Tải bản đầy đủ (.pdf) (116 trang)

Thế giới nghệ thuật truyện ngắn lê minh khuê sau 1986

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (778.94 KB, 116 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

LÊ THỊ HỒNG TRANG

THẾ GIỚI NGHỆ THUẬT
TRUYỆN NGẮN LÊ MINH KHUÊ SAU 1986

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

Đà Nẵng – Năm 2014


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

LÊ THỊ HỒNG TRANG

THẾ GIỚI NGHỆ THUẬT
TRUYỆN NGẮN LÊ MINH KHUÊ SAU 1986

Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 60.22.34

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Thành

Đà Nẵng – Năm 2014



LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các nội dung nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng được ai
công bố trong bất kì cơng trình nào khác.
Tác giả luận văn

Lê Thị Hồng Trang


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài ................................................................................. 1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ................................................................... 2
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu ....................................................... 7
4. Phƣơng pháp nghiên cứu ..................................................................... 8
5. Bố cục luận văn .................................................................................... 8
CHƢƠNG 1: LÊ MINH KHUÊ TRONG DÒNG CHẢY CỦA TRUYỆN
NGẮN VIỆT NAM SAU 1986......................................................................... 9
1.1. LÊ MINH KHUÊ – HÀNH TRÌNH SÁNG TẠO VÀ QUAN NIỆM
VĂN CHƢƠNG ................................................................................................. 9
1.1.1. Hành trình sáng tạo ........................................................................ 9
1.1.2. Quan niệm văn chƣơng ................................................................ 13
1.2. LÊ MINH KHUÊ TRÊN HÀNH TRÌNH ĐỔI MỚI TRUYỆN NGẮN
VIỆT NAM SAU 1986 .................................................................................... 18
1.2.1. Diện mạo truyện ngắn Việt Nam thời kì đổi mới ........................ 18
1.2.2. Lê Minh Khuê và những nỗ lực đổi mới thể loại truyện ngắn .... 27
CHƢƠNG 2: THẾ GIỚI HIỆN THỰC TRONG TRUYỆN NGẮN LÊ
MINH KHUÊ SAU 1986 ................................................................................ 33
2.1. THẾ GIỚI HIỆN THỰC QUA CÁC VẤN ĐỀ XÃ HỘI ĐƢỢC PHẢN
ÁNH ................................................................................................................ 33

2.1.1. Những ám ảnh về chiến tranh ...................................................... 33
2.1.2. Những thơng điệp mang tính cảnh báo ........................................ 40
2.2. THẾ GIỚI HIỆN THỰC QUA CÁC KIỂU CON NGƢỜI...................... 46
2.2.1. Con ngƣời cô đơn, bi kịch ........................................................... 46
2.2.2. Con ngƣời bản năng, tha hóa ....................................................... 54
2.2.3. Con ngƣời khát vọng, nhân hậu ................................................... 62


CHƢƠNG 3: KẾT CẤU, NGÔN NGỮ VÀ GIỌNG ĐIỆU TRONG
TRUYỆN NGẮN LÊ MINH KHUÊ SAU 1986 .......................................... 69
3.1. KẾT CẤU .................................................................................................. 69
3.1.1. Kết cấu đảo tuyến ........................................................................ 69
3.1.2. Kết cấu tâm lý .............................................................................. 73
3.1.3. Kết cấu lồng ghép ........................................................................ 76
3.2. NGƠN NGỮ ............................................................................................. 80
3.2.1. Ngơn ngữ trần thuật ..................................................................... 80
3.2.2. Ngôn ngữ nhân vật ....................................................................... 87
3.3. GIỌNG ĐIỆU ........................................................................................... 94
3.3.1. Giọng điệu triết lý, suy ngẫm ...................................................... 95
3.3.2. Giọng điệu giễu nhại, châm biếm ................................................ 97
3.3.3. Giọng điệu hoài nghi, thƣơng cảm ............................................ 101
KẾT LUẬN ................................................................................................... 105
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................... 1
QUYẾT ĐỊNH GIAO ĐỀ TÀI LUẬN VĂN THẠC SĨ (BẢN SAO).


1

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài

Từ sau 1986, dƣới ánh sáng của công cuộc đổi mới tƣ duy cùng sự thay
đổi của những giá trị tích cực trong xã hội, văn học nói chung và truyện ngắn
nói riêng đã có sự chuyển biến mạnh mẽ. Bên cạnh những cây bút tiêu biểu đã
đƣợc bạn đọc biết đến từ lâu nhƣ Nguyễn Minh Châu, Ma Văn Kháng,
Nguyễn Khải, Nguyễn Huy Thiệp, Bảo Ninh, Hồ Anh Thái, Tạ Duy Anh,…
cịn có sự xuất hiện và bền bỉ dấn thân của lực lƣợng khá đơng đảo nhiều cây
bút nữ nhƣ Đồn Lê, Võ Thị Hảo, Dạ Ngân, Phan Thị Vàng Anh, Nguyễn Thị
Thu Huệ, Trần Thùy Mai, Y Ban, Nguyễn Ngọc Tƣ,… Sự hiện diện của họ
làm cho bức tranh truyện ngắn thời kì này thêm nhiều khởi sắc.
Bằng lối tƣ duy nghệ thuật hiện đại, Lê Minh Khuê đã khẳng định đƣợc
tên tuổi và vị trí của mình trên văn đàn. Bà đƣợc đánh giá là một “cây bút
truyện ngắn sung sức” (Lê Thị Đức Hạnh) và là “một ngòi bút có sức bền”
(Bùi Việt Thắng). Sự thành cơng của bà đã đƣợc ghi nhận bằng những giải
thƣởng văn học trong nƣớc và quốc tế: Giải thƣởng Hội Nhà văn Việt Nam
(năm 1987) cho tập truyện ngắn: Một chiều xa thành phố, giải thƣởng Tạp chí
Văn nghệ Quân đội (năm 1994) cho tập truyện Bi kịch nhỏ, giải thƣởng Hội
Nhà văn Việt Nam (năm 2001) cho tập truyện ngắn Trong làn gió heo may,
giải thƣởng văn học mang tên văn hào Byeong-ju Lee của Hàn Quốc (năm
2008) cho tập truyện Những ngơi sao, trái đất, dịng sơng.
Với những chuyển biến về bút pháp, Lê Minh Khuê đã khá thành công
khi tạo dựng đƣợc một thế giới nghệ thuật độc đáo riêng. Có thể nói, đọc
truyện ngắn của bà, chúng ta thấy hiện ra trƣớc mắt một bức tranh hiện thực
đời sống thật sinh động, với nhiều số phận khốn khó, cơ cực khi đất nƣớc
chuyển từ thời chiến sang thời bình, từ cơ chế quan liêu bao cấp cho đến thời
mở cửa thị trƣờng. Hiện ra trong các trang viết của bà là sự đảo lộn gay gắt


