thu biển Đơng
<i>như đồn thoi, ở đây lại miêu tả: Cá nhụ, cá chim cùng cá đé. Con cá song là</i>
một nét vẽ tài hoa. Vảy cá đen, hồng, lấp lánh trên biển nước lân tinh chan hồ
ánh trăng vàng ch. Cái đi cá quẫy được so sánh với ngọn đuốc rực cháy.
Nghệ thuật phối sắc tài tình làm cho vần thơ đẹp như một bức tranh sơn mài rực
<i>Cá nhụ, cá chim cùng cá đé</i>
<i>Cá song lấp lánh duốc đen hồng</i>
<i>Cái đuôi em quẫy trăng vàng choé.</i>
Nhìn bầy cá bơi lượn, nhà thơ lắng nghe tiếng sóng vỗ rì rầm, mắt nhìn về
xa. Câu thơ huyền ảo lung linh: Đêm thở, sao lùa nước Hạ Long, như đưa người
đọc đi vào cõi mộng. Phải có một tình u biển sâu nặng mới viết lên những vần
thơ tuyệt bút như vậy.
Sung sướng nhìn đàn cá dệt lưới, những người dân chài cất lên tiếng hát
ngọt ngào. Lần thứ hai tiếng hát vang trên biển. Tiếng gõ thuyền đuổi cá hồ
cùng sóng biển. Vầng trăng soi xuống mặt biển, muôn vàn ánh vàng tan ra theo
làn sóng, vỗ vào mạn thuyền: Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao. Biển hào phóng
cho con người nhiều tơm cá, muối và hải sản.. Biển như lịng mẹ đã ni sống
nhân dân ta từ bao đời nay. So sánh biển với lịng mẹ để nói lên lịng tự hào của
dân chài đối với biển quê hương. giọng thơ ấm áp, chứa chan nghĩa tình:
<i>Biển cho ta cá như lịng mẹ</i>
<i>Ni lớn đời ta tự buổi nào.</i>
Một đêm trôi nhanh trong nhịp điệu lao động hào hứng, hăng say.Trên
bầu trời, sao đã thưa và mờ. Cảnh kéo lưới được miêu tả đầy ấn tượng. Những
cánh tay rắn chắc kéo lưới xoăn tay. Kéo xoăn tay là một hình ảnh đặc tả động
tác kéo lưới rất căng, khoẻ và đẹp. Cơ man nào là cá mắc vào lưới như những
chùm trái cây treo lủng lẳng. Chùm cá nặng là một hình ảnh ẩn dụ gợi tả được
muà cá. Khoang thuyền đầy ắp cá. Màu bạc của vảy cá, màu vàng của đuôi cá
loé rạng đông. Một lần nữa cho thấy nghệ thuật sử dụng màu sắc của nhà thơ rất
điêu luyện. Sắc cá dưới ánh trăng và sắc cá dưới rạng đông đều được miêu tả
<i>Sao mờ kéo lưới kịp trời sáng</i>
<i>Ta kéo xoăn tay chùm cá nặng</i>
<i>Vẩy bạc, đuôi vàng l rạng đơng..</i>
<i>Đồn thuyền chạy đua cùng mặt trười,</i>
<i>Mặt trời đội biển nhô màu mới.</i>
Cảnh rạng đông với hình ảnh mặt trời đội biển nhơ lên, toả ánh sáng chan
hoà, một màu mới bao trùm biển khơi. Đồn tuyền phóng như bay về bến như
cướp lấy thời gian. Biện pháp thậm xưng kết hợp với nghệ thuật hốn dụ trong
việc tả mắt cá huy hồng mn dặm phơi đã vẽ lên cảnh được mùa cá và cuộc
sống hạnh phúc, ấm no của nhân dân vùng biển. Bằng lao động và mồ hôi, họ đã
viết nên bài ca cuộc đời.
Đoàn thuyền đánh cá là bài thơ tiêu biểu của Huy Cận sau Cách mạng
tháng Tám mang âm điệu ngọt ngào, niềm say mê và phán chấn của nhân dân
lao động đnag làm chủ cuộc đời.
<b>Đề 15: Phân tích bài thơ ”Bếp lửa” – Bằng Việt</b>
Trong cuộc đời, ai cũng có riêng cho mình những kỉ niệm của
một thời ấu thơ hồn nhiên, trong sáng. Những kỉ niệm ấy là những điều thiêng
liêng, thân thiết nhất, nó có sức mạnh phi thường nâng đỡ con người suốt hành
trình dài và rộng của cuộc đời. Bằng Việt cũng có riêng ơng một kỉ niệm, đó
chính là những tháng năm sống bên bà, cùng bà nhóm lên cái bếp lửa thân
thương. Không chỉ thế, điều in đậm trong tâm trí của Bằng Việt cịn là tình cảm
sâu đậm của hai bà cháu. Chúng ta có thể cảm nhận điều đó qua bài thơ “Bếp
lửa” của ơng.
Bằng Việt thuộc thế hệ nhà thơ trưởng thành trong kháng chiến chống Mĩ.
Bài thơ “ Bếp lưả” được ông sáng tác năm 1963 lúc 19 tuổi và đang đi du học ở
Liên Xô. Bài thơ đã gợi lại những kỉ niệm đầy xúc động về người bà và tình bà
cháu, đồng thời thể hiện lịng kính u, trân trọng và biết ơn của người cháu với
bà, với gia đình, quê hương, đất nước.
Tình cảm và những kỉ niệm về bà được khơi gợi từ hình ảnh bếp lửa. Ở
nơi đất khách quê người, bắt gặp hình ảnh bếp lửa, tác giả chợt nhớ về người bà:
“ Một bếp lửa chờn vờn sương sớm
Một bếp lửa ấp iu nồng đượm
Cháu thương bà biết mấy nắng mưa.”
Hình ảnh “chờn vờn” gợi lên những mảnh kí ức hiện về trong tác giả một
cách chập chờn như khói bếp. Bếp lửa được thắp lên, nó hắt ánh sáng lên mọi
vật và toả sáng tâm hồn đứa cháu thơ ngây. Bếp lửa được thắp lên đó cũng là
bếp lửa của cuộc đời bà đã trải qua “ biết mấy nắng mưa”. Từ đó, hình ảnh
người bà hiện lên. Dù đã cách xa nữa vòng trái đất nhưng dường như Bằng Việt
vẫn cảm nhận được sự vỗ về, yêu thương, chăm chút từ đôi tay kiên nhẫn và
khéo léo của bà. Trong cái khoảnh khắc ấy, trong lịng nhà thơ lại trào dâng một
tình u thương bà vơ hạn. Tình cảm bà cháu thiêng liêng ấy cứ như một dịng
sơng với con thuyền nhỏ chở đầy ắp những kỉ niệm mà suốt cuộc đời này chắc
người cháu khơng bao giờ qn được và cũng chính từ đó, sức ấm và ánh sáng
của tình bà cháu cũng như của bếp lửa lan toả toàn bài thơ.
Khổ thơ tiếp theo là dòng hồi tưởng cùa tác giả về những kỉ niệm của
những năm tháng sống bên cạnh bà. Lời thơ giản dị như lời kể, như những câu
văn xi, như thủ thỉ, tâm tình, tác giả như đang kể lại cho người đọc nghe về
<i>“Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói</i>
<i> Năm ấy là năm đói mịn đói mỏi</i>
<i>Bố đi đánh xe khơ rạc ngựa gầy</i>
<i> Chỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháu</i>
<i>Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay!”</i>
để rồi khi nghĩ lại lại thấy “sống mũi còn cay”. Là mùi khói làm cay mắt người
người cháu hay chính là tấm lịng của người bà làm đứa cháu khơng cầm được
nước mắt?
<i>“ Tám năm rịng cháu cùng bà nhóm bếp</i>
<i>Tu hú kêu trên những cách đồng xa</i>
<i>Khi tu hú kêu bà cịn nhớ khơng bà</i>
<i>Bà hay kể chuyện những ngày ở Huế</i>
<i>Tiếng tu hú sao mà tha thiết thế!”</i>
“Cháu cùng bà nhóm lửa”, nhóm lên ngọn lửa củasự sống và của tình yêu
bà cháy bỏng của một cậu bé hồn nhiên, trong trắng như một trang giấy.Chính
hình ảnh bếp lửa q hương, bếp lửa của tình bà cháu đó đã gợi nên một liên
tưởng khác, một hồi ức khác trong tâm trí thi sĩ thuở nhỏ. Đó là tiếng chim tu hú
kêu. Tiếng tu hú kêu như giục giã lúa mau chín, người nơng dân mau thốt khỏi
cái đói, và dường như đó cũng là một chiếc đồng hồ của đứa cháu để nhắc bà
Nếu như trong những năm đói kém của nạn đói 1945, bà là người gắn
bó với tác giả nhất, yêu thương tác giả nhất thì trong tám năm rịng của cuộc
kháng chiến chống Mĩ, tình cảm bà cháu ấy lại càng sâu đậm:
<i>“Mẹ cùng cha bận công tác không về</i>
<i> Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu nghe</i>
<i>Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học.</i>
<i>Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc</i>
<i>Tu hú ơi! Chẳng đến ở cùng bà</i>
<i> Kêu chi hoài trên những cách đồng xa”</i>
than thở thể hiện nỗi nhớ mong bà sâu sắc của đứa cháu nơi xứ ngươi. Chỉ trong
một khổ thơ mà hai từ “bà”, “cháu” đã được nhắc đi nhắc lại nhiều lấn gợi lên
hình ảnh hai bà cháu sóng đơi, gắn bó, quấn qt khơng rời.
Chiến tranh, một danh từ bình thườnh nhưng sức lột tả của nó thì khốc liệt
vơ cùng, nó đã gây ra đau khổ cho bao người, bao nhà. Và hai bà cháu trong bài
thơ cũng trở thành một nạn nhân của chiến tranh: gia đình bị chia cắt, nhà bị
giặc đốt cháy rụi...
<i>“Năm giặc đốt làng cháy tàn cháy rụi</i>
<i>Hàng xóm bốn bên trở vế lầm lụi</i>
<i>Mày viết thư chớ kể này kể nọ</i>
<i>Cứ bảo nhà vẫn được bình n!’</i>
Cuộc sống càng khó khăn, cảnh ngộ càng ngặt ngèo, nghị lứccủa bà càng
bền vững, tấm lòng ủa bà càng mênh mơng. Qua đó, ta thấy hiện lên một người
bà cần cù, nhẫn nại và giàu đức hi sinh. Dù cho ngôi nhà, túp lều tranh của hai
bà cháu đã bị đốt nhẵn, nơi nương thân của hai bà cháu nay đã khong cịn, bà dù
có đau khổ thế nào cũng khơng dám nói ra vì sợ làm đứa cháu bé bong của mình
lo buồn. Bà cứng rắn, dắt cháu vượt qua mọi khó khăn, bà khơng đứa con đang
bận việc nước phải lo lắng chuyện nhà. Điều đó ta có thể thấy rõ qua lới dặn của
bà: “Mày có viết thư chớ kể này kể nọ / Cứ bảo nhà vẫn đươc bình yên!”. Lới
dăn của bà nôm na giản dị nhưng chất chứa biết bao tình. Gian khổ, thiếu thốn,
bao nỗi nhớ thương con bà đều phải nén vào trong lòng để yên lòng người nơi
tiền tuyến. Hình ảnh người bà khơng chỉ cịn là người bà của riêng cháu mà còn
là một biểu tượng rõ nét cho nhữnh người phụ nữa Việt Nam giàu đức hi sinh,
thương con qúy cháu.
Kết thúc khổ thơ, Bằng Việt đã nâng hình ảnh bếp lửa trở thành hình ảnh
ngọn, một ngọn lửa:
“Một ngọn lửa lịng bà luôn ủ sẵn,
Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng”.
Hình ảnh ngọn lửa toả sáng trong câu thơ, nó có sức truyền cảm mạnh mẽ.
Ngọn lửa của tình n thương, ngọn lửa của niềm tin, ngọn lửa ấm nồng như
tình bà cháu, ngọn lửa đỏ hồng si sáng cho con đường đứa cháu. Bà luôn nhắc
Những dịng thơ cuối bài cũng chính là những suy ngẫm về bà và bếp lửa
mà nhà thớ muốn gởi tới bạn đọc, qua đó cũng là những bài học sâu sắc từ cơng
việc nhóm lửa tưởng chừng đơn giản:
“ Nhóm bếp lửa ấp iu, nồng đượm”
Một lấn nữa, hình ảnh bếp lửa “ ấp iu”, “nồng đượm” đã được nhắc lại ở
cuối bài thơ như một lần nữa khẳng định lại cái tình cảm sâu sắc của hai bà
cháu.
<i> “Nhóm niềm yêu thương khoai sắn ngọt bùi”</i>
“Nhóm nồi xôi gạo mới sẻ chung vui”
“Nồi xôi gạo mới sẻ chung vui” của bà hay là lời răn dạy cháu ln phải
mở lịng ra với mọi người xung quanh, phải gắn bó với xóm làng, đừng bao giờ
có một lối sống ích kỉ.
“Nhóm dậy cả những tâm tinh tuổi nhỏ”.
Bà không chỉ là người chăm lo cho cháu đấy đủ về vật chất mà còn là
người làm cho tuổi thơ của cháu thêm đẹp, thêm huyền ảo như trong truyện.
Người bà có trái tim nhân hậu, người bà kì diệu đã nhóm dậy, khơi dậy, giáo dục
và thức tỉnh tâm hồn đứa cháu để mai này cháu khôn lớn thành người. Người bà
kì diệu như vậy ấy, rất giản dị nhưng có một sức mạnh kì diệu tứ trái tim, ta có
thể bắt gặp người bà như vậy trong “Tiếng gà trưa” của Xuân Quỳnh:
“Tiếng gà trưa
Mang bao nhiêu hạnh phúc
Đêm cháu về nằm mơ
Giấc ngủ hồng sắc trứng.”
