TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI
KHOA HTTTKT & TMĐT
BỘ MÔN: THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ
BÁO CÁO THU HOẠCH VÀ
BÀI TẬP TÌNH HUỐNG
HỌC PHẦN: ĐLCM CỦA ĐCS VIỆT NAM
Hà Nội, 1 tháng 6 năm 2020
0
MÃ ĐỀ 13:
Câu 1: Sau khi học xong phần đường lối cách mạng của Đảng Cộng Sản Việt
Nam. Anh/ chị hãy trình bày nhận thức của mình về đường lối đấu tranh của Đảng
giành chính quyền (1930-1945)? Theo anh/ chị, sự chuyển hướng chỉ đạo chiến
lươc của Đảng (1939-1941) có ý nghĩa như thế nào đối với thắng lợi cách mạng
Tháng 8/1945?
Câu 2: Thời kì đổi mới, Đảng khẳng định cần thiết để sử dụng kinh tế thị trường để
xây dựng CNXH ở Việt Nam. Theo anh/chị, sử dụng kinh tế thị trường có tác dụng
như thế nào đối với sự phát triển của đất nước. Liên hệ với thực tiễn đổi mới đất
nước?
____
BÀI LÀM
Câu 1:
* Ngay sau khi ra đời, Đảng Cộng sản Việt Nam đã bắt đầu sự nghiệp lãnh đạo
nhân dân ta đấu tranh đánh đổ chế độ thực dân và phong kiến, giành độc lập dân tộc
mà trước hết là phải giành chính quyền về tay nhân dân để từ đó kiến tạo nên một xã
hội mới tốt đẹp hơn cho dân tộc, hạnh phúc hơn cho nhân dân. Cuộc đấu tranh gian
khổ ấy đã diễn ra trong 15 năm và kết thúc bằng thắng lợi của cách mạng Tháng Tám.
Đường lối đấu tranh của Đảng giành chính quyền (1930-1945) cho chúng ta hiểu:
Làm thế nào mà một Đảng non trẻ có thể làm nên kỳ tích lịch sử đó?
Thực tiễn cách mạng Việt Nam từ năm 1930 đến nay đã khẳng định: Đảng Cộng
sản Việt Nam là người tổ chức, lãnh đạo và là nhân tố quyết định thắng lợi của cách
mạng Việt Nam. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta đã trải qua ba cao trào cách
mạng:
Cao trào cách mạng 1930 1931 thất bại nhưng có ý nghĩa to lớn; nó được ví như
cuộc tổng diễn tập đầu tiên cho thắng lợi cách mạng tháng Tám 1945 để từ đó ra chủ
trương khôi phục tổ chức Đảng và phong trào cách mạng.
Cao trào cách mạng 1936 – 1939 đòi dân sinh, dân chủ ở Việt Nam do Đảng lãnh
đạo được đánh giá là “hiếm có ở một xứ thuộc địa”, ví như cuộc Tổng diễn tập lần thứ
hai cho thắng lợi tháng Tám 1945.
Cao trào kháng Nhật, cứu nước và cách mạng giải phóng dân tộc với sự đồn kết
hăng hái, chiến đấu ngoan cường và hy sinh to lớn của biết bao đảng viên cộng sản,
chiến sĩ và đồng bào yêu nước đã kết thúc thắng lợi bằng cuộc Cách mạng tháng Tám
năm 1945.
1
Giai đoạn 1930 – 1936:
Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần I tháng 10/1930 đã không chấp nhận
những quan điểm mới, sáng tạo, độc lập tự chủ của Nguyễn Ái Quốc được nêu trong
Chánh cương vắn tắt và Sách lược vắn tắt và đi đến quyết định thủ tiêu Chính Cương
vắn tắt. Thực tiễn cách mạng Việt nam sau này sẽ khẳng định tính đúng đắn của Chính
cương và dần dần khắc phục những điểm hạn chế của Luận cương.