2
các thang bậc giá trị, sự áp đảo kinh hoàng của cái xấu, cái ác cũng nhƣ sự
“lép vế” của những giá trị tinh thần – đạo đức giữa một xã hội thực dụng, cằn

cỗi nhân tính. Nhƣ vậy, trong thế giới nghệ thuật của Lê Minh Khuê, bức
tranh cuộc sống xã hội và con ngƣời hiện ra với tính đa dạng, phong phú và
phức tạp.
Đi vào tìm hiểu thế giới nghệ thuật truyện ngắn Lê Minh Khuê sau
1986 là dịp chúng tôi khám phá một phong cách truyện ngắn độc đáo trên cả
hai phƣơng diện nội dung và nghệ thuật. Đồng thời nhận diện những bứt phá
và thành công trong việc đổi mới nghệ thuật của Lê Minh Khuê.
Vì những lí do trên, chúng tơi chọn đề tài Thế giới nghệ thuật truyện
ngắn Lê Minh Khuê sau 1986 để nghiên cứu.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Là một nhà văn đƣợc đánh giá cao bởi sự nghiêm túc và ý thức ln
tìm tịi, đổi mới trong sáng tác, Lê Minh Khuê đã làm say mê bao thế hệ độc
giả. Chính vì thế, tác phẩm của bà nhận đƣợc khá nhiều sự quan tâm của công
chúng cũng nhƣ các nhà nghiên cứu phê bình.
Trong cuốn Sổ tay truyện ngắn, khi nói về các tác giả truyện ngắn giai
đoạn chống Mỹ, nhà văn Tơ Hồi cho rằng: “Lớp sau hịa bình có Đỗ Chu,
Triệu Bơn, Lê Lựu, Lê Minh Kh hay, có khơng khí” [25, tr.8].
Giáo sƣ Hà Minh Đức trong bài Những tác giả nữ trong nền văn xuôi
chống Mỹ đã nhận định: “Lê Minh Khuê là một cây bút trẻ, xơng xáo trong
những năm chống Mỹ. Chị đã có ý thức chuyển nhanh sang thời kỳ mới và tỏ
ra khá nhạy bén trong cách cảm nhận nghệ thuật của mình” [4, tr.10].
Trong bài Lê Minh Khuê – một cốt cách văn chương đăng trên Tạp chí
Văn hóa doanh nhân, tác giả Vũ Hà nhận xét: “Rất dễ hòa lẫn trong đám đơng
nhƣng gặp một lần ở ngồi đời, một lần đọc truyện của cây bút ấy là không
thể quên. Nó lƣu giữ trong ta một tình cảm dịu dàng, một dấu ấn khó phai mờ


3
trong tâm tƣởng… Và một điều đáng ghi nhận, trong sáng tác, Lê Minh Khuê
ngày càng đằm thắm hơn, sâu sắc hơn” [5, tr.8].

Một chiều xa thành phố ra đời năm 1986 – là tập truyện ngắn thể hiện
rõ những nỗ lực vƣợt mình của Lê Minh Khuê trong giai đoạn văn học thời kỳ
đổi mới. Trong bài viết Đọc Một chiều xa thành phố đăng trên Báo Độc lập,
số 3, Hồ Anh Thái khẳng định: “Một chiều xa thành phố là một thành công
mới của Lê Minh Khuê… Đến tập thứ ba này, Lê Minh Khuê thực sự thuyết
phục đƣợc ngƣời đọc bởi chị đã thoát ra khỏi cách nhìn nhận duy cảm, trở nên
khách quan hơn, đa diện hơn nhƣng khơng phải vì thế mà kém phần nồng
hậu” [38, tr.11]. Đánh giá đóng góp của tập truyện này, Lê Thị Đức Hạnh
trong bài Lê Minh Khuê – cây bút truyện ngắn sung sức đã cho rằng: “Lê
Minh Khuê đã có nhiều khám phá… Với bút pháp cƣờng điệu, phóng đại, Lê
Minh Kh đã mơ tả cái ác, cái trơ tráo, phi lý đang lấn lƣớt mà mọi ngƣời
dƣờng nhƣ bất lực” [7, tr.32]. Cũng bàn về tập truyện này, tác giả Bùi Việt
Thắng ở bài Trong tấm gương của thể loại nhỏ đã khẳng định: “Một chiều xa
thành phố của Lê Minh Khuê là tập truyện đƣợc chú ý trong năm” [39, tr.16].
Theo Bùi Việt Thắng: “Một số truyện ngắn của Lê Minh Khuê gần đây đã bộc
lộ khả năng cảm nhận đời sống trong những ấn tƣợng rất mơ hồ nhƣng lại có
căn cứ” [39, tr.17]. Trong bài Để có sức bền ngịi bút một lần nữa tác giả
khẳng định: “Một chiều xa thành phố của Lê Minh Khuê đang ở thời kỳ nỗ
lực rất cao để vƣợt lên những gì đã có” [40, tr.15].
Đoạt giải thƣởng Tạp chí Văn nghệ Quân đội vào năm 1994, Bi kịch
nhỏ là tập truyện gây đƣợc nhiều xôn xao dƣ luận, thậm chí có nhiều ý kiến
đánh giá ngƣợc chiều nhau. Có xu hƣớng tập trung phê phán Bi kịch nhỏ nhƣ
Trung Nguyên, Trần Thanh, Đậu Thị Vĩnh… Tiêu biểu là Dƣơng Tùng trên
Tạp chí cộng sản đã cho rằng Bi kịch nhỏ của Lê Minh Khuê là “một đứa con
tinh thần èo uột” [47, tr.21], nhà phê bình cịn cho rằng tác giả đã “bôi nhọ,


4
quá sa đà vào hiện thực” [47, tr.21]. Đậu Thị Vĩnh thì xếp Bi kịch nhỏ của Lê
Minh Khuê vào một trong bảy cuốn sách tai tiếng nhất trong năm. Bên cạnh ý

kiến phê phán thì lời khen tập truyện cũng khơng ít. Bùi Việt Sỹ tâm đắc: “Bi
kịch nhỏ gây ấn tƣợng mạnh” [37, tr.18], Bùi Việt Thắng thì coi tập truyện
này là “Một thể nghiệm mới của Lê Minh Khuê trong truyện ngắn” [41,
tr.25]. Tác giả Phạm Xuân Nguyên nhận định: “Truyện ngắn Bi kịch nhỏ của
Lê Minh Khuê là một cố gắng của chị, của thể loại truyện ngắn và của văn
học hơm nay đi tìm lại lịch sử qua thân phận con ngƣời” [26, tr.9]. Nhà văn
Bảo Ninh thì nhìn nhận một cách bình tĩnh và khách quan: “Vấn đề không
phải ở xung đột, ở mâu thuẫn, ở bi kịch giữa các nhân vật trong truyện mà là
bi kịch trong lịng ngƣời đọc” [28, tr.31]. Nhìn chung các ý kiến đều khá
thống nhất ghi nhận sự tìm tịi, khám phá của Lê Minh Kh khơng chỉ trên
phƣơng diện hiện thực, con ngƣời mà còn ở phƣơng diện thể loại.
Khi tập truyện ngắn Trong làn gió heo may của Lê Minh Khuê ra mắt
bạn đọc, là một nhà nghiên cứu luôn bám sát những bƣớc đi của các cây bút
truyện ngắn đƣơng đại, Bùi Việt Thắng đã nhận xét: “Lê Minh Khuê từ Một
chiều xa thành phố đến Bi kịch nhỏ, Trong làn gió heo may đã chứng tỏ là
một cây bút truyện ngắn chuyên nghiệp, có nội lực và biến ảo” [43, tr.27].
Cuối năm 2012, Lê Minh Khuê đã khuấy động đời sống văn học bằng tập
truyện mới mang tên Nhiệt đới gió mùa và giới nghiên cứu phê bình đã giành
nhiều sự quan tâm chú ý. Đặc biệt, trong buổi tọa đàm ra mắt tập truyện ngày
19/12, trên trang , biên tập viên Hà An ghi lại một số ý
kiến của các nhà nghiên cứu. PGS. TS Nguyễn Thị Minh Thái nhận xét: “Lê
Minh Khuê có cách giải quyết chiến tranh khiến ngƣời đọc rơi nƣớc mắt. Viết về
chiến tranh mà nhà văn cho ngƣời đọc thấy ngay trong một gia đình, giữa những
con ngƣời chung huyết thống, chiến tuyến rạch đôi tại đây và ngƣời ta nhìn nhau
qua con mắt nhuốm màu máu cũng ở đây” [49]. Nhà phê bình cịn bày tỏ sự