Suốt dọc bài thơ, mười lấn xuất hiện hình ảnh bếp lửa là mười lần tác giả
nhắc tới bà.Âm điệu những dịng thơ nhanh mạnh như tình cảm dâng trào lớp
lớp sóng vỗ vào bãi biển xanh thẳm lịng bà. Người bà đã là, đang là và sẽ mãi
mãi là người quan trọng nhất đối với cháu dù ở bất kì phương trời nào. Bà đã trờ
thành một người khơng thể thiếu trong trái tim cháu.
Giờ đây, khi đang ở xa bà nửa vòng trái đất, Bằng Việt vẫn ln hướng
lịng mình về bà:
<i>“Giờ cháu đã đi xa. Có ngọn khói trăm tàu</i>
<i>Có lưả trăm nhà, niềm vui trăm ngả</i>
<i>Nhưng vẫn chẳng lúc nào quên nhắc nhở</i>
<i>Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa?”</i>
Xa vịng tay chăm chút cuả bà để đến với chân trời mới, chính tình cảm
của hai bà cháu đã sưởi ấm lòng tác giả trong cái muà đông lạnh giá cuả nước
Nga. Đứa cháu nhỏ cuả bà ngày xưa giờ đã trưởng thành nhưng trong lịng vẫn
ln đinh ninh nhớ về góc bếp, nới nắng mưa hai bà cháu có nhau. Đưá cháu sẽ
khơng bao giờ qn và chẳng thể nào qn được vì đó chính là nguồn cội, là nơi
mà tuổi thơ cuả đưá chẳ đã được ni dưỡng để lớn lên từ đó.
<b>Đề 16 a : Ông Hai trong truyện ngắn “Làng” của nhà văn Kim Lân là</b>
<i>người yêu mến, gắn bó với làng q của mình. Em hãy làm sáng tỏ nhận định</i>
<i>trên qua truyện ngắn “Làng” đã học.</i>
<i><b>Đề 16 b: </b>Truyện ngắn làng của Kim Lân gợi cho em những suy nghĩ gì về</i>
<i>những chuyển biến mới trong tình cảm của người nơng dân Việt Nam thời kì</i>
<i>kháng chiến chống Pháp ?</i>
Kim Lân là nhà văn chuyên viết truyện ngắn và có sáng tác đăng báo
trước cách mạng tháng 8/1945. Vốn gắn bó và am hiểu sâu sắc cuộc sống ở
nông thôn, Kim Lân hầu như chỉ viết về sinh hoạt làng quê và cảnh ngộ của
người nông dân. Truyện ngắn “Làng” được viết trong thời kì đầu của cuộc
kháng chiến chống Pháp. Ơng Hai, nhân vật chính của truyện rất u mến và
gắn bó với làng quê của mình. Đặc điểm trên đã thể hiện rõ qua các trạng thái
tình cảm khác nhau của ơng với làng.
Ông Hai, thật vậy, đã yêu cái làng chợ Dầu của mình bằng một tình yêu
đặc biệt. Đấy là nơi tổ tiên, cha mẹ ông đã từng sinh trưởng và cũng là nơi chôn
rau cắt rốn của ông. Do vậy, ơng u làng này bằng một tình u vốn có từ lâu,
sâu sắc và bền vững như tình u của một nơng dân gắn bó với q hương, nói
cụ thể hơn là gắn bó với cảnh vật và con người của mảnh đất quê hương ấy. Bởi
thế, mỗi lần nói đến làng chợ Dầu ấy, ơng đều nói với giọng say mê, náo nức lạ
thường. “Hai con mắt sáng hẳn lên. Cái mặt biến chuyển hoạt động”... Ông yêu
tất cả những cảnh vật ở làng ông, nên mạnh dạn tự hào: ”Nhà ngói san sát sầm
<i>uất như tỉnh”, đường trong làng “toàn lát đá xanh, trời mưa đi, bùn khơng dính</i>
<i>đến gót chân”, “phơi thóc rơm thì tốt thượng hạng”. Đôi khi ông cường điệu,</i>
ông tự hào mãnh liệt đến cả cái sinh phần của cụ Thượng “vườn hoa cây cảnh
<i>nom như động ấy”.</i>
Mãi đến sau cách mạng tháng Tám, ơng mới nhận ra chính cái dinh cơ
của quan Tổng đốc ấy đã đem lại bao nỗi khổ ải cho dân làng. Có người bệnh,
có người chết, bao nhiêu người làm việc không công. Riêng phần ông đã bị một
đống gạch đổ vào bại một bên hông. Cả cái chân ơng sau này khập khiƠng, đi
Lúc cuộc kháng chiến của cả dân tộc bùng lên, lịng u mến làng q của
ơng Hai đã có những chuyển biến rõ rệt. Nếu trước kia, ơng hãnh diện vì làng
chợ Dầu giàu có, tươi đẹp, cái sinh phần của cụ Thượng tốt tươi, mới lạ, thì sau
cách mạng tháng Tám, nhờ giác ngộ chính trị, ơng lại tự hào về khơng khí cách
mạng sơi nổi ở làng ông. Từ những buổi tập quân sự, những hố, những ụ, những
giao thông hào chiến đấu, ông đã bộc lộ niềm sung sướng của mình truớc những
sự thay đổi đó. Sự xuất hiện của những phịng thơng tin, chịi phát thanh, đúng là
cuộc đời, số phận ơng thực sự gắn liền với những thăng trầm của làng Dầu u
dấu của ơng.Đối với ơng Hai khi ấy, tình u làng mạc và tình u đất nước đã
chan hồ làm một trong tình cảm và nhận thức của ơng.
vợ con tản cư đến một làng khác. Nỗi nhớ làng không nguôi, ở nơi tản cư, ông
đã lu«n theo dâi tin tức về kháng chiến. Khơng đọc được báo, ông đã nghe tin
cho bằng được. Trước tin một em bé ở ban tuyên truyền xung phong dũng cảm
cắm cờ lên Tháp Rùa; một anh trung đội trưởng giết được bảy tên giặc đã tự sát
bằng quả lựu đạn cuối cùng, ông Hai cứ tấm tắc khen: “Khiếp thật! Tinh là
<i>những người giỏi cả”. Ngoài việc khâm phục những người anh hùng trong</i>
kháng chiến, ông Hai còn hả hê trước thất bại của địch: Chỗ này giết được tên
Pháp với hai tên việt gian, chỗ kia phá đổ một xe tăng và một xe díp <i>“ruột gan</i>
<i>của lão cứ múa cả lên, vui quá”.</i>
Tình yêu làng của ông càng được bộc lộ một cách sâu sắc và cảm động
trong hoàn cảnh thử thách . Kim Lân đã đặt nhân vật vào tình huống gay gắt để
bộc lộ chiều sâu tình cảm của nhân vật. Đó là tin làng chợ Dầu lập tề theo
Về đến nhà ông chán chường “nằm vật ra giường”, nhìn đàn con nước
mắt ơng cứ giàn ra “ chúng nó cũng là trẻ con làng Việt gian đấy ư? Chúng nó
cũng bị người ta rẻ rúng hắt hủi đấy ư?”. Ông căm thù những kẻ theo Tây, phản
bội làng, ông nắm chặt hai tay lại mà rít lên: “chúng bay ăn miếng cơm hay
miếng gì vào mồm mà đi làm cái giống Việt gian bán nước để nhục nhã thế
này”. Niềm tin, nỗi ngờ giằng xé trong ơng. Ơng kiểm điểm lại từng người trong
óc, thấy họ đều có tinh thần cả “có đời nào lại cam tâm làm cái điều nhục nhã
ấy”. Ơng đau xót nghĩ đến cảnh “người ta ghê tởm, người ta thù hằn cái giống
Việt gian bán nước”. Suốt mấy ngày liền ông chẳng dám đi đâu, “chỉ ở nhà nghe
ngóng binh tình”, lúc nào cũng nơm nớp tưởng người ta đang để ý, đang bàn tán
đến cái chuyện làng mình. Nỗi ám ảnh, day dứt, nặng nề biến thành sự sợ hãi
thường xun trong ơng. Ơng đau đớn, tủi hổ như chính ơng là người có lỗi...
Tình thế của ông càng trở nên bế tắc, tuyệt vọng khi bà chủ nhà có ý đuổi
gia đình ơng với lý do không chứa người của làng Việt gian. Trong lúc tưởng
tuyệt đường sinh sống ấy, ơng thống có ý nghĩ quay về làng nhưng rồi lại gạt
phắt ngay bởi “về làng tức là bỏ kháng chiến, bỏ Cụ Hồ ”, là “cam chịu quay trở
lại làm nô lệ cho thằng Tây”. Tình yêu làng lúc này đã lớn rộng thành tình yêu
đâu?”, “thế con ủng hộ ai?”…Lời đứa con vang lên trong ông thiêng liêng mà
giản dị: “Nhà ta ở làng Chợ Dầu”, “ủng hộ Cụ Hồ Chí Minh mn năm !”…
Những điều ấy ơng đã biết, vẫn muốn cùng con khắc cốt ghi tâm. Ơng mong
“anh em đồng chí biết cho bố con ơng, tấm lịng bố con ơng là như thế đấy, có
bao giờ dám đơn sai, chết thì chết có bao giờ dám đơn sai ”. Những suy nghĩ của
ông như những lời nguyện thề son sắt. Ông xúc động, nước mắt “chảy rịng rịng
trên hai má”. Tấm lịng của ơng với làng, với nước thật sâu nặng, thiêng liêng.
Dẫu cả làng Việt gian thì ơng vẫn một lịng trung thành với kháng chiến, với Cụ
Hồ …
<i><b>Đề 17: Phân tích truyện ngắn Làng – Kim Lân</b></i>
Dàn bài chi tiết
A- Mở bài:
- Kim Lân thuộc lớp các nhà văn đã thành danh từ trước Cách mạng Tháng 8 –
1945 với những truyện ngắn nổi tiếng về vẻ đẹp văn hoá xứ Kinh Bắc. Ơng gắn
bó với thơn q, từ lâu đã am hiểu người nông dân. Đi kháng chiến, ông tha thiết
muốn thể hiện tinh thần kháng chiến của người nông dân.
- Truyện ngắn Làng được viết và in năm 1948, trên số đầu tiên của tạp chí Văn
nghệ ở chiến khu Việt Bắc. Truyện nhanh chóng được khẳng định vì nó thể hiện
thành cơng một tình cảm lớn lao của dân tộc, tình u nước, thơng qua một con
người cụ thể, người nông dân với bản chất truyền thống cùng những chuyển
B- Thân bài
1. Truyện ngắn Làng biểu hiện một tình cảm cao đẹp của tồn dân tộc, tình cảm
q hương đất nước. Với người nông dân thời đại cách mạng và kháng chiến thì
tình u làng xóm q hương đã hồ nhập trong tình u nước, tinh thần kháng
chiến. Tình cảm đó vừa có tính truyền thống vừa có chuyển biến mới.
2. Thành cơng của Kim Lân là đã diễn tả tình cảm, tâm lí chung ấy trong sự thể
hiện sinh động và độc đáo ở một con người, nhân vật ông Hai. Ở ơng Hai tình
cảm chung đó mang rõ màu sắc riêng, in rõ cá tính chỉ riêng ơng mới có.
a. Tình u làng, một bản chất có tính truyền thơng trong ơng Hai.
- Ơng hay khoe làng, đó là niềm tự hào sâu sắc về làng quê.
- Cái làng đó với người nơng dân có một ý nghĩa cực kì quan trọng trong đời
sống vật chất và tinh thần.
b. Sau cách mạng, đi theo kháng chiến, ơng đã có những chuyển biến mới trong
tình cảm.
- Được cách mạng giải phóng, ông tự hào về phong trào cách mạng của quê
hương, vê việc xây dựng làng kháng chiến của quê ông. Phải xa làng, ơng nhớ
q cái khong khí “đào đường, đắp ụ, xẻ hào, khuân đá…”; rồi ông lo “cái chịi
gác,… những đường hầm bí mật,…” đã xong chưa?
- Tâm lí ham thích theo dõi tin tức kháng chiến, thích bình luận, náo nức trước
tin thắng lợi ở mọi nơi “Cứ thế, chỗ này giết một tí, chỗ kia giết một tí, cả súng
c. Tình u làng gắn bó sâu sắc với tình u nước của ơng Hai bộc lộ sâu sắc
trong tâm lí ơng khi nghe tin làng theo giặc.
- Khi mới nghe tin xấu đó, ơng sững sờ, chưa tin. Nhưng khi người ta kể rành
rọt, không tin không được, ông xấu hổ lảng ra về. Nghe họ chì chiết ơng đau đớn
cúi gầm mặt xuống mà đi.
- Về đến nhà, nhìn thấy các con, càng nghĩ càng tủi hổ vì chúng nó “cũng bị
người ta rẻ rúng, hắt hủi”. Ông giận những người ở lại làng, nhưng điểm mặt
từng người thì lại khơng tin họ “đổ đốn” ra thế. Nhưng cái tâm lí “khơng có lửa
làm sao có khói”, lại bắt ơng phải tin là họ đã phản nước hại dân.
- Tình cảm yêu nước và yêu làng còn thể hiện sâu sắc trong cuộc xung đột nội
tâm gay gắt: Đã có lúc ơng muốn quay về làng vì ở đây tủi hổ quá, vì bị đẩy vào
bế tắc khi có tin đồn khơng đâu chứa chấp người làng chợ Dầu. Nhưng tình yêu
nước, lịng trung thành với kháng chiến đã mạnh hơn tình u làng nên ơng lại
dứt khốt: “Làng thì u thật nhưng làng theo Tây thì phải thù”. Nói cứng như
vậy nhưng thực lịng đau như cắt.
- Tình cảm đối với kháng chiến, đối với cụ Hồ được bộc lộ một cách cảm động
nhất khi ơng trút nỗi lịng vào lời tâm sự với đứa con út ngây thơ. Thực chất đó
là lời thanh minh với cụ Hồ, với anh em đồng chí và tự nhủ mình trong những
lúc thử thách căng thẳng này:
+ Đứa con ơng bé tí mà cũng biết giơ tay thề: “ủng hộ cụ Hồ Chí Minh mn
năm!” nữa là ơng, bố của nó.
