1
ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
KHOA NGỮ VĂN
----------------
KHÓA ḶN TỚT NGHIỆP ĐẠI HỌC
NGÀ NH CỬ NHÂN VĂN HĨA HỌC
Đề tài:
TÍN NGƯỠNG PHẬT GIÁO CỦA NGƯỜI HÀ NỘI
Người hướng dẫn:
TS. Lê Đức Luận
Người thực hiện:
Nguyễn Thị Nhung
Đà Nẵng, tháng 5/2013
2
LỜI CAM ĐOAN
Tôi: Nguyễn Thị Nhung, sinh viên lớp 09 CVHH, khoa Ngữ văn,
trường Đại học sư phạm – Đại học Đà Nẵng, xin cam đoan rằng: Cơng trình
này do tôi thực hiện dưới sự hướng dẫn của TS. Lê Đức Luận.
Tơi xin chịu hồn tồn trách nhiệm về nội dung, tính khoa học trong
cơng trình này.
Đà Nẵng, ngày tháng 5 năm 201
Người thực hiện
Nguyễn Thị Nhung
3
LỜI CẢM ƠN
Lời đầu tiên em xin chân thành cảm ơn đến quý Thầy, Cô trường
trường Đại học sư phạm – Đại học Đà Nẵng, những người đã trực tiếp giảng
dạy, truyền đạt những kiến thức bổ ích cho em, đó chính là những nền tảng cơ
bản, là những hành trang vô cùng quý giá, là bước đầu tiên cho em bước vào
sự nghiệp trong tương lai sau này.
Đặc biệt em xin gửi lời cảm ơn tới Thầy hướng dẫn Lê Đức Luận – một
người đã cho em rất nhiều kiến thức và niềm đam mê, cảm ơn Thầy đã tận
tình quan tâm, giúp đỡ em để em hồn thành bài khóa luận tốt nghiệp này.
Trong q trình tìm tài liệu và làm khóa luận vì chưa có kinh nghiệm
thực tế, chỉ dựa vào lý thuyết đã học cùng với thời gian hạn hẹp nên cơng
trình nghiên cứu của em chắc chắn khơng tránh khỏi những sai sót. Kính
mong nhận được sự góp ý của các Thầy, cơ để cơng trình nghiên cứu của em
ngày càng hồn thiện hơn.
Kính chúc quý Thầy cô luôn luôn vui vẻ, hạnh phúc, dồi dào sức khỏe
và thành công trong công việc.
Em xin chân thành cảm ơn!
Sinh viên thực hiện
Nguyễn Thị Nhung
4
MỞ ĐẦU
1.Lý do chọn đề tài
Việt Nam là một nước Phương Đơng, nơi tơn giáo có ảnh hưởng rất lớn
đến đời sống văn hóa xã hội. Tuỳ vào điều kiện phát triển lịch sử của mỗi
nước mà tôn giáo tác động mạnh đến nếp sống tinh thần, thói quen, suy nghĩ
của con người khác nhau. Trong các tôn giáo ảnh hưởng đến Việt Nam thì
đạo Phật là một tơn giáo đã du nhập vào nước ta sớm nhất, khoảng thế kỷ thứ
II trước công nguyên và trở thành tôn giáo có ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống
tinh thần, xã hội Việt Nam cho đến ngày nay. Phật giáo đã thấm sâu vào nền
văn minh Việt Nam trở thành một phần khơng nhỏ của văn hóa dân tộc, phù
hợp với đời sống và tâm hồn người Việt Nam.
Hà Nội là một vùng đất hội tụ những giá trị văn hóa Kinh Kì nói riêng,
văn hóa Việt nói chung. Đây khơng những là trung tâm kinh tế chính trị của
quốc gia mà còn là trung tâm Phật giáo qua nhiều triều đại, đặc biệt là triều
Lý Trần. Phật giáo tại Hà Nội cũng theo dòng lịch sử thăng trầm của đất
nước, để rồi ngày nay vẫn đứng vững chắc và hòa quyện với văn hóa dân tộc
góp phần vào sự phát triển của quốc gia. Cũng như các tư tưởng và tôn giáo
khác, khi vào Việt Nam đã được người Việt nhào nặn lại cho phù hợp với văn
hóa dân tộc nên Phật giáo trở thành dân gian hóa.
Vì những lí do trên, với mong muốn hiểu được một cách sâu sắc tầm
quan trọng của Phật giáo đối với Việt Nam nói chung và của con người Hà
Nội nói riêng nên chúng tơi muốn đi vào tìm hiểu đề tài “ Tín ngưỡng Phật
giáo của người Hà Nội” để có thêm cơ sở khẳng định những đóng góp của
Phật giáo và tầm quan trọng của Phật giáo trong lòng người Hà Nội.
2.Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Nghiên cứu về Phật giáo đã có rất nhiều các nhà khoa học nghiên và
các tác phẩm nghiên cứu liên quan đến phật giáo của các tác giả như: Hòa
5
thượng Thích Minh Châu, Hịa thượng Thích Thiện Siêu… các nhà nghiên
cứu Lê Đình Thám, Trần Trọng Kim, Nguyễn Đăng Thục, Lê Mạnh Thát, Hà
Văn Tấn…
Ngoài ra, một số luận văn nghiên cứu về Phật giáo như: “ Tìm hiểu một số
giá trị văn hóa Phật giáo phục vụ phát triển du lịch”, “ Nguồn gốc ra đời của
tôn giáo và sự tồn tại của tôn giáo trong thời đại ngày nay”…
Trên các tạp chí, báo cũng có một số bài nghiên cứu về Phật giáo
nhưng cho đến nay chưa có một đề tài nào nghiên cứu về tín ngưỡng phật
giáo của người Hà Nội. Vì vậy, chúng tơi chọn đề tài: “ Tín ngưỡng Phật giáo
của người Hà Nội ” để tìm hiểu thêm về giá trị Phật giáo và những ảnh hưởng
đối với người Hà Nội.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Tín ngưỡng phật giáo của người Hà Nội
3.2.Phạm vi nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu là “ Tín ngưỡng Phật giáo của người Hà Nội” vì vậy
vấn đề chúng tơi sẽ nghiên cứu khảo sát tín ngưỡng phật giáo ở địa bàn thành
phố Hà Nội.
4.Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp phân tích, tổng hợp
- Phương pháp diễn dịch, quy nạp
- Phương pháp so sánh
- Phương pháp điền dã, phỏng vấn
Ngồi ra, chúng tơi còn sử dụng một số phương pháp hỗ trợ khác trong
quá trình nghiên cứu.
5.Bố cục đề tài
6
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và thư mục tài liệu tham khảo, cấu
trúc đề tài gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề chung
Chương 2: Đặc điểm tín ngưỡng Phật giáo của người Hà Nội
Chương 3. Gía trị văn hóa và hướng bảo tồn, phát huy tín ngưỡng Phật
giáo ở Hà Nội
7
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG
1.1.
Khái quát về tín ngưỡng
1.1.1. Khái niệm tín ngưỡng
Tơn giáo và tín ngưỡng là hai khái niê ̣m đã làm tố n không ít giấy mực
của các nhà nghiên cứu. Có người cho rằ ng tôn giáo và tín ngưỡng là mô ̣t, chỉ
khác nhau ở cách go ̣i tên nhưng có người la ̣i cho rằ ng tín ngưỡng và tôn giáo
là hai khái niê ̣m, pha ̣m trù hoàn toàn khác nhau.
Theo quan điể m truyề n thố ng, người ta có ý thức phân biêṭ tín ngưỡng
và tôn giáo, thường coi tin
́ ngưỡng ở triǹ h đô ̣ phát triể n thấ p hơn so với tôn
giáo. Loa ̣i quan điể m thứ hai là đồ ng nhấ t giữa tôn giáo và tín ngưỡng và đề u
go ̣i chung là tôn giáo, tuy có phân biê ̣t tôn giáo dân tô ̣c, tôn giáo nguyên thủy,
tôn giáo điạ phương, tôn giáo thế giới.
Ở nước ta hiê ̣n nay, thuâ ̣t ngữ tín ngưỡng có thể hiể u theo hai nghiã .
