Tải bản đầy đủ (.docx) (34 trang)

TÔN GIÁO KHU VỰC ĐÔNG BẮC Á (PHÂN TÍCH ẢNH HƯỞNG CỦA PHẬT GIÁO ĐẾN NHÂN SINH QUAN CỦA NGƯỜI HÀN QUỐC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (291.3 KB, 34 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

BÀI TIỂU LUẬN CUỐI KỲ
BỘ MÔN : TÔN GIÁO HỌC ĐÔNG BẮC Á
ĐỀ TÀI : PHÂN TÍCH ẢNH HƯỞNG CỦA PHẬT GIÁO ĐẾN
NHÂN SINH QUAN CỦA NGƯỜI HÀN QUỐC HIỆN NAY
Sinh viên thực hiện :
MSSV :
Khoa : Đông Phương học
Lớp:
Giảng viên :

21 tháng 05 năm 2019



MỤC LỤC

MỞ ĐẦU............................................................................................................. 3
1. Lý do nghiên cứu đề tài:.................................................................... 3
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:..................................................... 4
3. Phương pháp nghiên cứu:................................................................. 4
4. Cấu trúc bài tiểu luận:....................................................................... 5

NỘI DUNG.......................................................................................................... 5
CHƯƠNG I: NHÂN SINH QUAN VÀ NHÂN SINH QUAN PHẬT
GIÁO........................................................................................................ 5
1.1 Định nghĩa nhân sinh quan:.............................................................. 5
1.2 Nhân sinh quan Phật giáo, Vị trí nhân sinh quan trong tư tưởng
triết học Phật giáo.................................................................................... 7


1.3 Nội dung nhân sinh quan Phật giáo............................................ 10
CHƯƠNG II ẢNH HƯỞNG CỦA PHẬT GIÁO ĐẾN NHÂN SINH
QUAN CỦA NGƯỜI HÀN QUỐC HIỆN NAY................................ 16
2.1. Quá trình du nhập và phát triển của Phật giáo vào Hàn Quốc. 16
2.1.1 Quá trình du nhập Phật giáo vào Hàn Quốc................................... 16
2.1.2 Phật giáo Hàn Quốc hiện đại.......................................................... 19
2.1.3 Đặc điểm của Phật giáo ở Hàn Quốc:........................................... 21


2.2 Ảnh hưởng của Phật giáo đến một số lĩnh vực trong đời sống văn
hóa tinh thần của người Hàn Quốc:.................................................. 23
2.2.1 Ảnh hưởng của Phật giáo đến lối sống của người Hàn :........ 24
2.2.3.Phật giáo với truyền thống học tập và phát triển tri thức:..... 26
2.2.4 Ảnh hưởng của Phật giáo đến nghệ thuật và kiến trúc của người
Hàn Quốc hiện đại:............................................................................. 26
2.2.5 Ảnh hưởng của Phật giáo đến một số lễ hội của người Hàn Quốc
hiện đại:............................................................................................... 28

KẾT LUẬN:.................................................................................................... 30
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO:.............................................. 31


MỞ ĐẦU
1. Lý do nghiên cứu đề tài:

Vào khoảng giữa thiên niên kỷ thứ nhất trước Công Nguyên ở Ấn Độ xuất hiện
hàng loạt giáo phái – học thuyết tư tưởng khác nhau,trong đó có đạo Phật và
người sáng lập là Siddarta Goutama( Phật Thích Ca Mâu Ni). Trải qua 2500
năm, Phật giáo được truyền bá rộng rãi từ Đông sang Tây và lan rộng trên toàn
thế giới. Những giáo lý mang nặng tính triết lý nhân sinh, đạo đức của Phật giáo

đã có ảnh hưởng sâu rộng đến phong tục, tập quán, văn hóa, văn minh của nhiều
dân tộc, trong đó có Hàn Quốc.
Có thể nói nhân sinh quan và thế giới quan là những nhân tố cấu thành tư tưởng
triết học Phật giáo. Trong đó , nhân sinh quan Phật giáo đóng vai trị to lớn
trong việc góp phần hình thành nhân cách ,đạo đức cao đẹp của con người. Từ
khi du nhập vào Hàn Quốc, Phật giáo ln có một vị trí đặc biệt quan trọng và
ảnh hưởng sâu rộng tới đời sống xã hội người Hàn. Chính vì thế mà Phật giáo là
tơn giáo lớn nhất ở Hàn Quốc và có nhiều tín đồ nhất tại Hàn Quốc hiện
nay,chiếm 50% cộng đồng tôn giáo. Theo cục thống kê công bố , tổng dân số
Hàn Quốc năm 2014 là 50.424.000 người, Hàn Quốc hiện có hơn 20 triệu Phật
tử và 20 nghìn cơ sở tự viện trên tồn quốc.
Ngun nhân nào mà Phật giáo lại có số lượng tín đồ đơng ,số lượng cơ sở tự
viện nhiều đến như vậy? Phật giáo ảnh hưởng đến nhân sinh quan người Hàn
Quốc hiện nay như thế nào? Xuất phát từ những nghi vấn đó tơi quyết định chọn


đề tài “Phân tích ảnh hưởng của Phật giáo đến nhân sinh quan của người
Hàn Quốc hiện nay” làm bài tiểu luận cuối kỳ của mình.

2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
a) Đối tượng nghiên cứu: tập trung nghiên cứu ảnh hưởng của Phật giáo đến
nhân sinh quan của người Hàn Quốc hiện nay từ góc độ triết học – tôn giáo với
hai thời kỳ cơ bản( trước hiện đại và trong q trình hiện đại hóa ngày nay).
b) Phạm vi nghiên cứu: Tập trung làm sáng tỏ ảnh hưởng của Phật giáo đến
nhân sinh quan của người Hàn Quốc hiện nay trong phạm vi một số phương
diện như lối sống, truyền thống học tập và phát triển tri thức, nghệ thuật và kiến
trúc, lễ hội.
3. Phương pháp nghiên cứu:
a) Cơ sở lý luận:
Quan điểm triết học của Ph.angghen, của chủ nghĩa Mác – Lênin về tơn giáo

nói chung và Phật giáo nói riêng.
b)Phương pháp nghiên cứu:
Sử dụng nhiều phương pháp nghiên cứu khác nhau để có thể thu thâp và xử
lý tài liệu một cách hiệu quả như phương pháp lịch sử vấn đề , phương pháp
phân tích, tổng hợp, so sánh để thấy rõ sự ảnh hưởng của Phật giáo đến nhân
sinh quan của người Hàn Quốc hiện nay.