5
khâm phục của mình dành cho nữ nhà văn khi bà có thể “thấu thị bản chất của
chiến tranh, đi xuyên thấu cuộc chiến mà bi kịch để lại trong mỗi gia đình, mỗi

con ngƣời – điều mà trƣớc đây rất ít nhà văn đề cập tới” [49]. Tác giả còn cho
rằng: “Đằng sau những con chữ sắc lạnh của Lê Minh Khuê là một tâm hồn, một
tấm lòng bao dung, đôn hậu” [49]. Nhà văn Tạ Duy Anh nhận xét: “ Tác phẩm
của Lê Minh Khuê cho thấy sự lão luyện của ngịi bút, cảm giác tự nhiên nhƣ
khơng, tác giả đã vƣợt qua đƣợc yếu tố hình thức, khiến ngƣời đọc có nghề cũng
khơng nhận ra mối ghép giữa hƣ cấu và hiện thực” [49]. Theo nhà phê bình
Phạm Xn Ngun: “Cái tên Nhiệt đới gió mùa dễ khiến ngƣời đọc liên tƣởng
đến những thứ nhẹ nhàng, lãng mạn nhƣng bên trong lòng tác phẩm lại là cả một
câu chuyện âm ỉ, sục sôi” [49]. Cũng trong bài Nhiệt đới gió mùa – tác phẩm
mới của Lê Minh Khuê đăng trên , Thiên Thanh viết: “Vẫn
trong khuôn khổ nhỏ xinh của truyện ngắn, Lê Minh Khuê đã khéo lựa chọn và
đƣa vào tác phẩm của mình những lát cắt sắc lẹm, tinh tế về cuộc sống hiện đại”
[55]. Tác giả còn đƣa ra nhận định: “Đề tài chiến tranh ám ảnh khơng xun suốt
nhƣng nó khiến những câu chuyện ln có màu sắc của sắt máu, ln có sự náo
nhiệt của một vùng đất không bao giờ yên ổn” [55]. Đáng chú ý hơn cả là bài
viết Nhiệt đới gió mùa và nhiệt hứng văn chương đăng trên Tạp chí Sơng Hương
– số 289, Bùi Việt Thắng đã đƣa ra nhận định: “Lê Minh Khuê là nhà văn hai
trong một – quyết liệt đến tận cùng và cũng đắm đuối đến tận cùng” [42, tr.7].
Theo tác giả: “Đọc tập truyện Nhiệt đới gió mùa một lần nữa độc giả chứng kiến
sự uyển chuyển của ngòi bút Lê Minh Khuê từ cái nhìn xa đến cái nhìn gần cuộc
sống và con ngƣời thời đại. Tơi cứ hình dung ngịi bút của nhà văn giống nhƣ
một cái kính hiển vi với độ phóng cực đại khơng chỉ trong cái truyện làm nồng
cốt là Nhiệt đới gió mùa mà cả trong 11 truyện cịn lại trong tập” [42, tr.8].
Bên cạnh đó, các nhà nghiên cứu đặc biệt quan tâm đến thế giới nghệ
thuật trong truyện ngắn Lê Minh Khuê sau 1986:


6
Lê Minh Khuê người đàn bà “viễn thị” là bài viết ở Lời cuối sách của
Hồ Anh Thái, ông đã chỉ ra sự tiến bộ trong tƣ duy nghệ thuật của bà: “Lê

Minh Khuê không chỉ quan tâm đến hiện thực mà chị phản ánh, chị quan tâm
nhiều hơn đến cách trình bày cái hiện thực đó. Chị rất có ý thức nói bằng
giọng của mình – tiết chế, đơi khi nhƣ chúng chẳng khô khan, nhƣng đầy hàm
ý” [17, tr.439–440]. Nhà văn còn đƣa ra nhận xét: “Lê Minh Khuê khéo viết
đối thoại. Gọn gàng, chắc chắn, hiếm khi thừa lời và có ấn tƣợng. Những đối
thoại chính xác, chứa đầy thơng tin và ngổn ngang tâm lí” [17, tr.449].
Trong cơng trình nghiên cứu Truyện ngắn Việt Nam - lịch sử, thi pháp,
chân dung do GS. Phan Cự Đệ chủ biên, nhà phê bình Bùi Việt Thắng có bài tiểu
luận về Truyện ngắn Lê Minh Khuê. Ông đặc biệt chú trọng đến đặc sắc nghệ
thuật trong truyện ngắn của nhà văn đó là đối thoại, các chi tiết nghệ thuật và đoạn
kết truyện ngắn. Theo tác giả: “Đối thoại trong truyện ngắn Lê Minh Khuê rất
hoạt, có tác dụng thúc đẩy diễn biến câu chuyện và làm phát lộ tình huống, tính
cách nhân vật cũng nhƣ tạo khơng khí truyện” [3, tr.760]. Trong những truyện
ngắn của mình, Lê Minh Khuê “gây đƣợc ấn tƣợng, tạo ám ảnh nghệ thuật chính
là nhờ các chi tiết nghệ thuật đặc sắc” [3, tr.764]. Và “những đoạn kết đƣợc Lê
Minh Khuê viết ra một cách tự nhiên nhƣ thể cuộc sống ắt phải diễn ra nhƣ thế,
giản dị và khơng một sự gị ép, khiên cƣỡng nào” [3, tr.765].
Đức Anh trong bài Nhiệt đới gió mùa của Lê Minh Khuê đã đƣa ra một
số nhận định: “Các truyện trong cuốn sách đƣợc nhà văn viết với một giọng
văn mới so với các cuốn trƣớc của bà, cách viết liền mạch, trong các câu văn
nhà văn rất ít sử dụng dấu phẩy, cả câu kể lẫn câu thoại đều viết liền nhau.
Mỗi truyện là một mảng đời sống đƣợc nhà văn miêu tả khá thành công” [51].
Và “qua lối viết thẳng, lạnh lùng của mình, nhà văn giúp độc giả có cái nhìn
trực diện vào đời sống mỗi con ngƣời – nhân vật trong từng câu chuyện, giải
quyết đƣợc những khúc mắc trong cuộc sống của từng nhân vật” [51].


7
Truyện ngắn Lê Minh Khuê cũng là đối tƣợng nghiên cứu của một số
luận văn thạc sĩ ở các trƣờng đại học trong cả nƣớc. Trong luận văn Truyện