Khi nói tự do tín ngưỡng, chúng ta có thể hiể u đó là tự do về ý thức hay tự do
về tín ngưỡng, tôn giáo. Nế u hiể u tín ngưỡng là ý thức thì tín ngưỡng bao
trùm lên tôn giáo, là mô ̣t bô ̣ phâ ̣n chủ yế u nhấ t cấ u thành tôn giáo. Không có
tín ngưỡng sẽ không có tôn giáo. Trong chỉ thi ̣ của Bô ̣ Chính tri ̣ về công tác
tôn giáo ở nước ta, cu ̣m từ “tín ngưỡng tôn giáo không phân biêṭ thành hai
pha ̣m trù tiń ngưỡng và tôn giáo”.
Tuy nhiên, Từ điể n tiế ng Viêṭ đinh
̣ nghiã tín ngưỡng là: “lòng tin và sự
tôn thờ mô ̣t tôn giáo” tức là tín ngưỡng chỉ tồ n ta ̣i trong mô ̣t tôn giáo [14, tr.
1646]. Theo giải thích của Đào Duy Anh, tiń ngưỡng là: “ lòng ngưỡng mô ̣,
mê tín đố i với một tôn giáo hoă ̣c mô ̣t chủ nghiã ”[ 2, tr. 283].
Theo giáo sư Ngô Đức Thinh
̣ thì ông đưa ra quan điể m rõ ràng hơn: “
Tín ngưỡng đươ ̣c hiể u là niề m tin của con ngưỡng vào cái gì đó thiêng liêng,
cao cả, siêu nhiên, hay nói go ̣n la ̣i là niề m tin, ngưỡng vo ̣ng của con người
8
vào những cái “siêu nhiên” (hay còn go ̣i là “cái thiêng”) – cái đố i lâ ̣p với cái
“trầ n tu ̣c”, cái hiêṇ hữu mà con người có thể sờ mó, quan sát đươ ̣c. Niề m tin
vào “cái thiêng” thuô ̣c về bản chấ t con người, nó ra đời và tồ n ta ̣i, phát triể n
cùng với con người và loài người, nó là nhân tố cơ bản ta ̣o nên đời số ng tâm
linh của con người, cũng giố ng như đời số ng vâ ̣t chấ t, đời số ng xã hô ̣i tinh
thầ n, tư tưởng, đời số ng tình cảm...[ 16, tr. 16]. Tùy theo hoàn cảnh, trình đô ̣
phát triể n kinh tế , xã hô ̣i của mỗi dân tô ̣c, điạ phương, quố c gia mà niề m tin
vào “cái thiêng” thể hiêṇ ra các hình thức tôn giáo, tín ngưỡng cu ̣ thể khác
nhau. Chẳ ng ha ̣n như niề m tin vào Đức Chúa, Đức Me ̣ Đồ ng Trinh của Kito
giáo, niề m tin vào Đức Phâ ̣t của Phâ ̣t giáo, niề m tin vào Thánh, Thầ n của tiń
ngưỡng thờ Thành Hoàng, Đa ̣o thờ Mẫu...Các hính thức tôn giáo này dù rô ̣ng
hay he ̣p khác nhau, dù phổ quát toàn thế giới hay là đă ̣c thù cho mỗi dân
tô ̣c...thì cũng đề u là mô ̣t thực thể biể u hiêṇ niề m tin vào cái thiêng chung của
con người.
Trầ n Ngo ̣c Thêm cho rằ ng, tiń ngưỡng đươ ̣c đă ̣t trong văn hóa tổ chức
đời số ng cá nhân: “Tổ chức đời số ng cá nhân là bô ̣ phâ ̣n thứ hai trong văn hóa
tổ chức cô ̣ng đồ ng. Đồ ng thời mỗi cá nhân trong cô ̣ng đồ ng đươ ̣c tổ chức theo
những tâ ̣p tu ̣c đươ ̣c lan truyề n từ đời này sang đời khác (phong tu ̣c). Khi đời
số ng và trình đô ̣ hiể u biế t còn thấ p, ho ̣ tin tưởng và ngưỡng mô ̣ vào những
thầ n thánh do ho ̣ tưởng tươ ̣ng ra (tiń ngưỡng). Tín ngưỡng cũng là mô ̣t hiǹ h
thức tổ chức đời số ng cá nhân rấ t quan tro ̣ng. Từ tự phát lên tự giác theo con
đường quy pha ̣m hóa thành giáo lý có giáo chủ, thánh đường...tín ngưỡng trở
thành tôn giáo. Ở xã hô ̣i Viê ̣t Nam cổ truyề n, các tiń ngưỡng dân gian chưa
đươ ̣c chuyể n thành tôn giáo theo đúng nghiã của nó – mới có những mầ m
mố ng của những tôn giáo như Phâ ̣t, Đa ̣o, Kito giáo....đã đươ ̣c du nhâ ̣p và đế n
thời điể m giao lưu với phương Tây, các tôn giao dân tô ̣c như: Cao Đài, Hòa
Hảo mới xuấ t hiê ̣n [17. Tr, 262].
9
Trong công trin
̀ h Ma thuâ ̣t khoa ho ̣c và tôn giáo, Malinowski cho rằ ng:
tín ngưỡng ra đời khi mà cuô ̣c số ng của con người có nhiề u trở nga ̣i và bất
trắ c. Cu ̣ thể hơn, ông đưa ra mô ̣t ví du ̣ về sự tồ n ta ̣i của ma thuâ ̣t (tín ngưỡng)
ở nghề đánh cá: “ Vấ n đề quan trọng nhấ t là ở chỗ đối với viê ̣c đánh bắ t cá ở
phá, khi con người hoàn toàn dựa vào kiế n thức và ki ̃ năng của mình, ma
thuật không tồ n tại; trong khi đố i với viê ̣c đánh bắ t cá ngoài khơi, đầ y nguy
hiể m và bấ t trắ c người ta sử dụng một hê ̣ thố ng nghi lễ ma thuật với phạm vi
rộng lớn để đảm bảo an toàn và kế t quả cao”.
Hiê ̣n nay, có cách hiể u về tín ngưỡng ho ̣ cho rằ ng: tín ngưỡng có triǹ h
đô ̣ phát triể n thấ p hơn so với tôn giáo về mă ̣t tổ chức, thiế t chế , giáo chủ...Bên
ca ̣nh đó có những suy nghi ̃ cho rằ ng tôn giáo và tín ngưỡng đồ ng nhấ t và go ̣i
chung là tôn giáo, đồ ng thời có sự phân biê ̣t giữa tôn giáo dân tô ̣c, tôn giáo
quố c tế , tôn giáo vùng miề n. Dù hiể u trên góc đô ̣ nào, tín ngưỡng – tôn giáo
vẫn là mô ̣t hin
̀ h thái ý thức xã hô ̣i, cũng là mô ̣t nhu cầ u của xã hô ̣i. Và mô ̣t
khi những nhu cầ u ấ y chưa đươ ̣c những hình thái khác của ý thức xã hô ̣i, cũng
là mô ̣t nhu cầ u của xã hô ̣i. Và mô ̣t khi những nhu cầ u ấ y chưa đươ ̣c những
hiǹ h thái khác của ý thức xã hô ̣i hoàn toàn thỏa mañ thì đố i với mô ̣t số tầ ng
lớp xã hô ̣i, tin
́ ngưỡng – tôn giáo vẫn là nguồ n gố c của giá tri ̣ đa ̣o đức, niề m
an ủi, sự nâng đỡ về tâm lý. Hoă ̣c nói theo tổ chức Văn hóa, Khoa ho ̣c và
Giáo du ̣c Liên hơ ̣p quố c: “ Mỗi dân tộc, mỗi quố c gia cầ n có tự hào về quá
khứ của mình để bảo vê ̣ và phát triển văn hóa của mình vào kho tàng văn hóa
nhân loại. Sự đa dạng trong tín ngưỡng, tức niề m tin tín ngưỡng, biểu hiê ̣n
rấ t khác nhau, xuyên qua không không gian và thời gian, phụ thuộc và hoàn
cảnh đi ̣a lý – li ̣ch sử của từng quố c gia, dân tộc” [25, tr. 71]. Theo quan điể m
của người Viêṭ thì tin
́ ngưỡng đươ ̣c hiể u là: Tín ngưỡng là hê ̣ thố ng những
niề m tin và cách thức biể u lô ̣ đức tin của con người đố i với những hiêṇ tươ ̣ng
tự nhiên hay xã hô ̣i, nhân vâ ̣y lich
̣ sử hay huyề n thoa ̣i có liên quan đế n cuô ̣c
10
số ng của ho ̣ nhằ m cầ u mong sự che chở, giúp đỡ từ những đố i tươ ̣ng siêu
hiǹ h mà người ta thờ phu ̣ng.
