ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
KHOA NGỮ VĂN
----------------
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
NGÀ NH CỬ NHÂN VĂN HỌC
Đề tài:
THỜI GIAN NGHỆ THUẬT TRONG TIỂU THUYẾT
TRONG SƯƠNG HỒNG HIỆN RA CỦA HỒ ANH THÁI
Người hướng dẫn:
TS. Nguyễn Thanh Trường
Người thực hiện:
Nguyễn Thị Dịu Hiền
Đà Nẵng, tháng 5/2013
1
LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tôi dưới sự
hướng dẫn của TS. Nguyễn Thanh Trường. Tôi xin chịu trách nhiệm về nội
dung khoa học của cơng trình này.
Đà Nẵng, tháng 05 năm 2013
Sinh viên thực hiện
Nguyễn Thị Dịu Hiền
2
LỜI CẢM ƠN
Tơi xin trân trọng bày tỏ lịng cảm ơn chân thành đến thầy giáo TS.
Nguyễn Thanh Trường – người đã nhiệt tình, chu đáo hướng dẫn tơi hồn
thành khóa luận này. Tơi xin cảm ơn các thầy cơ giáo trong khoa Ngữ văn
Trường Đại học Sư phạm Đà Nẵng đã chỉ bảo giúp đỡ tơi trong q trình thực
hiện đề tài. Nhân dịp này, tôi xin chân thành cảm ơn bạn bè và người thân đã
ủng hộ, giúp đỡ tơi hồn thành khóa luận này.
Mặc dù có nhiều cố gắng, song do trình độ cịn hạn chế nên khơng
tránh khỏi những thiếu sót, rất mong được sự đóng góp chân thành của thầy
cơ, bạn bè để đề tài được hoàn thiện hơn.
Đà Nẵng, tháng 05 năm 2013
Sinh viên thực hiện
Nguyễn Thị Dịu Hiền
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
1. Lí do chọn đề tài ....................................................................................................... 1
2. Lịch sử vấn đề ........................................................................................................... 2
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ........................................................................ 4
4. Phương pháp nghiên cứu ........................................................................................ 4
5. Bố cục của khóa luận............................................................................................... 4
NỘI DUNG....................................................................................................... 5
Chương 1. Thời gian nghệ thuật trong tiểu thuyết Việt Nam
sau năm 1975 ................................................................................ 5
1.1. Quan niệm về thời gian nghệ thuật................................................................... 5
1.2. Những biểu hiện của thời gian nghệ thuật trong tiểu thuyết Việt Nam
sau 1975 .................................................................................................................. 7
1.3. Thời gian nghệ thuật trong tiểu thuyết của Hồ Anh Thái ......................... 15
Chương 2. Trong sương hồng hiện ra – Những dạng thức
thời gian nghệ thuật .................................................................. 22
2.1. Thời gian sự kiện ................................................................................................ 22
2.1.1. Sự kiện lịch sử ................................................................................ 22
2.1.2. Sự kiện đời tư.................................................................................. 24
2.2. Thời gian niên biểu ............................................................................................. 27
2.2.1. Cốt truyện – Trong sự vận động của mạch thời gian .................... 27
2.2.2. Văn bản – Sự linh hoạt trong kết cấu thời gian ............................. 33
2.3. Thời gian nhân vật .............................................................................................. 38
2.3.1. Tiểu sử – Những mảnh ghép thời gian ........................................... 39
2.3.2. Tâm lý – Dòng thời gian ý thức...................................................... 42
Chương 3. Trong sương hồng hiện ra – Kĩ thuật xử lý
thời gian nghệ thuật .................................................................. 49
3.1. Thời gian đảo thuật, dự thuật đan xen các sự kiện ..................................... 49
3.1.1. Thời gian sai niên biểu ................................................................... 49
3.1.2. Lối quay ngược, đón trước ............................................................. 58
3.2. Khơng gian hóa thời gian .................................................................................. 61
3.2.1. Không – thời gian tâm lý ................................................................ 62
3.2.2. Không – thời gian đồng hiện quá khứ, hiện tại.............................. 65
3.2.3. Không – thời gian đan xen thực, ảo ............................................... 70
KẾT LUẬN .................................................................................................... 74
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 76
1
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Trong những năm gần đây, đời sống văn học không ngừng “tạo dấu ấn”
bởi sự xuất hiện của hàng loạt cây bút tên tuổi như Nguyễn Huy Thiệp, Hồ
Anh Thái, Bảo Ninh, Võ Thị Hảo, Nguyễn Ngọc Tư… Trong số những gương
mặt ấy, Hồ Anh Thái nổi lên như một hiện tượng đặc biệt, một cây bút sung
sức với nhiều thể nghiệm văn chương táo bạo. Tiểu thuyết Trong sương hồng
hiện ra là một trong những thể nghiệm đó.
Trong sương hồng hiện ra là cuốn tiểu thuyết được nhà văn xử lý mang
đậm yếu tố thời gian nghệ thuật với nhiều dạng thức khác nhau. Đó là dịng
thời gian sự kiện, dịng thời gian niên biểu, dòng thời gian nhân vật… Sự đa
dạng, nhiều chiều của các lớp thời gian nghệ thuật đã giúp nhà văn miêu tả rõ
một thế hệ trẻ sau hậu chiến muốn được thâm nhập vào cái bí ẩn của cuộc
chiến, điều mà những người trẻ tuổi chỉ có cơ hội trải nghiệm chút ít như một
bức tranh lý tưởng hóa về chiến tranh. Đưa nhân vật của mình trở lại với hai
mươi năm trước, Hồ Anh Thái đã làm được một cuộc mổ xẻ quá khứ và góp
lời giải cho những băn khoăn trước thực tại của con người thời kỳ đổi mới.
Đặt trong mạch cảm hứng của tiểu thuyết Việt Nam đương đại, Trong
sương hồng hiện ra của Hồ Anh Thái đã tạo được một lối đi khác lạ, độc đáo
và có chiều sâu.
Thực hiện đề tài “Thời gian nghệ thuật trong tiểu thuyết Trong sương
hồng hiện ra của Hồ Anh Thái” sẽ giúp chúng tôi thấy được kĩ thuật xử lý
thời gian mới của nhà văn - thời gian đảo ngược thể hiện đậm nét cá tính sáng
tạo của người nghệ sĩ. Từ đó có thêm cơ sở khẳng định vị trí cũng như đóng
góp của Hồ Anh Thái cho nền văn học nước nhà nói chung và nền tiểu thuyết
thời kỳ đổi mới nói riêng.
2
2. Lịch sử vấn đề
Hồ Anh Thái là một trong số những gương mặt tiểu thuyết tiêu biểu của
văn học Việt Nam đương đại. Với sức viết dồi dào và khá đa dạng, những
sáng tác của Hồ Anh Thái đã tạo ra một làn sóng dư luận sơi nổi và thu hút sự
quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu, phê bình văn học. Trong khn khổ đề
tài, chúng tơi chỉ giới thiệu những cơng trình, bài viết tiêu biểu liên quan đến
phạm vi nghiên cứu.