4. Cấu trúc bài tiểu luận:
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
bài tiểu luận gồm có 3 chương:


Chương 1: Nhân sinh quan Phật giáo và ảnh hưởng của nhân sinh quan
Phật giáo đến đời sống tinh thần của người Hàn Quốc hiện nay.
Chương 2: Ảnh hưởng của Phật giáo đến nhân sinh quan của người Hàn
Quốc hiện nay.

NỘI DUNG
CHƯƠNG I: NHÂN SINH QUAN VÀ NHÂN SINH QUAN PHẬT GIÁO

1.1 Định nghĩa nhân sinh quan:
Trong Từ điển tiếng Việt thơng dụng có định nghĩa, “Nhân sinh quan là
quan niệm về cuộc đời, thành hệ thống bao gồm lý tưởng, lẽ sống, lối sống…”
Trong Nhân sinh quan mới, Du Minh Hồng quan niệm, “Nhân sinh
quan nói vắn tắt thì đó là cách người ta nhìn nhận cuộc đời, hay là cái “đạo” làm
người của người ta” Sau đó tác giả lại cho rằng “Làm người mà không biết đến
nhân sinh quan, khơng có nhân sinh quan, khơng hiểu rõ đạo làm người, cứ mờ
mờ mịt mịt , sống say chết mộng, thì cuộc đời thật là vơ vị”, và nghiên cứu nhân
sinh quan tức là “nghiên cứu vấn đề bản chất, mục đích, thái độ và hành vi của
đời sống con người”.

Trong Nhân sinh quan cộng sản chủ nghĩa – tài liệu học tập cho cán bộ
trường Đảng cơ sở định nghĩa “Nhân sinh quan là toàn bộ những quan niệm
chung nhất về cuộc sống của con người. Nhân sinh quan đề ra và giải đáp những
vấn đề sau đây: Con người sinh ra để làm gì? Lẽ sống của con người là gì? Sống
như thế nào cho xứng đáng làm con người? Tóm lại nhân sinh quan nói lên quan
niệm của con người về bản chất, mục đích của cuộc sống về thái độ và hành vi
của con người ta trong cuộc sống”.


Từ một vài định nghĩa về nhân sinh quan ở trên, có thể nhận thấy rằng,
các nhà nghiên cứu có những quan niệm khác nhau về nhân sinh quan. Nhân
sinh quan không thể nào tách rời khỏi sự phát triển của thời đại.
Từ quan niệm của các học giả cũng như thực tiễn cuộc sống, có thể định
nghĩa một cách đầy đủ rằng, nhân sinh quan là toàn bộ quan niệm của con
người, có tính lịch sử - xã hội về bản thân, về cuộc sống và vị trí của mình trên
thế giới nhằm giải đáp những vấn đề về mục đích, ý nghĩa bản thân cuộc sống
của con người đang đặt ra cho thực tiễn xã hội.
Khái niệm này cho phép ta có thể khái quát những đặc trưng cơ bản của
nhân sinh quan gồm:
Thứ nhất, nhân sinh quan thuộc lĩnh vực đời sống tinh thần của con
người.
Thứ hai, nhân sinh quan là sự phản ánh mối quan hệ giữa con người với
con người, con người với xã hội.
Thứ ba, nhân sinh quan có tính lịch sử - xã hội và mang tính giai cấp. Nó
ra đời, vận động và phát triển cùng với sự vận động và phát triển của lồi người.
Nó biểu hiện trình độ và lợi ích khác nhau của con người trong những giai đoạn
lịch sử nhất định.
Thứ tư, những nội dung tri thức trong nhân sinh quan có ảnh hưởng
quyết định đến định hướng các hành vi của mỗi cá nhân hay cộng đồng.
Thứ năm, nhân sinh quan có thể là của cá nhân, cũng có thể là cộng

đồng.
Về cấu trúc: Nhân sinh quan là hiện tượng tinh thần, có cấu trúc phức
tạp và được tiếp cận từ nhiều góc độ khác nhau. Nhìn chung, nhân sinh quan có
4 yếu tố cơ bản, liên hệ mật thiết với nhau đó là tri thức, niềm tin và lý tưởng.


Về chức năng: Trong nhân sinh quan có niều chức năng, nhưng nổi bật
là chức năng nhận thức, chức năng xác lập giá trị, chức năng đánh giá, chức
năng điều chỉnh hành vi… Trong đó, điều chỉnh, định hướng cho hoạt động của
con người là chức năng cơ bản nhất.
Nhân sinh quan do thế giới quan quy định, nó giúp con người định
hướng trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn, xác định mục tiêu,
phương hướng hoạt động của bản thân. Từ đó, nhân sinh quan giúp con người
xác địnhlý tưởng, hoài bão, ước mơ, ý nghĩa cuộc sống. Khi con người xác định
đúng thái độ, cách thức hoạt động và cách sống, con người sẽ điều chỉnh được
những hành vi của bản thân với những người xung quanh cho phù hợp mục tiêu
chung và quy luật khách quan của sự phát triển xã hội.

1.2 Nhân sinh quan Phật giáo, Vị trí nhân sinh quan trong t ư tưởng
triết học Phật giáo.
Về bản chất, tôn giáo không chỉ là hình thái ý thức xã hội mà cịn là một
thực thể xã hội. Với tư cách là hình thái ý thức xã hội, tôn giáo phản ánh một
cách hoang đường, hư ảo hiện thực khách quan. Điều này được Ph.Angghen
nêu: “Tất cả mọi tôn giáo chẳng qua chỉ là sự phản ánh hư ảo – vào trong đầu óc
của con người – của những lực lượng bên ngoài chi phối cuộc sống hàng ngày
của họ; chỉ là sự phản ánh trong đó những lực lượng ở tràn thế đã mang hình
thức những lực lượng siêu trần thế”.
Điều này có nghĩa là con người sáng tạo ra tôn giáo chứ không phải tôn
giáo sáng tạo ra con người. Ngược lại tơn giáo có ảnh hưởng đến đời sống của
con người trên nhiều lĩnh vực khác nhau.