Theo TS. Lê Đức Luận trong giáo trình Cơ sở văn hóa Việt Nam thì
“tín ngưỡng là niềm tin, sự ngưỡng vọng, tôn thờ của con người vào một thế
lực, hiện tượng siêu nhiên huyền bí có quyền năng lớn, có thể che chở, bảo vệ
hay làm hại con người. Tín ngưỡng có hai loại: tín ngưỡng dân gian và tín
ngưỡng tơn giáo”. Tín ngưỡng dân gian được lưu truyền trong khơng gian
nhân dân, trở thành một phần của phong tục còn tín ngưỡng tơn giáo là một
hệ thống giáo luật, giáo lí, giáo đường, có người đứng đầu giáo hội. Chúng tôi
theo quan điểm này.
Tóm la ̣i tín ngưỡng là hê ̣ thố ng các niề m tin mà con người tin vào để
giải thích thế giới và để mang la ̣i sự bình an cho cá nhân và cô ̣ng đồ ng. Điể m
khác biêṭ giữa tín ngưỡng và tôn giáo ở chỗ, tín ngưỡng mang tính dân tộc,
dân gian nhiề u hơn tôn giáo, tín ngưỡng không có tổ chức chă ̣t chẽ như tôn
giáo. Khi nói đến tin
́ ngưỡng người ta thường nói đế n tín ngưỡng của mô ̣t dân
tô ̣c hay mô ̣t số dân tô ̣c có mô ̣t số đă ̣c điể m chung còn tôn giáo thì không
mang tính dân tô ̣c. Tín ngưỡng không có mô ̣t hê ̣ thố ng điề u hành và tổ chức
như tôn giáo, nế u có thì hê ̣ thố ng đó cũng lẻ tẻ và rời ra ̣c. Tín ngưỡng nế u
phát triể n ở mô ̣t mức đô ̣ nào đó thì có thể thành tơn giáo.
1.1.2. Đặc điểm tín ngưỡng ở Việt Nam
Viê ̣t Nam là mô ̣t quố c gia nằ m giữa ngã ba của Đông Nam Á là nơi
giao lưu của các luồ ng tư tưởng, văn hóa khác nhau, có điạ hiǹ h phong phú,
đa da ̣ng la ̣i ở vùng nhiê ̣t đới gió mùa, thiên nhiên vừa ưu đaĩ , vừa đe do ̣a cô ̣ng
đồ ng người số ng ở đây. Do đó, thường nảy sinh tâm lý sơ ̣ haĩ , nhờ câ ̣y vào
vào sự che chở của lực lươ ̣ng tự nhiên. Viê ̣t Nam có lich
̣ sử lâu đời và nề n
văn minh hin
̀ h thành sớm, la ̣i kế bên hai nề n văn minh lớn của nhân loa ̣i là
11
Trung Hoa và Ấn Đô ̣ nên tín ngưỡng, tôn giáo có ảnh hưởng sâu đậm từ hai
nề n văn minh ấ y.
Lich
̣ sử Viê ̣t Nam là lich
̣ sử chố ng ngoa ̣i xâm, những người có công lớn
trong viêc̣ giúp dân, cứu nước đươ ̣c cả cô ̣ng đồ ng tôn sùng và đời đời thờ
phu ̣ng. Trong tâm thức của người Viêṭ luôn tiề m ẩ n, chứa đựng đa ̣o lý “uố ng
nước nhớ nguồ n”. Điề u đó đươ ̣c thể hiêṇ khá rõ nét trong đời số ng sinh hoa ̣t
tín ngưỡng, tôn giáo của ho ̣. Đă ̣c điể m tự nhiên, lich
̣ sử và văn hóa đó có ảnh
hưởng lớn đế n đă ̣c điể m tín ngưỡng tôn giáo ở Viêṭ Nam.
Tín ngưỡng Việt Nam, cịn gọi là tín ngưỡng truyền thống hay tín
ngưỡng dân gian, là tín ngưỡng của các dân tộc sống trên lãnh thổ Việt Nam.
Tín ngưỡng Việt Nam giống như các bộ phận khác của văn hóa Việt Nam đều
mang những đặc trưng của văn hóa nơng nghiệp.
Tơn trọng và gắn bó mật thiết với thiên nhiên: thể hiện ở tín ngưỡng
sùng bái tự nhiên. Hài hịa âm dương: thể hiện ở các đối tượng thờ cúng: Trời
– Đất, Tiên – Rồng, ông đồng – bà đồng,...Đề cao phụ nữ: thể hiện ở rất nhiều
nữ thần như các Mẫu Tam phủ (Bà Trời – Đất – Nước), Mẫu Tứ phủ (Bà Mây
– Mưa – Sấm – Chớp),...Tính tổng hợp và linh hoạt và hệ quả là tôn giáo đa
thần chứ không phải độc thần như trong nhiều tơn giáo khác.
Phân loại tín ngưỡng Việt Nam: Thời xa xưa, để duy trì và phát triển sự
sống, ở những vùng sinh sống bằng nghề nơng cần phải có mùa màng tươi tốt
và con người được sinh sôi nảy nở. Để làm được hai điều trên, những trí tuệ
sắc sảo sẽ tìm các quy luật khoa học để lý giải hiện thực và họ đã xây dựng
được triết lý âm dương, cịn những trí tuệ bình dân thì xây dựng tín ngưỡng
phồn thực (phồn = nhiều, thực = cây cối). Tín ngưỡng phồn thực ở Việt Nam
được thể hiện ở hai dạng: thờ cơ quan sinh dục của cả nam lẫn nữ và thờ hành
vi giao phối, khác biệt với một số nền văn hóa khác như Ấn Độ chẳng hạn,
chỉ thờ sinh thực khí của nam mà thơi.
12
Thờ sinh thực khí: Thờ sinh thực khí nam và nữ của đồng bào dân tộc
Chăm. Cột hình trịn (linga – dương) biểu hiện cho nam, hình bệ vng (yoni
– âm ) biểu hiện cho nữ. Thờ sinh thực khí (sinh = đẻ, thực = nảy nở, khí =
cơng cụ) là hình thái đơn giản của tín ngưỡng phồn thực. Nó phổ biến ở hầu
hết các nền văn hóa nơng nghiệp trên thế giới. Nhưng khác với hầu hết các
nền văn hóa khác là chỉ thời sinh thực khí nam, tín ngưỡng phồn thực Việt
Nam thờ sinh thực khí của nam lẫn nữ. Việc thờ sinh thực khí được tìm thấy ở
trên các cột đá có niên đại hàng ngàn năm trước Cơng ngun. Các sinh thực
khí cịn được thấy rất nhiều ở thánh địa Mỹ Sơn vẫn còn nguyên dạng đến
ngày nay.
Thờ hành vi giao phối: Ngoài việc thờ sinh thực khí, tín ngưỡng Việt
Nam cịn thờ hành vi giao phối, đó là một đặc điểm thể hiện việc chú trọng
đến các mối quan hệ của văn hóa nơng nghiệp, nó đặc biệt phổ biến ở vùng
Đơng Nam Á. Các hình nam nữ đang giao phối được khắc trên mặt trống
đồng tìm được ở làng Đào Thịnh (Yên Bái), có niên đại 500 trước Cơng
ngun. Ngồi hình tượng người, cả các lồi động vật như cá sấu, gà, cóc,...
cũng được khắc trên mặt trống đồng Hồng Hạ (Hịa Bình). Vai trị của tín
ngưỡng phồn thực lớn tới mức ngay cả chiếc trống đồng, một biểu tượng sức
mạnh của quyền lực, cũng là biểu tượng tồn diện của tín ngưỡng phồn thực.