+ Ơng mong “Anh em đồng chí biết cho bố con ơng. Cụ Hồ trên đầu trên cổ xét
soi cho bố con ông”.
+ Qua đó, ta thấy rõ:
Tình u sâu nặng đối với làng chợ Dầu truyền thống (chứ không phải cái làng
đổ đốn theo giặc).
Tấm lòng trung thành tuyệt đối với cách mạng với kháng chiến mà biểu tượng
của kháng chiến là cụ Hồ được biẻu lộ rất mộc mạc, chân thành. Tình cảm đó
sâu nặng, bền vững và vơ cùng thiêng liêng : có bao giờ dám đơn sai. Chết thì
chết có bao giờ dám đơn sai.
d. Khi cái tin kia được cải chính, gánh nặng tâm lí tủi nhục được trút bỏ, ông Hai
tột cùng vui sướng và càng tự hào về làng chợ Dầu.
- Cái cách ông đi khoe việc Tây đốt sạch nhà của ông là biểu hiện cụ thể ý chí
“Thà hi sinh tất cả chứ khơng chịu mất nước” của người nơng dân lao động bình
thường.
- Việc ông kể rành rọt về trận chống càn ở làng chợ Dầu thể hiện rõ tinh thần
kháng chiến và niềm tự hào về làng kháng chiến của ông.
3. Nhân vạt ông Hai để lại một dấu ấn không phai mờ là nhờ nghệ thuật miêu tả
tâm lí tính cách và ngơn ngữ nhân vật của người nơng dân dưới ngịi bút của
Kim Lân.
- Tác giả đặt nhân vật vào những tình huống thử thách bên trong để nhân vật bộc
lộ chiều sâu tâm trạng.
- Miêu tả rất cụ thể, gợi cảm các diễn biến nội tâm qua ý nghĩ, hành vi, ngơn
ngữ đối thoại và độc thoại.
Ngơn ngữ của Ơng Hai vừa có nét chung của người nơng dân lại vừa mang đậm
cá tính nhân vật nên rất sinh động.
C- Kết bài:
- Qua nhân vật ông Hai, người đọc thấm thía tình u làng, u nước rất mộc
mạc, chân thành mà vô cùng sâu nặng, cao quý trong những người nụng dõn lao
ng bỡnh thng.
<b>Đề 18: Phân tích tình cha con sâu nặng trong truyện ngắn Chiếc lợc ngà</b>
<i>của nhà văn Nguyễn Quang Sáng.</i>
Nh vn Nguyn Quang Sáng sinh năm 1932, quê ở huyện Chợ Mới, tỉnh An
Giang. Năm 1945, ông tp kt ra Bc và bắt đầu vit vn. ễng vit nhiu th
loi: truyện ngắn, tiểu thuyết, kịch bản phim; đề tài chính; cuc chin u ca
nhõn dõn Nam B. Chiếc lợc ngà viết năm 1966, khi tác giả hoạt động ở chiến
trường Nam Bộ thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước, là truyện ngắn xuất
sắc viết về tình cha con và nỗi đau chiến tranh do quân giặc gieo rắc thời chống
Mĩ thông qua nhân vật ông Sáu và bé Thu.
Truyn đã thể hiện tình cha con sâu sắc của hai cha con ơng Sáu trong hai tình
huống. Tình huống thứ nhất, hai cha con gặp nhau sau tám năm xa cách, nhng
thật trớ trêu là bé Thu không nhận cha, đến lúc em nhận ra và biểu lộ tình cảm
thắm thiết thì ơng Sáu phải ra đi. Đây là tình huống cơ bản thể hiện sâu sắc tình
cảm của bé Thu dành cho ngời cha thân yêu. Tình huống thứ hai, ở khu căn cứ,
ơng Sáu dồn tất cả tình yêu thơng và mong nhớ đứa con vào việc làm cây lợc ngà
để tặng con, nhng ông đã hi sinh khi cha kịp trao món quà ấy cho con gái. Tình
Tình yêu của bé Thu đối với cha đợc thể hiện thật đặc biệt. Gặp lại con sau
nhiều năm xa cách với bao nỗi nhớ thơng nên ông Sáu không kìm đợc nỗi vui
mừng trong phút đầu nhìn thấy con. Nhng thật trớ trêu, đáp lại sự vồ vập của
ng-ời cha, bé Thu lại tỏ ra ngờ vực, lảng tránh và ông Sáu càng muốn gần con thì
đứa con lại càng tỏ ra lạnh nhạt, xa cách. Tâm lí và thái độ ấy của Thu đã đợc
biểu hiện qua hàng loạt các chi tiết mà ngời kể chuyện quan sát và thuật lại rất
sinh động. Khi mới gặp ông Sáu, cô bé hốt hoảng, mặt tái đi, rồi vụt chạy và kêu
thét lên. Những ngày ông Sáu ở nhà, bé Thu chỉ gọi trống không với ông mà
không chịu gọi cha, nhất định không chịu nhờ ông chắt nớc nồi cơm to đang sôi.
Bữa cơm, Thu liền hất cái trứng cá mà cha nó gắp cho. Cuối cùng, khi bị ông Sáu
tức giận đánh cho một cái thì bỏ về nhà bà ngoại, khi xuống xuồng còn cố ý
khua cái dây cột xuồng kêu rổn rảng thật to.
Sự ơng ngạnh ấy của cơ bé hồn tồn khơng đáng trách. Trong hồn cảnh xa
cách và trắc trở của chiến tranh, nó cịn q bé nhỏ để coa thể hiểu đợc nhĩng
tình thế khắc nghiệt, éo le của đời sống và ngời lớn cũng không ai kịp chuẩn bị
cho nó những khả năng bất thờng, nên nó khơng tin ơng Sáu là ba nó chỉ vì trên
mặt ơng có thêm vết sẹo, khác với hình ba mà nó đợc biết. Phản ứng tâm lí của
em là hồn tồn tự nhiên, nó cịn chứng tỏ em có cá tính mạnh mẽ, tình cảm của
em sâu sắc, chân thật, em chỉ yêu ba khi tin chắc đó đúng là ba.Trong cái cứng
<i>đầu của em có chứa cả sự kiêu hãnh rtẻ thơ về một tình yêu dành cho ngời cha</i>
<i>khác – ngời trong tấm hình chụp với má em.</i>
Nhng trong buổi sáng cuối cùng, trớc phút ông Sáu phải lên đờng, thái độ và
hành động của bé Thu đã đột ngột thay đổi hoàn toàn. Lần đầu tiên Thu cất tiếng
gọi ba mà tiếng kêu nh tiếng xé, rồi nó vừa kêu vừa chạy xơ tới, nhan nh một con
<i>sóc, nó chạy thót lên và dang hai tay ôm chặt lấy cổ ba nó, nó hôn ba nó cùng</i>
<i>khắp. Nó hơn tóc, hơn cổ, hơn vai và hơn cả vết thẹo dài bên má của ba nó nữa,</i>
Sở dĩ có sự biến đổi đột ngột nh vậy trong thái độ và hành động của bé Thu là
vì trong đêm bỏ về nhà bà ngoại, Thu đã đợc bà giải thích về vết thẹo làm thay
đổi khn mặt ba nó. Sự nghi ngờ bấy lâu đợc giải toả và ở cô bé nảy sinh một
tạng thái nh là sự ân hận, hối tiếc: Khi nghe bà kể nó nằm im, lăn lộn và thỉnh
<i>thoảng lại thở dài nh ngời lớn. Vì thế, trong giờ phút chia tay với cha, tình yêu</i>
và nối nhớ mong với ngời cha xa cách đã bị dồn nén bấy lâu, nay bùng ra thật
mạnh mẽ và hối hả, cuống quýt, có xen lẫn cả sự hối hận. Chứng kiến những
biểu hiện tình cảm ấy trong cảnh ngộ cha con ơng Sáu phải chia tay, có ngời
khơng cầm đợc nớc mắt và ngời kể chuyện thì cảm thấy nh có bàn tay ai nắm lấy
trái tim mình.
Qua những diễn biến tâm lí của bé Thu đợc miêu tả trong truyện, ta thấy tác
giả tỏ ra rất am hiểu tâm lí trẻ em và diễn tả rất sinh động với tấm lịng u mến,
trân trọng những tình cảm trẻ thơ.
Nhân vật chính thứ hai trong tác phẩm là nhân vật ơng Sáu. Tình cảm của
ơng đối với con gái nhỏ được biểu hiện phần nào ở tình huống thứ nhất, trong
chuyến về thăm nhà. Cũng như bao người khác ông Sáu đi theo tiếng gọi của
quê hương đã lên đường chiến đấu, để lại người vợ và đứa con thân yêu. Sự xa
cách càng làm dâng lên trong ông nỗi nhớ nhung tha thiết đứa con gái mà khi
ơng đi nó chưa đầy một tuổi. Nỗi nhớ ấy đã trở thành niềm khao khát, mơ ước
cháy bỏng trong lịng ơng. Chính vì vậy mỗi lần vợ lên thăm là một lần ông hỏi
“Sao không cho con bé lên cùng ?’’. Không gặp được con ông đành ngắm con
qua ảnh vậy … Mặc dầu tấm ảnh đó đã rách nát, cũ kĩ lắm rồi, nhưng ơng ln
giữ gìn nó vơ cùng cẩn thận, coi nó như một báu vật. Và tám năm trời là những
năm tháng dài đằng đẳng ấy cũng làm tăng lên trong lòng người cha nỗi nhớ
nhung, mong chờ, ông Sáu ao ước gặp con.
Thế rồi niềm ao ước ấy đã trở thành hiện thực. Ông Sáu được nghỉ phép.
Ngày về thăm con, trên xuồng mà ông Sáu cứ nôn nao cả người. Ông đang nghĩ
tới đứa con, nghĩ tới giây phút hai cha con gặp nhau như thế nào. Những điều ấy
chống hết tâm trí ơng. Khi xuồng vừa cập bến, ơng Sáu đã nhón chân nhảy thót
lên bờ. Hẳn vì q xúc động nên lúc ấy ơng Sáu đã có những cử chỉ mà ngay cả
người bạn của ông cũng không ngờ tới “giọng anh tập bập run run”, ông dang
hai tay chờ đó con và sải những bước dài đến gần con. Tưởng rằng con bé sẽ
chạy tới nhào vào lịng ơng nhưng khơng ngờ bỗng nó hét lên “má…má” và bỏ
chạy. Hành động của con bé khiến ông sững sờ. Bao yêu thương, mong chờ mà
ông dồn nén bấy lâu dường như tan biến hết chỉ còn lại trong ông là nỗi đau khổ
vô bờ.
Nỗi đau ấy cịn dày vị ơng trong suốt ba ngày ở nhà. Ba ngày ở nhà ông
Sáu không đi đâu xa mà chỉ quanh quẩn ở nhà chơi với con. Ông muốn dùng lời
nói, hành động của mình để bù đắp những mất mát về tình cảm cho con bé.
Dường như ông muốn bằng những cử chỉ và lời nói yêu thương tràn đầy âu yếm,
ông sẽ xoa dịu đi những nghi ngờ, xoá tan những lạnh lùng của con bé đối với
ơng. Người cha muốn ơm con và có lẽ chắc ơng cũng mong đứa con gái của
mình có thể chạy sà vào lịng. Thế nhưng khơng… những gì ông từng mơ ước,
từng suy nghĩ, giờ chỉ như giấc mơ khơng thật bởi chính thái độ của Thu đối với
ba nó. Khi mẹ bảo nó gọi bố vào ăn cơm thì con bé đã nói trổng: “Vơ ăn cơm!”.
Câu nói của con bé như đánh vào tâm can ơng, nhưng ơng vẫn ngồi im giả vờ
khơng nghe, chờ nó gọi “Ba vô ăn cơm.” Thế nhưng Thu vẫn bướng bỉnh khơng
chịu gọi ba, đã vậy cịn bực dọc nói mấy câu “Cơm chín rồi!” và “Con kêu rồi
mà người ta khơng nghe”. Đến lúc này ơng chỉ biết “nhìn con bé vừa khe khẽ lắc
đầu vừa cười. Có lẽ vì khổ tâm đến nỗi khơng khóc được, nên anh phải cười vậy
thơi.”
bùng lên những tình cảm mà lâu nay ông dồn nén và chất chứa trong lịng.
Tình cảm của ơng Sáu dành cho bé Thu trở nên mãnh liệt hơn, cao cả,
thiêng liêng và cảm động hơn bao giờ hết ở tình huống thứ hai của câu chuyện,
lúc ơng Sáu ở rừng. Ơng tự tay làm chiếc lược ngà cho con gái. “Ba về! Ba mua
cho con một cái lược nghe ba!”, đó là mong ước đơn sơ của đứa con gái bé bỏng
trong giây phút cha con từ biệt. Nhưng đối với người cha ấy, đó là mong ước
đầu tiên và cũng là duy nhất cho nên nó cứ thơi thúc trong lòng. Kiếm cho con
cây lược trở thành bổn phận của người cha, thành tiếng gọi cầu khẩn của tình
phụ tử trong lịng. Ơng bỗng l lên một sáng kiến lớn: làm lược cho con bằng
ngà voi. Có lẽ khơng đơn thuần vì ở rừng rú chiến khu, ơng khơng thể mua được
Kiếm được ngà voi, mặt ông “hớn hở như một đứa trẻ được quà”. Vậy
đấy, khi người ta hố thành con trẻ lại chính là lúc người ta đang hiện lên cái tư
cách người cha cao q của mình. Rồi ơng “ngồi cưa từng chiếc răng lược, thận
trọng tỉ mỉ và khổ công như người thợ bạc ”, “gò lưng tẩn mẩn khắc từng chữ:
“Yêu nhớ tặng Thu con của ba”. Ông thường xuyên “lấy cây lược ra ngắm nghía
rồi mài lên tóc cho cây lược thêm bóng thêm mượt”. Lịng u con đã biến
người chiến sĩ trở thành một nghệ nhân - nghệ nhân chỉ sáng tạo ra một tác
phẩm duy nhất trong đời cho nên chiếc lược ngà đã kết tinh trong nó tình phụ tử
mộc mạc mà đằm thắm sâu xa, đơn sơ mà kỳ diệu làm sao!