Trong bài viết Hồ Anh Thái, người mê chơi cấu trúc, Nguyễn Đăng Điệp
đã có sự phát hiện khá tinh tường về chiều sâu trong tư duy nghệ thuật Hồ
Anh Thái: “Anh biết vượt qua những lối mòn tư duy coi văn học như là tấm
gương phản ánh hiện thực một cách đơn giản (điều mà Hồ Anh Thái gọi là
hiện thực thơ sơ) để nhìn cuộc đời như nó vốn có. Hiện thực trong thế giới
nghệ thuật Hồ Anh Thái vì thế, khơng phải là thứ hiện thực dẹt, phẳng mà góc
cạnh, nhiều chiều” [3, tr.356].
Nhà văn Ma Văn Kháng trong bài Cái mà văn chương ta cịn thiếu, (in
trong Tạp chí Sách và Đời sống, 7 – 2003) đã tỏ ra rất hứng thú với những
sáng tác của Hồ Anh Thái: “Ở từng con chữ có đời sống là lạ, ở mỗi tình tiết
giàu sức khám phá, ở các mối liên tưởng lạ lùng và gần gũi, ở tổng thể câu
chuyện, nó mở ra một góc nhìn nhân sinh, nó cho ta thấy tính đa tầng, những
thực tại nhìn thấy và khơng nhìn thấy, những ấn tượng đặc sắc thơng qua chủ
đề của nó ở chính cuộc đời này” [8, tr.298].
Wayne Karlin (Lời giới thiệu cho bản in của Nhà xuất bản Đại học
Washington, 2001) đã viết: “Trong sương hồng hiện ra là một câu chuyện giả
tưởng, tiểu thuyết đưa một thanh niên Hà Nội thời hiện đại thuộc thế hệ của
tác giả, vì bị điện giật (khi tịa nhà móng xây ẩu từ thời chiến tranh nay bị đổ)
bị đưa đi ngược thời gian, về Hà Nội thời chiến tranh. Ở đó anh ta chứng kiến
và tham gia vào cuộc hẹn hò của chính cha mẹ mình. Phát hiện ra tính chất rất
3
người ở cha mẹ, thời trẻ họ cũng như anh ta bây giờ, anh ta cịn tìm ra chất
người trong cả thế hệ chiến tranh huyền thoại và đáng kính – phát hiện ra cả
thiếu sót và sức mạnh, lịng dũng cảm ở họ. Trong quá trình ấy, anh ta đã biến
mình (và tượng trưng cho cả thế hệ mình) thành một phần của cuộc sống ấy,
một phần của dòng chảy đang tiếp tục của lịch sử Việt Nam” [17, tr.392].
Cũng là tác giả Wayne Karlin (Lời giới thiệu tuyển tập tác phẩm của Hồ
Anh Thái, Nhà xuất bản Curbstone Press, Mỹ, 1998) đã viết: “Trong sương
hồng hiện ra dường như bày tỏ khao khát của thế hệ hậu chiến được nhìn
xuyên qua màn sương của huyền thoại anh hùng và quyền uy bao phủ lên thế
hệ chiến tranh, không phải nhằm bóc trần, mà để xem xét nguồn cuội của họ
một cách ràng, để tìm kiếm một người cha đồng thời là một người anh bình
đẳng. Từ năm 1987, Tân bị đưa ngược trở lại năm 1967, vì khu tập thể của
cậu bị sụt vỡ và cậu bị điện giật, như một mũi thép lạnh buốt xuyên trúng đầu
– cũng là một hình ảnh nhấn mạnh chủ đề của tác phẩm” [17, tr.422].
Trên Tạp chí Giới thiệu sách Thời báo New York 1 - 11 - 1998, tác giả
Philip Gambone đã nhận xét: “Trong tiểu thuyết Trong sương hồng hiện ra,
một chàng trai mới lớn được đưa một cách bí ẩn trở về năm 1967, ba năm
trước khi anh ta ra đời, chứng kiến cuộc hẹn hò thời chiến của cha mẹ tương
lai của mình. Những tác phẩm mở ra một tầm nhìn xa, giàu chất tiểu thuyết
trong chiều kích và niên đại…” [17, tr.436].
Tác giả Jennifer Eagleton, Đại học Tổng hợp Trung Quốc Chinese
University Of Hong Kong, H - Asia, 12 - 1998 khi nghiên cứu về cuốn tiểu
thuyết đã nhận định: “Dường như cuốn tiểu thuyết này bày tỏ niềm khao khát
được quay nhìn lại quá khứ, cái quá khứ đã được ký ức đóng khung và tơn kính.
Hiện thực đã chìm đi trong huyền thoại chiến tranh, được thế hệ hậu thuộc địa,
hậu chiến ghi nhớ vĩnh viễn ở mức độ cao hơn là những người đã thực sự nếm
trải. Hồ Anh Thái ngụ ý rằng việc tháo gỡ và xây dựng lại những huyền thoại
4
này làm cho một dân tộc có thể vận động về phía tương lai” [17, tr.440].
Như vậy, có thể thấy phần lớn các ý kiến, nhận định đều đánh giá cao về
nhà văn Hồ Anh Thái cũng như tiểu thuyết Trong sương hồng hiện ra ở một
số phương diện nghệ thuật khác nhau, nhưng chưa có cơng trình nào đi sâu
vào nghiên cứu một cách hệ thống các bình diện về thời gian nghệ thuật. Tuy
nhiên các ý kiến, nhận định của các nhà nghiên cứu, phê bình văn học là
những gợi ý quý báu cho đề tài nghiên cứu của chúng tơi. Tiếp thu ý kiến của
những cơng trình đi trước, chúng tôi cố gắng tiếp cận, khảo sát một cách cụ
thể các dạng thức và kĩ thuật xử lý “Thời gian nghệ thuật trong tiểu thuyết
Trong sương hồng hiện ra của Hồ Anh Thái”, qua đó góp phần khẳng định tài
năng nghệ thuật cũng như những đóng góp của nhà văn cho nền văn học
đương đại.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là Thời gian nghệ thuật trong tiểu thuyết
Trong sương hồng hiện ra của Hồ Anh Thái.
Phạm vi nghiên cứu là văn bản tác phẩm Trong sương hồng hiện ra của
Hồ Anh Thái, Nhà xuất bản Phụ Nữ, 2003.
4. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện luận văn này chúng tôi đã sử dụng một số biện pháp như sau:
- Phương pháp phân tích, tổng hợp.
- Phương pháp diễn dịch, quy nạp.
- Phương pháp so sánh, đối chiếu.
5. Bố cục của khóa luận
Ngồi phần mở đầu, phần kết luận và thư mục tài liệu tham khảo, cấu
trúc đề tài gồm 3 chương:
Chương 1: Thời gian nghệ thuật trong tiểu thuyết Việt Nam sau năm 1975.
Chương 2: Trong sương hồng hiện ra – Những dạng thức thời gian nghệ thuật.
5
Chương 3: Trong sương hồng hiện ra – Kĩ thuật xử lý thời gian nghệ thuật.
NỘI DUNG
Chương 1. Thời gian nghệ thuật trong tiểu thuyết Việt Nam
sau năm 1975
1.1. Quan niệm về thời gian nghệ thuật
Thời gian nghệ thuật là một trong những vấn đề hiện đại của nghiên cứu
văn học. Là phương thức tồn tại của thế giới vật chất, thời gian cũng như
không gian, đi vào nghệ thuật cùng với cuộc sống được phản ánh như là một
yếu tố của nó. Nếu như mọi hiện tượng của thế giới khách quan khi đi vào
nghệ thuật được soi sáng bằng tư tưởng và tình cảm, được nhào nặn và sáng
tạo để trở thành một hiện tượng nghệ thuật, phù hợp với một thế giới quan,
phương pháp sáng tác, phong cách, truyền thống và thể loại nghệ thuật nhất
định, thì thời gian trong tác phẩm cũng thế. Nó có thể được gọi là thời gian
nghệ thuật như ta đã quen gọi tính cách nghệ thuật, xung đột nghệ thuật, thế
giới nghệ thuật.