Phật giáo là một trong mười tôn giáo lớn trên thế giới, ra đời hơn 2500
năm nay và được truyền bá tới nhiều nước trên thế giới và nhanh chóng trở
thành tơn giáo mang tính thế giới , Trong qua trình du nhập trải qua các thời kỳ
lịch sử, Phật giáo lại phụ thuộc vào tình hình kinh tế, xã hội của mỗi quốc gia
mà biến đổi ít nhiều. Ảnh hưởng của Phật giáo đến xã hội loài người diễn ra từ
rất sớm cùng với đó là tốc độ lan truyền cực nhanh. Ngày nay Phật giáo nắm vị
trí quan trọng trong đời sống tinh thần của con người ở nhiều quốc gia trên thế
giới trong đó có Hàn Quốc.
Phật giáo ra đời ở Ấn Độ vào khoảng thế ky VI trước Công nguyên, Người
sáng lập là Siddharta Guatama (563 – 483 tr. CN ) , Trung Quốc dịch là Tất Đạt
Đa, nghĩa là người có mục đích. Ơng là thái tử con vua Kapalivastu trị vì một
nước nhỏ ở vùng miền núi phía Nam Hymalaya, Bắc Ấn Độ , nay thuộc Nêpan.
Cuộc sống cung đình đã tạo cho ơng một lối sống ngăn cách với xã hội bên
ngồi, chính vì thế mà ơng khơng hề hay biết những cực nhọc, vất vả, khó
khăn ,đen tối, bất hạnh đang diễn ra ở xã hội rộng lớn ngoài kia, Sau 4 lần ơng
trực tiếp đi ra ngồi thành và tận mắt chứng kiến nỗi khổ của chúng sinh , ơng
khởi lịng xót thương vơ hạn và đã quyết định noi gương các đạo sĩ thời bấy giờ
đi tìm con đường cứu khổ cho chúng sinh. Năm 19 tuổi ông bỏ cung điện lộng
lẫy của mình một mình ra đi quyết tâm trở thành một ẩn tu. Sau 11 năm học đạo
và tu khổ hạnh ông chợt nhận thấy rằng, lối tu đó cũng khơng thể giải thốt con
người khỏi nỗi ssau sinh, lão, bệnh, tử. Theo ông, tu khổ hạnh hay chủ trương
khoái lạc cũng đều là những cực đoan phi lý như nhau. Bằng sự kiên trì và nhạy
cảm của trí tuệ, sau 49 ngày đêm ngồi thiền định dưới gốc cây Bồ đề, cuối cùng
ông đã giác ngộ được chân lý. Lúc này Tất Đạt Đa dã chỉ ra rằng chúng sinh
đang chìm đắm trong bể khổ, hơn thế nữa ơng cịn lý giải được nguồn gốc nỗi
khổ của chúng sinh cũng như tìm ra được phương pháp giải thốt diệt khổ. Từ
đó ơng lấy hiệu là Buddha – tức Phật, có nghĩa là “người đã giác ngộ về chân
lý”. Sau đó ơng đã đi khắp miền trung du sông Hằng để truyền bá giáo lý của



mình. Người đời gọi ơng là Sakya Muni ( nhà hiền triết xứ Cakya) tức Thích Ca
Mâu Ni. Hệ tư tưởng của ông sau được tập hợp sau được tập hợp và gọi là đạo
Phật ( Bouddshime). Tư tưởng của Phật được các thế hệ nhà sư sau đó phát triển
thành một hệ thống đồ sộ, trở thành một trường phái tơn giáo – triết học lớn, có
ảnh hưởng tới nhiều nước trên thế giới.
Sinh thời, Đức Phật không viết sách mà chỉ thuyết giảng cho các học trị của
mình bằng lời nói. Sau khi Đức Phật nhập Niết bàn, các đệ tử đã tập hợp, phát
triển tư tưởng của Người để xây dựng một học thuyết tơn giáo hồn chỉnh được
đúc kết thành ba Tạng - Tam Tạng Kinh(Tripitaka), đó là: tạng Kinh(Sutra),
được coi là lời Buddha đã thuyết pháp; tạng Luật(Vinaya), giới điểu của Phật
đoàn; tạng Luận(Sastra), các tác phẩm luận giải các vấn đề của Phật giáo các
cao tăng đời sau. Về sau Phật giáo chia thành Phật giáo Tiểu thừa và Đại thừa
với nhiều tông phái khác nhau, du nhập và phát triển ra nhiều nước trên thế giới,
Dù đã trải qua lịch sử thăng trầm hơn 2500 năm, với nhiều cách thừa nhận và
đánh giá khác nhau, nhưng Phật giáo, mà triết lý nhân sinh của nó giàu lịng vị
tha, thương người, gần gũi với con người và mang nặng tính nhân sinh hơn các
ton giáo khác.
Giáo lý Phật giáo bao gồm hệ thống quan niệm veeg nhận thức luận, thế giới
quan, nhân sinh quan với một kết cấu chặt chẽ. Nhân sinh quan Phật giáo được
bắt nguồn từ thế giới quan. Tuy nhiên mục đích chủ yếu của Phật giáo là cứu
khổ, cứu nạn, giải phóng con người cho nên nó mang giá trị nhân sinh sâu sắc.
Triết học phương Đơng (trong đó có triết học Phật giáo ) nghiêng về việc
nghiên cứu, tìm hiểu những vấn đề chính trị, xã hội, đạo đức, tôn giáo, đặc biệt
là vấn đề con người để làm sáng tỏ con người. Mục đích nhận thức thế giới của
triết học đều nhằm phục vụ cho đời sống cuả con người và xã hội. Cũng như
nhiều trào lưu tư tưởng triết học phườn Đông, Phật giáo đề cao và nhấn mạnh
vấn đề nhân sinh. Điều này góp phần lý giải vì sao mặt vũ trụ quan, thế giới



quan của Phật giáo, nhất là Phật giáo nguyên thủy hơi mờ nhạt trong khi nhân
sinh quan lại khá rõ ràng và mang tính nổi trội. Mục đích cuối cùng của Phật
giáo là giải thoát con người khỏi nỗi khổ trần thế thông qua con đường tụ tập về
mặt tâm linh.
Như vậy, đối tượng nghiên cứu của Phật giáo là con người, là giá trị nhân
sinh. Phật giáo ra đời là tiếng nói phủ nhận uy thế của kinh Vêđa và đạo Bà La
môn, tố cáo chế độ phân biệt đẳng cấp khắt khe của xã hội Ấn Độ, đòi quyền tự
do tư tưởng và bình đẳng xã hội, xóa bỏ nỗi khổ trong đời sống của người dân
Ấn Độ. Đức Phật tun bố: “khơng có đẳng cấp trong dịng máu cùng đỏ, khơng
có đẳng cấp trong giọt nước mắt cùng mặn, con người sinh ra không phải đã
mang sẵn trong bào thai dây chuyền ở cổ hay dấu tin ca( dấu hiệu q phái của
dịng Bà La Mơn) trên trán . Qua đó thể hiện mặt tích cực của nhân sinh quan
Phật giáo trong lĩnh vực xã hội. Có thể nói, nguyện vọng cứu khổ của Đức Phật
mang tính nhân văn sâu sắc.
1.3 Nội dung nhân sinh quan Phật giáo
Với tư cách là một hình thái ý thức xã hội, nhân sinh quan Phật giáo chịu
sự quy định của tồn tại xã hội và tác động của các hình thái ý thức xã hội khác.
Điều này cũng giải thích lý do trong lịch sử tồn tại và phát triển, nhân sinh quan
Phật giáo có sự biến đổi, khơng cịn giữ nguyên vẹn như ở Phật giáo thời
nguyên thủy. Nghiên cứu chi tiết cho thấy, các phái Phật giáo có những quan
niệm khác nhau về nhân sinh nhưng tóm lại thì triết lý Phật giáo nói chung và
nhân sinh quan nói Phật giáo nói riêng đã biến đổi, phát triển ngày một đa
dạng , phong phú để thích nghi được với truyền truyền thống của mỗi quốc gia,
dân tộc trong những thời kỳ lịch sử nhất định.
Nhân sinh quan Phật giáo là một hệ thống gồm các quan điểm về con
người, đời sống của con người. Phật giáo tập trung ở học thuyết cấu tạo con
người, học thuyết về sự xuất hiện và tái sinh.