ngắn Lê Minh Khuê nhìn từ thi pháp thể loại, Cao Thị Hồng đã chú trọng
khám phá cấu trúc biểu hiện nghệ thuật trên cấp độ từ quan niệm nghệ thuật
về con ngƣời đến xây dựng nhân vật, kết cấu, lời văn. Phan Thị Thanh Vân
trong luận văn Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Lê Minh Khuê, đi vào
khám phá các điểm nhìn trần thuật cũng nhƣ một số phƣơng diện về ngôn ngữ
và giọng điệu trần thuật. Và đến gần đây nhất, luận văn Hình tượng người phụ
nữ trong truyện ngắn Lê Minh Khuê của Nguyễn Thị Mỹ Lài đã đi sâu tìm hiểu
về thế giới nhân vật nữ của truyện ngắn Lê Minh Khuê trong mối quan hệ với lí
tƣởng và cách mạng, với tình u và hơn nhân, với tâm linh và tính dục.
Nhìn chung truyện ngắn Lê Minh Khuê đã thu hút sự quan tâm nghiên
cứu của nhiều nhà phê bình văn học lâu nay. Đã có một số bình diện đƣợc
phân tích, đánh giá khá kỹ nhƣ ngơn ngữ nhân vật, bút pháp, nhƣng cũng cịn
nhiều bình diện chƣa đƣợc làm sáng tỏ, nếu đƣợc đề cập thì cũng chỉ dừng lại
ở mức độ nhận xét cảm tính, cụ thể.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tƣợng khảo sát của luận văn là toàn bộ truyện ngắn đã đƣợc xuất
bản sau 1986 của Lê Minh Kh. Trong đó, chúng tơi tập trung nghiên cứu
thế giới nghệ thuật truyện ngắn của nhà văn, để góp phần làm sáng tỏ diện
mạo riêng của cây bút nữ này.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài tập trung khảo sát bốn tập truyện ngắn của Lê Minh Khuê: Một
chiều xa thành phố (1986), Bi kịch nhỏ (1993), Trong làn gió heo may (1999),
Nhiệt đới gió mùa (2012). Phạm vi nghiên cứu đƣợc giới hạn bởi những bình
diện tiêu biểu có khả năng làm sáng rõ thế giới nghệ thuật của nhà văn: thế


8
giới hiện thực, các kiểu nhân vật, kết cấu, ngôn ngữ, giọng điệu.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu

Nghiên cứu về thế giới nghệ thuật trong truyện ngắn Lê Minh Khuê sau
1986, chúng tôi sử dụng một số phƣơng pháp chủ yếu sau:
4.1. Phương pháp cấu trúc – hệ thống
Xem tác phẩm là một hệ thống cấu trúc thống nhất, để từ đó soi xét
đánh giá lại thế giới nghệ thuật của tác giả trên các mặt về thế giới nhân vật,
ngôn ngữ, giọng điệu và kết cấu.
4.2. Phương pháp phân tích – tổng hợp
Phƣơng pháp này giúp cho việc nghiên cứu, phân tích, lý giải các vấn đề,
các chi tiết nghệ thuật để từ đó khái quát lên những đặc điểm chung về nội dung
cũng nhƣ sự độc đáo về hình thức nghệ thuật trong truyện ngắn Lê Minh Khuê.
4.3. Phương pháp khảo sát – thống kê
Chúng tôi tiến hành khảo sát, thống kê những số liệu cần thiết liên quan
đến thế giới nghệ thuật trong truyện ngắn Lê Minh Khuê, từ đó phân loại để
phân tích, đánh giá.
4.4. Phương pháp so sánh – đối chiếu
Để làm sáng tỏ những nét riêng trong truyện ngắn của Lê Minh Kh,
chúng tơi cịn đặt nó trong sự so sánh với truyện ngắn của các nhà văn khác
nhƣ Trần Thùy Mai, Y Ban, Võ Thị Hảo, Nguyễn Thị Thu Huệ,…
5. Bố cục luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, nội dung luận văn
gồm ba chƣơng:
Chƣơng 1: Lê Minh Khuê trong dòng chảy của truyện ngắn Việt Nam sau 1986.
Chƣơng 2: Thế giới hiện thực trong truyện ngắn Lê Minh Khuê sau 1986.
Chƣơng 3: Kết cấu, ngôn ngữ và giọng điệu trong truyện ngắn Lê Minh
Khuê sau 1986.


9
CHƢƠNG 1


LÊ MINH KHUÊ TRONG DÒNG CHẢY CỦA
TRUYỆN NGẮN VIỆT NAM SAU 1986
1.1. LÊ MINH KHUÊ – HÀNH TRÌNH SÁNG TẠO VÀ QUAN NIỆM
VĂN CHƢƠNG
1.1.1. Hành trình sáng tạo
Lê Minh Khuê tên khai sinh Lê Minh Khuê, bút danh khác là Vũ Thị
Miền, sinh ngày 6 tháng 12 năm 1949, tại xã An Hải, huyện Tĩnh Gia, tỉnh
Thanh Hóa. Sinh ra và lớn lên lúc đất nƣớc bị xâm lăng, chia cắt, năm mƣời
sáu tuổi, cô gái tỉnh Thanh đã tình nguyện tham gia đội nữ thanh niên xung
phong chống Mỹ cứu nƣớc. Trải qua những năm tháng gian khổ, đối đầu với
bom rơi đạn nổ suốt ngày đêm trên tuyến đƣờng mịn Hồ Chí Minh, ngƣời
con gái ấy đã tận mắt chứng kiến sự khốc liệt của chiến tranh và đây cũng
chính là nguồn cảm xúc dồi dào cho những sáng tác sau này của nhà văn. Lê
Minh Khuê đã từng chia sẻ cái cơ duyên để bà cầm bút viết văn chỉ là một
khoảnh khắc rất ngắn ngủi: “Đó là năm 17 tuổi, năm 1967, khi tơi nằm trong
quân y viện. Khi đó buồn lắm. Một số ngƣời lính ghé qua, họ cho mƣợn sách,
tơi đọc rất là nhiều. Có một anh bộ đội gợi ý, bảo tơi, hay là em viết đi! Tôi
bắt đầu viết cho báo Tiền Phong từ đó với những bài ký” [54]. Rồi trở về sau
“đi tới đâu bà viết tới đó. Hễ gặp chiếc xe nào ra Bắc, bà lại gửi bài về tòa
soạn” [58]. Hiện nay, bà đang đảm trách cƣơng vị Chủ tịch Hội đồng Văn
xuôi Hội nhà văn Hà Nội, phó Chủ tịch Hội đồng Văn xi Hội nhà văn
Việt Nam.
Từng tham gia trên nhiều lĩnh vực nhƣ làm báo, phóng viên, xuất bản,
biên tập viên nhƣng dƣờng nhƣ nghiệp văn mới là một sự an bài trong số
phận của Lê Minh Khuê, giúp bà thành danh và nhanh chóng đƣợc ngƣời đọc
biết đến, đặc biệt ở thể loại truyện ngắn. Tuy nhiên, nhƣ chính nhà văn đã


10
từng tâm sự: “Nghề biên tập viên đã làm chỗ dựa, để có thể hết mình đến với

nghiệp văn” [50]. Trong sự nghiệp sáng tác, Lê Minh Khuê luôn nỗ lực phấn
đấu không ngừng để cho ra đời những tác phẩm có giá trị cả về số lƣợng lẫn
chất lƣợng, cụ thể: Những ngôi sao xa xôi (Truyện ngắn – 1973), Cao điểm
mùa hạ (Tập truyện ngắn – 1978), Đoạn kết (Tập truyện ngắn – 1981), Một
chiều xa thành phố (Tập truyện ngắn – 1986), Em đã không quên (Tiểu thuyết
– 1990), Bi kịch nhỏ (Tập truyện ngắn – 1993), Trong làn gió heo may (Tập
truyện ngắn – 1999), Truyện ngắn chọn lọc – Những dịng sơng, buổi chiều,
cơn mưa (Tập truyện ngắn – 2002), Màu xanh man trá (Tập truyện ngắn –
2003), Một mình qua đường (Tập truyện ngắn – 2006), Những ngơi sao, trái
đất, dịng sơng (Tập truyện ngắn – 2008), Nhiệt đới gió mùa (Tập truyện ngắn
– 2012). Ngay từ khi ra mắt, những tác phẩm trên đã gây ấn tƣợng trong lòng
độc giả; đặc biệt Lê Minh Khuê đã hai lần nhận giải thƣởng của Hội nhà văn
Việt Nam: Năm 1987 với tập Một chiều xa thành phố, năm 2000 với tập
Trong làn gió heo may, một lần đoạt giải của Tạp chí Văn nghệ Quân đội năm
1994 với tập Bi kịch nhỏ. Nhiều tác phẩm xuất sắc của bà đã đƣợc dịch và
giới thiệu ở một số nƣớc trên thế giới nhƣ Mỹ, Pháp, Thụy Điển, Nhật,
Malaysia, Hàn Quốc,… Tiêu biểu là tập truyện The Stars, the Earth, the River
(Những ngơi sao, trái đất, dịng sông) đã đoạt giải thƣởng Quốc tế văn học
Byeong – Julee năm 2008 trong Liên hoan văn học Quốc tế Hadong – Hàn
Quốc. Đây quả thật là những thành công vô cùng quý giá trong cuộc đời cầm
bút của Lê Minh Khuê.
Trong những tác phẩm đã đƣợc xuất bản của Lê Minh Khuê, tập truyện
ngắn Những ngôi sao xa xôi, đƣợc xem là tác phẩm đầu tay đánh dấu bƣớc
khởi đầu cho con đƣờng văn học của nhà văn. Có thể nói, chính những năm
tháng gian khổ, hào hùng của thời chống Mỹ trở thành nguồn cảm xúc dồi dào
cho sáng tác về chiến tranh của Lê Minh Khuê. Bà kể lại: “Ngày đó tơi là