ông làm được một việc “đưa tay vào túi, móc cây lược” đưa cho người bạn chiến
đấu thân thiết và cứ nhìn bạn hồi lâu. Nhưng đó là điều trăn trối khơng lời, nó rõ
ràng là thiêng liêng hơn cả một lời di chúc, bởi đó là sự uỷ thác, là ước nguyện
cuối cùng của người bạn thân, ước nguyện của tình phụ tử! Bắt đầu từ giây phút
ấy, chiếc lược ngà của tình phụ tử đã biến người đồng đội thành một người cha
-người cha thứ hai của cô bé Thu.
Câu chuyện về chiếc lợc ngà khơng chỉ nói lên tình cha con thắm thiết, sâu
nặng, mà cịn gợi cho ngời đọc nghĩ đến và thấm thía những mất mát đau thơng,
éo le mà chiến tranh gây ra cho bao nhiêu con ngời, bao nhiêu gia đình.
<i><b>Đề 19 :Phân tích vẻ đẹp trong cách sống và tâm hồn nhân vật anh thanh</b></i>
<i>niên trong truyện ngắn Lặng lẽ Sa Pa cuả Nguyễn Thành Long.</i>“ ”
Nguyễn Thành Long quê ở Quảng Nam, cây bút truyện ngắn xuất sắc, nổi
Truyện ngắn “Lặng lẽ Sa Pa” rút trong tập “Giữa trong xanh”. Truyện ca
ngợi những con người sống giữa non xanh lặng lẽ nhưng vô cùng sơi nổi, hết
lịng vì Tổ quốc, có trái tim nhân hậu rất đẹp.
“Lặng lẽ Sa Pa” có cốt truyện rất đơn giản, xoay quanh một tình huống
gặp gỡ bất ngờ giữa ông hoạ sĩ già, cô kĩ sư trẻ với anh thanh niên làm cơng tác
khí tượng trên đỉnh Yên Sơn thuộc Sa Pa. Nhân vật chính của truyện – anh
thanh niên- chỉ hiện ra trong chốc lát nhưng để lại cho các nhân vật khác những
tình cảm tốt đẹp. Nghệ thuật trần thuật của truyện cũng rất đáng chú ý. Mặc dù
không kể truyện từ ngôi thú nhất, nhưng truyện đã được trần thuật chủ yếu từ
điểm nhìn và suy nghĩ của nhân vật ơng hoạ sĩ. Vì vậy, dù khơng phải là nhân
vật chính nhưng nhân vật ơng hoạ sĩ có vị trí quan trọng trong truyện. Cùng với
nhân vật anh thanh niên, các nhân vật khác đều góp phần thể hiện chủ đề tư
tưởng của tác phẩm.
Tuy có nhiều nhân vật , nhưng nhân vật chính của truyện là anh thanh
niên. Truyện tập trung khắc hoạ hình ảnh nhân vật này qua cái nhìn và cảm nghĩ
của nhân vật khác, qua sự xuất hiện của anh trong cuộc gặp gỡ tình cờ, ngắn
ngủi với ông hoạ sĩ và cô kĩ sư. Đúng như lời tác giả truyện ngắn này là “một
bức chân dung” chân dung nhân vật anh thanh niên. Là một chân dung, nhân vật
hiện lên với một số nét đẹp trong công việc thầm lặng, trong cách sống và những
suy nghĩ, tình cảm, trong quan hệ với mọi người.
Truyện đưa ra bốn nhân vật: bác lái xe, ông hoạ sĩ, cô kĩ sư mới ra trường
và anh thanh niên ở trạm khí tượng trên đỉnh n Sơn cao hai nghìn sáu trăm
mét. Anh thanh niên, nhân vật chính khơng xuất hiện ngay từ đầu truyện mà chỉ
hiện ra trong cuộc gặp gỡ giữa các nhân vật kia với anh, khi xe của họ dùng lại
nghỉ. Nhân vật ấy chỉ hiện ra trong chốc lát, đủ để các nhân vật khác kịp ghi
Về ngoại hình, nhân vật chính có “tầm vóc nhỏ bé, nét mặt rạng rỡ”. Anh
sống và làm việc một mình trên đỉnh núi cao, quanh năm suốt tháng giữa cỏ cây
và mây núi Sa Pa. Công việc của anh là “đo gió, đo mưa, đo nằng, tính mây, đo
chấn động mặt đất, dự vào việc báo trước thời tiết hằng ngày, phục vụ sản xuất,
phục vụ chiến đấu”. Cơng việc ấy địi hỏi phải tỉ mỉ, chính xác và có tinh thần
trách nhiệm cao. Nửa đêm, đúng giờ “ốp” thì dù mưa tuyết, giá lạnh thế nào
cũng phải trở dậy ra ngồi trời làm cơng việc đã quy định.
Nhưng cái gian khổ nhất là phải vượt qua được sự cơ đơn, vắng vẻ, quanh
năm suốt tháng một mình trên đỉnh núi cao khơng một bóng người- một hồn
cảnh thật đặc biệt.
Điều gì giúp anh vượt qua được hoàn cảnh ấy?
phần vào chiến thắng của không quân ta bắn rơi nhiều máy bay Mĩ trên bầu trời
Hàm Rồng, anh thấy mình “thật hạnh phúc”.
<i>Anh cịn có những suy nghĩ thật đúng đắn và sâu sắc về công việc đối với</i>
cuộc sống và con người: “khi ta làm việc, ta với cơng việc ầ đơi, sao gọi là một
mình được? Huống chi cơng việc của cháu gắn liền với công việc của bao anh
em, đồng chí dưới kia. Cơng việc của cháu gian khổ thế đấy, chứ cất nó đi, cháu
buồn đến chết mất”.
Một mình ở giữa cỏ cây và mây núi Sa Pa nhưng anh khơng cơ đơn, buồn
Anh khơng nhàn rỗi là vì biết cách tổ chức, sắp xếp cuộc sống một mình ở
trạm khí tượng thật ngăn nắp, chủ động: nào trồng hoa, ni gà, tự học và đọc
sách ngồi giờ làm việc.
Ở người thanh niờn ấy cũn cú cú những nột tớnh cỏch và phẩm chất đnỏg mến
khỏc nữa: sự cời mở, chõn thành, rất quý trọng tỡnh cảm của mọi người, khao
khỏt được gặp gỡ, trũ chuyện với mọi người. Điều này thể hiện rất rừ qua tỡnh
cảm thõn thiết giữa anh với bỏc lỏi xe, thỏi độ õn cần, chu đáo, sự cảm động vui
mừng của anh khi có khách xa tới thăm bất ngờ...Anh còn là ngời khiêm tốn,
thành thực, cảm thấy cơng việc và những đóng góp của mình chỉ là nhỏ bé. Khi
ông hoạ sĩ muốn vẽ chân dung anh, anh nhiệt thành giới thiệu với ông những
ng-ời khác đáng cảm phục hơn nhiều nh ông kĩ s ở vờn rau Sa Pa, anh cán bộ
nghiên cứu lập bản đồ sét.
Tóm lại, chỉ bằng một số chi tiết và chỉ cho xuất hiện trong khoảnh khắc
truyện, tác giả đã phác hoạ đợc chân dung nhân vật chính với những nét đẹp về
tinh thần, tình cảm, cách sống và những suy nghĩ về cuộc sống, về ý nghĩa cơng
việc. Đó là một trong những con ngời lao động trẻ tuổi, làm cơng việc bình
th-ờng, lặng lẽ mà vơ cùng cần thiết, có ích cho nhân dân, đất nớc, cho cuộc sống vì
độc lập của dân tộc, dới bầu trời Sa Pa lặng lẽ, trên đỉnh núi Sa Pa mây phủ, đẹp
tuyệt vời.
Đề 20 : Phân tích bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ” của Thanh Hải.
<b>Sinh ra, lớn lên, hoạt động cách mạng và tham gia công tác văn nghệ</b>
<b>suốt hai thời kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ ngay chính</b>
<b>trên q hương ruột thịt của mình, ở địa điểm nào, hoàn cảnh nào Thanh</b>
<b> Trước lúc vĩnh viễn ra đi ông cũng để lại cho đời những vần thơ thật</b>
<b>nhân hậu, thiết tha và thanh thản, không hề gợn một nét u buồn nào của</b>
<b>một cuộc đời sắp tắt. Khi cuộc đời mình đã bước vào cuối đơng, nhà thơ</b>
<b>vẫn nghĩ đến một mùa xuân bất diệt, muôn thuở và nguyện dâng hiến cho</b>
<b>đời.</b>
<b> Hình ảnh của một mùa xuân rất Huế đã được tác giả mở đầu cho bài</b>
<b>thơ:</b>
<b> Mọc giữa dịng sơng xanh</b>
<b> Một bơng hoa tím biếc.</b>
<b> Một nét đặc trưng nơi xứ Huế là hình ảnh màu tím. Một màu tím thật</b>
<b>gợn nhẹ như màu tím bơng lục bình mọc giữa con sơng xanh biếc hay như</b>
<b>những tà áo dài với màu tím thật nhẹ nhàng của những cô gái Huế. Cảm</b>
<b>xúc về mùa xuân mở ra thật ngỡ ngàng, bất ngờ, không gian như tươi tắn</b>
<b>hơn, trẻ trung hơn, thánh thoát hơn:</b>
<b>Ơi con chim chiền chiện</b>
<b>Hót cho mà vang trời</b>
<b> Trong không gian vang vang vui tươi của tiếng chim càng đậm đà chất</b>
<b>Từng giọt long lanh rơi,</b>
<b>Tôi đưa tay tôi hứng.</b>
<b> Từ “giọt long lanh” không chỉ hiểu là giọt mưa xuân trong ánh sáng</b>
<b>của sắc xuân mà còn được hiểu là giọt âm thanh, giọt sắc màu, giọt thời</b>
<b>gian như đang cô đọng lại khiến tác giả say sưa ngây ngất . Một động từ</b>
<b>“hứng” cũng đủ diễn tả sự trân trọng, ngây ngất của nhà thơ đối với vẻ đẹp</b>
<b>của trời, của sông, của chim muông hoa lá; đồng thời cũng thể hiện cảm xúc</b>
<b>trọn vẹn của Thanh Hải trước mùa xuân của thiên nhiên đất trời.</b>
<b> Chỉ bằng vài nét điểm xuyết, phác hoạ, tác giả đã vẽ ra một không gian</b>
<b>cao rộng, sắc màu tươi thắm, âm thanh vang vọng tươi vui của mùa xuân,</b>
<b>của thiên nhiên đất trời.</b>
<b>súng” và “người ra đồng”, biểu tượng của hai nhiệm vụ: chiến đấu, bảo vệ</b>
<b>tổ quốc và lao động tăng gia để xây dựng đất nước với những câu thơ giàu</b>
<b>hình ảnh và mang tính gợi cảm:</b>
<b>Mùa xuân người cầm súng,</b>
<b>Lộc giắt đầy trên lưng.</b>
<b>Mùa xuân người ra đồng,</b>
<b>Lộc trải dài nương mạ.</b>
<b>Tất cả như hối hả,</b>
<b>Tất cả như xôn xao…</b>
<b> “Lộc” là chồi non, cành biếc mơn mởn. Khi mùa xuân về, cây cối đâm</b>
<b>chồi nảy lộc. “Lộc” ở trong những câu thơ này tượng trưng cho vẻ đẹp mùa</b>
<b>xuân và sức sống mãnh liệt của đất nước. Hình ảnh mùa xuân của đất trời</b>
<b>đọng lại trong lộc non đã theo người cầm súng và người ra đồng, hay chính</b>
<b>họ đã đem mùa xuân đến cho mọi miền của tổ quốc thân yêu.</b>
<b> “Hối hả” là vội vã, gấp gáp, khẩn trương. Xơn xao là</b>
<b>có nhiều âm thanh xen lẫn vào nhau, làm cho náo động. Ở trong hai câu thơ</b>
<b>“Tất cả như hối hả / Tất cả như xôn xao”, “xôn xao” cùng với điệp ngữ “tất</b>
<b>cả như...” làm cho câu thơ vang lên nhịp điệu tươi vui, mạnh mẽ khác</b>
<b>thường. Kết thúc một khổ thơ là dấu ba chấm(...). Phải chăng dấu ba chấm</b>
<b>như còn muốn thể hiện rằng: đất nước sẽ còn đi lên, sẽ phát triển, sẽ đến</b>
<b>với một tầm cao mới mà khơng có sự dừng chân ngơi nghỉ.</b>
<b> Sức sống của “mùa xuân đất nước” còn được cảm nhận qua nhịp điệu</b>
<b>hối hả, những âm thanh xôn xao của đất nước bốn ngàn năm, trải qua biết</b>
<b>bao vất vả và gian lao để vươn lên phía trước và mãi khi mùa xuân về lại</b>
<b>được tiếp thêm sức sống để bừng dậy, được hình dung qua hình ảnh so</b>
<b>sánh rất đẹp:</b>
<b>Đất nước bốn ngàn năm</b>
<b>Vất và vào gian lao</b>
<b>Đất nước như vì sao</b>
<b>Cứ đi lên phía trước.</b>
<b> Cùng với động từ “cứ” đặt ở đầu câu, tác giả đã khẳng định một sự</b>
<b>khẩn trương, hối hả, náo nức vào xuân của đất nước với vẻ đẹp lung linh,</b>
<b>lấp lánh đang vững bước về phía trước khiến khơng một thế lực thù địch</b>
<b>nào có thể ngăn cản nổi.</b>
<b> Đó chính là lịng tự hào, lạc quan, tin yêu của Thanh Hải đối với đất</b>
<b>nước, dân tộc. Những giọng thơ ấy rất giàu sức suy tưởng và làm say đắm</b>
<b>lòng người.</b>
<b> Từ cảm xúc của thiên nhiên, đất nước, mạch thơ đã chuyển một cách tự</b>
<b>nhiên sang bày tỏ suy ngẫm và tâm niệm của nhà thơ trước mùa xuân của</b>