Theo Từ điển thuật ngữ văn học: “Thời gian nghệ thuật là hình thức nội
tại của hình tượng nghệ thuật thể hiện tính chỉnh thể của nó… Khác với thời
gian khách quan được đo bằng đồng hồ và lịch, thời gian nghệ thuật có thể
đảo ngược, quay về quá khứ, có thể bay vượt tới tương lai xa xơi, có thể dồn
nén một khoảng thời gian dài trong chốc lát, lại có thể kéo dài cái chốc lát
thành vơ tận. Thời gian nghệ thuật được đo bằng nhiều thước đo khác nhau,
bằng sự lặp lại đều đặn của các hiện tượng đời sống được ý thức… tạo nên
nhịp điệu trong tác phẩm. Như vậy thời gian nghệ thuật gắn liền với tổ chức
bên trong của hình tượng nghệ thuật. Khi nào ngòi bút nghệ sĩ chạy theo diễn
biến sự kiện thì thời gian trơi nhanh, khi nào dừng lại thì thời gian chậm
lại…” [4, tr.322].
6
Theo Trần Đình Sử: “Thời gian nghệ thuật là thời gian mà ta có thể thể
nghiệm được trong tác phẩm nghệ thuật với độ dài của nó, với nhịp độ nhanh
hay chậm, với chiều thời gian là hiện tại, quá khứ hay tương lai. Thời gian
nghệ thuật là hình tượng nghệ thuật, sản phẩm sáng tạo của tác giả bằng các
phương tiện nghệ thuật nhằm làm cho người thưởng thức cảm nhận được:
hoặc hồi hộp đợi chờ, hoặc thanh thản vơ tư, hoặc đắm chìm vào q khứ.
Thiếu sự thụ cảm, tưởng tượng của người đọc thì thời gian nghệ thuật không
xuất hiện. Nhưng thời gian nghệ thuật cũng không phải là một hiện tượng của
tâm lý cá nhân người đọc, muốn cảm thụ nhanh chậm thế nào cũng được.
Thời gian nghệ thuật là một sáng tạo khách quan trong chất liệu. Nếu như một
tác phẩm có thể gây hiệu quả hồi hộp đợi chờ thì đối với ai, lúc nào, khi cảm
thụ, thời gian ấy đều xuất hiện” [14, tr.62-63]. Nhà nghiên cứu này cũng cho
rằng thời gian nghệ thuật: “có độ dài, nhịp độ, tốc độ, có ba chiều quá khứ,
hiện tại, tương lai khác với thời gian thực tại” [16, tr.85-86]. Theo đó, thời
gian được hiểu là phương thức tồn tại của thế giới vật chất và thời gian đi vào
nghệ thuật cùng với những vấn đề cuộc sống như là một tất yếu phản ánh.
Thời gian cùng với phương pháp sáng tác, phong cách sáng tác góp phần tạo
nên thế giới nghệ thuật.
Theo Phương Lựu: “Thời gian nghệ thuật của văn học không phải giản
đơn chỉ là quan điểm của tác giả về thời gian mà là một hình tượng thời gian
sinh động, gợi cảm, là sự cảm thụ, ý thức về thời gian được dùng làm hình
thức nghệ thuật để phản ánh hiện thực, tổ chức tác phẩm” [12, tr.242]. Thời
gian nghệ thuật là một phạm trù mang tính chủ quan, ước lệ thể hiện cảm
quan của tác giả về thế giới và con người, thể hiện tính thẩm mỹ trong cách
cảm nhận cuộc sống và tư tưởng tác giả. Nó khơng đồng nhất với thời gian
khách quan mà được sáng tạo nhào nặn cho phù hợp với ý đồ sáng tác, thể
loại, phong cách nhà văn. Điều này tạo nên sự đa dạng, sinh động cho thời
7
gian trong tác phẩm. Thời gian nghệ thuật là yếu tố không thể thiếu để kết cấu
tác phẩm, đồng thời giúp cho việc liên kết các yếu tố trong tác phẩm được
chặt chẽ hơn.
Trong sáng tác văn học, thời gian nghệ thuật được đo bằng nhiều kích
thước khác nhau và biểu hiện khá đa dạng tạo nên nhịp điệu cho tác phẩm. Nó
gắn liền với tổ chức bên trong của hình tượng nghệ thuật và như một hệ quy
chiếu mang tính chất ẩn để phản ánh hiện thực, thể hiện tư duy của tác giả.
“Thời gian nghệ thuật là thời gian do nhà văn sáng tạo ra, vừa thể hiện trạng
thái con người trong thời gian, sự cảm thụ thời gian, vừa mở ra lộ trình để
người đọc đi vào thế giới tác phẩm” [16, tr.86].
Từ những quan niệm trên cho thấy thời gian nghệ thuật là phẩm chất
định tính quan trọng của hình tượng nghệ thuật, đảm bảo cho việc tiếp nhận
thực tại nghệ thuật và tổ chức nên kết cấu của tác phẩm, là một phạm trù nghệ
thuật có vai trị quan trọng trong việc thể hiện tính cách nhân vật, tư tưởng
chủ đề của tác phẩm. Thời gian nghệ thuật là một phạm trù quan trọng của thi
pháp học, là phương tiện chiếm lĩnh đời sống, là mơ hình nghệ thuật về cuộc
sống góp phần thể hiện quan điểm nghệ thuật của mỗi nhà văn.
1.2. Những biểu hiện của thời gian nghệ thuật trong tiểu thuyết Việt Nam
sau 1975
Thời gian nghệ thuật ln có sự biến đổi theo dịng chảy văn học. Ở mỗi
thời kì, giai đoạn văn học, thời gian nghệ thuật mang những đặc trưng riêng
làm nên dấu ấn thời đại trong thời gian nghệ thuật. Và thời gian nghệ thuật
trong tiểu thuyết cũng không ngoại lệ. Tiểu thuyết Việt Nam đương đại có
những điểm khác biệt so với thế hệ trước. Số lượng nhà văn tăng lên vượt
bậc. Những sáng tác của họ mang hơi thở thời đại, có cá tính riêng. Họ viết về
những vấn đề giới tính, số phận con người cá nhân, quyền lợi vật chất và tinh
thần, quyền bình đẳng và sự tự do. Vì vậy thời gian nghệ thuật trong tác phẩm
8
của họ cũng thể hiện đậm nét những vấn đề thời đại: Con người sau chiến
tranh, vấn đề gia đình, sự đối lập tuổi thơ với cuộc sống người lớn, sự tìm tịi
ý nghĩa cuộc đời, mối quan hệ giữa cá nhân và xã hội. Chỉ đến văn học hiện
đại, thời gian nghệ thuật mới thực sự gần gũi với cuộc sống của cá nhân con
người, đi sâu phản ánh hiện thực cuộc sống đầy nhọc nhằn vất vả và tiểu
thuyết đã hòa nhịp vào bối cảnh văn học đương đại nói chung. Chúng ta có
thể nhận thấy những dạng biểu hiện chính của thời gian nghệ thuật trong tiểu
thuyết Việt Nam sau 1975 đó là thời gian phi tuyến tính, thời gian đi sâu vào
thế giới nội tâm con người, và thời gian huyền ảo.