Phật giáo cho rằng thế giới – tất cả mọi sự vật xung quanh cũng như con
người , đặc biệt là thế giới hữu tình của con người, chỉ là ảo giả, khơng có thực.
Bản chất của sự tồn tại cuả thế giới là một dòng chuyển biến liên tục, khơng có
ngun nhân đầu tiên, khơng có gì “ thường hằng”, tồn tại mãi mãi (vô thường).
Sở dĩ con người cho rằng thế giới xung quanh cũng như con người tồn tại thực
là do con người “vô minh” , ngu dốt mà ra. Con người đã “ngộ nhận” cái ảo giả
là thực.
Theo Phật, thế giới do các yếu tố vật chất (Sắc) và tinh thần (Danh) tạo
nên. Danh và Sắc lại được chia thành “Ngũ uẩn”( Sắc, Thụ, Tưởng, Hành,
Thức). Con người chẳng qua cũng chỉ là do “Ngũ uẩn” hợp với nhau mà thành.
Danh và Sắc chỉ hội tụ với nhau trong một thời gian ngắn (trong chớp mắt –
satna) rồi lại chuyển sang trạng thái khác, do vậy khơng có “cái tơi” thực sự (vơ
ngã). Thế giới các sự vật biến đổi theo chu trình Sinh – Trụ - Di – Diệt; con
người theo quy luật Sinh – Lão – Bệnh – Tử. Q trình chuyển biến đó tuân
theo quy luật nhân quả tương dục.
Cũng như mọi học thuyết tơn giáo khác, mục đích cuố cùng của Phật là
tìm ra con đường giải thốt, đưa chúng sinh ra khỏi vòng luân hồi bất tận. Trải
qua bao khổ luyện, Phật đã tìm được con đường giải thốt. Nhưng do chịu ảnh
hưởng của thuyết luân hồi, do quan niệm sự tồn tại của con người chỉ là giả tạm
mà con đường giải thốt của Phật khơng thể là con đường đưa lại hạnh phúc
thực sự cho con người trong trần thế, bởi lẽ cái mà Phật mong muốn giải thoát
chỉ là linh hồn con người mà thôi!Tuy nhiên, triết lý giải thoát của Phật rất sâu
sắc, tuy tiêu cực nhưng huyền diệu, có ý nghĩa đối với những con người đang bị
đọa đày đau khổ và cho tất cả những ai có trái tim nhân hậu, tin vào luân hồi.
chỉ có thể hiểu rõ hơn, đầy đủ hơn tư tưởng Phật giáo về con người, đời sống
con người, ý nghĩa của cuộc sống và ý nghĩa củ tòn bộ hoạt động mang tính
người của con người qua “Tứ diệt đế” và Thập nhị nhân duyên. Tứ diệu


đế( Catvariryaatyani) là bốn chân lý thánh bao gồm: Khổ đế, tạp đế, diệt đế và

đạo đế - bốn chân lý tuyệt diệu, thiêng liêng mà mọi người cần nhận thức và
thực hiện triệt để nếu muốn linh hồn của mình được giải thốt khỏi ln hồi bất
tận,đầy đau khổ.
*Khổ đế (Duhka – satya)
Triết lý nhân sinh Phật giáo cho rằng, bản chất cuộc đơù con người là
khổ: “Đời là bể khổ, đời là cả những chuỗi bi kịch liên tiếp, bốn phương đều là
bể khổ, nước mắt chúng sinh nhiều hơn nước biển, vị mặn của máu và nước mắt
chúng sinh mặn hơn nước biển”.
Khổ đế nói lên bản chất của nhân sinh. Quan niệm nhân sinh trong triết
học Phật giáo mang tính tiêu cực yếm thế, coi đời chỉ là ảo hóa tạm bợ. Do vơ
minh, con người khơng nhận thức được điều đó, do đó cứ lặn lội mãi trong biển
sinh tử luân hồi. Cuộc đời con người đầy rẫy những nỗi khổ đau nhưng khơng ai
nhìn thấy tường tận và rõ ràng. Đức Phật chỉ rõ: “ Ba giới khơng chút nào n
như lị lửa, nỗi khổ đầy rẫy trong đó, thật là đáng sợ” (Kinh Pháp Hoa); “Ta thấy
các chúng sinh đắm chìm trong bể khổ” ( Kinh Pháp Hoa, Thọ Lượng Phẩm).
Nỗi khổ của thế gian là khơn cùng song có thể chia thành ba loại khổ
hay tám thứ khổ. Ba loại khổ (Tam khổ) là: khổ khổ, hoại khổ và hành khổ. Tám
thứ khổ (Bát khổ) gồm: Sinh, lão, bệnh, tử, ái biệt ly, oán tăng hội, sở cầu bất
đắc, ngũ thụ uẩn khổ.
Tám thứ khổ này là sự cụ thể hóa những nỗi khổ của chúng sinh ở trần
thế. Sinh khổ: con người sinh ra đã cất tiếng khóc chào dời, trước đó cịn ở
trong bụng mẹ thì chật chội, tối tăm, người mẹ mang thai con thì vất vả mệt
nhọc, kém ăn, mất ngủ, chịu bao cái khác thường so với người khác.
Trong cuộc sống hàng ngày , con người muốn tồn tại được thì phải ăn,
uống, mặc, ở, đi lại...Muốn vậy con người phải lao động hết sức vất vả, cực khổ.