Việt Nam là mô ̣t quố c gia có nhiề u hình thức tín ngưỡng tôn giáo đang
tồ n ta ̣i: Nước ta là nơi thuâ ̣n lơ ̣i cho viê ̣c giao lưu của nhiề u luồ ng tư tưởng,
văn hóa khu vực và thế giới, la ̣i chiụ ảnh hưởng sâu sắ c của hai nền văn minh
lớn Trung Hoa và Ấn Đô ̣, đồ ng thời là mô ̣t nước có nhiề u dân tô ̣c cư trú ở
nhiề u khu vực. Hơn nữa, bản tính người Viê ̣t Nam vố n cởi mở, khoan dung
nên cùng mô ̣t lúc ho ̣ có thể tiế p nhâ ̣n nhiề u hình thức tín ngưỡng khác nhau.
Từ những hin
̀ h thức tôn giáo, tín ngưỡng sơ khai đế n hiêṇ ta ̣i, tôn giáo
phương Đông cổ đa ̣i đế n phương Tây câ ̣n, hiêṇ đa ̣i – tấ t cả đã và đang cùng
13
tồ n ta ̣i bên ca ̣nh tín ngưỡng dân gian, bản điạ của nhiề u dân tô ̣c, bô ̣ tô ̣c khác
nhau. Có những tôn giáo du nhâ ̣p vào Viê ̣t Nam từ những thế kỷ đầ u Công
nguyên, la ̣i có những tôn giáo xuấ t hiêṇ ở nước ta và những thâ ̣p niên đầ u thế
kỷ này. Có tôn giáo với số lươ ̣ng hàng triêụ tín đồ nhưng có tôn giáo la ̣i có số
lươ ̣ng tín đồ không đáng kể . Lich
̣ sử đã chứng minh mô ̣t số tôn giáo đã có ảnh
hưởng lớn đế n đời số ng, nế p nghi ̃ và văn hóa của cả cô ̣ng đồ ng, đã góp phầ n
nâng cao ý thức dân tô ̣c. Nhưng cũng có tôn giáo trong quá trình du nhâ ̣p,
hiǹ h thành và tồ n ta ̣i đã bi ̣các thế lực chính tri ̣lơ ̣i du ̣ng vì mu ̣c đích ngoài tôn
giáo. Lich
̣ sử đã hình thành và du nhâ ̣p, số lươ ̣ng tín đồ, vai trò xã hô ̣i cũng
như tác đô ̣ng chính tri...cu
̣ ̉ a các tôn giáo ở nước ta cũng rấ t khác nhau.
Bên ca ̣nh đó tín ngưỡng Viêṭ Nam còn mang tính đan xen, hòa đồ ng,
khoan dung. Bản tiń h của người Viêṭ Nam là cởi mở, bao dung cho nên dù là
tiń ngưỡng nào, tôn giáo gì, từ đâu đế n thì cô ̣ng đồ ng người Viê ̣t Nam cũng
sẵn sàng chấ p nhâ ̣n miễn là nó không vi pha ̣m đế n lơ ̣i ích quố c gia và đi
ngươ ̣c la ̣i truyề n thố ng văn hóa dân tô ̣c. Khổ ng giáo và Đa ̣o giáo từ Trung
Hoa lan xuố ng, Phâ ̣t giáo từ Ấn Đô ̣ truyề n sang nước ta từ rấ t sớm vẫn song
song tồ n ta ̣i cùng nhau mô ̣t cách hòa bình cùng tiń ngưỡng bản điạ mà không
xảy ra những cuô ̣c chiế n tranh tôn giáo nào. Kể cả về sau mô ̣t số tôn giáo
phương Tây thâm nhâ ̣p và Viê ̣t Nam, tuy có xa la ̣ với truyề n thố ng văn hóa
dân tô ̣c, những vẫn đươ ̣c chấ p nhâ ̣n. Nế u có giai đoa ̣n lich
̣ sử nào đó bi ̣ cô ̣ng
đồ ng dân tô ̣c mă ̣c cảm, đinh
̣ kiế n là khi nó bi ̣lực lươ ̣ng phản đô ̣ng lơ ̣i du ̣ng đi
ngươ ̣c la ̣i lơ ̣i ích của dân tô ̣c.
Do điề u kiê ̣n lich
̣ sử, từ khi dựng nước đế n nay, mố i quan tâm thường
xuyên trong mỗi người dân Viêṭ Nam là cảnh giác và đề phòng na ̣n ngoa ̣i
xâm. Vì vâ ̣y, bấ t luâ ̣n là tôn giáo nào, từ đâu đế n thì vi ̣ trí của nó trước hế t
phải phải tôn tro ̣ng tôn giáo truyề n thố ng và hòa đồ ng với tiń ngưỡng bản đia.̣
Ở Viê ̣t Nam không có tôn giáo, tín ngưỡng nào giữ vai trò thố ng tri ̣trong suố t
14
chiề u dài lich
̣ sử dân tô ̣c mà vi ̣ trí, vai trò của từng tôn giáo gắ n liề n với sự
hưng thinh,
̣ suy tàn của các triề u đa ̣i phong kiế n trong tiế n trình phát triể n
nhấ t đinh
̣ của lich
̣ sử dân tô ̣c.
Mô ̣t đă ̣c điể m nữa của tín ngưỡng Viê ̣t Nam là đề cao phu ̣ nữ. Lịch sử
dân tô ̣c ta là lich
̣ sử chố ng giă ̣c ngoa ̣i xâm, người phu ̣ nữ có vai trò vi ̣trí quan
tro ̣ng trong xã hô ̣i không chỉ vì ho ̣ phải gánh vác công viê ̣c thay chồ ng, nuôi
con ở hâ ̣u phương mà còn là người trực tiế p cùng nam giới xông pha trâ ̣n
ma ̣c. Không chỉ có Bà Trưng, Bà Triêụ phấ t cờ khởi nghiã chố ng giă ̣c ngoa ̣i
xâm vào những thế kỷ đầ u Công nguyên mà giai đoa ̣n lich
̣ sử nào cũng có
phu ̣ nữ nổ i trô ̣i trên tấ t cả các liñ h vực. Vì vâ ̣y, ngày nay do ̣c theo chiề u dài
cả nước chúng ta vẫn thường gă ̣p những nữ thần như các Mẫu Tam phủ (Bà
Trời – Đất – Nước), Mẫu Tứ phủ (Bà Mây – Mưa – Sấm – Chớp),...Phải
chăng sự hiêṇ diêṇ của nữ thầ n mo ̣i nơi làm cho con người an tâm như sự có
mă ̣t của người phu ̣ nữ trong gia đình và xã hô ̣i?.
Mô ̣t trong những đă ̣c điể m của xã hô ̣i phương Đông nói chung và Viêṭ
Nam nói riêng là viêc̣ suy tôn, thầ n thánh hóa những con người có công với
gia điǹ h, làng, nước. Lich
̣ sử Viê ̣t Nam là chố ng ngoa ̣i xâm và chố ng thiên
tai. Hàng ngàn năm các thế lực bên ngoài đã nuôi hy vo ̣ng đồ ng hóa dân tô ̣c ta
bằ ng nhiề u hình thức. Dù có ảnh hưởng của nhiề u nề n văn hóa khác nhau
nhưng dân tô ̣c ta khơng bi ̣ đờ ng hóa mà vẫn giữ đươ ̣c bản sắ c văn hóa riêng
của mình. Các tôn giáo ngoa ̣i lai du nhâ ̣p vào Viê ̣t Nam dù giáo lý có sâu sắ c,
tổ chức có chă ̣t chẽ đế n đâu vẫn không thể đẩ y lùi tín ngưỡng bản đia,̣ tôn
giáo truyề n thố ng; mà ngươ ̣c la ̣i muố n tồ n ta ̣i và phát triể n, hòa nhâ ̣p cùng tín
ngưỡng bản đia.̣
Con người Viêṭ Nam vớ n có trù n thố ng yêu nước, tro ̣ng nghĩa tình
“uố ng nước, nhớ nguồ n”, “ăn quả nhớ kẻ trồ ng cây” nên tín ngưỡng tôn giáo
Viê ̣t nam cũng thấ m đươ ̣m tinh thầ n ấ y. Truyề n thố ng ấ y đươ ̣c thể hiê ̣n trong
15
tiń ngưỡng thờ cúng tổ tiên và đươ ̣c ghi nhâ ̣n rõ ràng trong hê ̣ thố ng đề n,
miế u, lăng, phủ...ở nước ta. Vì thế mà từ xa xưa Viê ̣t Nam ta hình thành ba
cô ̣ng đồ ng gắ n bó chă ̣t chẽ với nhau là gia đình, làng xóm, quố c gia.