Nếu kiểu thời gian tuyến tính vẫn chiếm ưu thế trong tiểu thuyết Việt
Nam trước 1975 thì ở tiểu thuyết sau 1975, thời gian phi tuyến tính trở thành
một trong những đặc điểm cho thấy sự đổi mới tư duy tiểu thuyết khi cảm
thức hiện tại, khi khát vọng làm chủ thời gian trở nên mạnh mẽ hơn bao giờ
hết. Với lối trần thuật này, thời gian bị đảo lộn, khơng cịn theo trật tự tuyến
tính của thời gian đời sống. Một trong những hình thức tổ chức lại trình tự
trần thuật trong tiểu thuyết đương đại là từ hiện tại, quay ngược về quá khứ để
kể chuyện. Có thể thấy được trong một số tiểu thuyết như Nỗi buồn chiến
tranh của Bảo Ninh, T mất tích của Thuận… Trong Nỗi buồn chiến tranh thời
gian trần thuật được thể hiện rõ, từ hiện tại, tác giả quay ngược về quá khứ để
kể chuyện. Nhân vật Kiên – một cựu chiến binh trở về sau ngày hịa bình đã
kể lại cuộc chiến đã qua, những sự kiện đã thuộc về q khứ từ điểm nhìn của
chính nhân vật. Và thơng qua Kiên, người đọc có thể hình dung sự ám ảnh
của chiến tranh, những mất mát mà cuộc chiến mang lại cho Kiên và những
đồng đội của anh. Từ đó ta thấy được dịng chảy số phận của từng con người
trong chiến tranh “khổ sở vì đói, vì sốt rét triền miên, thối hết cả máu, vì áo
quần bục nát tả tơi và vì những lở loét cùng người như phong hủi, cả trung đội
chẳng còn ai trông ra hồn thằng trinh sát nữa. Mặt mày ai nấy như lên rêu”
9
[13, tr.23]. Chúng ta thấy rằng trong câu chuyện của mình, Bảo Ninh đã xử lý
thời gian rất linh hoạt. Nếu mạch trần thuật sự kiện được đẩy lùi về q khứ
thì mạch biểu hiện cảm xúc cứ trơi dạt, lan tỏa từ quá khứ đến hôm nay.
Dường như những chuyện của quá khứ không hề khép lại mà tiếp tục sống
cùng với nhân vật Kiên trong dịng trơi của hiện tại.
Mang khát vọng nhận diện chân thực cái hôm nay, tiểu thuyết Việt Nam
ln tìm cách tiếp cận q khứ từ góc nhìn hiện tại nhằm lí giải về nguồn gốc
của cuộc sống hiện tại. Hình thức đảo thuật thời gian đã góp phần làm cho
những chuyện của ngày hôm qua như không hề khép lại mà vẫn tiếp tục sống
cùng các nhân vật trong dịng trơi của hiện tại.
Tiểu thuyết Gia đình bé mọn của Dạ Ngân cũng có những nét mới lạ
trong bố cục thời gian. Ở đây, thời gian được mơ tả từ những chiều kích hiện
tại để trở về quá khứ. Tác phẩm được mở đầu bằng thời gian thực tại. Đó là
ngày mà Mỹ Tiệp ra bưu điện tỉnh nghe điện thoại của Đính và sau đó là thời
gian gắn với những hồi tưởng về quá khứ của nàng. Sự đan quyện xuyên suốt
của thời gian hiện tại và quá khứ đã tạo nên một thời gian nghệ thuật đặc sắc
gắn bó mật thiết với nhân vật trung tâm của tác phẩm.
Ngoài kiểu thời gian trần thuật trên, tiểu thuyết Việt Nam sau 1975 còn
được diễn tả theo chiều đi từ hiện tại, kể trước những chuyện ở tương lai. Có
thể thấy trong tiểu thuyết Thời xa vắng của Lê Lựu. Kể về tình yêu của Giang
Minh Sài với Châu, một thứ tình yêu mê đắm của một con người nửa đời
người mới được u cái khơng phải của mình, tác giả đã dự thuật việc chia
tay tất yếu của họ. Đến lúc Châu cầm bút kí vào bên cạnh chữ kí của Sài ở
phần cuối tờ giấy đơn xin li hôn rồi quẳng bút sang giường anh, nhanh chóng
chui vào giường mình như khơng hề có chuyện gì xảy ra đã trên dưới năm
năm. Cách kể dự thuật này càng làm rõ thêm tính cách của nhân vật Sài và bi
kịch của cuộc hôn nhân.
10
Một trong những hình thức mở rộng giới hạn thời gian của tiểu thuyết
sau 1975 là đồng hiện thời gian. Theo Đặng Anh Đào: “Trong dòng tâm tư,
quá khứ, hiện tại, tương lai xuất hiện cùng một lúc, không bị ngăn cách, liên
tục như một dịng chảy, đó là hiện tượng mà người ta gọi là thời gian đồng
hiện” [2, tr.77]. Tổ chức thời gian đồng hiện được xem như là chiến lược trần
thuật của các tác giả nhằm soi chiếu cặn kẽ con người với nhiều chiều kích.
Nhờ hình thức đồng hiện này, người kể chuyện có thể nối kết những chuyện
thuộc về những khoảng thời gian khác nhau, rút ngắn thời gian kể. Trong
Thoạt kì Thủy của Nguyễn Bình Phương đã thể hiện được sự đồng hiện hai
tuyến thời gian, hai cuộc đời: cuộc đời con cú kéo dài trong 45 phút, được kể
theo thời gian tuyến tính và cuộc đời Tính: từ trong bụng mẹ cho đến khi tự
sát, chủ yếu được kể lại theo thời gian tâm tưởng của nhân vật với những
hoảng loạn, bất định của giấc mơ, của vô thức. Nhiều yếu tố, sự kiện chỉ được
người kể chuyện đề cập ngẫu nhiên, thông qua những chuỗi hồi ức, những
giấc mơ của nhân vật.
Ở tiểu thuyết Việt Nam sau 1975, sự đồng hiện thời gian được thể hiện
rõ, đặc biệt là tiểu thuyết có kết cấu “dòng ý thức” – là một trong những
nguyên tắc tổ chức tác phẩm nghệ thuật của người nghệ sĩ, tái dựng thế giới
bên trong của con người một cách chân thực bằng việc tạo ra thời gian trần
thuật chỉ phụ thuộc vào thời gian tâm trạng, vào dòng tâm tư của nhân vật.
Thời gian truyện lại là một dịng chảy liền mạch (thời gian mang tính hiện
tại), khơng phụ thuộc vào các sự kiện cho dù rời rạc hay nối tiếp mà chỉ phụ
thuộc vào lại là những mảnh vỡ của dòng tâm trạng, dòng liên tưởng. Những
yếu tố mang tính chất tự sự, những hành động bên ngoài thường được giảm
thiểu nhường chỗ cho những mạch cảm xúc, những dòng suy nghĩ triền miên.