<b>đất nước. Mùa xuân của thiên nhiên, đất nước thường gợi lên ở mỗi con</b>
<b>người niềm khát khao và hi vọng; với Thanh Hải cũng thế, đây chính là</b>
<b>thời điểm mà ơng nhìn lại cuộc đời và bộc bạch tâm niệm thiết tha của một</b>
<b>nhà cách mạng, một nhà thơ đã gắn bó trọn đời với đất nước, quê hương</b>
<b>với một khát vọng chân thành và tha thiết:</b>
<b>Lời thơ như ngân lên thành lời ca. Nếu như đoạn đầu Thanh Hải</b>
<b>xưng tơi kín đáo và lặng lẽ thì đến đoạn này ơng chuyển giọng xưng ta. Vì</b>
<b>sao có sự thay đổi như vậy? Ta ở đây là nhà thơ và cũng chính là tất cả mọi</b>
<b>người. Khát vọng của ông là được làm con chim hót dâng tiếng ca lảnh lót ,</b>
<i><b>một cành hoa toả hương khoe sắc để hồ nhập vào “mùa xn lớn” của đất</b></i>
<b>nước, góp một nốt trầm vào bản hoà ca bất tận của cuộc đời. Hiến dâng</b>
<b>“mùa xuân nho nhỏ” nghĩa là tất cả những gì tốt đẹp nhất, dù nhỏ bé của</b>
<b>mỗi người cho cuộc đời chung cho đất nước. Điều tâm niệm đó thật chân</b>
<b>thành, giản dị và tha thiết – xin được làm một nốt trầm trong bản hoà ca</b>
<b>của cuộc đời nhưng là “một nốt trầm xao xuyến”.</b>
<b> Điều tâm niệm của tác giả: “lặng lẽ dâng cho đời” chính là khát vọng</b>
<b>chung của mọi người, ở mọi lứa tuổi, chứ đâu phải của riêng ai. Thanh Hải</b>
<b>đã thể hiện hết mình vì lịng tin yêu cuộc sống và khiêm tốn hiến dâng cho</b>
<b>đất nước, cho cuộc đời, bởi vậy, xuất phát từ tiếng lòng thiết tha, nhỏ nhẹ,</b>
<b>chân thành của tác giả nên lời thơ dễ dàng được mọi người tiếp nhận và</b>
<b>chia sẻ :</b>
<b>Một mùa xuân nho nhỏ</b>
<i><b>Một mùa xuân nho nhỏ hay phải chăng cũng là một ẩn dụ cho chính</b></i>
<b>cuộc đời của tác giả: sống là cống hiến, cống hiến chính là mùa xuân của</b>
<b>cuộc đời? Mà mùa xuân ấy thì là mãi mãi: “Dù là tuổi hai mươi” khi mới</b>
<b>tham gia kháng chiến cho đến “khi tóc bạc”, khi sức cùng lực kiệt vẫn lặng</b>
<b>lẽ dâng hiến cho đời. Và, dù Thanh Hải cũng có đi xa thì những lời ca tiếng</b>
<b>hát mà ơng để lại cho đời mãi mãi vẫn có giá trị, mãi mãi vẫn tô điểm cho</b>
<b>đất nước đẹp xinh. Điệp ngữ “dù là” được tác giả nhắc lại hai lần như một</b>
<b>lời hứa, một lời khẳng định của nhà thơ: sống là phải cống hiến tuyệt đối.</b>
<b>Như nhà thơ Tố Hữu đã từng viết :</b>
<b>Nếu là con chim, chiếc lá,</b>
<b>Con chim phải hót, chiếc lá phải xanh</b>
<b>Lẽ nào vay mà khơng trả,</b>
<b>Sống là cho, đâu chỉ nhận riêng mình.</b>
<b>Tác giả kết thúc bài thơ bằng một âm điệu xứ Huế: điệu Nam ai, Nam</b>
<b>Bình mênh mang tha thiết, là lời ngợi ca đất nước, biểu hiện niềm tin yêu và</b>
<b>gắn bó sâu nặng của tác giả với quê hương, đất nước, một câu chân tình</b>
<b>thắm thiết:</b>
<b>Mùa xuân ta xin hát</b>
<b>Câu Nam ai, Nam Bình</b>
<b>Nước non ngàn dặm tình</b>
<b>Nước non ngàn dặm mình</b>
<b> Đề 21 : Phân tích bài thơ “Viếng lăng Bác” của Viễn Phương.</b>
<b>Chủ tịch Hồ Chí Minh là người con ưu tú của dâc tộc, vị lãnh tụ vĩ</b>
<b>đạo của đất nước và là vị cha già hiền từ của mọi người dân Việt Nam. Với</b>
<b>cái tên gọi “Bác” thân thương và gần gũi, Bác của chúng ta luôn là hiện</b>
<b>thân của những điều cao đẹp nhất và mạnh mẽ nhất. Giờ đây tuy Bác đã đi</b>
<b>xa chỉ còn lăng Bác là nơi thiêng liêng nhất lưu giữ bóng dáng Bác lúc sinh</b>
<b>thời, là nơi chiêm ngưỡng và bày tỏ lịng thành kính của nhân dân cả nước.</b>
<b>Nhà thơ Viễn Phương, một người con của miền đất Nam bộ khi được vinh</b>
<b>dự ra thăm lăng Bác đã sáng tác bài “Viếng Lăng Bác”. Một bài thơ đã thể</b>
<b>hiện niềm cảm xúc dạt dào được dồn nén kết tinh khơng chỉ từ lịng thương</b>
<b>nhớ Bác của riêng tác giả mà cịn là cả sự tơn kính của những đồng bào</b>
<b>miền Nam.</b>
<b>Đã có nhiều nhà thơ, nhà văn viết về Bác một cách rất đỗi nồng nàn</b>
<b>và sâu lắng như Tố Hữu, Xuân Diệu… nhưng “Viếng lăng Bác” của Viễn</b>
<b>Phương lại gợi cho chúng ta niềm cảm xúc sâu xa nhất. </b>
<b>Ngay từ khi mở đầu bài thơ, tác giả đã bộc lộ niềm xúc động dạt dào:</b>
<b> Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác</b>
<b> Tuy lời thơ mộc mạc, giản dị nhưng nó lại chứa đựng, lời tâm tình</b>
<b>ngọt ngào, tha thiết bao trùm lên cảm xúc của nhà thơ. Từ xưng hô</b>
<b>“Con….Bác” là cách gọi thân thương của đồng bào miền Nam đối với Bác,</b>
<b>nó thể hiện sự ngậm ngùi và lịng thành kính của tác giả. Đặc biệt, nó đã thể</b>
<b>hiện tình cảm của người con ở xa với nỗi nhớ thương ấp ủ bấy lâu nay đang</b>
<b>bắt đầu trào dâng, thổn thức khi ra thăm lăng Bác. Từ cảm xúc chủ đạo</b>
<b>của câu thơ đầu, ta lại nhận thấy yếu tố thực và ảo trong những câu sau:</b>
<b>Đã thấy trong sương hang tre bát ngát</b>
<b>Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam </b>
<b>Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng</b>
<b>Tác giả đã khéo léo chọn hình ảnh cây tre làm cái nhìn đầu tiên khi</b>
<b>thăm lăng Bác. Hình ảnh này đã quá thân thuộc và gần gũi với quê hương,</b>
<b>đất nước, đã in sâu vào tiềm thức của tác giả. Đây là hình ảnh ẩn dụ gây ấn</b>
<b>tượng mạnh, nó cịn là biểu tượng của những đức tính cao quý hiện diện</b>
<b>trong một dân tộc kiên cường bất khuất. Giống như những câu thơ của</b>
<b>Nguyễn Duy:</b>
<b>Thân gầy guộc, lá mong manh </b>
<b>Mà sao nên lũy nên thành tre ơi!</b>
<b>Thêm vào đó, hình ảnh cây tre đã làm cho tác giả cảm thấy thương</b>
<b>xót lẫn tự hào. Thương xót vì tre phải chịu đựng bão táp, mưa sa; tự hào vì</b>
<b>tre vẫn thẳng hàng, khơng nghiêng ngả. Đây là một sự liên tưởng độc đáo:</b>
<b>từ sương sa liên tưởng đến bão táp , mưa gió và tác giả đã chấp nối hình</b>
<b>ảnh cây tre, Việt Nam và Hồ Chí Minh lại thành một. Ta thấy đặc sắc của</b>
<b>khổ thơ này là mạch cảm xúc cứ trào dâng mãnh liệt theo từng cung bậc,</b>
<b>sắc thái khác nhau. Khi kể lể, lúc xao xuyến, trầm tư gợi nên một cảm xúc</b>
<b>sâu lắng. Ở đây, tác giả đã sử dụng nhịp hai hoặc bốn với giọng điệu tha</b>
<b>thiết khiến người đọc bị lôi cuốn mãnh liệt hơn.</b>
<b> Khổ thơ hai bao trùm lên là khơng khí thực và ảo, với nhiều hình ảnh</b>
<b>ẩn dụ và tượng trưng , liên tưởng sâu sắc, rộng rãi:</b>
<b>“Mặt trời trên lăng” là hình ảnh thực – là mặt trời của trái đất , là</b>
<b>nguồn sáng rực rỡ và vĩnh hằng nhất thế gian. “Mặt trời trong lăng rất đỏ”</b>
<b>làm ta nhớ đến trái tim nhiệt huyết, chân thành, yêu nước thương dân của</b>
<b>Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ</b>
<b>Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xn</b>
<b>Dường như khơng phải mọi người đến viếng một người đã đi xa mà là</b>
<b>đến thăm một cuộc đời bảy mươi chín mùa xn đã hồn tồn hy sinh cho</b>
<b>nước cho dân. Hình ảnh ẩn dụ “tràng hoa” là sự so sánh dòng người xếp</b>
<b>hàng vào thăm lăng Bác, nhưng tràng hoa dài bất tận. Đây thật sự là một so</b>
<b>sánh hết sức sinh động , tự nhiên và thuần nhuyễn. Điều này còn được thể</b>
<b>hiện qua điệp từ “ngày ngày” được lặp lại hai lần diễn tả một thời gian hầu</b>
<b>như là vĩnh cửu, dài vơ tận, nó cũng là tượng trưng cho nỗi long khôn nguôi</b>
<b>nhớ Bác của đồng bào miền Nam.</b>
<b>Khổ thứ ba là cảm xúc trào dâng mãnh liệt, diễn tả cảm xúc khi bước</b>
<b>vào nơi ngự trị của sự im lặng , trang nghiêm, của sự yên nghỉ đời đời.</b>
<b>Những câu thơ mới chân thực và mơ mộng biết bao!</b>
<b>Bác nằm trong giấc ngủ bình yên</b>
<b>Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền.</b>
<b>Với các hình ảnh ẩn dụ độc đáo, tác giả đã bộc lộ cảm xúc dạt dào</b>
<b>của mình và tình cảm thân thương, gần gũi đối với Bác. Cuộc đời của Bác</b>
<b>như “mặt trời”, giấc ngủ của Bác như “vầng trăng”-“vầng trăng” mang</b>
<b>ánh sáng dịu nhẹ soi đường chỉ lối cho đất nước tiến đến một tương lai tốt</b>
<b>Vẫn biết trời xanh là mãi mãi</b>
<b>Mà sao nghe nhói ở trong tim</b>
<b>Hình ảnh “trời xanh” cũng càng khẳng định rằng Bác thật sự đã ra</b>
<b>đi mãi mãi. Lời thơ dẫn dắt người đọc vào thực tế ấy như mũi kim đâm</b>
<b>“nhói” vào tim, gợi sự đau lịng, nuối tiếc và nỗi xót xa trào dâng mãnh liệt</b>
<b>trong lòng tác giả , câu thơ như một tiếng khóc nghẹn ngào. Sự mâu thuẫn</b>
<b>ấy đã góp phần tạo nên kịch tính cho cả bài thơ, làm cho bài thơ đầy cảm</b>
<b>xúc và cũng tràn đầy nước mắt. Nhưng hình ảnh ẩn dụ sáng tạo, độc đáo</b>
<b>như “vầng trăng”, “trời xanh” cũng tạo nên cái hay và đặc sắc của bài thơ.</b>
<b>Khổ cuối cùng vẫn liền mạch cảm xúc dạt dào của những khổ trước</b>
<b>cộng thêm sự luyến tiếc đang trào dâng trong tim tác giả. Tuy vẫn còn đứng</b>
<b>bên Bác, nhà thơ đã bịn rịn nhớ đến phút sắp chia xa:</b>
<b>Không phải rưng rưng, rơm rớm mà là “trào”, chứng tỏ một cảm</b>
<b>xúc, tình yêu thương mãnh liệt đối với Bác mới thiết tha, sâu lắng làm sao.</b>
<b>Lời thơ xuất phát từ tận đáy lòng của tác giả nhưng vẫn khiến chúng ta xúc</b>
<b>động với những câu thơ vô cùng giản dị ấy. Nỗi đau như dồn nén giữa tâm</b>
<b>hồn làm nảy sinh bao ước muốn: muốn làm con chim hót quanh lăng để</b>
<b>chúng vui tươi, nhí nhảnh; muốn làm đóa hoa tỏa làn hương như thực, như</b>
<b>hư; muốn làm cây tre bầu bạn với Bác mỗi ngày, canh từng giấc ngủ cho</b>
<b>Bác. Tất cả những ước muốn ấy chắc hẳn cùng chung một mục đích là</b>
<b>muốn làm vơi nỗi vắng vẻ, yên ắng trong lăng. Điệp ngữ “muốn làm” lặp đi</b>
<b>lặp lại ba lần chẳng những thể hiện được ước nguyện của tác giả, mong ước</b>
<b>chung của đồng bào miền Nam mà còn tạo nên một nghệ thuật đặc sắc cho</b>
<b> Đề 22 : Phân tích bài thơ “Nói với con” của Y Phương.</b>
<b>Xưa nay tình mẫu tử là đề tài phong phú cho thơ ca. Nhưng những</b>
<b>bài thơ về tình cha con thì có lẽ khá ít. Bài thơ "Nói với con" cuả Y Phương</b>
<b>là một trong những tác phẩm hiếm hoi đó. Bài thơ thể hiện tình cảm gia</b>