11
phóng viên báo Tiền Phong, đã từng đi đến rất nhiều các chiến trƣờng để viết

báo. Năm 1971 tôi cùng một binh chủng làm đƣờng đến đèo Côlanhip và đã ở
lại một đêm trong một hang đá cùng một tiểu đội công binh. Họ cũng là
những ngƣời trẻ, hầu hết là học sinh trung học, những sinh viên… đi tham gia
kháng chiến. Sống cùng nhau, cùng tuổi, cùng lý tƣởng nhƣ nhau trong một
hồn cảnh vơ cùng ác liệt nên dễ dàng hiểu và chia sẻ cho nhau. Trong tâm
hồn những cô gái thanh niên xung phong, quê nhà bao giờ cũng hiện lên kỳ
diệu. Và bởi vẻ đẹp kỳ diệu đó mà họ sẵn sàng hy sinh. Đó cũng chính là ý
tƣởng lớn nhất mà tơi muốn gửi gắm qua truyện ngắn này” [53]. Tiếp nối
nguồn mạch hiện thực về cuộc chiến tranh chống Mỹ cứu nƣớc, năm 1978, Lê
Minh Khuê tiếp tục trình làng tập truyện ngắn Cao điểm mùa hạ. Đó là tập
truyện đẹp, giản dị. Những câu chuyện đƣợc đặt trong hoàn cảnh chiến tranh,
với giọng kể ngợi ca, thán phục. Lê Minh Khuê đã viết nên những truyện
ngắn đầy màu sắc tƣơi sáng, trong trẻo. Mỗi truyện đều có nhân vật anh hùng,
dũng sĩ. Họ là những con ngƣời có tinh thần, trách nhiệm với vai trị là một
cơng dân đối với vận mệnh quốc gia, với đồng đội, đồng chí. Vẻ đẹp của họ
chính là hăng say chiến đấu, tinh thần lạc quan, tin tƣởng vào tƣơng lai. Lê
Minh Khuê khám phá con ngƣời ở phẩm chất anh hùng cao đẹp với một thái
độ tơn kính. Các nhân vật của nhà văn dẫu đảm nhận những cơng việc khác
nhau nhƣng họ đều có khát vọng cống hiến cho sự nghiệp chung. Bà đã phát
hiện ra con ngƣời cộng đồng trong mỗi cá nhân, con ngƣời ln có ý thức
cộng đồng, dũng cảm kiên cƣờng trong chiến đấu. Cũng trên tinh thần đó, bà
tiếp tục cho ra mắt tập Đoạn kết (1980) nhƣng tác phẩm chƣa gây đƣợc tiếng
vang. Phải đến tập Một chiều xa thành phố (1986) mới thực sự là bƣớc
chuyển biến trƣởng thành vƣợt bậc trong phong cách cũng nhƣ trong sự
nghiệp sáng tác của Lê Minh Khuê. Sự tinh tế, nhạy cảm của một nhà văn nữ
đã giúp bà quan sát và phản ánh đƣợc khá chính xác, chân thực những biến


12
đổi lúc âm thầm, lúc mạnh mẽ trong đời sống tinh thần của con ngƣời hiện

đại. Khơng chỉ có vậy, vào năm 1993, Bi kịch nhỏ xuất hiện đƣợc xem là một
cột mốc đáng nhớ trong văn nghiệp của Lê Minh Khuê. Đây chính là một thử
nghiệm mới, một cách viết nhập cuộc uyển chuyển. Tập truyện này gồm chín
truyện ngắn. Xuyên suốt chiều sâu tập truyện là một nỗi đau về sự bất ổn,
biến chất của con ngƣời trong xã hội mới, kể cả những kẻ có địa vị cao. Khi
đƣợc hỏi về những tác phẩm ở giai đoạn sau của mình nhƣ Bi kịch nhỏ, Đồng
đơ la vĩ đại, Làn nước dịu dàng, Anh lính Tơ-ny D…, nhà văn nói rằng: “Khác
chăng là cách chọn cốt truyện, đề tài. Chữ nghĩa không khác nhau. Cách nghĩ
cũng vậy. Chỉ có một ngƣời trẻ và một ngƣời tuổi xê xế. Tuổi trẻ thì vui tƣơi
ngu dại. Đứng tuổi rồi ai chả hồi nghi tuyệt vọng. Tơi thích cái phần hồi
nghi trong tơi. Nó đúng với cuộc sống mà tơi đang trải” [50]. Cứ viết, cứ viết,
viết để dàn trải nỗi đau lên trang giấy, viết để chuyển những khát vọng khơng
thành lời, viết để thể hiện tình u con ngƣời. Đến năm 2008, chị vinh dự là
nhà văn đầu tiên đoạt giải thƣởng văn học Quốc tế mang tên văn hào Hàn
Quốc Byeong-zu Lee lần thứ nhất (tháng 4/ 2008) với tập truyện ngắn: The
Stars, The Earth, The River (Những ngơi sao, trái đất, dịng sơng) do Nhà
xuất bản Curbstone Press ấn hành ở Mỹ. Với thông báo của Hội đồng Giải
thƣởng ngày 7/3/2008: “Là một nhà văn nữ hàng đầu, Lê Minh Khuê ban đầu
đƣợc biết đến bằng những tác phẩm viết về các cô gái tham chiến trong cuộc
chiến tranh giữ nƣớc. Tác phẩm thời hậu chiến của bà quan tâm đến hậu quả
chiến tranh đối với đất nƣớc mình, những vấn đề sau khi thống nhất đất nƣớc,
sự nghèo đói và tình trạng xói mịn văn hố và tinh thần khi đất nƣớc chuyển
sang một xã hội tiêu thụ. Những vấn đề này đƣợc thể hiện bằng một văn
phong đẹp, chua xót và trang nghiêm” [18]. Sau một thời gian khá dài im hơi
lặng tiếng, năm 2012, việc nhà văn Lê Minh Khuê trở lại với tác phẩm mới
Nhiệt đới gió mùa đƣợc xem là một bất ngờ. Tập truyện gồm 12 truyện