Với kĩ thuật đồng hiện, các chiều thời gian đã đồng loạt hiện ra. Hiện tại, quá
khứ lồng ghép vào nhau đi, về không dứt. Hiện tại cay đắng, quá khứ vui
11
buồn cứ xơ dạt vào nhau. Có thể thấy rõ trong Paris 11 tháng 8 của Thuận.
Hà Nội những năm 2000, kí ức về tuổi hiện lên rõ mồn một trong hồi ức của
Liên. Từ hình ảnh chiếc cửa sổ may mắn trong căn phòng nhỏ áp mái, Liên
hồi tưởng về những kỉ niệm trong thời bao cấp – một thời đã chôn chặt trong
quá khứ: Thảm hại hơn cả cơm tập thể ngô bung, thảm hại hơn cả cơm sơ tán
năm mươi phần trăm mì sợi và bắp cải xào mỡ cừu viện trợ Liên Xô. Cứ thế,
hiện tại và quá khứ, ý thức và tiềm thức cứ cài chặt vào nhau. Trong China
town của nhà văn Thuận, suốt hai giờ kẹt tàu, thời gian hiện tại cứ bị kéo lùi
vào thời gian quá khứ, từ quá khứ lại trở về hiện tại. Hiện tại và quá khứ cứ
níu kéo nhau và đan cài chồng chéo lên nhau. Hồi ức về chuyện tình dang dở
của nhân vật “tơi” ln lắp dẫn vào câu chuyện thực tại ngổn ngang của đời
sống các đơ thị hiện đại, các toan tính cá nhân, nỗi lo bị đánh bom khủng bố..
Có thể nói, ở tiểu thuyết dòng ý thức như Nỗi buồn chiến tranh, sự đồng
hiện thời gian được thể hiện ở sự phá vỡ trật tự thời gian thông thường, tạo ra
một thời gian trần thuật chỉ phụ thuộc vào thời gian tâm trạng, vào dòng tâm
tư của nhân vật Kiên, thời gian trần thuật và thời gian câu chuyện có sự đan
cài xoay quanh những hồi ức, những kỉ niệm và giấc mơ của nhân vật Kiên.
Việc tổ chức thời gian đồng hiện của tác giả nhằm soi chiếu cặn kẽ con người
hiện đại với nhiều chiều kích. Nối kết những chuyện thuộc về những khoảng
thời gian khác nhau và vì thế rút ngắn được thời gian kể.
Trong đồng hiện thời gian, yếu tố của giấc mơ trở thành phương thức tự
sự hiệu quả để đi vào khám phá thế giới tâm linh của con người, để mở rộng
biên độ thời gian. Trong Nỗi buồn chiến tranh, giấc mơ xuất hiện rất nhiều
nhằm đồng hiện nhiều mảng thời gian khác nhau, đảo trật tự tuyến tính. Kiên
thường hay mơ về Phương – người phụ nữ đã đánh thức tình yêu trong Kiên
thời tuổi trẻ, là nguồn sức mạnh chập chờn trong quãng đời chiến trận của anh
“những giấc mơ đậm đặc cảm giác, nóng bỏng và ngọt lịm như mật ứa ra trào
12
lên lấp đầy cõi mộng mị. Trong những đêm mưa ấy…người con gái của thành
phố quê hương lại hiện lên và bước tới với anh trong bóng hình tiên nữ mờ ảo”
[13, tr.38]. Giấc mơ của Kiên thường là thời gian hồi ức trong mơ, trí nhớ khuấy
đảo, lật tung tất cả, lần tìm trong đổ nát đam mê niềm đau buốt, vô hạn độ, vô
bến bờ của anh đối với nàng từ tận những thuở hồng hoang xa tít mù tắp thời trai
trẻ. Chính trong hồi tưởng mà Kiên đi tìm ý nghĩa thực của đời mình. Như vậy,
bằng việc sử dụng thời gian đồng hiện. Bảo Ninh đã khẳng định sự bất lực của
con người đối với lịch sử, con người chỉ là nạn nhân mà thơi.
Có thể nhận thấy rằng, một vấn đề nổi bật trong các tiểu thuyết đương
đại chính là vấn đề “cá nhân hóa”, và thời gian trong tác phẩm cũng đi sâu
vào thế giới nội tâm của con người, hầu hết các tác giả đều hướng đến những
thời gian riêng tư, nhỏ bé của các cá nhân, hơn là những thời gian mang tính
cộng đồng, tính xã hội rộng lớn. Ở một khía cạnh khác, thời gian thực, cụ thể
và khắc nghiệt của cuộc mưu sinh đời thường không ngừng “giao tranh” với
thời gian tâm lý trĩu nặng kỉ niệm và suy tư, buồn đau và thương nhớ. Thế
giới được tái hiện ở những góc hẹp, góc lặng, góc khuất, góc tối hơn là bằng
những đại cảnh, trường cảnh - vốn là thế mạnh của tiểu thuyết truyền thống.
Trong Cơ hội của Chúa của Nguyễn Việt Hà, mặc dù các nhân vật cùng
chia sẻ một thời điểm lịch sử chung (những năm cuối thế kỷ XX), song mỗi
người trong họ lại ám ảnh độc giả bằng một thời gian đặc biệt mang màu sắc
tính cách và số phận của riêng mình: Hồng với những suy tưởng siêu hình,
bế tắc suốt cuộc đời, Tâm thì thời gian gắn với đơ hội – thương trường - tiền
bạc nhốn nháo và luôn đổi thay “nhiệt độ” đến chóng mặt, Thuỷ dành thời
gian với học trị lãng đãng, dịu dàng và những day dứt khơn ngi vì khơng
thể níu giữ mối tình thơ mộng đã qua…
Trong khi đó, China town của Thuận hay Trí nhớ suy tàn, Những đứa trẻ
chết già... của Nguyễn Bình Phương lại là những cuộc “chạy trốn thời gian đã
13
qua” – chạy trốn tất cả những gì thuộc về quá khứ nhưng vẫn không chịu qua
đi – mà luôn thường trực và hiện hữu như một gánh nặng trong đời sống hàng
ngày và đặc biệt là trong tâm linh của con người. Điểm xuất phát của câu
chuyện trong China town chính là thời điểm hiện tại gần nhất mà người kể
chuyện – đồng thời là vai chính – có mặt, nhưng ngay lập tức câu chuyện bị
đẩy về thời điểm xa nhất của kỉ niệm đầu tiên giữa “tôi” và Thụy, rồi cũng
“lập tức” không kém, lại trở về điểm tiệm cận hiện tại... Cứ như thế, sự nhảy
cóc bất ngờ, sự đổi chiều đột ngột về mặt thời điểm, thời gian... khiến cho quá
trình tự sự ngày càng được nhân vật chủ quan hóa, cá nhân hóa, nội cảm hóa.
Viết tiểu thuyết Tấm ván phóng dao, tác giả Mạc Can chọn cách thức
trần thuật theo kiểu hồi ức. Từ thời gian hiện tại, nhân vật tôi và cô em gái
cùng ngồi vẩn vơ chắp nối những mẩu quá khứ u buồn. Chất liệu hồi ức được
biểu đạt ở đây khơng hiện ra theo cách trình tự mà được đảo lộn, xáo trộn,
không nặng về kể tả, mà nặng về tâm trạng, suy tư, chiêm nghiệm, cật vấn:
“Tôi chợt thức dậy ngu ngơ, phải một lúc mới nhớ mình đang ở đâu, tôi đang
ngồi trên cái giường của tôi, một tấm ván đầy vết dao, những vết thương
không bao giờ lành, đau đớn, ẩm ướt”, “Cuộc sống trôi giạt, giả thật qua
nhiều năm tháng, điều tôi khổ nhứt là trái tim q đỗi nhạy cảm của tơi, nó
thổn thức từ khi tơi chưa đủ hình hài…”. Đây là một dạng truyện viết theo
cách của một hồi ức tự nghiệm, thấm đẫm những cảm quan cá nhân của từng
nhân vật.