Ở mô ̣t nước nông nghiêp̣ la ̣c hâ ̣u, nông dân chiế m tỉ lê ̣ rấ t lớn nên tín
đờ hầ u hế t là nông dân. Dù là tín đồ của tôn giáo nào, bản chấ t của người
nông dân vố n vẫn là những con người cầ n cù lao đô ̣ng, có lòng yêu nước
nồ ng nàn, căm thù giă ̣c ngoa ̣i xâm và bóc lô ̣t. Trong hai cuô ̣c kháng chiến
chố ng thực dân Pháp và đế quố c My,̃ tín đồ tôn giáo đã góp phầ n đáng kể
cho sự nghiê ̣p cách ma ̣ng vi ̃ đa ̣i của dân tô ̣c. Trong công cuô ̣c đổ i mới hiêṇ
nay, ho ̣ có nguyê ̣n vo ̣ng tha thiế t là số ng “ tố t đời, đep̣ đa ̣o” cùng toàn dân
phầ n đấ u vì mu ̣c tiêu dân giàu, nước ma ̣nh, xã hô ̣i công bằ ng, dân chủ văn
minh.
Trước sự du nhập của các tôn giáo ngoại lai, người Việt không tiếp
nhận một cách thụ động mà luôn có sự cải biến cho gần gũi với tư tưởng, tơn
giáo bản địa. Vì vậy, ở nước ta, trong khi các tơn giáo vẫn phát triển thì các
tín ngưỡng dân gian vẫn giữ vai trò quan trọng trong đời sốn tâm linh của
người dân. Hầ u hế t người Việt đều có niềm tin tín ngưỡng, tuy nhiên, phần
đơng trong số đó khơng là tín đồ thành kính của riêng một tơn giáo nào. Một
người vừa có thể đến chùa, vừa có thể đến miếu đền miễn là việc làm ấy
mang lại sự thanh thản về tinh thần cho họ, có thể thoả mãn điều họ cầu xin.
Vì thế, nhiều nhà nghiên cứu cho rằng, một đặc điểm trong đời sống tín
ngưỡng – tơn giáo của người Việt là tính thực dụng. Tín ngưỡng là để phục
vụ nhu cầu cần thiết, trực tiếp của họ trong cuộc sống.
1.2.
Tín ngưỡng tơn giáo và Phật giáo ở Việt Nam
1.2.1. Tín ngưỡng tơn giáo
Tín ngưỡng, tơn giáo đã xuất hiện từ xa xưa trong lịch sử lồi người.
Nó tồn tại, phát triển và có ảnh hưởng mạnh mẽ tới mọi mặt của đời sống xã
16
hội. Với hình thức manh nha là tín ngưỡng ngun thủy như thờ thần, thờ cây,
mng thú tới những hình thức tơn giáo có giáo lý, tổ chức chặt chẽ... Tín
ngưỡng đã trở thành một thành tố quan trọng của nền văn hóa, là nhu cầu tinh
thần của một bộ phận người, đang và sẽ tồn tại lâu dài cùng tiến trình phát
triển của xã hội lồi người. Trong một vài thập kỷ gần đây, vấn đề tín ngưỡng
tơn giáo trên thế giới có xu hướng phát triển và có những diễn biến phức tạp
liên quan đến vấn đề xung đột dân tộc, sắc tộc ở nhiều quốc gia dân tộc đã và
đang thu hút sự quan tâm, nghiên cứu của nhiều người, đặc biệt là các nhà
nghiên cứu, các nhà chính trị, các nhà hoạch định chính sách... Trong giai
đoạn hiện nay, xu thế khu vực hóa, tồn cầu hóa đang diễn ra mạnh mẽ, tác
động đến hầu hết các lĩnh vực của đời sống xã hội như kinh tế, môi trường,
giáo dục, y tế, quan hệ ngoại giao, vấn đề nghèo đói, vấn đề nhân quyền... của
các nước trên thế giới. Đặc biệt, đối với văn hóa, quá trình tồn cầu hóa đã và
đang gây ra nguy cơ suy thối văn hóa, bị nơ dịch về văn hóa ở một số quốc
gia, mà trước hết là các nước chậm và đang phát triển. Chính vì vậy, việc bảo
tồn và phát triển văn hóa bản địa là một nhu cầu cấp thiết nhằm giữ gìn và
phát huy bản sắc văn hóa của mỗi quốc gia, dân tộc. Việt Nam là một quốc
gia đa tín ngưỡng, với 6 tơn giáo lớn hiện nay đã được công nhận tư cách
pháp nhân. Năm 1990, Bộ Chính trị ra Nghị quyết 24, xác định “Tơn giáo là
vấn đề cịn tồn tại lâu dài. Tín ngưỡng, tơn giáo là nhu cầu tinh thần của một
bộ phận nhân dân...”. Tiếp theo, ngày 12 tháng 03 năm 2003, tại Hội nghị lần
thứ bảy Ban chấp hành Trung ương khóa IX đã ra nghị quyết số 25-NQ/TW,
xác định: “Tín ngưỡng, tơn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân
dân, đang và sẽ tồn tại cùng dân tộc trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội
ở nước ta”. Các hình thức tín ngưỡng dân gian ở Việt Nam rất phong phú và
đa dạng, trong đó có các hình thức tín ngưỡng phổ biến như: thờ cúng tổ tiên,
thờ thần, thờ mẫu, thờ các vị anh hùng dân tộc, những người có cơng với nhân
17
dân, có cơng lập ấp, truyền nghề... Những hình thức tín ngưỡng này có lịch sử
lâu đời, tồn tại cùng với quá trình lịch sử dựng nước và giữ nước của cha ông
ta.
Viê ̣t Nam là mô ̣t quố c gia đa tôn giáo. Người dân Viêṭ Nam có truyề n
thố ng sinh hoa ̣t, hoa ̣t đô ̣ng tín ngưỡng lâu đời. Các dân tô ̣c trong cô ̣ng đồ ng
các dân tô ̣c Viê ̣t Nam đề u có những tín ngưỡng riêng găn liề n với đời số ng
kinh tế và tâm linh của mình.
Tín ngưỡng dân gian với quan niệm cho rằng bất cứ vật gì cũng có linh
hồn, nên người xưa đã thờ rất nhiều thần linh, đặc biệt là những sự vật có liên
quan đến nông nghiệp như trời, trăng, đất, rừng, sông, núi… để được phù hộ.
Đối với các dân tộc thiểu số, mỗi dân tộc có hình thái tín ngưỡng riêng của
mình. Tuy nhiên, đặc trưng nhất là các hình thái tín ngưỡng ngun thủy và
tín ngưỡng dân gian ngày nay cịn lưu giữ được trong các nhóm dân tộc như
nhóm Tày – Thái, nhóm Hmơng – Dao; nhóm Hoa – Sán Dìu – Ngái; nhóm
Chăm – Ê đê – Gia Rai; nhóm Mơn – Khơ me.
Bên cạnh đó, một phong tục, tập quán lâu đời phổ biến nhất của người
Việt và một số dân tộc thiểu số khác là việc thờ cúng tổ tiên và cúng giỗ
những người đã mất. Ở các gia đình người Việt, nhà nào cũng có bàn thờ tổ
tiên và việc cúng giỗ, ghi nhớ công ơn của các bậc tiền nhân rất được coi
trọng. Bên cạnh việc cúng giỗ tổ tiên ở từng gia đình, dịng họ, nhiều làng ở
Việt Nam có đình thờ thành hồng. Tục thờ thành hồng và ngơi đình làng là
đặc điểm độc đáo của làng quê Việt Nam. Thần thành hoàng được thờ trong
các đình làng có thể là các vị thần linh hoặc là những nhân vật kiệt xuất có
nhiều công lao to lớn như những ông tổ làng nghề hoặc anh hùng dân tộc có
cơng “khai cơng lập quốc”, chống giặc ngoại xâm. Ngồi ra, người Việt cịn
thờ các dạng thần như thần bếp, thần thổ công…
18
Các tơn giáo: Ở Việt Nam hiện có 06 tơn giáo lớn: Phật giáo, Công
giáo, Tin Lành, Hồi giáo, Cao Đài, Hồ Hảo. Tín ngưỡng tơn giáo thuộc lãnh
vực hệ thống tâm linh, giống như lĩnh vực hệ thống luật pháp vậy, tức muốn
có tơn giáo phải có tín ngưỡng trước và muốn có luật pháp phải có hiến pháp
trước, vậy tơn giáo xây dựng trên nền tín ngưỡng và luật pháp xây dựng trên
nền hiến pháp.