Đó là về mặt vật chất, cịn những nỗi khổ về tinh thần dày vị con người cũng
khơng kém nỗi khổ về vật chất, nó làm cho con người suy kiệt, ốm đau. Con
người đến lúc già, tuổi cao, thân thể hao mòn, già yếu các giác quan, mắt mờ,

chân chậm, tai điếc…
Tử: đến một thời điểm nhất định con người phải chết, xa lìa trần thế để
lại nỗi xót thương vô hạn cho người thân, bạn bè. Ai cũng vậy, sợ phải xa lìa
người thân, bạn bè bởi cuộc sống có biết bao điều thú vị.
Ái biệt ly: nỗi khổ phải xa cách chia ly người mình yêu thương như vợ
chồng, cha mẹ, anh em. Nỗi khổ này bao gồm cả nỗi khổ sinh tử biệt ly. Sống
phải xa nhau đã khổ, những người ở lại và cả người đến một thế giới khác cịn
khổ hơn. Đó là một nỗi khổ tuyệt vọng.
Oán tăng hội: nỗi khổ vì phải sống với một người mà mình ghét, khơng
ưa, ở chung với những người như vậy giống như gai đâm vào mắt mà khơng
làm gì được.
Sở cầu bất đắc: là những nỗi khổ do con người mong muốn, ước ao mà
không được.
Ngũ thụ uẩn khổ: Đạo Phật cho rằng con người khơng có thực thể (vơ
ngã) mà chỉ là sự tập hợp của năm thứ: sắc, thụ, tưởng, hành, thức. Vì chỉ là tập
hợp của năm thứ đó, nên đó cũng là một nỗi khổ.
Như vậy, đối với con người, ngoài khổ đau vơ tận khơng cịn điều gì
khác nữa.
*Tập đế (Samudaya – satya):
Tập đế hay còn gọi là Nhân đế nói lên sự tập hợp, tích chứa những
ngun nhân đưa tới cái khổ. Đức Phật cho rằng, mọi cái khổ đều có nguyên
nhân của nó. Thuyết “Thập nhị nhân duyên”chỉ rõ mọi khổ đau của con người


đều có q trình hình thành từ sự “Vơ minh”, tức sự không sáng suốt của con
người. Do không sáng suốt, con người không nhận thức được rằng cả thế giới,
các sự vật hiện tượng trong thế giới đều là ảo giả, do đó con người đã coi cái ảo
giả là thật, lấy sự phân biệt của ý thức chủ quan gắn cho sự vật. Từ đó mà trong
hoạt động ý thức của con người đã có dao động của tâm, có manh nha của
nghiệp. Tâm thức từ chỗ cân bằng, trong sáng đã trở nên ô nhiễm mất cân bằng.

Tâm thức đó tùy theo nghiệp lực mà tìm đến các nguyên nhân khác để hiện hình
thành một đời khác. Tiếp theo đó là q trình hội tụ của Danh và Sắc tạo thành
cơ thể, các giác quan của con người. Các cơ quan đó lại tiếp xúc với các sự vật
mà sinh ra các cảm giác như yêu, ghét, buồn, vui…Từ cảm giác yêu thích, con
người đi đến chiếm đoạt, làm nảy sinh nghiệp cho chính bản thân mình. Nghiệp
đó là nguyên nhân Sinh ra bản thân con người. Và con người phải chịu khổ đau
bởi Lão, Bệnh, Tử cũng như nỗi khổ khác. Lão, Bệnh, Tử là kết quả cuối cùng
của một quá trình đồng thời cũng là nguyên nhân của một vòng luân hồi mới với
sự Sinh của một cuộc đời khác. Nếu khơng thốt khỏi vịng ln hồi nói trên thì
linh hồn của con người sẽ mãi mãi phải chịu đau khổ.
*Diệt đế (Nirodha – satya):
Đức Phật khẳng định, cái khổ có thể tiêu diệt được, chấm dứt được luân
hồi. Vì vậy mỗi chúng sinh phải tu dưỡng thân tâm, loại trừ “vơ minh”,để cho
Phật tính bừng sáng, nó sẽ là ngọn đèn pha dẫn bước chúng sinh đến cõi Niết
bàn.
*Đạo đế (Marga – satya):
Đạo đế là học thuyết về con đường diệt khổ. Phật chỉ ra rằng muốn diệt
khổ phải nhận thức và thực hiện “Bát chính đạo”: Chính kiến, chính tư duy,
chính ngữ, chính nghiệp, chính mệnh, chính tinh tiến, chính niệm, chính định.


Thực chất của “Bát chính đạo” là chỉ ra những nguyên tắc con người cần
thực hiện để đạt tới sự giác ngộ, khắc phục cho được tình trạng “Vơ minh”.
Chính học thuyết về con đường diệt khổ của Phật là nơi chứa đựng những tư
tưởng cơ bản nhất, giá trị nhất về nhân đạo, văn hóa, văn minh. Thực hiện nếp
sống văn hóa do “Bát chính đạo” chỉ ra, con người sẽ khắc phục được “Vô
minh”, tránh được mọi dục vọng cám dỗ, không sa vào những hoạt đọng chiếm
đoạt,…nhờ đó mà khơng tạo ra nghiệp cho chính mình, và cũng nhờ đó mà linh
hồn thốt khỏi ln hồi, lên được cõi vĩnh hằng cực lạc. Chung quy Bát chính
đạo là suy nghĩ, nói năng, hành động đúng đắn.

Phật giáo không lấy giáo lý làm trọng tâm mà chỉ coi đó làm phương
tiện để đạt đến chân lý cuối cùng. Cái quan trọng là sự thực hành của mỗi cá
nhân để đạt đến sự giác ngộ, tu thành đạo quả chứ không phải nghe, giảng để
hiểu đạo. Phật giáo là tôn giáo rất quan tâm đến con người và cuộc đời con
người , đã chỉ ra cho chúng sinh con đường thoát khỏi khổ đau, thoát khỏi bể
khổ trầm luân để đạt đến cõi Niết bàn. Đó là con đường tu học, trau dồi trí tuệ,
phá vỡ Vơ minh.
Tiểu kết chương I : Nhân sinh quan Phật giáo quan niệm bản chất cuộc đời của
con người là đau khổ. Sở dĩ con người đau khổ là do vô minh không nhận thấy
sự vô thường, vô ngã của đời sống , vì thế mà mắc vào tội chấp ngã, khát khao
sự trường tồn vĩnh cửu.
Từ khi ra đời cho đến nay, Phật giáo đã trải qua hơn 2500 năm nhưng quan niệm
về nhân sinh của Phật giáo vẫn là triết lý nhân văn sâu sắc, đề cao vai trò của
con người với niềm tin vào sức mạnh tự giải thoát của từng cá nhân con người.
Không những vậy, nhân sinh quan Phật giáo còn là học thuyết đề cao vai trò của
trí tuệ và đạo đức trong con người. Quan niệm về nhân sinh của Phật giáo là
hướng nội và nhằm vào sự giải thoát của từng cá nhân. Hơn nữa, nhân sinh quan


Phật giáo còn là học thuyết thể hiện được tinh thần bình đẳng, khát vọng về tự
do và hạnh phúc.
Với nội dung chủ yếu là quan niệm về con người và cuộc đời con người, nhân
sinh quan Phật giáo đã có tác động, ảnh hưởng lớn đến việc tu dưỡng đạo đức,
đặc biệt là giúp con người hướng thiện. Từ đó, nhân sinh quan Phật giáo có ảnh
hưởng khơng nỏ đến những nước mà nó du nhập.