Từ phía của “tâm linh, cá nhân”, thời gian tràn sang địa hạt huyền ảo,
như một hệ quả tất yếu: huyền ảo hóa cũng là vấn đề cần lưu ý khi bàn về thời
gian trong tiểu thuyết đương đại. Có thể nhận thấy thời gian huyền ảo ở
Những đứa trẻ chết già, Thoạt kỳ thủy, Người đi vắng của Nguyễn Bình
Phương. Trong Những đứa trẻ chết già, Nguyễn Bình Phương trở đi trở lại
“ngơi làng Linh Nham” với bầu khơng khí ảm đạm, bí ẩn. Ở đó chúng ta nhìn
14
thấy một thời gian tràn ngập những sự việc, những hiện tượng kỳ dị, quái đản,
hư hoặc (làng suốt ngày chìm ngập trong mùi trầm toả ra từ ngơi miếu thờ của
dì Lãm, gốc si già đêm đêm rì rầm tiếng nói chuyện của những hồn ma và
thỉnh thoảng lại thấy một vài bộ xương người hiện hình, sự kỳ bí của sơng
Linh Nam đêm ngày gào thét...). Những mốc thời gian cụ thể trong tiểu thuyết
cũng được Nguyễn Bình Phương dựng lên với một âm hưởng huyền bí, ghê
rợn. Ngày mùng 7 tháng 6 giờ dậu, dân làng thấy trong đáy ao nhà Trường
hấp bốc lên khí trắng hình con rắn, Ngày mùng 9 tháng đó, về phía tây có
đám mây màu đỏ xuất hiện hình dáng khơng khác gì người đàn ơng cụt đầu,
tay cầm con dao quắm.
Việc “huyền ảo hóa” thời gian trong các tiểu thuyết đang xét không dừng
lại ở sự pha trộn các yếu tố kì lạ, hoang đường vào trong tác phẩm với mục
đích “lạ hóa” hay thậm chí “câu khách” đơn thuần. Thơng qua bút pháp kì ảo,
các tác giả rất có ý thức làm “dày” tác phẩm bằng những trầm tích văn hóa
dân tộc và nhân loại và đồng thời cũng thể hiện một cảm quan thực sự mới
mẻ về nhân sinh, về thế giới.
Như vậy có thể thấy rằng thời gian nghệ thuật trong tiểu thuyết Việt Nam
sau năm 1975 chủ yếu là thời gian phi tuyến tính, đi sâu vào thế giới bên
trong của con người với kĩ thuật đồng hiện thời gian, thời gian huyền ảo…
Các nhà tiểu thuyết thuộc khuynh hướng cách tân sau 1975 đã quyết liệt thay
đổi cái nhìn cũng như cách quan niệm mang tính truyền thống của độc giả về
phạm trù thời gian trong các tác phẩm của họ. Chính cách trần thuật phi tuyến
tính và đồng hiện này đã góp phần khẳng định sự thành công của các tên tuổi
như: Bảo Ninh, Thuận, Nguyễn Bình Phương… Xác lập một cấu trúc thời
gian trần thuật đặc thù ở tiểu thuyết Việt Nam hiện đại. Việc tìm hiểu những
biến đổi của phạm trù thời gian trong bản thân các tác phẩm tiểu thuyết –
“vùng nhạy cảm” của đời sống văn học nói chung và đời sống loại thể nói
15
riêng, sẽ hé mở nhiều vấn đề thú vị về diện mạo và sự phát triển lịch sử của
tâm hồn, lịch sử sáng tạo của thế giới đương đại.
1.3. Thời gian nghệ thuật trong tiểu thuyết của Hồ Anh Thái
Hồ Anh Thái là nhà văn đã bền bỉ tạo cho mình mô ̣t dòng chảy riêng
giữa nguồn chung văn xuôi đương đại Việt Nam. Dịng chảy ấy đã khơng
ngừng vận động, thay đổ i, tạo dấu ấn, để bây giờ nhìn lại, đủ cho những ai
quan tâm đế n Hồ Anh Thái đề u có thể nhận thấy được đặc trưng của nó trong
từng thời điểm. Mười tám t̉ i, Hồ Anh Thái xuất hiện trong làng văn và
được chú ý như một hiện tượng mới mẻ. Đến nay, Hồ Anh Thái là một nhà
văn đã gặt hái được khá nhiều thành tựu. Đặc biệt là trong lĩnh vực tiểu thuyết
với nhiều cách tân táo bạo trong việc thể hiện thời gian nghệ thuật.
Là một cây bút trẻ, rất nhạy cảm với môi trường công nghiệp hiện đại,
Hồ Anh Thái đã xây dựng đươ ̣c cho mình mô ̣t lối viết mới mẻ về thời gian.
Trong những tiểu thuyết của nhà văn, nổi bật lên thời gian nhân vật, thời gian
đảo ngược…
Thời gian nhân vật là thời gian cuộc đời và thời gian tâm tưởng của nhân
vật. Trong tác phẩ m Cõi người rung chuông tận thế của Hồ Anh Thái thời
gian chính là phương tiện nghệ thuật để phản ánh đời sống, thể hiện cảm xúc,
tư tưởng của ông. Song trùng với sự dịch chuyển của điểm nhìn khơng gian là
sự thay đổi của điểm nhìn thời gian. Thời gian hiện tại, quá khứ, thời gian
cuộc đời, thời gian thực và thời gian kì ảo. Điểm nhấn của tác phẩm là sự
chuyển hoá linh hoạt giữa thời gian cuộc đời trong tác phẩm. Kết cấu “truyện
trong truyện” tạo đà cho sự đan xen thời gian cuộc đời của các nhân vật. Từ
chuyê ̣n của ba thanh niên Cố c, Bóp, Phũ đến chuyê ̣n của nhân vâ ̣t “Tôi”,
chuyê ̣n của Miên, Giề ng, chuyê ̣n của Mai Trừng… Sự chuyển biến linh hoạt
giữa điểm nhìn thời gian cuộc đời tạo nên sự xen kẽ những câu chuyện một
cách tự nhiên. Nó cũng thể hiện sự đa phức của mảng hiện thực mà nhà văn
16
phản ánh. Ở đó khơng chỉ có câu chuyện của người kể mà cịn có câu chuyện
của biết bao số phận, khơng chỉ có chuyện của q khứ hay hiện tại mà còn là
sự dịch chuyển từ quá khứ đến hiện tại, sự đối sánh từ hiện tại trở về q khứ.
Theo dịng ý thức của nhân vâ ̣t “Tơi”, bao nhiêu mảnh đời, số phận cũng
như những mặt xấu của xã hội được Hồ Anh Thái phác họa một cách đầy tinh
tế nhưng cũng châm biếm rấ t sâu cay. Đó là ba nhân vâ ̣t Cớ c, Bóp, Phũ với
những cuô ̣c ăn chơi trác táng, sa đo ̣a của chúng. Cái chế t của ba nhân vâ ̣t này
là minh chứng hùng hồ n nhấ t cho quan niê ̣m “ác giả ác báo” của nhân dân ta.