Vừa mới ra đời, Đảng đã phát động được một phong trào cách mạng rộng lớn, mà
đỉnh cao là Xô viết Nghệ Tĩnh Khi cao trào phát triển mạnh làm rung chuyển chế độ
thống trị của đế quốc Pháp và tay sai, địch thì ra sức khủng bố, đàn áp hòng dập tắt
phong trào cách mạng Việt Nam và tiêu diệt Đảng Cộng sản Đông Dương. Lực lượng
cách mạng bị tổn thất nặng nề.
Trước những khó khăn, tổn thất của phong trào cách mạng Đông Dương, Đảng đã
Chủ trương khôi phục tổ chức Đảng và phong trào cách mạng. Đại hội đại biểu lần I
của Đảng đề ra 3 nhiệm vụ trước mắt là: củng cố và phát triển Đảng; đẩy mạnh cuộc
vận động thu phục quần chúng; mở rộng tuyên truyền chống đế quốc, chống chiến
tranh, ủng hộ Liên Xô, ủng hộ cách mạng Trung Quốc.
Giai đoạn 1936-1939:
Hậu quả của cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới 1929-1933 đã làm cho mâu thuẫn
nội tại của chủ nghĩa tư bản thêm gay gắt và phong trào cách mạng của quần chúng
dâng cao. Các thế lực phát xít thế giới đã liên kết thành khối ‘’Trục’’( Trục Béclin
TokyoRôm). Chúng tuyên bố chống quốc tế Cộng sản, tiêu diệt Liên xô và phong trào
cách mạng vô sản thế giới đe doạ nền hồ bình và an ninh thế giới.
Xuất phát từ đặc điểm tình hình Đơng Dương và thế giới, Ban chấp hành Trung
ương Đảng Cộng sản Đông Dương đã họp Hội nghị lần thứ 2 ( 7/1936), lần thứ 3
(3/1937), lần thứ 4( 9/1937) và lần thứ 5( 3/1938) và đã đề ra những chủ trương mới,
đòi quyền dân sinh, dân chủ.
Nhận thức mới của Đảng về mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ dân tộc và dân chủ,
phản đế và phản phong trong cách mạng ở Đông Dương: Nhận thức mới thể hiện
trong văn kiện Chung quanh vấn đề chiến sách mới công bố tháng 10-1936. Đảng nêu
một quan điểm mới: "Cuộc dân tộc giải phóng khơng nhất thiết phải kết chặt với cuộc
cách mạng điền địa… Tuy nhiên, nhận thức mới đúng đắn đó chưa được khẳng định
một cách chắc chắn về lý luận, chưa được thực hiện trên thực tiễn. Vì vậy, có thể coi
đây là bước đệm chuẩn bị cho sự chuyển hướng chiến lược quyết liệt của Đảng năm
1939. Tóm lại, nhìn chung từ 1930 đến 1939, đường lối cách mạng của Đảng đã có
bước phát triển đáng kể về chiến lược và phương pháp cách mạng trong điều kiện vấn
đề chính quyền chưa đặt ra một cách trực tiếp.
Giai đoạn 1939-1945:
2
Trong hoàn cảnh bùng nổ của chiến tranh thế giới lần II, sự tồn vong của mỗi
quốc gia là vấn đề nóng bỏng của tất cả các nước và các đảng phái chính trị. Sự tham
chiến của Pháp đã làm cho tình hình Đơng Dương biến đổi sâu sắc. Thực dân Pháp thi
hành chính sách “Cai trị thời chiến’’ cực kỳ tàn bạo khiến cho mâu thuẫn vốn có giữa
đế quốc Pháp và các dân tộc Đông Dương càng thêm găy gắt và “thúc đẩy nhanh q
trình cách mạng”. Đó chính là cơ sở để Đảng ta phát động cao trào giải phóng dân tộc.
Trên cơ sở nhận định khả năng diễn biến của Chiến tranh thế giới lần thứ hai và
căn cứ vào tình hình cụ thể ở trong nước, BCH Trung ương đã quyết định chuyển
hướng chỉ đạo chiến lược để giành chính quyền, phát triển qua Hội nghị Trung ương 6
(tháng 11/1939), hội nghị Trung ương 7 (tháng 11/1940 và được hoàn thiện tại Hội
nghị Trung ương 8 (tháng 5/1941) với những nội dung chính sau đây:
Một là, đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu.