CHƯƠNG II ẢNH HƯỞNG CỦA PHẬT GIÁO ĐẾN NHÂN SINH QUAN CỦA
NGƯỜI HÀN QUỐC HIỆN NAY

2.1. Quá trình du nhập và phát triển của Phật giáo vào Hàn Qu ốc.

2.1.1 Quá trình du nhập Phật giáo vào Hàn Quốc.
Căn cứ theo tài liệu của Viện nghiên cứu lịch sử quốc gia Hàn Quốc
(National Instute of Korean History), Phật giáo xuất hiện ở Hàn Quốc vào
khoảng thế kỷ IV, thời Samguk-sidae. Phật giáo từ Ấn Độ qua Trung Quốc vào
Hàn Quốc. Do đó, Phật giáo Hàn Quốc có hịa trộn trong nó có nhiều nét văn
hóa và nét đặc trưng của Phật giáo Trung Quốc. Thời Samguk-sidae, cả ba nhà
nước đều chú trọng tư tưởng Phật giáo làm nền tảng cai trị đất nước và củng cố
vương quyền.
Trong ba quốc gia, Goguryeo là nước tiếp nhận đạo Phật sớm nhất. Năm
372, năm thứ 2 triều đại vua Sosurim Wang, nhà sư Sun Do được triều Tiền Tần
cứ làm sứ thần sang Hàn Quốc và nhà sư này đã mang Phật giáo từ Trung Quốc
truyền vào Gogyryeo. Cũng trong giao đoạn này Chùa Seongmunsa và chùa
Ibullansa được xây dựng và trở thành hai chùa đầu tiên ở Hàn Quốc.
Phật giáo được chính thức biết đến ở Baekje vào đời vua Chimnyu Wang
năm thứ nhất ( năm 384). Nhà sư người Ấn Độ Marananta từ Ấn Độ, qua Đông


Tấn đến bán đảo Hàn. Vua Chimnyu Wang rất kính phục nhà sư Ấn Độ đã
không quản đường xa đến Baekje. Vua đích thân ra đón và mời nhà sư nghỉ lại
trong cung, đồng thời cung kính tiếp đón chu đáo.
Cuối thời kỳ này, Phật giáo đã được truyền bá đồng thời ở cả phía Bắc
và phía Nam bán đảo Hàn.
Phật giáo chính thức vào Silla muộn nhất trong ba nước thời Samguksidae. Theo tài liệu của Viện nghiên cứu lịch sử Hàn Quốc, Phật giáo có thể đã
được truyền vào Silla từ trước đó, nhưng đã mất một giai đoạn dài mới chính
thức được cơng nhận. Mãi đến nhà nước Silla đời vua Beop Heung Wang năm
thứ 14 Phật giáo mới được cơng nhận sau sự kiện tử vì đạo của Ichadon. Vua
Beop Heung Wang muosn ban hành đạo Phật làm quốc giáo nhưng vấp phải sự
phản đối của các quan trong triều đình. Ichadon đã bày mưu giúp vua. Ơng đã
nói rằng bản thân có một phép lạ tuyệt vời sẽ thuyết phục được các quan tin vào
Phật. Ngày 15 tháng 9 năm 527, khi Ichadon bị chặt đầu, lời tiên tri đã ứng

nghiệm. Trời tối sầm lại, mặt đất rung chuyển, hoa rơi xuống như mưa. Khi đầu
của Ichadon bị chặt, từ cái xác không đầu phun ra tia sữa bắn vụt lên trời cao.
Đầu của Ichadon bay về phía ngọn núi thiêng Geumgang-san. Cơ thể của
Ichadon sau đó cũng được đưa về ngọn núi Geungang-san để chôn cất. Vua cho
xây Heungryunsa ( 흥

). Sự kiện này đã đánh dấu sự công nhận Phật giáo của

nhà nước Silla.
Tuy nhiên theo một giả thuyết khác, trong sách
Yanggoseungjeon( Lương Cao Tăng Tuyền) của Trung Quốc, sinh thời, cao tăng
Jidundorim(314-366)của nước Đông Tấn đã gửi thư cho các nhà sư của
Gyguryeo. Điều này chứng tỏ, trước khi nhà sư Sun Do đến Goguryeo, Phật
giáo đã xuất hiện trên bán đảo Hàn.


Theo một giả thuyết khác, trong Samgukyusa, từ rất sớm, năm 48, công
chúa Wangok Hur( 흥 ) của nước Ayuta (Ấn Độ) đã theo đường sơng đến và
trở thành hồng phi của Geungwan Gaya.
Tóm lại, có nhiều giả thuyết về sự xuất hiện và thời điểm xuất hiện của
đạo Phật trên ban đảo Hàn. Có khả năng đạo Phật đã được truyền vào bán đảo
Hàn từ sớm hơn hoặc theo một cách khác. Nhưng hiện nay, giả thuyết về nhà sư
Sun Do và nhà sư A Do, nhà sư người Ấn Độ Marananta và nhà sư Ichando
được Phật giáo Hàn Quốc hiện đại cơng nhận vì đây cũng là thời điểm đạo Phật
được chính thức được tầng lớp cai trị đất nước công nhận, lấy làm quốc giáo.
Đến thời Silla thống nhất, Phật giáo Hàn Quốc tiếp tục phát triển. Giai
đoạn này xuất hiện nhiều nhà sư xuất chúng như: đại sư Won Hyo (617-686) và
đại sưu Eui Sang (625-702). Đại sư Hye Cho( 704-787) đã trực tiếp sang Ấn Độ
để học về đạo Phật. Nghệ thuật Phật giáo phát triển rực rỡ để lại nhiều cơng
trình kiến trúc Phật giáo như Bulguksa, Seokguram, tượng Phật Di Lặc bằng