Tiế p đó là câu chuyê ̣n về cuô ̣c đời của nhân vâ ̣t Đông – người kể chuyện. Lớn
lên trong mô ̣t gia đình mà bố me ̣ mấ t sớm, Đông đã số ng cùng người anh giàu
có và lo ̣c lõi. Cuô ̣c đời của Đông do mô ̣t tay người anh sắ p đă ̣t. Đông vố n
đam mê vẽ tranh nhưng cuố i cùng cũng phải theo sự sắ p đă ̣t của Thế là đi làm
thuyề n trưởng. Đông chung số ng như vơ ̣ chồ ng với Yên Thanh – cô sinh viên
hàng hải dâm đañ g thì Thế mô ̣t lầ n nữa xen vào và bắ t anh phải lấ y mô ̣t người
khác. Và di ̃ nhiên sau này Đông cũng “cùng hô ̣i cùng thuyề n” với những đứa
thanh niên kia trong những cuô ̣c ăn chơi sa đo ̣a của chúng. Ngoài những
mảnh đời đó thì trong dòng ý thức của nhân vâ ̣t Tôi còn hiê ̣n lên cuô ̣c đời đầ y
bấ t ha ̣nh của cô gái trên hòn cù lao. Sau sự hi sinh anh dũng của người cha mà
không nhâ ̣n đươ ̣c mô ̣t sự đaĩ ngô ̣ nào, cô gái phải mô ̣t thân mô ̣t mình chèo
thuyề n ra hòn cù lao để “phát quang đấ t đai, trồ ng cây ăn quả” và “chăm
nom nhân giố ng cho đàn dê” [18, tr.122] khi mới mười bố n tuổ i. Cuô ̣c đời
bấ t ha ̣nh của cô gái đươ ̣c nhà văn khái quát trong những câu văn: “Trên hòn
cù lao này cô là chủ. Trên con tàu này cô là thuyề n trưởng với hai chục đầ u
dê thuyề n viên. Còn ở làng, cô là một cô gái lỡ thì bi ̣ quên lãng” [18, tr.122].
Có thể thấ y, “dòng ý thức” của nhân vâ ̣t Đông về những mảnh số phâ ̣n
khác khau diễn ra trong mô ̣t khoảng thời gian khép kín, tù túng, châ ̣t hep.
̣ Vì
theo ý thức của nhân vâ ̣t nên dường như thời gian có sự đan xen giữa quá khứ
17
và hiện tại. Đây là một thủ pháp rất đặc biệt làm cho điểm nhìn của tác phẩm
trở nên đa dạng, đa chiều hơn.
Cùng với dòng thời gian ý thức ở trên, thời gian tâm tưởng của nhân vật
cũng được chú ý đến. Đó là thời gian mà nhân vâ ̣t Đông thể hiê ̣n những suy
nghi ̃ của mình khi chứng kiế n cảnh ba thằ ng cháu có ý đinh
̣ cưỡng hiếp một
cô gái trên baĩ biể n. Khi cô gái đươ ̣c lũ cháu đẩ y về phía Đông, anh bắ t gă ̣p
trong ánh mắ t của cô lời van xin và “một vẻ mặt khiế p đảm trước cái
chế t”[18, tr.22]. Anh nghi:̃ “Tôi? Một kẻ đã từng đố i mặt với từng ấ y phản
trắ c và hận thù? Một kẻ đã phải giấ u kín cái chế t của con mình trong yên
lặng?” [18, tr.22]. Rồ i sau đó anh nghi:̃ “Tôi bắ t đầ u cảm thấ y sự nguy hiểm
của trò đùa”, “Rõ ràng tôi linh cảm một điề u rấ t xấ u. Tôi có ý ngăn. Nhưng
cùng lúc tôi biế t rằ ng không ki ̣p nữa” [18, tr22-23]. Dòng thời gian tâm tưởng
của nhân vâ ̣t Đông trong lúc này giúp chúng ta nhâ ̣n ra anh khác những đứa
cháu của mình ở chỗ anh biế t suy xét mo ̣i viêc̣ trước khi làm.
Ta còn bắ t gă ̣p ở trong tác phẩ m này hàng loa ̣t những suy nghi ̃ khác của
Đông. Khoảng thời gian mà nhân vâ ̣t suy nghi ̃ cũng là khoảng thời gian mà
chúng ta thấ y đươ ̣c những mă ̣t khác nhau trong con người của ho ̣. Sau khi đi
dự đám tang của thằ ng Cố c về , Đông suy ngẫm: “Xin hãy đi dự đám tang thật
nhiề u, anh sẽ thôi thắ c mắ c những chuyê ̣n cỏn con ngoài đời, thôi xích mích,
thôi đấ u đá nội bộ cơ quan, thôi ham hố đại vi ̣, thôi thèm khát tiề n bạc. Ý nghi ̃
vừa thoáng qua, tôi đã bật cười chua chát” [18, tr.37].
Những dòng tâm tưởng trên của nhân vâ ̣t dày đă ̣c trong tác phẩ m khiế n
người đo ̣c có cảm tưởng về sự dồ n nén, ứ đo ̣ng của thời gian. Những tra ̣ng từ
như “sáng hôm sau”, “mấ y ngày sau”, “chiề u hôm qua”, “ngay lâ ̣p tức”, “bây
giờ”, “giờ đây”… kế t hơ ̣p với những cu ̣m từ chỉ thời gian cu ̣ thể như “bố n
ngày”, “chừng mười phút sau”, “mô ̣t giờ sáng”, “tám giờ sáng”, “mười mô ̣t,
mười hai giờ đêm”… càng làm rõ hơn sự ứ đo ̣ng, dồ n nén đó. Trong mỗi sự
18
kiên,
̣ mỗi hành đô ̣ng gắ n với mô ̣t mố c thời gian cu ̣ thể nào đó, Đông la ̣i bày tỏ
những dòng suy nghi,̃ triế t lí của mình về cuô ̣c đời, về lẽ số ng, về con người.
Ta lại tiếp tục câu chuyện với những dịng tâm tưởng của nhân vật Mai
Trừng trong c ̣c đố i thoa ̣i với hồ n của cha me ̣: “Hạnh phúc chỉ thực sự có
chừng nào cha me ̣ cho con thoát khỏi sứ mê ̣nh ấ y” [18, tr.223]. Có thể thấy
rằng, thời gian tâm tưởng của nhân vâ ̣t trong tác phẩ m này có thể kéo người
đọc theo diễn biến của câu chuyện để rồi lắm lúc muốn biến mất ra khỏi thực
ta ̣i vào cõi hư vô và ngược lại. Tác phẩm khép lại bằng dòng suy ngẫm, triế t lí
của nhân vâ ̣t Đông về cuô ̣c đời: “Tôi ba mươi lăm tuổi. Tuổi ấ y Đức Phật
được giác ngộ. Có nhiều người đi qua tuổi ba mươi lăm mà mãi mãi không
giác ngộ. Có những người giác ngộ trước cả tuổi ba mươi lăm. Ngộ muộn hay
ngộ sớm, họ tất thảy đều đáng thương” [18, tr.241]. Cuô ̣c số ng vẫn tiế p tu ̣c
và mo ̣i chuyê ̣n đang chờ đơ ̣i con người ở phía trước.