1.2.2. Đặc trưng tín ngưỡng Phật giáo ở Việt Nam
Nhiǹ la ̣i suố t chiề u dài lich
̣ sử của dân tô ̣c kể từ khi Phâ ̣t giáo đươ ̣c
truyề n bá vào nước ta, phâ ̣t giáo luôn gắ n liề n với sự phát triể n của lịch sử
dân tô ̣c, lấ y sứ mê ̣nh của dân tô ̣c làm sứ mê ̣nh của mình. Đó là tính nhấ t quán
của lich
̣ sử phâ ̣t giáo Viê ̣t Nam, vì lơ ̣i ích chung của dân tô ̣c. Phâ ̣t giáo du
nhâ ̣p, bén rễ và phát triể n trên khắ p năm châu. Ở đâu có đa ̣o Phâ ̣t thì xã hơ ̣i,
con người, phong tu ̣c, văn hóa nơi đó đề u chiụ ảnh hưởng bởi tinh thầ n nhân
bản của Phâ ̣t giáo. Đồ ng thời, Phâ ̣t giáo điề u chin̉ h để phù hơ ̣p với điề u kiêṇ
riêng của mỗi quố c gia, vùng lañ h thổ . Chính điề u đó làm cho Phâ ̣t giáo luôn
giữ đươ ̣c giá tri ̣ của mình, vừa hài hòa, cùng phát triể n trong sự đa da ̣ng về
văn hóa của mỗi cô ̣ng đồ ng xã hô ̣i. Phâ ̣t giáo vào Viêṭ Nam đươ ̣c người Việt
Nam tiế p nhâ ̣n. Người Viê ̣t đã Viêṭ hóa Phâ ̣t giáo, biế n Phâ ̣t giáo trở thành
Phâ ̣t giáo của người Viê ̣t Nam và để rồ i trong tâm thức của mỗi người dân đấ t
Viê ̣t ai cũng luôn coi Phâ ̣t giáo là tôn giáo của mình, của ông cha mình, của
truyề n thố ng dân tô ̣c mình, và go ̣i là Đa ̣o phâ ̣t Viê ̣t Nam, Phâ ̣t giáo Viêṭ Nam.
Đa ̣o Phâ ̣t tồ n ta ̣i và phát triể n gầ n hai ngàn năm ở Viê ̣t Nam, có nhiề u
thăng trầ m với lich
̣ sử đấ t nước, đã khẳ ng đinh
̣ đươ ̣c vi ̣ thế của mình trong
lòng dân tô ̣c. Thời đa ̣i nào Phâ ̣t giáo Viê ̣t Nam cũng có những đóng góp xứng
đáng cho đấ t nước. Trong buổ i đầ u xây dựng quố c gia phong kiế n đô ̣c lâ ̣p,
nhiề u thiề n sư đồ ng thời cũng là những nhà văn hóa, chính tri,̣ quân sự, ngoa ̣i
giao xuấ t sắ c có vai trò quan tro ̣ng trong viê ̣c hô ̣ quố c an dân...Trong 2 cuô ̣c
19
kháng chiế n chố ng thức dân Pháp và đế quố c Mỹ nhiề u nhà sư đồ ng thời là
những chiế n si ̃ “cởi áo cà sa khoác chiế n bào”, đích thân các vi ̣ ấ y rời thiề n
môn hoă ̣c tổ chức cho các tăng sĩ ta ̣m thời xả pháp tòng quân đánh giă ̣c, cứu
nước.
Hòa bình lâ ̣p la ̣i, cả nước cùng nhau hàn gắ n vế t thương chiế n tranh và
đi lên xây dựng chủ nghiã xã hô ̣i, Phâ ̣t giáo Viêṭ Nam la ̣i tiế p tu ̣c đóng góp
cơng sức của mình xây dựng đấ t nước Viêṭ Nam làm cho tố t đa ̣o đep̣ đời. Phâ ̣t
giáo Viêṭ Nam có cả hai hê ̣ phái: Phâ ̣t giáo Nam Tông (Tiể u thừa, Nguyên
Thủy) và Phâ ̣t giáo Bắ c Tông (Đa ̣i thừa, phát triể n). Hê ̣ phái Tiể u thừa đươ ̣c
truyề n từ Ấn Đô ̣ qua nên đươ ̣c go ̣i là “Nam truyề n” hay “Nam Tông”. Phái
này chủ trương giữ nghiêm giới luâ ̣t từ thời Đức Phâ ̣t ta ̣i thế (đó chính là tinh
thầ n Nguyên thủy Phâ ̣t giáo). Hê ̣ phái Đa ̣i thừa hay còn go ̣i là “Bắ c truyề n”,
“Bắ c tông”. Hê ̣ giáo Phâ ̣t giáo Phát triể n chủ trương linh đô ̣ng trong thực hiêṇ
giới luâ ̣t, không câu nê ̣ vào câu chữ trong kinh mà lựa cho ̣n sự phù hơ ̣p, hữu
ích, có hiêụ quả cho tu hành và đời số ng xã hô ̣i.
Phâ ̣t giáo Viê ̣t Nam mang đầ y đủ các đă ̣c điể m của đa ̣o Phâ ̣t nói chung.
Nhưng khi truyề n vào Viêṭ Nam, Phâ ̣t giáo đã hòa nhâ ̣p, thić h nghi và kế t hợp
với đời số ng tâm linh, văn hóa của người dân Viê ̣t nên có những đă ̣c điể m
riêng biê ̣t làm cho Phâ ̣t giáo ở Viêṭ Nam trở lên linh hoa ̣t, phong phú.
Dung hơ ̣p các tin
́ ngưỡng truyề n thố ng: Phâ ̣t giáo Viêṭ Nam dung hơ ̣p
các tin
́ ngưỡng truyề n thố ng của người Viê ̣t Nam: thờ cúng tổ tiên, thờ thầ n,
thờ mẫu nhưng Phâ ̣t giáo vẫn giữ vai trò chủ đa ̣o để làm nên Đa ̣o phâ ̣t Viêṭ
Nam. Điề u này đươ ̣c thể hiê ̣n rấ t rõ viê ̣c bài trí tươ ̣ng thờ trên chính điêṇ chùa
Phâ ̣t giáo. Trong đó, chư vi ̣Phâ ̣t đươ ̣c tôn trí ở gian giữa là đa ̣i hùng bảo điên;
̣
chư vi ̣ thánh tổ của Laõ giáo, Nho giáo, đươ ̣c an trí ở hai bên. Ngoài ra, còn
tôn trí cả tươ ̣ng của các vi ̣ Thiên hoàng Ngo ̣c đế , Thâ ̣p điêṇ Diêm Vương.
20
Đă ̣c biêt,̣ trong khuôn viên thờ tự của chùa, nhấ t là các chùa ở vùng Bắ c Bô ̣,
luôn có phủ Mẫu thờ chư vi ̣thánh Mẫu và đức thánh Cha.
Là thành tố trong Tam giáo đồ ng nguyên: Phâ ̣t giáo Viêṭ Nam dung
hơ ̣p cùng tinh thầ n Nho giáo, Laõ giáo để trở thành “Tam giáo đồ ng nguyên”
nhằ m hô ̣ trì quố c gia, dân tô ̣c. Đó là sự kế t hơ ̣p rấ t trí tuê ̣ để hài hòa cùng phát
triể n. Từ những buổ i đầ u xây dựng nề n phong kiế n đô ̣c lâ ̣p chúng ta đã thấy
các vi ̣ danh tăng Phâ ̣t giáo thông hiể u Nho giáo, uyên thâm Laõ giáo, và vâ ̣n
du ̣ng tam giáo nhuầ n nhuyễn trong cuô ̣c số ng tu hành của mình. Các vi ̣ ấy
hành trì Phâ ̣t giáo, tham gia chính sự bàn quố c kế dân sinh như mô ̣t vị tha ̣c
Nho, khi xong viê ̣c lớn la ̣i rút về núi rừng thanh ba ̣ch ẩ n tu như mô ̣t Đa ̣o sĩ.