<b>đình êm ấm, tình quê hương tha thiết, ngọt ngào và ngợi ca truyền thống</b>
<b>nghĩa tình, sức sống mạnh mẽ của người dân tộc miền núi.</b>
<b>Cảm nhận đầu tiên trong lời cha nói là hình ảnh con lớn lên trong</b>
<b>tình u thương của cha mẹ, sự đùm bọc, che chở của người đồng mình, của</b>
<b>quê hương. Bài thơ mở ra với khung cảnh gia đình ấm cúng, đầy ấp giọng</b>
<b>nói tiếng cười:</b>
<b>Chân phải bước tới cha</b>
<b>Chân trái bước tới mẹ</b>
<b>Một bước chạm tiếng nói</b>
<b>Hai bước tới tiếng cười.</b>
<b>Khung cảnh ấy đẹp như một bức tranh: hình ảnh em bé ngây thơ lẫm</b>
<b>chẫm tập đi, bi bơ tập nói trong vịng tay, trong tình u thương, chăm sóc,</b>
<b>nâng niu của cha mẹ; hình ảnh cha mẹ giang rộng vòng tay, chăm chút từng</b>
<b>bước đi, từng nụ cười, tiếng nói của con. Gia đình chính là cái nơi êm ái, tổ</b>
<b>ấm để con sống, lớn khôn và trưởng thành trong niềm yêu thương con cái.</b>
<b>Đó là khơng khí thường thấy trong các gia đình hạnh phúc. Nhưng cách</b>
<b>diễn đạt ở đây có nét độc đáo riêng của người miền núi: nói bằng hình ảnh</b>
<b>cụ thể. Điệp ngữ "bước tới", trong tình cảm người cha, khơng khỏi niềm</b>
<b>sung sướng, tự hào.</b>
<b>Khơng chỉ có gia đình là cái nơi ni dưỡng, con cịn lớn lên, trưởng</b>
<b>thành trong cuộc sống lao động, trong quê hương sâu nặng nghĩa tình:</b>
<b>Người đồng mình yêu lắm con ơi</b>
<b>Đan lờ cài nan hoa</b>
<b>Vách nhà ken câu hát</b>
<b>Rừng cho hoa</b>
<b>Con đường cho những tấm lịng</b>
<b>Sung sướng nhìn con khơn lớn, nhà thơ suy ngẫm về tình làng bản</b>
<b>quê nhà, về cội nguồn hạnh phúc:</b>
<b>Cha mẹ mãi nhớ về ngày cưới</b>
<b>Ngày đầu tiên đẹp nhất trên đời</b>
<b>Không chỉ gọi cho con về nguồn sinh dưỡng, cha còn nói với con về</b>
<b>những đức tính cao đẹp của "người đồng mình" và ước mơ của cha về con.</b>
<b>Đó là lòng yêu lao động, hăng say lao động với cả tấm lịng. Đó là sức sống</b>
<b>bền bỉ mạnh mẽ vượt qua mọi khó khăn, gian khổ.</b>
<b>Người đồng mình thương lắm con ơi</b>
<b>Cao đo nỗi buồn</b>
<b>Xa ni chí lớn</b>
<b>Dẫu làm sao thì cha vẫn muốn</b>
<b>Sống trên đá khơng chê đá gập ghềnh</b>
<b>Sống như sông như suối</b>
<b>Lên thác xuống ghềnh </b>
<b>Không lo cực nhọc</b>
<b>Trước hết đó là tình thương u, đùm bọc nhau. Cách nói mộc mạc</b>
<b>mà chứa đựng bao ân tình rất cảm động đó được lặp đi lặp lại như một điệp</b>
<b>khúc trong bài ca. Chính tình thương đó là sức mạnh để "người đồng</b>
<b>mình" vượt qua bao gian khổ cuộc đời. </b>
<b>Những câu thơ ngắn, đối xứng nhau "cao đo nỗi buồn xa ni chí</b>
<b>lớn" diễn tả thật mạnh mẽ chí khí của "người đồng mình": sống vất vả,</b>
<b>nghèo đói, cực nhọc, lam lũ nhưng có chí lớn, ln yêu quý tự hào, gắn bó</b>
<b>với quê hương. Đó là phẩm chất thứ hai. </b>
<b>Thứ ba, về cách sống, người cha muốn giáo dục con sống phải có</b>
<b>nghĩa tình, chung thủy với quê hương, biết chấp nhận vượt qua gian nan,</b>
<b>thử thách bằng ý chí và niềm tin của mình. Không chê bai, phản bội quê</b>
<b>hương : "không chê...không chê....không lo" dù quê hương còn nghèo, còn</b>
<b>vất vả. "Người đồng mình sống khống đạt, hồn nhiên, mạnh mẽ "như sơng</b>
<b>như suối-lên thác xuống ghềnh-khơng lo cực nhọc". </b>
<b>Lời cha nói với con mà cũng là lời dạy con về bài học đạo lý làm</b>
<b>người. Đoạn thơ rất dồi dào nhạc điệu, tạo nên bởi điệp từ, điệp ngữ, điệp</b>
<b>cấu trúc câu và nhịp thơ rất linh họat , lúc vươn dài, khi rút ngắn, lời thơ</b>
<b>giản dị, chắc nịch mà lay động, thấm thía, có tác dụng truyền cảm manh</b>
<b>mẽ.</b>
<b>Để nhắc nhở giáo dục con, người cha nhấn mạnh truyền thống của</b>
<b>Người đồng mình thơ sơ da thịt</b>
<b>Chẳng mấy sai nhỏ bé đâu con</b>
<b>Người đồng mình tự đục đá kê cao q hương</b>
<b>Cịn q hương thì làm phong tục</b>
<b>Con ơi tuy thô sơ da thịt</b>
<b>Lên đường</b>
<b>Không bao giờ nhỏ bé được </b>
<b>Nghe con.</b>
<b>hương. Họ xây dựng quê hương bằng chính sức lực và sự bền bỉ của mình:</b>
<b>"tự đục đá kê cao quê hương". Họ sáng tạo, lưu truyền và bảo vệ phong tục</b>
<b>tốt đẹp của mình biết tự hào với truyền thống quê hương, dặn dò con cần tự</b>
<b>tin, vững bước trên đường đời, khơng bao giờ được sống tầm thường, nhỏ</b>
<b>bé, ích kỷ. Hai tiếng "nghe con" kết thúc bài thơ với tấm lòng thương yêu,</b>
<b>kỳ vọng, vừa là lời dặn dò nhắc nhở ý chí tình của nhười cha đối với đứa</b>
<b>con thân yêu. Hai tiếng ấy nghe sao mà thân thương trìu mến q.</b>
<i><b>§Ị 23: Cảm nhận về Ánh trăng (Nguyễn Duy)</b></i>
Trăng- hình ảnh giản dị mà quen thuộc, trong sáng và trữ tình. Trăng đã
trở thành đề tài thường xuyên xuất hiện trên những trang thơ của các thi sĩ qua
bao thời đại. Nếu như “ Tĩnh dạ tứ” cũa Lí Bạch tả cảnh đêm trăng sáng tuyệt
đẹp gợi lên nỗi niềm nhớ quê hương, “ Vọng nguyệt” của Hồ Chí Minh thể hiện
tâm hồn lạc quan, phong thái ung dung và lòng yêu thiên nhiên tha thiết của Bác
thì đến với bài thớ “Ánh trăng” của Nguyễn Duy, chúng ta bắt gặp hình ảnh
Trăng- hình ảnh giản dị mà quen thuộc, trong sáng và trữ tình. Trăng đã
trở thành đề tài thường xuyên xuất hiện trên những trang thơ của các thi sĩ qua
bao thời đại. Nếu như “ Tĩnh dạ tứ” cũa Lí Bạch tả cảnh đêm trăng sáng tuyệt
đẹp gợi lên nỗi niềm nhớ quê hương, “ Vọng nguyệt” của Hồ Chí Minh thể hiện
tâm hồn lạc quan, phong thái ung dung và lòng yêu thiên nhiên tha thiết của Bác
thì đến với bài thớ “Ánh trăng” của Nguyễn Duy, chúng ta bắt gặp hình ảnh
vầng trăng mang ý nghĩa triết lí sâu sắc. Đó chính là đạo lí “uống nước nhớ
nguồn”. Những sáng tác thơ của Nguyễn Duy sâu lắng và thấn đẫm cái hồn của
ca dao, dân ca Việt Nam . Thơ ơng khơng cố tìm ra cái mới mà lại khai thác, đi
sâu vào cái nghĩa tình mn đời của người Việt. “Ánh trăng” là một bài thơ như
vậy.Trăng đối với nhà thơ có ý nghĩa đặïc biệt: đó là vầng trăng tri kỉ, vầng
trăng tình nghĩa và vầng trăng thức tỉnh. Nó như một hồi chng cảng tỉnh cho
mỗi con người có lối sống quên đi quá khứ.
Tác giả đã mở đầu bài thơ với hình ảnh trăng trong kí ức thuổi thơ của
nhà thơ và trong chiến tranh:
“Hồi nhỏ sống với đồng
với sông rồi với bể
hồi chiến tranh ở rừng
vầng trăng thành tri kỉ”
Hình ảnh vầng trăng đang được trải rộng ra trong cái không gian êm đềm và
trong sáng của thuổi thơ. Hai câu thơ với vỏn vẹn mười chữ nhưng dường như
đã diễn tả một cách khái quát về sự vận động cả cuộc sống con người. Mỗi con
người sinh ra và lớn lên có nhiều thứ để gắn bó và liên kết. Cánh đồng, sông và
bể là nhưng nơi chốn cất giữ bao kỉ niệm của một thời ấâu thơ mà khó có thể
hồn nhiên như cây cỏ
ngỡ không bao giờ quên
cái vầng trăng tình nghĩa”
Vần lưng một lần nữa lại xuất hiện: “trần trụi”, “hồn nhiên”, “thiên nhiên”
làm cho âm điệu câu thơ thêm liền mạch, dường như nguồn cảm xúc cũa tác giả
vẫng đang tràn đầy. Chính cái hình ảnh so sánh - ẩn dụ đã tô đâm lên cái chất
trần trụi, cái chất hồn nhiên của người lính trong nhữnh năm tháng ở rừng. Cái
vầng trăng mộc mạc và giản dị đó là tâm hồn của những người nhà quê, của
đồng, của sông. của bể và của những người lính hồn nhiên, chân chất ấy. Thế rồi
cái tâm hồn - vầng trăng ấy sẽ phài làm quen với mơt hồn cảnh sống hồn toàn
mới mẻ:
“Từ hồi về thành phè
quen ánh điện, cửa gương
vầng trăng đi qua ngõ
như người dưng qua đường”
Thời gian trôi qua cuốn theo mọi thứ như một cơn lốc, chỉ có tình cảm là còn ở
lại trong tâm hồn mỗi con người như một ánh dương chói lồ. Thế nhưng con
người khơng thể kháng cự lại sự thay đổi đó. Người lính năm xưa nay cũng làm
quen dần với những thứ xa hoa nơi “ánh điện, cửa gương”. Và rồi trong chính sự
xa hoa đó, người lính đã qn đi người bạn tri kỉ của mình, người bạn mà tưởng
chừng chẳng thể quên được, “người tri kỉ ấy” đi qua ngõ nhà mình nhưng mình
lại xem như khơng quen khơng biết. Phép nhân hố vầng trăng trong câu thơ
thật sự có cái gì đó làm rung động lịng người đoc bởi vì vầng trăng ấy chính là
một con người. Cũng chính phép nhân hố đó làm cho người đọc cảm thương
cho một “người bạn” bị chính người bạn thân một thời của mình lãng qn. Sự
ồn ã của phố phường, những cơng việc mưu sinh và những nhu cầu vật chất
thường nhật khác đã lôi kéo con gười ra khỏi những giá trị tinh thần ấy, một
phần vô tâm của con người đã lấn át lí trí của người lính, khiến họ trở thành kẻ
quay lưng với quá khứ. Con người khi được sống đầy đủ về mặt vật chất thì
thường hay quên đi những giá trị tinh thần, quên đi cái nền tảng cơ bản củacuộc
sống, đó chình là tình cảm con người. Nhưng rồi một tình huống bất ngờ xảy ra
buộc người lính phải đối mặt:
Thình lình đèn điện tắt
phịng buyn -đinh tối om
vội bật tung cửa sổ
đột ngột vầng trăng tròn.
dài với những qunh co, uốn khúc . Và chính trong những khúc quanh ấy, những
biến cố ấy, con người mới thật sự hiểu được cái gì là quan trọng, cái gì sẽ gắn bó
với họ trong suốt hành trình dài và rộng của cuộc đới. Dường như người lính
Ngửa mặt lên nhìn mặt
có cái gì rưng rưng
như là đồng là bể
như là sông là rừng.
Khi người đối mặt với trăng, có cái gì đó khiến cho người lính áy náy dù
cho khơng bị quở trách một lời nào. Hai từ “mặt” trong cùng một dòng thơ: mặt
trăng và mặt người đang cùng nhau trò chuyện . Người lính cảm thấy có cái gì
“rưng rưng” tự trong tận đáy lòng và dường như nước mắt đang muốn trào ra vì
xúc động trước lịng vị tha của người bạn “tri kỉ” của mình . Đối mặt với vầng
trăng, bỗng người lính cảm thấy như đang xem một thước phim quay chậm về
tuổi thơ của mình ngày nào, nới có “sơng” và có “bể” .Chính những thước phim
quay chậm ấy làm người lính trào dâng nhưng nỗi niềm và ngững giọt nước mắt
tuôn ra tự nhiên, không chút gượng ép nào! Những giọt nước mắt ấy đã phần
nào làm cho người lính trở nên thanh thản hơn, làm tâm hồn anh trong sáng lại.