13
ngắn: Nghĩ ngợi quẩn quanh, Xe camry ba chấm, Nước trong, Chuyện bếp

núc, Trên đường đê, Đồ cũ, Lãng mạn nửa mùa, Một mình, Ngày cịn dài,
Sống chậm, Nhiệt đới gió mùa, Ráp Việt. Vẫn trung thành với phong cách của
một cây bút chính thống sắc sảo, Lê Minh Khuê đã khai thác một đề tài không
mới là chiến tranh, thời bao cấp kéo dài đến hiện đại. Lần này, nữ tác giả còn
lồng vào những chi tiết cuộc đời có thật của gia đình, bản thân. Sự kiên định
trong khai thác đề tài và văn phong lão luyện của Lê Minh Kh hấp dẫn cả
những độc giả khó tính nhất.
Trên bốn mƣơi năm cầm bút với hơn 12 tập truyện ngắn, khơng thể nói
là ít cũng khơng nhiều đối với một văn nghiệp. Tuy nhiên, với tài năng và cả
sự nỗ lực vƣơn lên của mình, Lê Minh Khuê đã khẳng định đƣợc vị thế của bà
trong nền văn xi hiện đại Việt Nam. Trong hành trình sáng tác của nhà văn,
ngƣời đọc cảm thấy Lê Minh Khuê “luôn trăn trở, vật lộn, tìm kiếm một cách
nhìn, cách thể hiện mới” [25].
1.1.2. Quan niệm văn chƣơng
Là một nhà văn chuyên nghiệp, Lê Minh Khuê đã để lại dấu ấn đẹp
trong lịng cơng chúng và góp phần làm phong phú thêm diện mạo truyện
ngắn Việt Nam đƣơng đại. Qua những tác phẩm của Lê Minh Khuê, ta có thể
thấy đƣợc quan niệm văn chƣơng mới mẻ của nhà văn trên một số phƣơng
diện: quan niệm về nghề văn, nhà văn; quan niệm về vai trò của văn học và
quan niệm về đặc trƣng thể loại.
Với ngòi bút truyện ngắn sung sức, Lê Minh Khuê đến với nghề bằng
thái độ nghiêm túc và sự lao động nghệ thuật chân chính. Bà xem nghề văn là
một trong vô vàn những công việc của đời sống nên cần có cái tâm và niềm
đam mê. Cho nên, trên những trang văn của mình, Lê Minh Kh ln coi
trọng từng dịng, từng chữ mình viết ra, bà quan niệm: “Tơi khơng có tham
vọng dùng văn chƣơng để cải hóa bất cứ việc gì mà ln coi nó là một trong


14
muôn vàn công việc. Không thể thiếu và không quá quan trọng, nhƣng đã làm

nhà văn nên nghĩ mình viết lách sao cho nhƣ ngƣời thợ lành nghề, không
đƣợc làm ẩu. Tôi rất ghét những ngƣời đan lát, dối trá, chữ nghĩa cứ tn ra
rào rào, khơng có thời gian đọc lại cái mình viết. Điều đó giống nhƣ tình trạng
làm hàng giả đang đầu độc cuộc sống” [53]. Có thể nói, để có những trang
viết đi vào lịng ngƣời, khẳng định dấu ấn riêng của phong cách cá nhân, Lê
Minh Khuê đã đặt ra cho mình những yêu cầu khắt khe trong công việc, bởi
viết văn là phải bộc lộ đƣợc ý tƣởng, tiếng nói và cảm xúc cá nhân vào trong
đó. Nhà văn thay mặt ngƣời đọc chuyển tải nhanh nhất cái cảm xúc đó đến
với độc giả chứ không dung nạp những điều tầm thƣờng, vô nghĩa, để rồi
chẳng cịn gì đọng lại sau khi ngƣời ta gấp trang sách lại. Vì vậy, theo bà:
“Văn chƣơng phải là văn chƣơng. Ngƣời viết khơng nên kể sống sít cho xong
một câu chuyện, một tâm trạng mà không bộc lộ đƣợc ý tƣởng chính. Đã viết
văn, thì cần phải cẩn thận từng dấu chấm, dấu phẩy, cách dùng chữ, cách diễn
đạt cảm xúc” [54]. Có lần bà đã chia sẻ: “Nghề văn thực sự khổ cực chứ
không phải là chuyện chơi chơi, chị bảo may mà mình có nghề biên tập viên
làm chỗ dựa, để có thể hết mình với nghiệp văn” [50]. Cũng nhờ ảnh hƣởng
nghề nghiệp này mà bà ln tự nhắc nhở mình đừng viết khơi khơi, đừng viết
ào ào. Với bà, trong mỗi trang viết, một dấu chấm, dấu phẩy phải đƣợc đặt
đúng chỗ, đúng nơi. Nghề văn với Lê Minh Khuê là những gì rung động nhất
mà bà muốn nhắn gửi với ngƣời đọc.
Bên cạnh quan niệm về nghề văn, Lê Minh Khuê còn bộc bạch suy
nghĩ của mình về nhân cách, phong cách của nhà văn. Hơn ai hết, bà hiểu
rằng nhà văn là phải có phong cách, nó biểu hiện qua việc nhà văn phải đem
đến cho ngƣời đọc một cái nhìn mới mẻ về cuộc sống, con ngƣời thơng qua
những hình tƣợng nghệ thuật độc đáo bằng những phƣơng thức, phƣơng tiện
biểu hiện đặc thù làm in đậm dấu ấn cá nhân, để rồi ngƣời đọc khó có thể


15
nhầm lẫn với ai. Do đó, bà khẳng định: “Văn chƣơng phải mang dấu ấn của

ngƣời viết. Mỗi nhà văn phải có ngơn ngữ, giọng điệu riêng khơng lẫn với
ngƣời nào càng tốt. Mỗi khi viết tôi chú trọng chi tiết, cách nói năng, cách
ứng xử của nhân vật, khơng để nó q là của mình – nghĩa là nhà văn và nhân
vật phải có khoảng cách. Nhân vật sống đời sống của nó, nhà văn đứng ở xa
quan sát. Tạo đƣợc cách viết này cũng là tạo đƣợc một phong cách” [57]. Để
tạo nên dấu ấn phong cách, Lê Minh Kh ln đổi mới cách viết của mình.
Bà ln đi sâu vào những mảng tối của hiện thực cuộc sống đang diễn ra để
lật tẩy những mặt trái, góc khuất của cuộc sống và con ngƣời. Phong cách ấy
đƣợc biểu hiện qua nhiều truyện ngắn Bi kịch nhỏ, Trong làn gió heo may,
Anh lính Tơn-ny D, và đặc biệt là những sáng tác về sau nhƣ Nhiệt đới gió
mùa, Ráp Việt,… Có lần, Lê Minh Kh tâm sự: “Mình khơng thích việc trả
lƣơng để ngồi viết văn. Nhà văn phải năng động, luôn đƣơng đầu với mọi
chuyện, và khi ngồi viết cảm thấy sung sƣớng, vì đã giành chút thời giờ cho
cơng việc u thích” [59]. Quả đúng nhƣ vậy, những tác phẩm sau này nhƣ
Ráp Việt, tác giả đã đụng chạm đến yếu tố bạo lực, một vấn đề đang thƣờng
nhật xảy ra trong cuộc sống xung quanh chúng ta. Cho nên, Lê Minh Khuê đã
không ngần ngại mà đi thẳng trực diện phản ánh những vấn đề nhức nhối đó
để lên tiếng cảnh báo thái độ sống của con ngƣời trƣớc thời đại mới. Không
những thế, bà cịn bộc bạch: “Nhà văn chun nghiệp có thể viết đến đầu đến
đũa bất cứ khi nào muốn và cần phải viết” [59]. Ngồi ra, điều mà bà ln
quan tâm đối với một nhà văn và là điều quan trọng nhất đó là yếu tố nội lực.
Bà nghĩ “Có nội lực rồi thì khi viết khơng cần cố gắng gồng mình, chỉ cần cẩn
thận. Đơi khi đọc lại truyện của chính mình, tơi cũng ngạc nhiên, khơng hiểu
vì sao mình lại viết đƣợc thế. Nhƣ truyện Những ngôi sao xa xôi, truyện đầu
tay tôi viết vào năm 19 tuổi, khi viết xong thì tơi khơng thích lắm, nhƣng ở
tuổi này của cuộc đời, khi đã bị quăng quật, bị thử thách thậm chí là nhiều đau