Đây là điề u hiế m có ở đă ̣c trưng văn hóa mà chưa từng thấ y ở bấ t kỳ mô ̣t dân
tô ̣c nào.
Gắ n bó với dân tô ̣c: Phâ ̣t giáo du nhâ ̣p vào Viê ̣t Nam trở thành mô ̣t tôn
giáo gắ n bó giữa đa ̣o với đời, thể hiê ̣n tinh thầ n nhâ ̣p thế . Phâ ̣t giáo Viêṭ Nam
có truyề n thố ng yêu nước gắ n bó với dân tô ̣c, đồ ng hành trong những giai
đoa ̣n thăng trầ m của đấ t nước, góp phầ n đấ u tranh chố ng giă ̣c ngoa ̣i xâm, bảo
vê ̣ Tổ quố c. Trong Phâ ̣t giáo Viêṭ Nam đã ghi nhâ ̣n hai trường hơ ̣p đă ̣c biê ̣t:
Lý Công Uẩ n – mô ̣t vi ̣xả pháp, xuấ t tu để ra đời làm bâ ̣c quân vương khai mở
triề u đa ̣i nhà Lý, và Trầ n Nhân Tông – mô ̣t vi ̣ hoàng đế từ bỏ ngai vàng để
vào núi ẩ n tu trở thành mô ̣t vi ̣tổ sư của Phâ ̣t giáo đời Trầ n. Trong thời kỳ hô ̣i
nhâ ̣p, Phâ ̣t giáo luôn chia sẻ những khó khăn, hỗ trơ ̣ những người gă ̣p hoàn
cảnh khố n khó, gă ̣p thiên tai, dich
̣ ho ̣a để chung tay cùng đấ t nước góp phầ n
ổ n đinh
̣ xã hô ̣i, xóa đói giảm nghèo và phát triể n kinh tế xã hô ̣i.
Đoàn kế t nô ̣i bô ̣: Phâ ̣t giáo Viê ̣t Nam có tinh thầ n đoàn kế t, gắ n bó nô ̣i
bô ̣. Tuy có nhiề u tông phái Phâ ̣t giáo cùng tồ n ta ̣i và phát triể n, nhưng tấ t cả
đề u sinh hoa ̣t trong mô ̣t tổ chức chung là Giáo hô ̣i Phâ ̣t giáo Viê ̣t Nam. Giáo
hô ̣i Phâ ̣t giáo Viê ̣t Nam cũng đã khẳ ng đinh
̣ đó là tổ chức giáo hô ̣i duy nhấ t
21
đa ̣i diê ̣n cho tăng ni, Phâ ̣t tử Viêṭ Nam trong và ngoài nước. Ngoài ra Phâ ̣t
giáo Viê ̣t Nam còn đoàn kế t với các tầ ng lớp trong xã hô ̣i và đoàn kế t với các
tôn giáo khác để chung tay xây dựng và phát triể n đấ t nước. Đây là điề u chưa
có mô ̣t tổ chức Phâ ̣t giáo nước ngoài nào có thể làm đươ ̣c.
Là thành tố ta ̣o nên tính đă ̣c trưng văn hóa: Văn hóa, đa ̣o đức Phâ ̣t giáo
như quan điể m “ở hiề n gă ̣p lành”, “báo đáp tứ tro ̣ng ân”, “người Phâ ̣t tử hiế u
ha ̣nh”, “hành thiêṇ tránh ác”, “từ bi cứu khổ ”....đã thấ m đậm trong tâm tưởng
mỗi con người Viêṭ Nam qua các thế hê ̣. Nó đã góp phầ n ta ̣o dựng lên nề n
văn hóa Viêṭ Nam đâ ̣m đà bản sắ c dân tô ̣c. Mà ở đó người ta không còn phân
biêṭ đâu là đa ̣o đức xã hô ̣i, đâu là đa ̣o đức tôn giáo.
Với những đă ̣c điể m ta ̣o nên tính đă ̣c trưng trong truyề n thố ng của
mình, Phâ ̣t giáo Viêṭ Nam đa,̃ đang và sẽ vẫn đóng vai trò quan tro ̣ng trong
đời số ng xã hô ̣i, sẽ maĩ giữ mô ̣t vi ̣trí vững vàng trong lòng dân tộc Viê ̣t Nam.
1.3.
Đặc điểm vùng đất và tín ngưỡng của người Hà Nội
1.3.1. Đặc điểm vùng đất Hà Nội
Hà Nội ồn ã nhưng Hà Nội cũng vô cùng nên thơ. Một trong những đặc
trưng của Hà Nội là hệ thống ao hồ phong phú, được hình thành qua những
biến động địa chất hàng vạn năm của sông Hồng vùng hạ lưu. Theo phong
thủy “tụ thủy là tụ nhân”. Phải chăng đó là một trong những lý do quan trọng
khiến Thái Tổ Lý Cơng Uẩn đã chọn vùng đất có nhiều hồ và những con sông
ngọn núi như chầu về này làm “đế đô muôn đời”!
Hà Nội trước đây là một vùng đất thấp, có nhiều hồ ao và đầm lầy. Đất
Hà Nội là đất bãi do phù sa sông Hồng bồi đắp mà nên. Sự bồi đắp diễn ra
qua ngàn vạn năm ấy vừa là sự đổi dòng của những con sơng lãng du vừa có
dấu tích can thiệp của con người trong quá trình chinh phục thiên nhiên, cải
tạo cuộc sống. Sông Hồng – con sông mẹ của vùng đất này – qua những lần
đổi dòng đã để lại nhiều hồ hình móng ngựa hay những dải đầm kế tiếp nhau,
22
xen kẽ với những dải cát của dịng sơng cũ; qua thời gian tạo thành địa thế
như ngày nay. Chính địa thế và đặc điểm nhiều sơng ngịi, ao hồ mà qua hàng
ngàn năm, cư dân nơi đây đã tạo nên một nét văn hóa riêng, khơng thể trộn
lẫn của một đô thị phương Đông đầy quyến rũ với sự nhộn nhịp, sang trọng
của phố phường nhưng vẫn không mất đi sự bình yên, dung dị của làng quê.
Hà Nội nằm giữa hai bờ Sông Hồng và vùng đồng bằng Bắc Bộ trù
phú, khí hậu tiêu biểu cho vùng Bắc Bộ. Chính những đặc điểm ấ y đã ta ̣o nên
cho Hà Nơ ̣i những nét văn hóa riêng mà chỉ Hà Nô ̣i mới có, góp phầ n tạo nên
nét tinh túy, thanh lịch và phẩm giá của con người Thủ Đô.
Địa danh Thăng Long – Hà Nội luôn là niềm tự hào và thiêng liêng đối
với mỗi người dân Việt Nam, là niềm tin yêu đối với bạn bè quốc tế. Hà Nội
vốn có bề dày lịch sử và văn hóa. Đây là một vùng đất cổ, nơi hội tụ rất sớm
của các cộng đồng người từ vùng đồi núi ven sơng Đà, Ba Vì, Tam Đảo, Sóc
Sơn phát triển xuống vùng Hà Nội. Trước thế kỷ XI, Hà Nội (khi ấy gọi là
Đại La) đã là một thành thị có tầm cỡ. Từ thế kỷ XI trở đi, sau khi được Lý
Thái Tổ chọn làm kinh đô và đặt tên là Thăng Long thì thành phố này trở
thành đầu não chính trị, trung tâm văn hóa của cả nước. Đồng thời, Thăng
Long cũng dần dần trở thành trung tâm kinh tế lớn nhất, nơi Kẻ Chợ lớn nhất.
Và thế là Kẻ Chợ trở thành danh từ riêng dùng để gọi Thăng Long. Đầu thế
kỷ XV Thăng Long cịn được gọi là Đơng Đơ, sau đó nhà Nguyễn đóng đơ ở
Huế đã đổi gọi Thăng Long là Hà Nội. Từ sau Cách mạng Tháng 8 năm 1945,
nhà nước ta vẫn chọn Hà Nội làm thủ đô. Thăng Long – Đông Đô – Hà Nội là
một trong những thủ đô cổ của vùng Đông Nam Á. Hơn nữa là một thành phố
duy nhất hầu như liên tục trong một nghìn năm qua giữ vững vị trí là đầu não
chính trị, trung tâm kinh tế, văn hóa của đất nước ở vùng này.Thật là nơi hội
tụ quan trọng của bốn phương, nơi kinh đô bậc nhất của đế vương muôn đời.