Hai là, giải quyết vấn đề dân tộc trong khuôn khổ từng nước Đông Dương.
Ba là, quyết định phải xúc tiến ngay công tác khởi nghĩa vũ trang, coi đây là
nhiệm vụ trọng tâm của Đảng trong giai đoạn hiện tại. Để khởi nghĩa vũ trang
đi đến thắng lợi cần phải phát triển lực lượng cách mạng, tiến hành xây dựng
căn cứ địa cách mạng.
Bốn là: Khẳng định việc sau khi cách mạng thành công, Việt Nam sẽ tách ra
khỏi liên bang Đông Dương thành lập một nước riêng và thể chế chính quyền
trong tương lai của Việt Nam là thể chế “dân chủ cộng hòa” một chính phủ
chung cho mọi giai tầng trong xã hội. Cịn Lào và Campuchia có thể liên kết
thành liên bang hay tách riêng tùy ý. Mỗi dân tộc đều có “quyền tự quyết’.
Sự chuyển hướng chiến lược đúng đắn với phương châm “lấy quyền lợi dân tộc
làm tối cao” là một trong những nguyên nhân cơ bản dẫn đến thắng lợi của cách mạng
Tháng Tám
Chủ trương phát động Tổng khởi nghĩa giành chính quyền:
Vào đầu 1945, Chiến tranh thế giới lần II bước vào giai đoạn kết thúc, mâu thuẫn
Nhật-Pháp ngày càng diễn ra gay gắt khiến đêm ngày 9/3/1945, Nhật đảo chính Pháp
độc chiếm Đơng Dương. Đảng đã ra chủ trương: Ngày 12/3/1945, Ban Thường vụ
Trung ương Đảng ra Chỉ thị “Nhật-Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”có ý
nghĩa chỉ đạo cụ thể thúc đẩy tình thế cách mạng chín muồi nhanh chóng.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, hơn 20 triệu nhân dân ta đã nhất tề vũng dậy khởi nghĩa
giành chính quyền. Với tinh thần “dù có phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng kiên
quyết giành cho được độc lập”, trong vòng nửa cuối 8/1945 cuộc khởi nghĩa về cơ
bản đã thành công trong phạm vi cả nước, chính quyền đã thuộc về tay nhân dân. Tiêu
biểu nhất là:
Khởi nghĩa ở Hà Nội diễn ra vào ngày 19/8/1945
Khởi nghĩa ở Huế diễn ra vào ngày 23/8/1945
Khởi nghĩa ở Sài Gòn diễn ra vào ngày 25/8/1945
3
Việc nhân dân Việt Nam giành chính quyền ngày 19/8/1945 đã tạo nên một bước
ngoặt lịch sử, làm thay đổi vận mệnh của đất nước và dân tộc, mở ra kỷ nguyên độc
lập, tự do và chủ nghĩa xã hội. Ngày 2/9/1945, tại Quảng trường Ba Đình, Chủ tịch Hồ
Chí Minh đọc Tuyên ngôn độc lập khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Với thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám, Đảng và nhân dân đã góp phần phát triển
lý luận của chủ nghĩa Mác Lênin về cách mạng giải phóng dân tộc ở các thuộc địa, về
cách kết hợp đúng đắn quyền lợi của dân tộc với quyền lợi của giai cấp, làm phong
phú thêm kho tàng lý luận về cách mạng giải phóng dân tộc và khởi nghĩa dân tộc
Thành công của Đảng trong hoạch định đường lối và phương pháp cách mạng thời
kỳ 1930 1945 bắt nguồn từ bản lĩnh, trí tuệ, tinh thần độc lập, tự chủ và sáng tạo của
Đảng, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại trong việc tiếp thu và vận dụng lý
luận chủ nghĩa Mác Lênin vào điều kiện cụ thể của Việt Nam, có tham khảo những
kinh nghiệm tốt của thế giới nhưng không sao chép bất cứ một mơ hình có sẵn nào.
Bài học đó vẫn còn nguyên giá trị trong sự nghiệp đổi mới và hội nhập quốc tế hiện
nay.