Tiểu thuyết Mười lẻ một đêm bắt đầu bằng tình huống cố tình được tổ
chức giống như cách bắt đầu truyện ngắn, bằng một lát cắt thời gian, một đơi
tình nhân lâm tình huống, bị nhốt trong căn hộ trên tầng 6 chung cư suốt mười
một ngày đêm. Một đôi từng yêu nhau thời trẻ, rồi chia tay, ai cũng lập gia
đình. Sau hơn mười năm tình cũ khơng rủ cũng về, họ được người bạn cho
mượn căn hộ tầng 6. Anh bạn họa sĩ tốt bụng, hồn nhiên khóa cửa buổi sáng,
hẹn chiều về giải phóng đơi tình nhân, nhưng anh ta biến mất tăm. Mười lẻ
một đêm bị nhốt, đơi tình nhân nếm trải đủ mọi hỉ nộ ái ố của cuộc đời thu
nhỏ, trong tình thế ối oăm, cho đến khi họ thốt khỏi cảnh ngộ dở khóc dở
cười ấy. Và kết cục chẳng hề có hậu: đơi tình nhân chia tay vĩnh viễn.
Trong Mười lẻ một đêm thời gian cuộc đời nhân vật được thể hiện: Từ
người đàn ông (anh), người đàn bà (chị) đến họa sĩ trồng chuối hột, người mẹ,
giáo sư Một tên Xí, giáo sư Hai tên Khoả… Có thể đốn được cuộc đời của
Họa sĩ Chuối Hột qua thời gian tuổi: Bốn mươi tám cái xuân xanh là bốn
19
mươi tám mùa cởi mở. Cuộc đời luôn vui vẻ của một người rất thích trồng
cây chuối trong tình trạng khỏa thân, người bóng nhẫy, trắng lơm lốp như cây
chuối… Nhân vật Bà mẹ cũng vậy, cái dâm của người đàn bà này được mở
rộng tới mức quá khổ trên văn bản. Qua năm lần đị và vơ vàn những cuộc
phiêu lưu tình ái – tất cả đều diễn ra trước cặp mắt của đứa con gái, con bé
phải chứng kiến tất cả các thể loại đàn ông của mẹ – Bà mẹ quả là mẫu người
ham hố nhục dục đến mức vơ độ và vơ sỉ. “Về làm gì, ở lại đây ngủ cho vui” đó là câu nói được bà mẹ lặp đi lặp lại với từng đối tác mới trong thú vui xác
thịt triền miên vô tận. Cũng có thể coi đó như một dấu hiệu cá biệt hố nhân
vật, giống câu “Biết rồi, khổ lắm, nói mãi” của cụ Cố Hồng trong văn Vũ
Trọng Phụng. Nhẹ dạ, nông nổi, nhiều lầm lạc, con thiêu thân trong lị lửa
đam mê – khơng ít lần tác giả làm người đọc ngỡ tưởng như vậy về nhân vật
Bà mẹ – nhưng tất cả ấn tượng ấy phải được xét lại trước một thực tế thế này:
“Năm lần lấy chồng, năm lần li dị, mỗi lần li dị được một cái nhà. Chồng đầu
tiên được một cái nhà để xe. Chồng thứ hai được chia đơi căn phịng 26m2.
Chồng thứ ba được căn hộ tập thể tầng hai. Chồng thứ tư được 9m2 phố cổ.
Chồng thứ năm khá nhất, giáo sư viện trưởng, căn hộ chung cư chất lượng
cao”. Việc nâng dần cấp độ đền bù sau mỗi lần li hơn như vậy là một cách
phóng đại cho cái tham của Bà mẹ. Qua thời gian đã cho chúng ta thấy được
cuộc đời, tính cách của bà mẹ. Để rồi, người đọc không khỏi bật cười trước sự
tổng kết của cô con gái: “Mẹ ngửi thấy mùi đàn ông và mùi đất đều chén
được”. Thời gian mở ra theo những trải nghiệm quá khứ của ba nhân vật tham
gia tấn trị: Hoạ sĩ Chuối Hột, Người đàn ơng và Người đàn bà. Tiếp đó là
hàng loạt nhân vật khác.
Cịn trong Người và xe chạy dưới ánh trăng, Hồ Anh Thái 26 tuổi thể
hiện một ý tưởng khá sâu sắc, rằng con người ta đi vào đời với đôi bàn tay
trắng, sạch sẽ và lương thiện. Nhưng rồi càng đi càng phải giữ mình trong
20
sạch, mà đời cứ luôn muốn nhấn người ta vào sắc dục, vào những chỗ không
được lương thiện lắm. Nhờ xây dựng dòng thời gian nhân vật, cuộc sống xã
hội thời kì đó với những xơ dập ghê gớm được hiện lên rõ nét. Các nhân vật
trong tiểu thuyết đều cịn trẻ, Tồn, Hiệp, Trang, Minh... mỗi người một số
phận, bị cuộc sống xô dạt về những nẻo khác nhau và họ phải vật lộn với số
phận trên con đường của đời mình. Với Người và xe chạy dưới ánh trăng, Hồ
Anh Thái đã khẳng định được một vị trí trong đời sống văn chương Việt
Nam. Tác giả đã có ý thức trách nhiệm của một nhà văn, và là một nhà văn có
tài trong việc tạo dựng những nhân vật có cá tính đa dạng, có nhân cách phức
tạp, nhất là nhân vật Toàn, thể hiện trong cách nêu vấn đề khá nhân bản: hết
chiến tranh tưởng chừng con người khơng cịn bị mất mát gì nữa, vậy mà
chúng ta vẫn phải mất mát rất nhiều. Xây dựng thời gian nhân vật đã giúp nhà
văn thể hiện cảm quan của mình trước cuộc sống hiện đại.
Ta cịn thấy trong những tiểu thuyết của nhà văn dạng thời gian đảo
ngược, đan xen các sự kiện. Tiêu biểu như tác phẩm Trong sương hồng hiện
ra. Trong cơn hôn mê cận kề cái chết (do bị điện giật), nhân vật chính của tiểu
thuyết là Tân đã từ năm 1987 ngược thời gian trở lại với năm 1967, khi anh ta
còn chưa ra đời. Ở đó, anh ta gặp bà nội, bà ngoại, cha mẹ và những người
hàng xóm trong bối cảnh Hà Nội đang còn chịu bom đạn chiến tranh. Tất cả
đều trẻ hơn hai mươi tuổi so với chính họ ở thời điểm bắt đầu chuyện kể. Và
họ sống hồn nhiên hơn, cởi mở hơn, đối xử với nhau thân ái hơn so với hai
mươi năm sau. Tính luận đề của tác phẩm được bật ra từ chính điểm này: qua
cặp mắt trong trẻo của chàng trai mười bảy tuổi, tấm màn quá khứ được vén
lên. Ở đây, từ bản thân các chi tiết được tác giả chủ ý cài cắm vào cốt truyện
là một triết luận về thời gian: quá khứ - hiện tại - tương lai là những thì nối
liền với nhau một cách biện chứng. Đưa nhân vật của mình trở lại với 20 năm
trước, Hồ Anh Thái đã làm được một cuộc mổ xẻ quá khứ và góp lời giải cho