Một lần nữa những hình tượng trong tuổi thơ và chiến tranh được láy lại làm
sáng tỏ những điều mà con người cảm nhận được. Cái tâm hồn ấy, cái vẻ đẹp
mộc mạc ấy khơng bao giờ bị mất đi, nó ln lặng lẽ sống trong tâm hồn mỗi
con người và nó sẽ lên tiếng khi con người bị tổn thương. Đoạn thơ hay ở chất
thơ mộc mạc, chân thành, ngơn ngữ bình dị mà thấm thía, những hình ảnh đi vào
lịng người. Vầng trăng trong khổ thơ thứ ba đã thực sự thức tỉnh con người.
“Trăng cứ tròn vành vạnh
kể chi người vơ tình
ánh trăng im phăng phắc
đủ cho ta giật mình”
Khổ thơ cuối cùng mang tính hàm súc độc đáo và đạt tới chiều sâu tư
“Ánh trăng” đã đi vào lòng người đọc bao thế hệ như một lời nhắc nhở
đối với mỗi người: Nếu ai đã lỡ quên đi, đã lỡ đánh mất những giá trị tinh thần
qúy giá thì hãy thức tỉnh và tìm lại những giá trị đó. Cịn ai chưa biết coi trọng
những giá trị ấy thì hãy nâng niu những kí ức q giá của mình ngay từ bây giờ,
đừng để quá muộn.
<i><b>Đề 24: Phân tích truyện ngắn “Bến quê” để của Nguyễn Minh Châu. </b></i>
<b>Bài lm</b>
Nhà văn Nguyễn Minh Châu (1930 -1989) sinh tại quê gốc: làng Thơi,
xà Quỳnh Hải, huyện Quỳnh Lu, tỉnh Nghệ An. Ông là Hội viên Hội
Nhà văn Việt Nam (1972).
Tỏc phẩm đã xuất bản của Nguyễn Minh Châu gồm nhiều thể loại:
Cửa sông (tiểu thuyết, ); Những vùng trời khác nhau (tập truyện ngắn);
Dấu chân ngời lính (tiểu thuyết); Từ giã tuổi thơ (tiểu thuyết viết cho
thiếu nhi); Miền cháy (tiểu thuyết ); Lửa từ những ngôi nhà (tiểu thuyết);
Những ngày lu lạc (tiểu thuyết viết cho thiếu nhi, NXB Kim Đồng, 1981);
Những ngời đi từ trong rừng ra (tiểu thuyết); Ngời đàn bà trên chuyến
tàu tốc hành (tập truyện ngắn); Đảo đá kì lạ (viết cho thiếu nhi, ); Mảnh
đất tình yêu (tiểu thuyết); Chiếc thuyền ngoài xa (tập truyện ngắn); Cỏ
Với những cống hiến xuất sắc của mình trong hoạt động văn học
nghệ thuật, nhà văn Nguyễn Minh Châu đã đợc nhận: Giải thởng Bộ
Quốc phòng (năm 1984-1989); Giải thởng Hội Nhà văn Việt Nam
(1988-1989); Giải thởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật (năm 2000).
Truyện ngắn Bến quê in trong tập truyện cùng tên của Nguyễn Minh
Châu, xuất bản năm 1985. Trong truyện ngắn này, ngòi bút của nhà văn
hớng vào đời sống thế sự nhân sinh thờng ngày, với những chi tiết sinh
hoạt đời thờng để phát hiện những chiều sâu của cuộc sống với bao qui
luật và nghịch lí, vợt ra khỏi cách nhìn, cách nghĩ trớc đây của cả xã hội
và của chính tác giả.
ấn tợng khi đọc Bến quê của Nguyễn Minh Châu là ấn tợng về một
cái gì đó nh là đứng trớc "mấy bơng hoa cuối cùng cịn sót lại trở nên
đậm sắc hơn", thẫm màu hơn, một màu tím thẫm nh bóng tối". Có cái gì
xót xa phơi pha đi trong bóng tối, tha thiết hơn trong cái màu đậm sót lại
kia. Nó tự là mình một lần cuối, thức nhận về chảy trơi và kết đọng một
lần cuối trớc khi hồ vào cái mong manh vĩnh cửu. Giống nh hình ảnh
Nhĩ khi kết truyện: "mặt mũi Nhĩ đỏ rựng một cách khác thờng, hai mắt
long lanh chứa một nỗi mê say đầy đau khổ, cả mời đầu ngón tay Nhĩ
đang bấu chặt vào cái bậu cửa sổ, những ngón tay vừa bấu chặt vừa run
lẩy bẩy".
Có khác thờng khơng cái ham muốn cuối cùng của một đời ngời chỉ
là nhờ con sang bến sơng ngay bên nhà mình nh thế này (?):
"Nhĩ tập trung hết sức cịn lại để nói ra cái điều ham muốn cuối
cùng của đời mình:
- B©y giê con sang bên kia hộ bố...
- Để làm gì ạ?
- Chẳng để làm gì cả. - Nhĩ có vẻ ngợng nghịu vì cái điều mình sắp
nói ra q kì quặc - Con hãy qua đị đặt chân lên bờ bên kia, đi chơi
loanh quanh rồi ngồi xuống nghỉ chân ở đâu đó một lát, rồi về".
một sự thật là: có khi, cái ngời ta mơ ớc, khát khao, cái ngời ta không thể
có không phải điều gì to tát, lớn lao mà lại là những điều hết sức nhỏ bé,
thờng tình. Ngời ta vơn tới chính những giá trị bình dị.
Mnh t m ớc ở ngay bến sông quê đây thôi. Cốt truyện của Bến
quê thuộc loại "cốt truyện tâm lí". Tình huống mà ta gọi là nghịch lí trên
đây chỉ là nghịch lí trong sự tự ý thức cao độ của nhân vật. Nếu không
nhận thức một cách sâu sắc về ý nghĩa đích thực của những cái gần gũi,
bình dị, nếu đã khơng từng đặt chân tới mọi xó xỉnh của trái đất nh Nhĩ
thì việc cha từng đặt chân đến cái bến sông cạnh nhà, việc không thể tới
đ-ợc mảnh đất mơ ớc quá đỗi gần gụi kia sẽ khơng khác thờng, khơng
nghịch lí, sẽ lại trơi tuột đi nh lẽ thờng vẫn thế. Tình huống ấy là tình
huống để nhân vật bộc lộ cái thế giới bên trong, để "phân tích" niềm "mê
say đầy đau khổ" của con ngời đang tiến dần tới hạn mút cuối cùng của
sự sống, để thấy đợc cái giản dị nhng bền vững của chân lí nhân sinh.
NghÜa lµ sức nặng của toàn bộ thiên truyện dồn cả vào sù thĨ hiƯn thÕ
giíi néi t©m cđa NhÜ. Cã thĨ thấy mạch tâm trạng của Nhĩ diễn ra theo
hai chặng: tríc vµ sau khi NhÜ nhê anh con trai sang s«ng.
Tác giả khơng cho chúng ta biết rằng trớc khi lâm bệnh Nhĩ làm nghề
gì, địa vị xã hội ra sao nhng bằng vào chi tiết Nhĩ đợc đi khắp nơi trên
thế giới, có thể đốn định đợc anh là một ngời có vị trí quan trọng. Nhng
chính cái thời gian Nhĩ ốm liệt giờng mới là quãng thời gian quan trọng,
có ý nghĩa lớn hơn cả so với cả một đời bơn ba. Khi đó, anh đợc gần gũi
với vợ con, và nhờ vậy lần đầu tiên Nhĩ thấy đợc tấm áo vá của ngời vợ
cả đời chịu thơng chịu khó hi sinh vì chồng. Tình cảnh ốm đau đã kéo
anh về với những gì thờng tình nhất của cuộc sống. Anh cảm nhận đợc
cái nhẫn nhục đẹp đẽ của vợ mình qua "tiếng bớc chân rón rén quen
thuộc suốt cả một đời ngời đàn bà trên những bậc thang mòn lõm".
Niềm khao khát đợc khám phá vẻ đẹp của bờ bãi bên kia sơng chỉ có thể
đợc nhen lên, day dứt, mãnh liệt khi Nhĩ sống trong cuộc sống đời
th-ờng. Cuộc sống ấy đem lại cho anh một cách nhìn, cách nghĩ mới, chân
thực, dung dị hơn, đồng thời thôi thúc anh thực hiện ớc vọng cuối cùng
của cuộc đời, cái mong muốn vốn dễ dàng với ngời khác, với chính anh
khi cịn khoẻ mạnh thì giờ đây trở thành thách thức ghê gớm, thậm chí là
khơng thể.
Anh con trai không thể hiểu đợc đằng sau cái mong muốn "kì quặc"
của ngời cha sắp từ giã cõi đời là cả một câu chuyện mang ý nghĩa triết lí
cuộc đời. Giống nh Nhĩ đã từng cha bao giờ nghĩ tới mảnh đất bến q
sơng Hồng kề cạnh nhà mình. Chính Nhĩ cũng tự nhận thấy "càng lớn
thằng con anh càng có nhiều nét giống anh". Dờng nh trong Nhĩ đang
diễn ra một cuộc đối chất: cha / con - hiện tại / quá khứ. Con trai anh
đang sống những tháng ngày nh anh đã từng sống, ham mê những điều
nh anh từng ham mê và không nhận ra đợc giá trị của cái bình dị, nhỏ bé
nhng đích thực nh anh đã từng không nhận ra.
trong mối liên hệ thời gian nh là biểu tợng của nghịch lí bừng ngộ, ở
những chặng khác nhau của sự thám hiểm cuộc đời:
"Vừa nghe Tuấn nện lộp bộp đôi dép sa bô xuống thang, Nhĩ đã thu
hết tàn lực lết dần trên chiếc phản gỗ. Nhấc mình ra đợc bên ngồi chiếc
nệm nằm, anh tởng mình vừa bay đợc một nửa vòng trái đất - trong một
chuyến đi công tác ở một nớc bên Mĩ La-tinh hai năm trớc đây. Anh mệt
lử. Và đau nhức. Ngồi lại nghỉ một chặng và chỉ muốn có ai đỡ cho để
nằm xuống...
Lũ trẻ tiếp sức cho anh, giúp anh đi nốt "nửa vòng trái đất" còn lại:
"Cả bọn trẻ xúm vào, và rất nơng nhẹ, giúp anh đi nốt nửa vòng trái
đất - từ mép tấm nệm nằm ra mép tấm phản, khoảng cách ớc chừng năm
chục phân".
Đó là ân huệ mà cuộc đời dung dị, hồn nhiên đem lại cho Nhĩ. Anh
hớng tới khoảng không gian mơ ớc bên ngồi cánh cửa sổ nhờ những
bàn tay "chua lịm mùi da". Lại là sự cứu cánh của cái bình dị. "Ngay lúc
ấy", bắt đầu từ lúc Nhĩ đợc ngồi sát ngay sau khn cửa sổ, khi hình ảnh
của "cái miền đất mơ ớc" hiện ra ngay trớc mắt anh, trong con ngời chất
chứa nghịch lí ấy diễn ra dịng suy tởng sâu sắc. Với ngòi bút sắc sảo,
Nguyễn Minh Châu đã khắc hoạ thành công tâm trạng của nhân vật này.
Hình ảnh con đị ngang với cánh buồm nâu bạc trắng hiện ra qua cái
nhìn của con ngời đang khao khát bến bờ cũng mang ý nghĩa biểu tợng.
Đó là "nhịp cầu" nối tới bến quê mơ ớc:... "cái vật mà Nhĩ nhìn thấy trớc
tiên khi đợc ngồi sát ngay sau khn cửa sổ là một cánh buồm vừa bắt
gió căng phồng lên. Con đò ngang mỗi ngày chỉ qua lại một chuyến giữa
hai bên bờ ở khúc sông Hồng này vừa mời bắt đầu chống sào ra khỏi
chân bãi bồi bên kia, cánh buồm nâu bạc trắng vẫn còn che lấp gần hết
cái miền đất mơ ớc".
Biết đâu Nhĩ khơng cịn đủ sức để chờ chuyến đị của ngày hơm sau
Không phải ngẫu nhiên mà tác giả để cho hình ảnh Liên - vợ Nhĩ
xuất hiện trong dòng suy nghĩ của nhân vật này:... "cũng nh cánh bãi bồi
đang nằm phơi mình bên kia, tâm hồn Liên vẫn giữ nguyên vẹn những
nét tần tảo và chịu đựng hi sinh từ bao đời xa, và cũng chính nhờ có điều
đó mà sau những ngày tháng bơn tẩu, tìm kiếm... Nhĩ đã tìm thấy đợc
nơi nơng tựa là gia đình trong những ngày này".
gần gũi, bình dị. Sự tần tảo, chịu đựng hi sinh ở Liên cũng là vẻ đẹp của
ngời phụ nữ Việt Nam nói chung. Khơng phải khi Nhĩ nhận ra những cái
đó mới có, nó là vẻ đẹp bền vững mn đời nhng chỉ khi Nhĩ ý thức một
cách sâu sắc về "bến q" thì anh mới phát hiện ra nó, cảm nhận đợc nó.
Giống nh hình ảnh "từng mảnh vá trên lá buồm cánh dơi in bật trên một
vùng nớc đỏ" chỉ có thể rõ ràng đến thế khi con đị ngang nối liền với
Truyện khép lại bằng hình ảnh "chuyến đò ngang mỗi ngày một
chuyến... vừa chạm vào cái bờ đất lở dốc đứng phía bên này". Bên này là
thị thành, bên kia là bến q. Bên này chơng chênh xói lở, bên kia vững
vàng bồi đắp. Sự tơng phản này nh một lời cảnh tỉnh về nhận thức, ý
thức giữ gìn những giá trị bình dị, vẻ đẹp của cái thân tình, gần gũi, để
ngời ta khơng phải thảng thốt bởi "những tảng đất đổ oà vào giấc ngủ".