* Ý nghĩa của chuyển hướng chỉ đạo chiến lươc của Đảng (1939-1941) đối với
thắng lợi cách mạng Tháng 8/1945?
Thắng lợi của Cách mạng tháng Tám là kết quả hội tụ của nhiều nhân tố, trong đó
chủ trương chuyển hướng chỉ đạo chiến lược của Đảng, nhân tố hàng đầu quyết định
thắng lợi của cách mạng Tháng Tám 1945. Chủ trương này vạch ra ở Hội nghị Trung
ương sáu, được bổ sung ở Hội nghị Trung ương bảy, và hoàn chỉnh ở Hội nghị Trung
ương tám;
Giải thích sự thay đổi chiến lược đó, Nghị quyết nêu rõ: “cuộc cách mạng Đông
Dương hiện tại không phải là cuộc cách mạng tư sản dân quyền, cuộc cách mạng
phải giải quyết hai vấn đề: phản đế và điền địa nữa, mà là cuộc cách mạng chỉ phải
giải quyết một vấn đề cần kíp “dân tộc giải phóng”, vậy thì cuộc cách mạng Đông
Dương trong giai đoạn hiện tại là cuộc cách mạng dân tộc giải phóng”
Ý nghĩa của chuyển hướng chỉ đạo chiến lược của Đảng :
Đường lối cách mạng giải phóng dân tộc, đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên
hàng đầu đã phát huy cao độ tiềm năng, sức mạnh của toàn dân tộc và trở thành
ngọn cờ tập hợp lực lượng dân tộc trong cuộc đấu tranh giành độc lập.
Sự chuyển hướng chỉ đạo chiến lược là sự kế tục và phát triển hoàn chỉnh tư
tưởng giải phóng dân tộc đã được vạch ra trong Cương lĩnh tháng 2/1930 của
lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc và chứng tỏ tính đúng đắn của tư tưởng đó.
Sự chuyển hướng chiến lược đã đánh dấu sự trưởng thành trong nhận thức của
Đảng ta về mối quan hệ giữa 2 nhiệm vụ dân tộc và giai cấp, phản đế và phản
phong ở một nước phong kiến thuộc địa.
4
Sự chuyển hướng chiến lược đúng đắn với phương châm “lấy quyền lợi dân
tộc làm tối cao” là một trong những nguyên nhân cơ bản dẫn đến thắng lợi của
cách mạng Tháng Tám.
Chủ trương chuyển hướng chỉ đạo chiến lược của Đảng như đã trình bày phản ánh
sự lĩnh hội và phát triển những luận điểm và chiến lược, sách lược cách mạng giải
phóng dân tộc và đại đồn kết dân tộc của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu trong Cương
lĩnh chính trị đầu tiên. Cho dù trong tiến trình Cách mạng Tháng tám, kể từ tháng
11/1939 đến Tổng khởi nghĩa, hàng ngàn, hàng vạn cán bộ, đảng viên và quần chúng
cách mạng bị địch bắt, sát hại, nhân dân ta vẫn gửi trọn niềm tin ở sự lãnh đạo của
Đảng, ra sức chuẩn bị lực lượng khởi nghĩa giành chính quyền và nhận lấy chiến
thắng. Từ đó có thể thấy rõ những giá trị to lớn và quý báu của tư tưởng Người càng
thêm ngời sáng qua sự kiểm nghiệm của thực tiễn cách mạng.
Câu 2: Thời kì đổi mới, Đảng khẳng định cần thiết để sử dụng kinh tế thị trường
để xây dựng CNXH ở Việt Nam. Theo anh/chị, sử dụng kinh tế thị trường có tác
dụng như thế nào đối với sự phát triển của đất nước. Liên hệ với thực tiễn đổi
mới đất nước?