16
khổ tơi ngạc nhiên vì sao vào thời điểm đó con ngƣời mình có thể trẻ thơ đến

nhƣ vậy” [54]. Lê Minh Kh cịn xác quyết một điều mà có thể là bài học
cho những ngƣời viết trƣớc: “Nội lực của nhà văn cần đƣợc kết hợp với lao
động cẩn thận, làm thế nào để không bị trùng lắp với chính mình, khơng bị
hời hợt. Khơng nên viết ra những điều vơ nghĩa. Đó là vì sao tơi viết khơng
nhiều, tơi thực tình khơng thích lắm nhiều truyện ngắn của tôi. Trong các tác
phẩm tôi chỉ chọn đƣợc khoảng mƣời cái truyện có thể đọc lại” [54]. Bà dẫn
ra cụ thể một sáng tác của mình để chứng minh cho điều đó. Ví nhƣ truyện
Anh lính Tơ-ny D trong đó có màu sắc chiến tranh, sự tối tăm khi con ngƣời
lao vào những tham vọng nhỏ nhặt, tội ác, những sự ám ảnh về chết chóc. Ban
đầu chỉ là ý tƣởng đơn giản, nhƣng sau đó Lê Minh Khuê đã phát triển truyện
ngắn này và nâng đƣợc nó lên đƣợc ý tƣởng sâu sắc. Không những thế, theo
bà: “Nhà văn cần có đời sống riêng tƣ ở chiều hƣớng tinh thần, tránh nạp quá
nhiều thông tin thời sự vặt từ báo chí. Từ kinh nghiệm cá nhân, tơi cho rằng
điều đó đúng. Các thơng tin vặt từ báo chí tác động mạnh lên tâm trí của
ngƣời sáng tác. Suốt ngày anh chạy theo thông tin, sẽ gây loạn, mệt mỏi. Một
ngƣời viết cần duy trì đời sống riêng tƣ, có khoảng cách với thơng tin” [54].
Ngồi quan niệm về nghề văn, nhà văn, Lê Minh Khuê còn quan niệm
về vai trò của văn học. Theo bà, văn học phải phản ánh đƣợc hiện thực, đây
cũng chính là mảnh đất màu mỡ đầy hứa hẹn đối với bất kì nhà văn nào. Để
có những vụ mùa bội thu, những ngƣời cầm bút bao giờ cũng dày cơng tìm
hiểu và cày xới kĩ càng mảnh đất hiện thực ấy. Lê Minh Khuê cũng vậy,
nhƣng quan niệm về phản ánh hiện thực của nhà văn thật đơn giản, bình dị mà
lại rất riêng và sâu sắc. Với Lê Minh Khuê, hiện thực là chiến tranh, là những
điều mà bà đã thấy và chứng kiến, là những miền kí ức mà bà đã trải qua.
Nhiều khi trong giấc mơ, bà vẫn thấy hình ảnh quá khứ hiện về với những
đồng đội đã đi qua cuộc đời mình, những hình ảnh khốc liệt của bom đạn. Bà


17
bảo: “Viết văn cịn có cả sự tƣởng tƣợng hay nghe bâng quơ đâu đấy một câu

chuyện và mình viết tiếp” [58]. Nhƣng có lẽ, một khi ngƣời ta trải qua biết
bao sự khốc liệt thì sự chịu đựng quá khứ trong lòng lại càng dồn nén, lại rõ
ràng hơn. Đó cũng chính là động lực cầm bút của nhà văn Lê Minh Khuê. Kí
ức ấy đã đƣợc bà tái hiện qua Những ngôi sao xa xôi – chuyện kể về ba nữ
thanh niên xung phong gan dạ, trách nhiệm và yêu đời. Hiện thực là cuộc
chiến tranh chống Mỹ ác liệt, cùng với đó là sự mất mát hy sinh của các đồng
đội, đồng chí trên trận tuyến. Hiện thực chiến tranh cịn có cả sự khốc liệt, dữ
dằn, trớ trêu trong Nhiệt đới gió mùa – truyện ngắn mới nhất của nhà văn, bà
đã thể hiện một cách viết mới lạ, tiêu biểu cho số ít những nhà văn, tác phẩm
viết về đề tài chiến tranh khi đề cập đến những xung đột mà ít ngƣời ngại
nhắc đến. Bức tranh hiện thực đƣợc Lê Minh Khuê trải dài qua các trang viết,
vì chỉ có ở đó bà mới có thể bộc bạch đƣợc hết những tâm tƣ của mình. Ngay
từ sau giải phóng, hiện thực với Lê Minh Kh cịn là những xói mịn trong
đời sống tinh thần của từng cá nhân, khi mà ngƣời ta bớt nghĩ về “cái ta” để
sống với “cái tôi” nhiều hơn. Nhƣ Tân và Viện trong Một chiều xa thành phố,
cách sống của hai ngƣời đàn bà sau khi cởi bỏ tấm áo lính khiến ngƣời đọc
giật mình nhìn lại, làm thế nào để không rơi vào trạng thái “mụ mị quá đà”
cũng không phải là chuyện giản đơn. Nhƣ vậy, câu chuyện của bà cũng diễn
ra hết sức tự nhiên, nhƣ chính hơi thở của chính bà hịa vào hơi thở của cuộc
sống và đƣợc đi qua bộ lọc của nhà văn. Tác phẩm của bà viết ra không cần
kể một câu chuyện cụ thể nào cả, nhƣng lại lắng đọng. Điều mà bà đem lại
cho ngƣời đọc là sau khi đọc đến dấu chấm hết, họ sẽ có một phát khởi về
điều gì đó, hoặc sáng tỏ điều gì đó đang quẩn quanh trong đầu. Có thể nói, dù
viết về vấn đề gì – những ngày tháng chiến tranh ác liệt, số phận con ngƣời,
những mảng tối của xã hội, hay những nhân vật suy thối đạo đức trầm
trọng,… thì những trang văn của Lê Minh Khuê vẫn đầy cảm xúc, mang đậm


18
tính nhân văn và tạo dƣ âm trong lịng ngƣời đọc.