23
Thăng Long – Hà Nội là một vùng văn hóa riêng, nhưng đồng thời lại
là một trung tâm văn hóa của cả nước. Do vậy, văn hóa Thăng Long – Hà Nội
vừa có tính địa phương lại vừa có tính dân tộc, vừa đặc thù, vừa phổ biến, vừa
đa dạng, vừa có tính năng động của một vùng đơ hội Kẻ Chợ, lại vừa mang
tính bền vững của một kinh đơ lâu đời. Tất cả những điều đó đã tạo nên
những đặc điểm, những truyền thống riêng có của vùng văn hóa “phồn hoa
thứ nhất Long Thành”.
Hơn bất cứ vùng văn hóa nào khác, Thăng Long – Hà Nội là đầu mối giao
lưu vừa rộng rãi, vừa mật thiết với tất cả các vùng văn hóa khác trong cả nước
và thế giới. Giao lưu và hội tụ, một đặc điểm của văn hóa Thăng Long – Hà
Nội, khiến cho văn hóa ở đây ở một chừng mực nhất định đại diện được cho
văn hóa Việt Nam nói chung. Khi tiếp thu tinh hoa của bốn phương, văn hóa
Thủ đơ làm cho tinh hoa của từng địa phương hòa nhập với tinh hoa của các
địa phương khác theo mô thức văn hóa đã hình thành từ lâu đời ở vùng văn
hóa cổ này. Thăng Long – Hà Nội từ lâu đã là nơi “bốn phương hội tụ”. Xem
xét tình hình cư dân của Thủ đơ có thể thấy ngay sự hội tụ ấy. Vì là Thủ đơ,
cho nên Thăng Long – Hà Nội thường xuyên tiếp nhận những thành phần cư
dân mới từ các nơi khác. Đó là những người vì các nhiệm vụ khác nhau của
nhà nước mà đến Thủ đô. Không phải tất cả những người gia nhập vào cư dân
Thủ đô đều là tinh hoa của bốn phương nhưng để có thể vững chân ở Thủ đơ
phần lớn đã phải nỗ lực nhiều và khơng ít người đã làm nên sự nghiệp.
Mơi trường văn hóa Thăng Long – Hà Nội với những điều kiện văn hóa
lịch sử đặc biệt như vậy, chẳng những là nơi hội tụ nhân tài mà cịn là nơi đào
luyện nhân tài đơng đảo nhất của cả nước. Phần lớn danh nhân của nước ta,
dù là danh nhân lịch sử hay văn hóa đều trở thành người nổi tiếng có tầm cỡ
quốc gia, khi đã sống và hoạt động ở Thăng Long. Điều này đối với các danh
nhân văn hóa lại càng rõ. Cái công nuôi dưỡng, nhào nặn của chiếc nôi văn
24
hóa Thăng Long đối với các nhân tài văn hóa của dân tộc là đặc điểm nổi bật,
đặc sắc mà khơng một vùng văn hóa, địa phương nào có thể có được. Điều
đặc sắc là tính chất đa tài, đa nghệ, tính chất tài hoa của các nhân sĩ Thăng
Long. Do sống ở nơi hội tụ tinh hoa văn hóa của bốn phương, các hình thái
văn hóa mà con người tiếp xúc hàng ngày cũng phong phú và hoàn thiện hơn
nơi khác. Vì thế nhân sĩ của Thăng Long bao giờ cũng đượm vẻ tài hoa, tinh
tế và thường là những con người “đa tài đa nghệ” mà hiếm thấy ở danh nhân
các địa phương khác.
Như vậy, Thăng Long – Hà Nội là cái lò chung đúc nhân tài, chung đúc
giá trị văn hóa từ những con người và những thành tựu văn hóa của bốn
phương hội tụ lại. Khơng thể kể hết những sản phẩm tinh thần và vật chất bất
hủ đã được sáng tạo, hoặc được thu thập và hội tụ ở Thăng long suốt cả ngàn
năm lịch sử. Gắn liền với những giá trị tinh thần ấy là sự xuất hiện những
gương mặt rực rỡ của trí tuệ và tài năng của những con người sinh trưởng ở
Thăng Long hoặc có nhiều gắn bó với Thăng Long đã góp phần cùng với tồn
dân tạo nên những nét độc đáo của văn hiến Thăng Long và từ đó tỏa sáng đi
mọi miền đất nước. Không thể kể xiết những con người ấy, dù chỉ muốn dừng
lại ở những gương mặt tiêu biểu.
Diện mạo Hà Nội hôm nay đang thay đổi hàng ngày theo hướng văn
minh, hiện đại. Trải qua quá trình lịch sử dựng nước, giữ nước với bao thăng
trầm và biến động nhưng những phẩm chất tốt đẹp và giá trị tinh thần bền
vững vẫn in đậm trong lối sống của người Thăng Long – Hà Nội. Cùng với sự
phát triển của xã hội và tốc độ đơ thị hóa, ngày nay Hà Nội đã vượt ra ngồi,
ơm cả Hồng Hà vào lịng, nhưng những giá trị văn hóa tinh thần và đặc trưng
của một đơ thị sơng hồ được hình thành, tích tụ từ ngàn năm nay thì dường
như khơng mấy đổi thay.
1.3.2. Đặc điểm tín ngưỡng của người Hà Nội
25
Là một trong những trung tâm tôn giáo của cả nước, mặc nhiên Thăng
Long – Hà Nội có một khơng gian tâm linh tín ngưỡng khá đậm đặc và biểu
trưng cho sinh hoạt tơn giáo của cả nước. Nói cách khác, đó là nơi biểu trưng
của “hệ thống tín ngưỡng” của cả nước, đồng thời là nơi cội nguồn cho tinh
thần, tâm linh của hầu hết các tôn giáo tiêu biểu.
Cũng như nhiề u vùng miề n khác, Thăng Long – Hà Nô ̣i là mô ̣t vùng
văn hóa riêng. Không gian tôn giáo Hà Nội được thể hiện ngay từ buổi đầu
xây dựng kinh đô và luôn được bồi bổ vun đắp cho tới tận ngày hôm nay.
Những triều đại đầu tiên của Thăng Long cùng với những biến thiên và thăng
trầm của lịch sử đã khiến cho không gian xã hội văn hóa tinh thần của Thăng
Long như khơng thể tách rời khỏi khơng gian tâm linh tín ngưỡng trong cung
đình cũng như ngồi bách tính. Cần phải nói thêm rằng trong khơng gian văn
hóa tín ngưỡng ấy nhiều khi khó tách biệt, cả một hệ thống các ngơi đình,
đền, miếu, qn, nhà thờ, thánh đường… của Thăng Long – Hà Nội không chỉ
tạo nên bức tranh phong phú sinh động về sinh hoạt tín ngưỡng mà cịn góp
phần to lớn cho việc tạo ra văn hóa Thăng Long, phong cách nếp sống của
người “Kẻ Chợ”.
Tín ngưỡng Việt Nam có đặc điểm là sự dung hợp giữa tín ngưỡng Phật
giáo, Đạo giáo với tín ngưỡng dân gian. Đặc điểm này càng được thể hiện rõ
trên đất Thăng Long. Nguyên nhân sâu xa của sự dung hợp này là truyền
thống yêu thương giúp đỡ nhau trong nhân dân, là tinh thần khoan dung của
dân tộc và thái độ không thành kiến với những người khác mình về tư tưởng,
quan điểm cũng như về tín ngưỡng...Như mọi miề n trên tổ quố c, thuở xa xưa
các dân tộc trên đất Việt Nam đã thờ rất nhiều thần linh. Các dân tộc thờ tất
cả các thế lực vơ hình và hữu hình mà thực chất là các hiện tượng thiên nhiên
và xã hội chưa thể giải thích được vào thời đó. Ngày nay nhờ những nghiên
cứu, những lễ hội, những phong tục hiện hữu, chúng ta biết nhiều hơn về cuộc