Nền kinh tế nước ta khi bước vào thời kì quá độ lên CNXH cịn mang nặng
tính tự cung tư cấp vì vậy sản xuất hàng hố phát triển sẽ phá vỡ dần kinh tế tư nhiên
và chuyển thành nền kinh tế hàng hoá, thúc đẩy xã hội hoá sản xuất. Chủ trương,
đường lối về phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một sự
sáng tạo của Đảng ta, là sự vận dụng chủ nghĩa Mác Lê-nin vào thực tiễn Việt Nam
trong điều kiện mới. Kinh tế thị trường mang trong mình những hạt mầm góp phần
phát triển đất nước:
Trong cơ chế kinh tế cũ, vì coi thường quy luật giá trị, cạnh tranh, cung cầu nên các
cơ sở kinh tế cũng thiếu sức sống và động lực để phát triển sản xuất. Sử dụng kinh tế
thị trường là sử dụng quy luật giá trị, cạnh tranh, cung cầu, buộc mỗi người sản xuất
tự chịu trách nhiệm về hàng hóa do mình làm ra. Chính vì thế mà nền kinh tế trở nên
sống động. Mỗi người sản xuất đều chịu sức ép buộc phải quan tâm tớisự tiêu thụ trên
thị trường, sao cho sản phẩm của mình được xã hội thừa nhận và cũng từ đó họ mới có
được thu nhập.
Điều đó phù hợp với nguyện vọng của nhân dân mong muốn “dân giàu, nước mạnh,
dân chủ, công bằng, văn minh”.
Phát triển nền kinh tế thị trường là phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất
xã hội, cũng có nghĩa là sản phẩm xã hội ngày càng phong phú, đáp ứng nhu cầu đa
dạng của mọi người. Ở nông thôn nước ta, sự phát triển kinh tế thị trường và việc tăng
tỷ lệ hàng hóa nơng sản đã làm cho hàng hóa bán ra của nông dân nhiều lên, thu nhập
tăng lên, đồng thời các ngành nghề ở nông thôn cũng ngày một phát triển, tạo ra cho
nông dân nhiều việc làm. Đó cũng là điều đã diễn ra ở thành phố, đối với những người
lao động thành thị.
5
Phát triển kinh tế thị trường đòi hỏi phải đào tạo ngày càng nhiều cán bộ quản lý và
lao động có trình độ cao. Muốn thu được lợi nhuận, họ cần phải vận dụng nhiều biện
pháp để quản lý kinh tế, thúc đẩy tiến bộ kỹ thuật, hạ giá thành sản phẩm, làmcho sản
xuất phù hợp với nhu cầu của thị trường, nâng cao hơn nữa hiệu quả kinh tế. Qua cuộc
cạnh tranh trên thị trường, những nhân tài quản lý kinh tế và lao động thành thạo xuất
hiện ngày càng nhiều và đó là một dấu hiệu quan trọng của tiến bộ kinh tế.
Như vậy, phát triển kinh tế thị trường là một tất yếu kinh tế đối với nước ta, một
nhiệm vụ kinh tế cấp bách để chuyển nền kinh tế lạc hậu của nước ta thành nền kinh tế
hiện đại, hội nhập vào sự phân công lao động quốc tế. Bởi vì, chỉ có xây dựng nền
kinh tế thị trờng mới tạo tiền đề vật chất cho phát triển xã hội và bảo đảm cho mọi
người có điều kiện thực hiện đợc lợi ích của mình. Những quy luật kinh tế cơ bản của
nó (chẳng hạn như cạnh tranh, cung-cầu, tiền tệ, lưu thông,...) sẽ thúc đẩy tăng trởng
kinh tế, cải tiến kỹ thuật, tạo công ănviệc làm cho hàng loạt người lao động, góp phần
xố đỏi giảm nghèo... Đây là điều kiện cần của việc bảo đảm và hiện thực hoá các
quyền con người.
Thực tiễn trong những năm đổi mới đã chứng minh rằng, việc chuyển sang nền
kinh tế thị trường nhiều thành phần là hoàn tồn đúng đắn. Nhờ phát triển kinh tế hàng
hố nhiều thành phần,chúng ta đã bước đầu khai thác được tiềm năng trong nước và
vốn, kĩ thuật, công nghệ của nước ngồi, giải phóng được năng lực sản xuất góp phần
vào việc bảo đảm tăng trưởng kinh tế với nhịp độ tương đối cao trong thời gian qua.
* Liên hệ thực tiễn tiễn đổi mới đất nước?