đồng.
Thời Goguryeo, Phật giáo rất được nhà nước thời kỳ này coi trọng. Một
số nghi lễ Phật giáo trở thành nghi lễ quan trọng của triều đình, nhà vua cầu
phật phù hộ cho sự phát triển thái bình, thịnh trị. Do đó Phật giáo thời Goguryeo
còn gắn với tinh thần bảo vệ đất nước. Cuối thời Goguryeo, tư tưởng Phật giáo
dần suy yếu do chính quyền lạm dụng Phật giáo làm cơng cụ cai trị.
Đến thời Joseon, nhà nước Joseon lấy Nho giáo làm ý niệm cai trị đất
nước. Phật giáo mất đi vị thế quốc giáo và bị đè nén, các nhà sư bị đối xử như
người dân thường. Giai đoạn này, Phật giáo Hàn Quốc có nhiều ni ( sư nữ) và
duy trì âm ỉ, trầm lắng nhưng vẫn như than tro còn hồng, chờ dịp được bùng lên.
Giai đoạn Yim Jin Wae Ran, Phật giáo Hàn Quốc lại bùng lên với tính
chất là một hệ tư tưởng bảo vệ đất nước . Tiêu biểu như Đại sư Seosan đã cùng


nhiều nhà sư khác chiến đấu chống lại quân Nhật và đã hi sinh. Nhưng Phật
giáo vẫn chưa thể giành lại được vị trí đã từng có
Đến cuối thế kỉ thứ XIX, khi các nước đế quốc trên thế giới tranh giành
ảnh hưởng trên bán đảo Hàn Quốc. năm 1910 Nhật Bản thành cơng trong việc
thơn tính Hàn Quốc. Chính quyền Nhật thực hiện có hệ thống chính sách Nhật
hóa nền văn hóa Hàn Quốc. Phật giáo đã trở thành tâm điểm của chính sách này,
với việc Nhật hóa nền văn hóa Hàn Quốc, chính quyền Nhật đưa ra các chính
sách như: ủng hộ các nhà sư Hàn Quốc kết hôn, từ bỏ lối sống độc thân, bỏ chay
ăn thịt…đã có nhiều tu sỹ Phật giáo làm theo, đây chính là nguồn gốc của sự
xung đột trong cộng đồng phật giáo Hàn Quốc khi sau nhiều lần đấu tranh giành
lại chủ quyền Hàn Quốc được giải phóng và thốt khỏi ách thống trị của Nhật
Bản vào năm 1945.Ngay khi thoát khỏi ách thống trị các thiền sư bắt đầu phát
động các phong trào thanh tịnh hóa để tái thành lập các tông phái truyền thống
cho các Tăng sĩ không lấy vợ, và do sự hịa giải giữa chính quyền phái Taego
đại diện cho những tăng sĩ đã có gia đình cũng được thành lập. Năm 1955 phái
Jogye ( Tông Tào khê) được thành lập tiêu biểu cho các Tăng sĩ tu hành độc

thân. Ngày 11/4/1962, Tông phái Jogye của Phật giáo Hàn Quốc chính thức
được thành lập với 3 mục đích chính: đào tạo giáo dục, dịch thuật các kinh điển
từ Hán ngữ sang Hàn ngữ, hoằng pháp lợi sinh..
Tóm lại: Giai đoạn Hanmal và Ilje Sidae ( giai đoạn bị Nhật chiếm
đóng), Phật giáo Hàn Quốc vẫn giữ được nét đặc trưng trước sự ảnh hưởng của
tư tưởng Phật giáo Nhật Bản tràn vào và được người dân Hàn Quốc nối tiếp
truyền lại đến ngày nay. Hiện nay, Phật giáo Hàn Quốc cịn có các phái như
Jogye (Tào khê), Cheontae ( Thiên Thai), Beopsang,…trong đó phái Jogye
( Tào khê) hiện có ở nhiều đền ,chùa nhất trên cả Hàn Quốc.


2.1.2 Phật giáo Hàn Quốc hiện đại
Sau chiến tranh thế giới thứ II kết thúc năm 1945 và cuộc chiến Nam-Bắc Hàn,
Phật giáo Hàn Quốc đã phải đối diện với nhiều thách thức và đang dần thích
nghi với cuộc sống của thế giới hiện đại. Từng bị lãng quên một thời gian dài
nơi rừng sâu, nay đã trở lại sinh hoạt nơi thị thành. Nhiều chùa chiền đã được
xây dựng, khơi phục, các hoạt động vì lợi ích cộng đồng được nhân rộng…
Hiện nay ở Hàn Quốc có 18 tơng phái Phật giáo khác nhau xuất phát từ bốn
tông phái chính là Thiền tơng, Mật tơng, Pháp Hoa tơng và Hoa Nghiêm tông.
Tất cả đều theo truyền thống Phật giáo Đại thừa. Trong 18 tơng phái trên, nổi
bật và có tầm ảnh hưởng sâu rộng nhất là Thiền phái Tào Khê đã được thiền sư
Tae-Go (Thái Cổ: 1301-1382) sáng lập. Riêng thiền phái này có 1632 ngơi chùa
với chi nhánh ở khắp trong và ngồi nước, và có khoảng 18.000 tăng ni và
khoảng 6.000.000 Phật tử. Phật giáo Hàn Quốc đã gắn liền với sự thịnh suy,
thăng trầm của vận nước. Thế kỷ 20, từ khi đất nước Hàn Quốc đuổi giặc ngoại
xâm giành lại nền độc lập, Phật giáo phải đối phó với nhiều thách thức thời đại
mới nhưng Phật giáo vẫn giữ một vai trò quan trọng trong xã hội Hàn Quốc mà
khơng một tơn giáo nào có thể thay thế.
Theo thống kê sự phân bố tôn giáo ở Hàn Quốc năm 2005 như sau:
Các tôn giáo

Chiếm %
Phật giáo
43%
Đạo tin Lành
34,5%
Đạo Thiên chúa
20,6%
Tôn giáo khác
1,9%
( Thống kê sự phân bố tôn giáo ở Hàn Quốc, 2005)

Số người
10,726,000
8,616,000
5,146,000
483,000

Gần đây nhất là báo cáo của cục Thống Kê và Đo lường Hàn Quốc, tính đến
năm 2018, số người theo đạo chiếm 43,1% tổng số dân và hiện nay có hơn 510
tổ chức tơn giáo khác nhau hoạt động trên tồn Hàn Quốc. trong đó, số người


theo đạo Phật chiếm 45,3%, đứng thứ 2 là đạo Tin lành chiếm 38,2%, số người
theo đạo Thiên chúa chiếm 15,4%, một số tôn giáo khác chiếm 1,1%.