Giống hoa bằng lăng nhợt nhạt từ khi mới nở bỗng cháy thẫm lên
những bơng cuối cùng nh xác nhận xót xa trớc cái mong manh chảy trơi
của tạo hố. Nhĩ muốn con trai mình khơng lặp lại con đờng tới những
giá trị đích thực nh anh đã trải qua. Day dứt, trăn trở nh thế âu cũng cịn
lại đợc gì đó khi nằm xuống để những tảng đất đổ ập xuống chốn khơng
cùng.
<b>Ơn truyện “Những ngơi sao xa xôi”</b>
<b>1. Dạng đề 2 hoặc 3 điểm</b>
<b>Đề 1: Hãy tóm tắt truyện ngắn "</b><i><b>Những ngơi sao xa xơi" </b>bằng một đoạn</i>
<i>văn khoảng 20 câu.</i>
- Tổ trinh sát mặt đường tại một trọng điểm trên tuyến đường Trường Sơn
gồm ba nữ thanh niên xung phong rất trẻ là Phương Định, Nho và tổ trưởng là
chị Thao.
- Nhiệm vụ của họ là quan sát địch ném bom, đo khối lượng đất đá phải
- Công việc của họ nguy hiểm, thường xuyên đối mặt với thần chết.
- Cuộc sống của họ gian khổ, nguy hiểm nhưng họ vẫn có niềm vui hồn
nhiên của tuổi trẻ, những giây phút thanh thản mơ mộng và dù mỗi người một
tính, họ vẫn rất yêu thương nhau.
- Phương Định là cô gái mơ mộng, hồn nhiên và dũng cảm.
- Phần cuối truyện kể về hành động, tâm trạng các nhân vật trong lúc
chăm sóc Nho bị thương khi phá bom.
<b>Đề 2: Giải thích ý nghĩa nhan đề của tác phẩm " Những ngôi sao xa</b>
<i><b>xôi"</b>của Lê Minh Khuê.</i>
“Những ngôi sao xa xôi” là một nhan đề rất lãng mạn, rất đặc trưng của
văn học thời kháng chiến chống Mĩ.
Nhan đề “Những ngôi sao xa xơi” xuất phát từ ánh mắt nhìn xa xăm của
Phương Định, lời các anh bộ đội lái xe ngợi ca họ, hình ảnh lãng mạn, đẹp và
trong sáng lại phù hợp với những cô gái mơ mộng đang sống và chiến đấu trên
cao điểm trên tuyến đường Trường Sơn những năm chống Mĩ (60-70) ác liệt. Ba
cô gái trẻ ba vì sao xa xơi trên cao điểm của tuyến đường Trường Sơn.
“Những ngôi sao xa xôi” cái ánh sáng ẩn hiện xa xơi, dịu dàng mát mẻ
như sương núi, có sức mê hoặc lịng người. Đó là biểu tượng về sự ngời sáng
của phẩm chất cách mạng trong những cô gái thanh niên xung phong Trường
Sơn. Phương Định, Nho hay Thao đều là những "ngôi sao xa" nơi cuối rừng
Trường Sơn, sáng ngời vẻ đẹp của chủ nghĩa anh hùng cách mạng. Bằng khả
<b>2. Dạng đề 7 điểm </b>
<b>Đề 1: Phát biểu cảm nghĩ của em về nhân vật Phương Định trong tác</b>
<i>phẩm "Những ngôi sao xa xôi" của Lê Minh Khuê.</i>
Lê Minh Khuê thuộc thế hệ nhà văn bắt đầu sáng tác trong thời kỳ kháng
chiến chống Mĩ. Những tác phẩm đầu tay của cây bút nữ này ra mắt vào đầu
những năm 70 của thế kỷ XX, đều viết về cuộc sống chiến đấu của thanh niên
xung phong và bộ đội trên tuyến đờng Trờng Sơn.
trở về hang, cô nào cũng chỉ thấy hai con mắt lấp lánh, hàm răng loá lên, khi
cười, khn mặt thì lem luốc.
Cả ba cô gái, cô nào cũng đáng mến, đáng cảm phục. Nhưng Phương
Định là cô gái để lại nhiều ấn tượng sâu sắc trong lòng ta.
Phương Định, con gái Hà Nội hai bím tóc dày, tương đối mềm, một cái cổ
<i>cao, kiêu hãnh như đài hoa loa kèn. Đôi mắt cơ được các anh lái xe bảo là có</i>
<i>cái nhìn sao mà xa xăm. Nhiều pháo thủ và lái xe hay "hỏi thăm" hoặc "viết</i>
<i>những bức thư dài gửi đường dây" cho Định. Cơ có vẻ kiêu kì, làm "điệu" khi</i>
tiếp xúc với một anh bộ đội nói giỏi nào đấy, nhưng trong suy nghĩ của cơ thì
<i>những người đẹp nhất, thông minh, can đảm và cao thượng nhất là những người</i>
<i>mặc qn phục, có ngơi sao trên mũ.</i>
Ở Phương Định, ta cịn bắt gặp hình ảnh một cơ gái rất hồn nhiên, yêu
đời, giàu cá tính. Thuở nhỏ đã hay hát. Cơ có thể ngời lên thành cửa sổ căn
Trong khángchiến chống Mĩ, tiền tuyến vẫy gọi, hàng vạn cơ gái mang
chí khí Bà Trưng, Bà Triệu xung phong ra tiền tuyến trong đó có Phương Định.
Con đường Trường Sơn huyền thoại được làm nên bằng xương máu, mồ hơi và
bao sự tích phi thường của những người con gái Việt Nam anh hùng.
Những ngôi sao xa xôi tái hiện chân thực diễn biến tâm lí Phương Định
trong một lần phá bom nổ chậm. Cơ dũng cảm, bình tĩnh tiến đến gần quả bom
<i>đàng hoàng mà bước tới. Định dung lưỡi xẻng đào đất, có lúc lưỡi xẻng chạm</i>
vào quả bom, có lúc Định rùng mình vì cảm thấy tại sao mình làm chậm thế!
Rồi bom nổ váng óc, đất rơi lộp bộp, mắt cay mãi mới mở được, cát lạo xạo
trong miệng. Đó là cuộc sống thường nhật của họ. Phương Định cho biết tơi có
<i>nghĩ đến cái chết. Nhưng đó là một cái chết mờ nhạt không cụ thể</i>.. Phương
Định cùng Nho, chị Thao đã sáng ngời trong khói bom lửa đạn. Chiến cơng
thầm lặng của họ bất tử với năm tháng và lòng người.
Phương Định, cô gái Hà Nội xinh đẹp, dũng cảm trong lửa đạn, giàu tình
yêu thương đồng đội, trong sáng, mộng mơ, thích làm dun như cơ thơn nữ
ngày xưa soi mình xuống giếng làng vừa mỉm cười vừa vuốt tóc. Họ có mặt trên
những trọng điểm của con đường Trường Sơn chiến lược và trái tim rực đỏ của
họ của những người con gái Việt Nam anh hùng là những ngôi sao xa xôi mãi
mãi lung linh, toả sáng.
"Những ngôi sao xa xôi" của Lê Minh Khuê đã làm sống lại trong lịng ta
hình ảnh tuyệt đẹp về những chiến công phi thường của tổ trinh sát mặt đường,
của Nho, Định, Thao, của hàng vạn cô thanh niên xung phong thời đánh Mĩ.
Chiến công thầm lặng của Phương Định và đồng đội là bài ca anh hùng.
<i> Đề 2: Vẻ đẹp tính cách và tâm hồn của các nhân vật nữ thanh niên xung phong</i>
<i>trong truyện " Những ngôi sao xa xôi" của Lê Minh Khuê.</i>
Lê Minh Khuê là cây bút nữ chuyên về truyện ngắn. Trong những năm
chiến tranh, truyện của Lê Minh Khuê viết về cuộc sống chiến đấu của tuổi trẻ ở
tuyến đường Trường Sơn. Sau năm 1975, tác phẩm của nhà văn bám sát những
chuyển biến của đời sống xã hội và con người trên con đường đổi mới.
Truyện " Những ngôi sao xa xôi" ở trong số những tác phẩm đầu tay của
Lê Minh Khuê, viết năm 1971, lúc cuộc kháng chiến chống Mĩ của dân tộc đang
diễn ra ác liệt. Truyện viết về cuộc sống chiến đấu của tổ trinh sát mặt đường,
trên con đường chiến lược Trương Sơn thời đánh Mĩ.
Ba nữ thanh niên xung phong làm thành một tổ trinh sát mặt đường tại
một trọng điểm trên tuyến đường Trường Sơn. Họ gồm có hai cơ gái rất trẻ là
Định và Nho, còn tổ trưởng là chị Thao, lớn tuổi hơn. Nhiệm vụ của họ là
quan sát địch ném bom, đo khối lượng đất đá phải san lấp do địch gây ra,
đánh dấu vị trí các trái bom chưa nổ và phá bom. Công việc của họ hết sức
nguy hiểm vì thường xuyên phải chạy trên cao điểm giữa ban ngày và máy
bay địch có thể ập đến bất cứ lúc nào. Đặc biệt, họ phải bình tĩnh đối mặt với
thần chết trong mỗi lần phá bom – mà công việc này diễn ra hàng ngày,
thậm chí mấy lần trong một ngày. Họ ở trong một cái hang, dưới chân cao
điểm, tách xa đơn vị. Cuộc sống của các cô gái ở nơi trọng điểm giữa chiến
trường rất khắc nghiệt và nguy hiểm nhưng vẫn có những niềm vui hồn nhiên
Ba cô gái thanh niên xung phong trên tuyến đường Trường Sơn là những
cô gái tuổi đời cịn trẻ. Vì nhiệm vụ giải phóng miền Nam, họ đã không tiếc tuổi
xuân chiến đấu, cống hiến cho đất nước.
Công việc của họ là trinh sát mặt đường gặp nhiều khó khăn nguy hiểm.
Họ phải làm việc dưới mưa bom bão đạn, phải phá bom thơng đường để những
đồn qn tiến vào giải phóng miền Nam.
Họ mang lí tưởng chiến đấu để thống nhất Tổ Quốc nên đều giàu tinh
thần trách nhiệm, coi thường gian khổ. Mỗi nhân vật có nét tính cách riêng
nhưng họ yêu thương, lạc quan, có niềm tin vào tình yêu đất nước.
Ba cô gái, mỗi người mang vẻ đẹp riêng.
Phương Định là cô gái Hà Nội trẻ trung yêu đời. Cơ thích ngắm mình
trong gương, là người có ý thức về nhan sắc của mình. Cơ có hai bím tóc dày,
tương đối mềm, một cái cổ cao, kiêu hãnh như đài hoa loa kèn. Đôi mắt màu
nâu, dài dài, hay nheo nheo như chói nắng...
Phương Định là nhân vật kể chuyện xưng tơi đầy nữ tính.Cơ đẹp nhưng
khơng kiêu căng mà có sự thơng cảm, hồ nhập. Cơ thích hát dân ca quan họ
Bắc Ninh, dân ca Ý, đặc biệt hát bài Ca-chiu-sa. Cơ có tài bịa lời cho những bài
hát. Những bài hát về cuộc đời, về tình yêu và sự sống cất lên giữa cuộc chiến
tranh ác liệt tôn thêm vẻ đẹp của những cô thanh niên xung phong có niềm tin
vào cuộc chiến tranh chính nghĩa của dân tộc.
thế nào nhưng cô vẫn bình tĩnh vì một ngày ít nhất các cơ phải phá bom ba lần,
Phương Định cịn là cô gái dễ thương, hay xúc động. Chứng kiến cảnh
trận mưa đá cô nhớ về Hà Nội, nhớ mẹ, nhớ cái cửa sổ, nhớ những ngôi sao, nhớ
quảng trường lung linh... Những hồi niệm; kí ức dội lên sâu thẳm càng chứng
tỏ sự nhạy cảm trong tâm hồn cô gái Hà Nội mơ mộng, lãng mạn, thật đáng yêu.
Bên cạnh đó, Lê Minh Kh cịn dành những lời kể khá ấn tượng về nhân
vật Thao. Thao là cô gái lớn tuổi nhất trong nhóm, là đội trưởng tổ trinh sát mặt
đường. Ở chị có những nét dễ nhớ ấn tượng. Chị cũng tỉa tót lơng mày nhỏ như
cái tăm, cương quyết, mạnh mẽ, táo bạo. Chị không sợ bom đạn, chỉ đạo cơng
việc dứt khốt nhưng lại rất sợ máu và vắt.
Chị yêu thương đồng đội đúng vai trò của người chị cả. Khi Nho bị
thương, chị rất lo lắng, săn sóc tận tình từng hớp nước, cốc sữa. Tình đồng đội
sưởi ấm tâm hồn những cơ gái lúc khó khăn nhất.
Chị Thao cũng thích hát dù hát sai lời và sai nhạc. Tiếng hát yêu đời, cất
lên từ cuộc chiến tranh để khẳng định bản lĩnh, sức mạnh, niềm tin vào lí tưởng
của thanh niên thời đại những năm chống Mĩ.
Nhân vật Nho xuất hiện trong thời điểm quan trọng của câu chuyện. Đó là
lúc phá bom, khi ranh giới của sự sống và cái chết gần kề gang tấc. Nho nhỏ
nhẹ, dịu dàng, dun dáng " Trơng nó nhẹ mát mẻ như một que kem trắng".
Những phẩm chất cao đẹp của Phơng Định, của Thao, Nho đã đợc
khắc hoạ bằng sự am hiểu tâm lí giới tính của Lê Minh Kh. Thành cơng về xây
dựng nhân vật cịn đợc đóng góp bởi ngơn ngữ trần thuật tự nhiên, hấp dẫn dới
ngôi kể thứ nhất, những câu ngắn, nhịp nhanh, giọng điệu gắn liền với ngôn ngữ
Truyện “Những ngôi sao xa xơi” của Lê Minh Kh đã làm sống lại trong
lịng ta hình ảnh tuyệt đẹp và những chiến cơng phi thường của tổ trinh sát mặt
đường của Định, Nho, của chị Thao, của hàng ngàn, hàng vạn cô thanh niên
xung phong thời chống Mĩ. Chiến công thầm lặng của Phương Định và đồng đội
là bài ca anh hùng.