Sự phát triển của Việt Nam trong hơn 30 năm qua rất đáng ghi nhận. Đổi mới kinh
tế và chính trị từ năm 1986 đã thúc đẩy phát triển kinh tế, nhanh chóng đưa Việt Nam
từ một trong những quốc gia nghèo nhất trên thế giới trở thành quốc gia thu nhập
trung bình thấp (khoảng 2.800USD). Tốc độ tăng trưởng kinh tế nước ta, tuy có sự
dao động nhất định, song vẫn ở mức cao hơn trung bình khu vực và thế giới với mức
tăng bình quân cả thời kỳ gần 7%/năm. Chất lượng tăng trưởng từng bước được cải
thiện, trình độ cơng nghệ trong sản xuất được nâng lên. Kinh tế vĩ mô ổn định, lạm
phát được kiểm sốt, nợ cơng có xu hướng giảm dần, dự trữ ngoại tệ tăng, đạt mức an
toàn.
Nước ta thực hiện mơ hình nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, mở cửa, hội
nhập với khu vực và quốc tế, nhờ đó sức sản xuất trong nước được giải phóng, các
thành phần kinh tế phát triển, đầu tư trực tiếp nước ngoài ngày càng tăng. Nhu cầu
tiêu thụ, trao đổi hàng hóa, dịch vụ trong nước và quốc tế không ngừng mở rộng. Nếu
năm 1986 tổng kim ngạch xuất nhập khẩu mới đạt 2.944 triệu USD thì năm 2019 tức
là sau 33 năm, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu lên tới khoảng 517 tỷ USD (theo WTO
và Hội nhập)
Với mục tiêu định hướng XHCN, Đảng ta luôn thống nhất quan điểm tăng trưởng
kinh tế phải đi đôi với tiến bộ và cơng bằng xã hội. Do đó, các vấn đề về an sinh xã
hội cơ bản được đảm bảo, hệ thống an sinh xã hội và phúc lợi cho mọi người đều phát
6
triển khá đồng bộ và ngày càng được cải thiện. Vấn đề xóa đói, giảm nghèo là một
trong nhiệm vụ quan trọng của Đảng, Nhà nước, các cấp chính quyền, tổ chức chính
trị - xã hội và của tồn dân, được tổ chức thực hiện nghiêm túc, chu đáo, từ khâu xác
định chuẩn nghèo cho từng giai đoạn phù hợp với trình độ phát triển của nền kinh tế
và mức sống bình quân của dân cư. Các chương trình, dự án đầu tư nhằm tạo điều
kiện cho các hộ nghèo, vùng đặc biệt khó khăn để mọi người tham gia sản xuất kinh
doanh vươn lên thoát nghèo và trở thành hộ khá giả, nên hộ nghèo cả nước đã giảm
dần qua các giai đoạn phát triển. Tỷ lệ hộ nghèo cả nước giảm còn 3,75% cuối năm
2019( theo báo Nhân Dân Điện Tử).
Đặc biệt, tạp chí Forbes cho biết, Việt Nam đạt được tốc độ tăng trưởng GDP
7,02% trong năm 2019, thuộc hàng cao nhất thế giới. Đây cũng là năm thứ hai tốc độ
tăng trưởng kinh tế của Việt Nam đạt trên 7%. Và được Forbes đánh giá : “Thế giới
nên đầu tư vào Việt Nam hậu Covid-19”...
...cùng rất nhiều những thành tựu nổi bật khác.
Tóm lại, đổi mới tư duy kinh tế về xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN là chủ trương đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta, đã được thể nghiệm qua hơn
30 năm đổi mới. Quá trình đổi mới tư duy kinh tế đã đạt được những kết quả to lớn,
khá toàn diện, từng bước thực hiện tăng trưởng kinh tế gắn với tiến bộ và công bằng
xã hội, bảo vệ môi trường. Thành công của hơn 30 năm đổi mới đã làm tăng tiềm lực
kinh tế, quốc phòng, tăng vai trị uy tín nước ta trên trường quốc tế, bảo vệ vững chắc
an ninh chính trị, độc lập, chủ quyền và tồn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, góp phần thực
hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ và văn minh.
7