Các tôn giáo
%
Phật giáo
43,1%
Đạo Tin Lành

38,2%
Đạo Thiên chúa
15,4%
Mộ số tôn giáo khác
1,1%
( cục Thống Kê và Đo lường Hàn Quốc, năm 2018)
Điều đó càng cho thấy trải qua hàng nghìn năm lịch sử Phật giáo vẫn ln là
một tơn giáo chiếm vị trí độc tôn tại Hàn Quốc mặc dù là trong quá khứ lịch sử
hay trong hiện tại.
2.1.3 Đặc điểm của Phật giáo ở Hàn Quốc:
Việc thờ cúng tổ tiên là một phương diện quan trọng ở xã hội Hàn Quốc
nhưng cũng bị giảm bớt bởi ưu thế nhiều người Hàn Quốc chê bai đến sự suy
sụp giá trị gia đình và sự thiếu tôn trọng đối với người lớn đã xảy ra trong
những năm gần đây. Thường họ đổ lỗi cho những biến chuyển bất ngờ cùng sự
phát triển kinh tế ở Hàn Quốc nhưng nó đang xảy ra vì sự suy tàn trong việc thờ
cúng tổ tiên.
Trước thế kỷ 7, Phật giáo đã đáp ứng như là một tôn giáo nổi bật ở Hàn
Quốc và là một sức mạnh cho phép triều đình thống nhất đất nước. Phật giáo đã
có ảnh hưởng đáng phê bình vào nền văn hóa Hàn Quốc cả về lĩnh vực phát
triển triết học và ngôn ngữ. Trong những năm đầu, Phật giáo ở Hàn Quốc, nhiều
nhà sư đã đi qua lại giữa Hàn Quốc và Trung Quốc do vậy dễ dàng trao đổi văn
hóa và giới thiệu nền văn hóa Trung Quốc vào Hàn Quốc. Người Hàn Quốc sau
đó thiết lập Phật giáo ở Nhật Bản.


Phật giáo Hàn Quốc luôn tập trung vào phái đại thừa và nhiều thế kỷ này
đã tách ra thành 2 phái chính: Chogye và Taego cùng với một phái nhỏ,
Chontae. Phái Chogye gần đây đã gặp rắc rối bởi sự phân chia nội bộ khắc
nghiệt điều này đã chảy tràn vào tầm nhìn quần chúng và xa hơn nửa đã làm
giảm đi giá trị hình tượng đạo Phật ở đất nước này. Taego được thiết lập bởi

người Nhật và cho phép các nhà sư lấy vợ ở Hàn Quốc đã đến hồi suy sụp bởi
sự phân chia nội bộ, một mặt chịu sự tấn công từ những người cực đoan theo Cơ
đốc giáo. Tuy nhiên, Phật giáo vẫn quyết định là nhóm tơn giáo lớn nhất ở Hàn
Quốc với 24,4% tín đồ. 50.1% người Hàn Quốc tự cho là khơng theo một tơn
giáo nào cả điều này có lẽ là sự thể hiện của những người chủ trương phi tôn
giáo đang phát triển ở xã hội Hàn Quốc và những thay đổi khó có thể tin nỗi đã
xảy ra trong 25 năm qua và nay đã trở thành một xã hội cơng nghiệp hiện đại.
Hàn Quốc hiếm có những ngơi chùa ở thành thị và xa hơn nữa có cảm
giác thừa nhận sự suy tàn nghiêm trọng. Hầu hết các ngơi chùa đều ở miền q
vì Phật giáo đã bị đuổi ra khỏi thành phố trong thời kỳ sự đàn áp của đạo Khổng
hiện đại ở triều đại nhà Lý. Tuy nhiên, trên núi có rất nhiều chùa kể từ khi các
nhà sư sớm sử dụng tín ngưỡng đạo Shaman và tín ngưỡng vật linh trong các vị
thần núi để kết hợp tôn giáo địa phương và áp dụng chúng vào đền thờ các thần
Phật giáo nhưnhững vị Bồ đề đạt ma. Nhiều ngôi chùa ở thôn quê trong một
khung cảnh thiên nhiên tuyệt vời với những rặng tre, bụi hồng, và những đám
hoa dại. Thật vậy, ở thôn quê Phật giáo Hàn Quốc cho phép các ngôi chùa đạt
đến sự hài hòa đáng yêu và sự cân bằng với thiên nhiên xung quanh. Phần lớn
các Phật tử thăm chùa vào những ngày lễ lớn âm lịch trong lúc những ngơi chùa
được các ni coi giữ suốt mùa hè vì các tăng ni lên núi để tu học.
Phật giáo ở Hàn Quốc là nền tảng tư tưởng của giai cấp thống trị trong q
khứ;, tơn giáo này đóng vai trị là tôn giáo phổ biến trong quần chúng nhân dân.


Phụ thuộc vào thái độ của tầng lớp cầm quyền trong việc sử dụng quyền lực ở
Hàn Quốc mà Phật giáo của đất nước này đã phải trải qua nhiều thăng trầm
trong suốt chiều dài lịch sử. Người ta cũng chỉ ra rằng niềm tin vào tôn giáo của
những người dân thường khá sâu sắc. Nhưng trên thực tế, niềm tin của quần
chúng nhân dân không phải duy nhất và trung thành với học thuyết đạo Phật mà
đơi khi nó còn hướng đến niềm tin Saman giáo hay niềm tin dân gian khác. Nhu
cầu của người dân thường có xu hướng cụ thể. Khi họ đặt niềm tin ấy vào Phật

giáo là hy vọng Phật giáo sẽ mang lại cho gia đình họ những điều tốt lành thực
sự, như sự thành công của con cái họ trong cuộc thi quan trọng hoặc trong công
việc, chữa lành bệnh tật, và những sự quan tâm gần gũi khác nữa.
Mặc dù có rất nhiều mối quan tâm mà dân chúng đặt vào niềm tin Phật giáo
nhưng tất cả những người theo đạo Phật đều có chung một điểm: tất cả họ đều
tin rằng họ có thể giải quyết những khúc mắc cá nhân cũng như những vấn đề to
lớn của xã hội thông qua lời răn dạy của Đức Phật. Họ cũng tin rằng Phật giáo
có thể ghi lại mọi thử thách của cuộc sống và mọi khổ đau diễn ra trong quá
trình lịch sử.
2.2 Ảnh hưởng của Phật giáo đến một số lĩnh vực trong đời sống
văn hóa tinh thần của người Hàn Quốc:
Cho dù hiện nay Hàn Quốc được biết đến là một quốc gia phát triển với
vai trò quan trọng của đạo Tin lành. Nhưng thực chất đạo Tin lành mới chỉ có
mặt ở Hàn quốc từ nửa đầu thế kỷ thứ XIX với sự xuất hiện của nhà truyền giáo
tin lành đầu tiên trên bán đảo này, mục sư Karl F.A. Gutzlaff (1803 – 1851).
Trong suốt chiều dài lịch sử, ngay sau sự khẳng định vai trò của Nho giáo trong
xã hội Hàn Quốc thì Phật giáo đã trở thành một tơn giáo gắn bó mật thiết với
đời sống xã hội, tín ngưỡng, tâm linh của người dân xứ Hàn.


×