Trong sự nghiệp văn chƣơng, có thể thấy Lê Minh Khuê chỉ quan tâm
nhiều đến thể loại truyện ngắn. Chính vì vậy, ở thể loại này nhà văn đã có
những quan niệm riêng. Có lần bà chia sẻ: “Tơi cũng đã thử viết dài rồi đấy,
nhƣng tơi dừng lại vì cảm thấy khơng phải là mình. Ngơn ngữ truyện ngắn
thƣờng súc tích, giờ viết lê thê cũng đƣợc, nhƣng đọc xong tơi thấy khơng
thích. Tơi khơng ép mình cố làm gì cả, cứ để cho mọi thứ tự nhiên” [54]. Đơi
khi nhà văn cịn bộc lộ quan điểm của mình về dung lƣợng giữa thể loại
truyện ngắn so với tiểu thuyết: “Với vài dịng trong truyện ngắn, anh có thể
viết ra đƣợc vài chục trang trong một thứ gọi là tiểu thuyết. Viết dài đòi hỏi
nhà văn phải giữ đƣợc mạch truyện, lắm khi phải trói chân mình ở bàn. Viết
tiểu thuyết thì cần phải mang vác nặng nhọc. Viết truyện ngắn thì lại có cái
nặng nhọc khác” [54].
Suốt cuộc đời cầm bút, Lê Minh Khuê luôn thể hiện trải nghiệm của
bản thân trên những trang viết theo quan điểm riêng xuất phát từ chính trái
tim và tâm hồn nhà văn. Việc lựa chọn thể loại này để dựng bút, bao giờ Lê
Minh Khuê cũng khéo léo truyền tải đến ngƣời đọc quan niệm văn chƣơng
của mình thơng qua các tác phẩm. Vì thế, những suy nghĩ, trăn trở của bà về
nghề văn, nhà văn, vai trò của văn học, đặc trƣng thể loại có những chỗ quyết
liệt và có những điều sâu sắc, thấm thía.
1.2. LÊ MINH KHUÊ TRÊN HÀNH TRÌNH ĐỔI MỚI TRUYỆN NGẮN
VIỆT NAM SAU 1986
1.2.1. Diện mạo truyện ngắn Việt Nam thời kì đổi mới
Từ năm 1986, cơng cuộc đổi mới tồn diện đất nƣớc đƣợc chính thức
khởi động, góp phần tạo tiền đề quan trọng làm thay đổi diện mạo của nền
văn học, trong đó có văn xi, đặc biệt là thể loại truyện ngắn. Có thể nói,
truyện ngắn Việt Nam giai đoạn này phát triển trong khơng khí dân chủ cùng


19
với nhu cầu và ý thức giao lƣu văn hóa đƣợc mở rộng. Chính vì vậy, diện mạo

truyện ngắn Việt Nam sau 1986 đã có nhiều khởi sắc đáng kể.
Trong thời kì này, tài năng và cá tính sáng tạo của nhà văn đƣợc tôn
trọng cùng những chế độ đãi ngộ xứng đáng đối với lao động nghệ thuật đã
khiến cho đội ngũ nhà văn tăng lên và đƣợc phân thành các thế hệ. Trƣớc hết,
phải kể đến thế hệ đã trƣởng thành qua hai cuộc kháng chiến và đƣợc bạn đọc
biết đến từ lâu nhƣ Nguyễn Minh Châu, Ma Văn Kháng, Nguyễn Khải, Vũ
Bão, Nguyễn Kiên, Mai Ngữ, Đỗ Chu, Phạm Hoa, Xuân Thiều... với ý thức
đổi mới ngòi bút của mình họ đã bắt kịp với những biến chuyển của thời cuộc,
tạo nên những gƣơng mặt vừa phong phú vừa độc đáo của truyện ngắn
Việt Nam thời kì này. Các gƣơng mặt truyện ngắn của thế hệ tiếp theo xuất
hiện ngay từ thời kỳ đầu của văn học đổi mới đã nhanh chóng thu hút đƣợc sự
quan tâm của độc giả bởi những đột phá trong bút pháp. Đó là Nguyễn Huy
Thiệp, Tạ Duy Anh, Bảo Ninh, Phạm Ngọc Tiến, Nguyễn Quang Thiều,
Nguyễn Quang Lập, Hồ Anh Thái, Ngô Tự Lập, Sƣơng Nguyệt Minh, Phan
Triều Hải... với những chuyển hƣớng trong tƣ duy, thế hệ nhà văn này đã có
những khám phá mới về hiện thực và con ngƣời. Tiếp bƣớc thế hệ của
Nguyễn Huy Thiệp, Hồ Anh Thái là một loạt gƣơng mặt cá tính ở thế hệ 7x,
8x nhƣ Nguyễn Ngọc Tƣ, Phạm Duy Nghĩa, Đỗ Bích Thúy, Nguyễn Ngọc
Thuần, Phong Điệp, Đỗ Hồng Diệu, Nguyễn Vĩnh Nguyên, Vũ Đình Giang,
Phan Việt, Nguyễn Quỳnh Trang, Từ Nữ Triệu Vƣơng, Nguyễn Thị Cẩm...
Đây thực sự là những gƣơng mặt mà ngay ở những tác phẩm đầu tay đã tạo
đƣợc ấn tƣợng trên văn đàn. Điều đáng ghi nhận ở thế hệ này là ý thức vƣơn
tới những thể nghiệm mới mẻ, lạ hóa. Nhu cầu “viết khác đi” dƣờng nhƣ trở
thành nỗi trăn trở chung của thế hệ này. Tạo nên diện mạo mới cho truyện
ngắn Việt Nam sau 1986, không thể không nhắc đến đội ngũ nhà văn nữ vừa
đông đảo về số lƣợng vừa đa dạng về tiềm năng. Đó là những gƣơng mặt từ


20
lâu đã đi vào lịng cơng chúng nhƣ Lê Minh Khuê, Đoàn Lê, Dạ Ngân, Trần

Thùy Mai, Phạm Thị Hoài, Phan Thị Vàng Anh, Nguyễn Thị Thu Huệ, Võ
Thị Hảo, Võ Thị Xuân Hà, Nguyễn Thị Ấm, Y Ban, Lý Lan, Di Li… Sự xuất
hiện đông đảo của các cây bút nữ không chỉ đem lại cho văn chƣơng cái mới
lẫn cái lạ mà còn là sự khẳng định ý thức nữ quyền. Có thể nói, đội ngũ tác
giả với sự tiếp nối các thế hệ cầm bút đã góp phần không nhỏ làm cho diện
mạo truyện ngắn sau 1986 ngày càng mới mẻ và phong phú hơn.
Bên cạnh sự lớn mạnh không ngừng của đội ngũ những ngƣời cầm bút,
truyện ngắn Việt Nam sau đổi mới đã hình thành một số khuynh hƣớng văn
học chính. Tuy nhiên, khơng phải các khuynh hƣớng này đều xuất hiện ngay
sau năm 1986 bởi sự tồn tại và phát triển của mỗi khuynh hƣớng cũng có quy
luật và con đƣờng riêng, nhƣng tất cả đều góp phần làm nên sự phong phú, đa
dạng cho truyện ngắn giai đoạn này.
Thứ nhất, khuynh hƣớng thế sự - đời tƣ. Có thể nói, chiến tranh đã đi
qua, cuộc sống thời bình trở lại thì con ngƣời cũng dần trở về với các quan hệ
thế sự và nhu cầu của đời sống riêng tƣ. Phản ánh đời sống trong các quan hệ
thế sự hằng ngày và đời sống riêng tƣ của con ngƣời trở thành mối quan tâm
lớn của văn học nói chung, cũng nhƣ của truyện ngắn nói riêng. Khuynh
hƣớng thế sự - đời tƣ đã nảy nở ngay từ những năm đầu sau chiến tranh, đƣợc
phát triển trong những năm tám mƣơi và trở thành khuynh hƣớng bao trùm
trong văn xi ở thập kỉ chín mƣơi cho đến gần đây. Dƣơng Thu Hƣơng với
nhiều truyện ngắn thu hút sự chú ý của ngƣời đọc bởi lần đầu tiên sau nhiều
năm, khát vọng hạnh phúc cá nhân và hành trình tìm kiếm nó của những
ngƣời phụ nữ đã trở thành chủ đề chính trong các tác phẩm. Trong sáng tác
của Nguyễn Huy Thiệp, Phạm Thị Hoài, lại thƣờng có những phát hiện khái
quát khá sâu về trạng thái nhân thế và các quan hệ xã hội ở một thời kì khủng
hoảng, đƣợc bộc lộ ra dƣới cái nhìn sắc lạnh, có khi đến tàn nhẫn của tác giả


×